Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SKKN: một số giải pháp giúp học sinh lớp 6 khắc phục lỗi chính tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.61 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
Trang
I. PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………. 2
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………… 2
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài……………………………………... 3
3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………. 3
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu……………………………………… 4
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................... 4
II. PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………. 5
1. Cơ sở lý luận........................................................................................ 5
2.Thực trạng............................................................................................ 5
2.1 Thuận lợi- khó khăn........................................................................... 6
2.2 Thành công- hạn chế........................................................................... 7
2.3 Mặt mạnh- mặt yếu............................................................................. 8
2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động…............................................ 8
2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra........ 9
3. Giải pháp, biện pháp.......................................................................... 10
3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp...................................................... 10
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp....................... 10
3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp............................................ 20
3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp......................................... 20
3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu........... 21
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu.......................................................................................................... 22
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ................................................... 22
1. Kết luận................................................................................................ 22
2. Kiến nghị.............................................................................................. 23

1



I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài.
Quan niệm của Mĩ học truyền thống cho rằng: “Cái hay bao giờ cũng được nảy
sinh và tồn tại trên cơ sở của cái đúng. Nó phải lấy cái đúng làm điểm xuất phát và là
sự thể hiện ở cấp độ cao của chuẩn mực ngôn ngữ”.
Các môn khoa học nói chung đều phải đạt tới sự chính xác tuyệt đối của các tri
thức. Riêng đối với lĩnh vực văn học, ngoài chuẩn mực về cái đúng còn phải vươn tới
chuẩn mực của cái hay. Cái hay tạo nên sự khác biệt, dấu ấn của tác phẩm. Chất liệu
để tạo nên cái hay của tác phẩm văn học chính là các hình tượng nghệ thuật được xây
dựng bằng chất liệu ngôn từ. Tài năng của nhà văn phải thể hiện trước hết ở năng lực
sử dụng hệ thống ngôn ngữ sao cho có hiệu quả cao nhất.
Đối với học sinh THCS, việc nhận thức về cái hay và cái đúng mới chỉ dừng lại
ở mức độ thấp, sơ đẳng. Việc tiếp nhận và vận dụng các hình thức ngôn ngữ, các quy
tắc chính tả còn hạn chế. Chính vì vậy các em thường mắc phải các lỗi chính tả trong
quá trình học tập và trở thành một vấn đề cần phải quan tâm.
Như chúng ta đã biết chữ quốc ngữ là một nét đẹp trong văn hóa của người Việt
Nam, gìn giữ và viết đúng chính tả là giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân
tộc và còn là trách nhiệm của mỗi người Việt yêu nước, yêu sự trong sáng của tiếng
Việt.
Thực trạng viết sai chính tả đang là mối quan tâm của nhiều người, của cộng
đồng xã hội trong việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Thế nhưng một thực trạng đáng buồn trong trường tôi hiện nay là có rất nhiều
học sinh viết sai chính tả. Một bài văn của học sinh trung bình cũng như học sinh giỏi
đều mắc lỗi chính tả. Đã không ít thầy cô giáo phải kêu lên: “Em viết tôi không thể
nào đọc được...”. Thậm chí một số học sinh không chú ý gì về lỗi chính tả khi làm
bài, lâu ngày thành thói quen có hại khó sửa chữa được.

2



Là một giáo viên dạy Ngữ văn nên tôi rất quan tâm đến việc phát hiện lỗi chính
tả trong nói và viết của học sinh và tìm nhiều giải pháp giúp các em khắc phục.
Sau nhiều năm nghiên cứu, thực hiện, tôi đã tích lũy được một số giải pháp
giúp học sinh lớp 6 khắc phục lỗi chính tả và đạt được những kết quả khả quan, muốn
được chia sẻ với đồng nghiệp. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài này.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục tiêu:
Căn cứ từ thực tiễn của việc dạy và học nói chung và việc học phân môn Ngữ
văn nói riêng thì để đảm bảo cho người nói và người nghe, người viết và người đọc
hiểu rõ văn bản một cách thống nhất, người ta đã đưa ra hệ thống qui tắc về cách viết
cho các từ của một ngôn ngữ. Vì vậy vấn đề rèn luyện để nâng cao chất lượng viết
đúng chính tả là việc làm hết sức cần thiết đối với mỗi người giáo viên. Chính vì lẽ đó
tôi muốn đưa ra một số biện pháp để giúp các em giảm bớt lỗi chính tả, nắm chắc
được các qui tắc cơ bản một cách sâu sắc, giúp các em không còn nhầm lẫn giữa các
từ này với từ khác khi nói và viết.
Từ thực trạng trên tôi mong muốn đề tài sẽ là giải pháp tối ưu nhằm giảm tối đa
số học sinh viết sai lỗi chính tả trong quá trình học và thi cử, đồng thời tạo cho các em
có lòng say mê học tập và làm việc có kế hoạch một cách cụ thể, có ý chí vượt khó
vươn lên và tự tin trong học tập.
2.2. Nhiệm vụ:
Điều tra lỗi chính tả cơ bản thường hay mắc phải của học sinh; nguyên nhân
các lỗi đó để tìm ra biện pháp khắc phục.
Vận dụng nguyên tắc trong chính tả để hình thành kĩ năng viết đúng chính tả
cho học sinh.
Dạy học theo phương pháp đổi mới kết hợp với rèn chính tả trong quá trình
hướng dẫn học sinh hoạt động theo nhóm.
3. Đối tượng nghiên cứu
3



Một số biện pháp nhằm khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 6.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Áp dụng đối với học sinh 6a1, 6a2, Trường THCS Lê Đình Chinh nhằm giúp
các em hoàn thiện hơn về chữ viết đặc biệt là hạn chế về lỗi chính tả. Để thực hiện
được ý định “khắc phục lỗi chính tả cho học sinh THCS” của mình tôi đã vạch ra một
số biện pháp cụ thể ngay từ đầu năm học khi bắt đầu nhận lớp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài đề ra, tôi đã xây dựng nhóm
phương pháp như sau:
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu tài liệu, tư liệu có liên
quan đến đề tài.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp luyện tập thực hành:
Đây là phương pháp chủ đạo trong quá trình dạy và học môn Ngữ văn. Chỉ có
thông qua con đường luyện tập thực hành thì mới hình thành được năng lực viết đúng
chính tả một cách có hiệu quả.
- Phương pháp giao tiếp:
Phương pháp này giúp học sinh khắc sâu những quy tắc chính tả một cách có ý
thức. Muốn sử dụng phương pháp này cần có hệ thống câu hỏi phù hợp với từng đối
tượng học sinh.
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ :
Để sử dụng tốt phương pháp này, giáo viên phải chọn những từ ngữ dễ lẫn, tùy
theo từng địa phương, tùy theo tình hình lớp. Cách phân tích phải dễ hiểu, không sử
dụng thuật ngữ khó hiểu đối với học sinh.
- Phương pháp quan sát :
Đây là phương pháp mà đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị một số đồ dùng
học tập và một số câu hỏi nhằm giúp học sinh tiếp thu bài một cách hiệu quả.
- Phương pháp điều tra, thống kê kết quả:
4



Phương pháp này nhằm kiểm tra chất lượng học tập của học sinh qua từng giai
đoạn.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Nghe, nói, đọc, viết là bốn kỹ năng rất quan trọng đối với bộ môn Ngữ văn.
Rèn nét chữ cho HS không chỉ là công việc ngày một ngày hai, cũng không phải một
thầy cô giáo dạy môn Ngữ văn rèn luyện là có thể thành công đối với các em. Mà đó
là một quá trình nỗ lực tự bản thân học sinh cố gắng rèn luyện, có người hướng dẫn là
các giáo viên dạy môn Ngữ văn, sự giám sát nhắc nhở của các thầy cô giáo bộ môn
cùng phối hợp với phụ huynh của học sinh mới tạo nên sự thành công ấy. Tục ngữ
xưa đã nói: “Nét chữ nết người”, công việc rèn nét chữ cho các em không phải kết
quả thu được là vở sạch chữ đẹp mà còn rèn luyện đức tính kiên trì, nhẫn nại, không
bỏ cuộc giữa chừng cho các em. Đó là đức tính mà mỗi con người muốn thành công
không thể không có. Hơn thế nữa, một học sinh khi ra đời, làm bất cứ một công việc
gì cũng cần đến công việc viết lách. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, khi công
nghệ thông tin phát triển không ngừng các em có thể nói rằng chữ xấu thì có thể đánh
máy, song không thể viết đúng nếu như các em không hiểu luật, và các quy tắc chính
tả. Bởi vậy, tôi mạnh dạn đi sâu vào vấn đề có thể xem là vấn nạn không chỉ ở học
đường mà của toàn xã hội khi các biển quảng cáo, các bản tin, các phương tiện thông
tin đại chúng ngày càng sai nhiều lỗi chính tả một cách ngớ ngẩn.
2. Thực trạng
Hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh là mối
quan tâm có tầm quan trọng hàng đầu bao trùm và chi phối mọi hoạt động khác.
Trong thực tế, khi giảng dạy tôi đã phát hiện có những học sinh mắc sai lỗi chính tả
rất nhiều, có những học sinh viết sai hơn 10 lỗi ở một bài kiểm tra. Khi chấm bài Tập
làm văn, tôi không hiểu các em muốn diễn đạt điều gì vì bài viết mắc quá nhiều lỗi
chính tả. Điều này ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em ở môn Ngữ văn cũng

5



như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm các em mất tự tin, trở nên rụt
rè nhút nhát.
Do đó để đạt được mục tiêu chương trình đề ra, người giáo viên phải nắm chắc
mục tiêu, nội dung để khai thác. Điều quan trọng là giáo viên phải nghiên cứu đầu tư
xây dựng phương pháp dạy và học, phân nhóm đối tượng học sinh nhằm giúp học
sinh tích cực hoạt động học tập. Xuất phát từ vị trí tầm quan trọng của môn Ngữ văn,
xuất phát từ thực trạng dạy và học trong chương trình Ngữ văn 6, qua nghiên cứu khả
năng ứng dụng cụ thể, thiết thực của vấn đề vì lí do đó tôi đã cố gắng thống kê, phân
loại lỗi, tìm hiểu nguyên nhân vì sao các em mắc lỗi đến như vậy tôi đã mạnh dạn
nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nhằm khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp
6”. Với mong muốn nâng cao hiệu quả trong công tác giảng dạy, đồng thời giúp các
em mạnh dạn hơn, tự tin hơn trong học tập cũng như trong giao tiếp.
2.1. Thuận lợi - khó khăn
2.1.1. Thuận lợi:
- Đa số các em đã được nắm được một số qui tắc viết chính tả ở tiểu học.
- Sĩ số lớp vừa, không quá đông thuận lợi cho việc theo dõi quá trình rèn luyện
của các em.
- Nhà trường quan tâm sâu sắc trong việc chỉ đạo tạo điều kiện về chuyên môn,
cũng như cơ sở vật chất.
- Nhà trường tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ giáo viên trong quá trình nghiên
cứu.
- Phụ huynh quan tâm nhiều đến việc học tập và rèn luyện của học sinh.
- Là một giáo viên, bản thân tôi luôn tìm tòi, học hỏi, năng động trong công tác,
nhiệt tình trong công việc, đoàn kết giúp đỡ nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ.
2.1.2. Khó khăn:

6



- Đa số các em chưa có ý thức tự giác về việc học. Việc học tập của các em cần
phải có người nhắc nhở.
- Một số em chưa nắm được một số qui tắc khi viết chính tả.
- Một số phụ huynh còn coi nhẹ việc học tập của con em.
- Thời gian học tập của các em còn hạn chế. Mặc khác, một bộ phận không nhỏ
học sinh còn ham chơi lười học, không chịu suy nghĩ, tư duy trong khi nói và viết …
- 100% học sinh là con em địa phương gốc Quảng Nam nên ảnh hưởng rất
nhiều trong ngôn ngữ nói và viết.
- Đây là năm đầu tiên nhà trường thí điểm thực hiện mô hình trường học mới
VNEN nên việc tổ chức và giảng dạy theo chương trình đổi mới còn gặp rất nhiều
khó khăn.
2.2. Thành công - hạn chế
2.2.1. Thành công:
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các biện pháp mà đã nêu trong đề tài
và nhận thấy học sinh đã có những tiến bộ khá rõ rệt. Bản thân các em cũng ý thức
hơn khi viết bài nên bài viết ít mắc lỗi chính tả. Những em đầu năm thường sai nhiều
lỗi thì nay chỉ còn 3, 4 lỗi; những em sai 5, 6 lỗi thì nay chỉ còn 1, 2 lỗi... Tuy rằng
đây mới chỉ là kết quả bước đầu và việc “giúp học sinh khắc phục lỗi chính tả” là một
quá trình lâu dài, song tôi vẫn cảm thấy rất vui vì công việc mình làm đã bước đầu
mang lại hiệu quả khả quan.
2.2.2. Hạn chế:
Do tỉ lệ học sinh đều là con em địa phương có gốc Quảng Nam nên việc sử
dụng ngôn ngữ địa phương dường như chiếm 99%. Vì vậy mà việc phát âm như thế
nào thì viết như thế ấy là điều không thể tránh khỏi. Nên tôi nghĩ rằng để khắc phục
được lỗi chính tả cho học sinh không chỉ là ngày một, ngày hai mà đòi hỏi một quá
trình tương đối dài.
7



2.3. Mặt mạnh - mặt yếu
2.3.1. Mặt mạnh:
Hằng ngày, giáo viên được gần gũi và tiếp xúc trực tiếp với học sinh nên tìm
hiểu và nắm bắt được những khó khăn và sai sót của các em khi viết chính tả rất thuận
lợi.
Việc tham dự các buổi hội thảo chuyên đề, hội giảng của trường, của Phòng
giáo dục đã góp phần cho giáo viên được học hỏi, phấn đấu tìm tòi nâng cao kiến
thức, kĩ năng thực hành sư phạm. Từ đó vận dụng sáng tạo và linh hoạt trong phương
pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng học tập của HS.
2.3.2. Mặt yếu:
Các em chưa có động cơ, thái độ đúng đắn trong việc học và rèn luyện viết
chính tả, khi viết các em còn lơ là, không tập trung vào bài viết, lâu ngày thành thói
quen cẩu thả "viết quen tay". Vì có nhiều em khi hỏi về quy tắc viết hoa thì các em trả
lời tương đối đầy đủ nhưng vẫn mắc rất nhiều lỗi về viết hoa.
Phụ huynh chưa thực sự quan tâm do mãi làm kinh tế nên ít quan tâm đến con
em mình.
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Như chúng ta đã biết tình trạng người Việt chúng ta, đặc biệt là học sinh trong
nhà trường trong những năm gần đây, việc viết sai lỗi chính tả là rất nhiều cụ thể
chúng ta có thể thấy trên sách, báo, cũng như trong các bài kiểm tra thi cử của học
sinh, phần lớn người viết thường mắc vào những lỗi như lẫn lộn giữa các phụ âm đầu:
phụ âm ch và tr, x và s, d và gi, g và gh, ng và ngh; các vần : au và ao, iu và iêu, ưu và
ươu; các phụ âm cuối: t và c, ng và n, đặc biệt là lẫn lộn giữa các dấu thanh trong đó
hai dấu mà học sinh mắc nhiều nhất là dấu hỏi và dấu ngã. Ngoài ra, học sinh còn mắc
vào một lỗi nữa là viết hoa tùy tiện. Đó là một thực trạng đáng báo động và cần phải
được xã hội và nhà trường quan tâm một cách thích đáng.
Những lỗi chính tả mà học sinh mắc phải như nêu ở trên cũng có những nguyên
nhân của nó. Tôi có thể liệt kê ra đây một số những nguyên nhân cơ bản sau: học sinh
8



không nắm được các quy tắc chính tả, do cách phát âm của người địa phương mà đa
số là tiếng Quảng Nam dẫn đến một bộ phận học sinh phát âm như thế nào viết như
thế đó, học sinh ít đọc, ít quan tâm tới sách báo, nhưng chủ yếu vẫn là học sinh thiếu ý
thức rèn luyện trong khi viết. Ngoài những nguyên nhân trên tôi nhận thấy một
nguyên nhân nữa không kém phần quan trọng dẫn đến việc sai chính tả của học sinh
là do một bộ phận giáo viên còn thiếu quan tâm đến các lỗi chính tả của học sinh. Với
tình hình như vậy, bản thân chúng ta là những giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn phải
có trách nhiệm trước việc học sinh viết sai lỗi chính tả, vì vậy cần phải đưa ra những
biện pháp, phương pháp để khắc phục tình trạng trên. Có như thế thì việc viết sai
chính tả mới khắc phục, mới giữ gìn được sự trong sáng của tiếng Việt.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp quan trọng mà còn là công cụ tư
duy của một dân tộc nói chung và mỗi học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường nói
riêng. Ngôn ngữ đồng thời là một trong những yếu tố cấu thành quan trọng nhất của
một nên văn hóa dân tộc góp phần tạo nên và thể hiện ra bản sắc của nền văn hóa ấy.
Hiện nay, vấn đề làm sao viết cho đúng tiếng Việt đang là vấn đề cần bàn luận
trong nhà trường hiện nay. Không chỉ dừng lại ở học sinh cấp tiểu học, trung học cơ
sở, trung học phổ thông mà có thể nói là hầu như phần đa người Việt gần như phải
chấp nhận “chung sống” vời tiếng Việt viết sai. Trong thực tế khi lỡ viết sai một câu
tiếng Anh, tiếng Pháp, nhiều người cảm thấy bứt rứt, mang nặng mặc cảm đốt nát.
Trong khi viết sai tiếng Việt, thậm chí sai một cách trầm trọng thì họ lại xem đó là
chuyện bình thường và còn ngụy biện cho những cái sai của mình là phong cách hay
là sự sáng tạo. Điều đó dẫn đến thói quen coi thường văn bản, xem nội dung đại khái
quan trọng hơn ngôn ngữ. Việc viết sai tiếng Việt còn do ảnh hưởng của những thói
quen, tập quán của từng vùng miền. Vì thế mà ngay trên chính quê hương của người
Việt thì việc viết sai lỗi chính tả là điều không thể tránh khỏi.
Từ thực trạng trên, đồng thời cũng xuất phát từ tình hình thực tế của Trường
Trung học cơ sở Lê Đình Chinh nằm ngay ở trung tâm Xã Quảng Điền, đa số học sinh
9



là con em nông thôn nên việc sử dụng tiếng phổ thông trong quá trình học tập còn hạn
chế, bởi từ nhỏ các em vốn sử dụng tiếng địa phương có gốc Quảng Nam thành thục
nên khi nói thế nào các em viết thế ấy là điều không thể tránh khỏi. Chính vì thế bản
thân tôi đã xác định việc giáo dục ý thức viết đúng chính tả là một trong những nhiệm
vụ quan trọng được tiến hành có kế hoạch, chiến lược cụ thể để phát triển toàn diện
học sinh về mọi mặt. Trước thềm nông thôn mới và đồng thời để xây dựng Trường
THCS Lê Đình Chinh đạt chuẩn quốc gia thì việc giáo dục học sinh khắc phục lỗi
chính tả cũng là việc làm hết sức cần thiết, có thể lồng ghép vào các tiết bộ môn sẽ tạo
điều kiện để học sinh sửa chữa và rèn luyện về chữ viết tốt hơn.
Đồng hành với những suy nghĩ ấy rõ ràng chúng ta sẽ nhận thấy giải quyết vấn
đề này như thế nào để mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất là điều mà những người
làm công tác giáo dục phải quan tâm. Tôi cho rằng sự thành công của công tác này
không thể thiếu sự kết hợp chặt chẽ từ ba lực lượng giáo dục Gia đình - Nhà trường Xã hội.
3. Giải pháp, biện pháp:
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng của trường tôi hiện nay, tôi nhận
thấy rằng nếu chỉ dùng sách giáo khoa, thì chưa đáp ứng đầy đủ với các yêu cầu nhằm
hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng sai lỗi chính tả ở học sinh THCS mà đặc biệt
hơn là học sinh lớp 6. Vì vậy, để khắc phục lỗi chính tả mà học sinh mắc phải, tôi đã
nghiên cứu và vận dụng một vài biện pháp để giúp các em nắm được các quy tắc
chính tả, các mẹo luật chính tả phù hợp với trình độ tiếp thu của các em, hình thành kĩ
năng, kĩ xảo chính tả, bỏ thói quen phát âm sai dẫn đến việc viết sai. Mặc dù đề tài
này không có gì mới mẻ nhưng tôi mong rằng nó sẽ góp phần làm thay đổi kĩ năng
của các em khi viết cũng như khi phát âm.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Như vậy, việc khắc phục, uốn nắn chữ viết cho học sinh thật là khó khăn mà
còn khó khăn hơn đối với cấp THCS vì trong chương trình không có những tiết luyện
10



viết, lại mỗi môn một thầy dạy cho nên không có thời gian để sửa và luyện chữ cho
học sinh và không quan sát thường xuyên liên tục chữ viết cho các em. Cho nên việc
luyện chữ viết cho học sinh thật là khó khăn cho những thầy cô giáo chúng ta. Vì thế
người giáo viên cần phải nhiệt tình, tận tâm, tận lực sửa chữa chữ viết cho học sinh
trong từng tiết học và kiểm tra đánh giá thường xuyên. Để thực hiện được ý định
“khắc phục lỗi chính tả cho học sinh THCS” của mình tôi đã vạch ra một số biện pháp
nhằm giúp các em thay đổi thói quen viết sai lỗi, đồng thời giúp các em hình thành kĩ
năng rèn chữ khi viết cụ thể ngay từ đầu năm học khi bắt đầu nhận lớp. Cụ thể theo
từng bước như sau:
* Thống kê lỗi:
Qua kết quả thống kê các loại lỗi, tôi thấy học sinh thường mắc phải các loại lỗi
sau:
- Về thanh điệu:
Tiếng Việt có 6 thanh điệu (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì học sinh
không phân biệt 2 thanh hỏi, ngã. Tuy chỉ có 2 thanh nhưng số lượng tiếng mang 2
thanh này không ít và rất phổ biến - kể cả những người có trình độ văn hoá cao.
Ví dụ:

Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành…

- Về âm đầu:
Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:
+ c/k: Céo cờ…
+ g/gh: Con gẹ , gê sợ…
+ ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc…
+ ch/tr: Cây che, chiến chanh…
+ s/x: Cây xả , xa mạc…
+ v/d/gi: Giao động, giải lụa , giòng giống , dui dẻ…

11


Trong các lỗi này, lỗi về ch/tr, s/x, v/d/gi là phổ biến hơn cả
- Về âm chính:
Học sinh hay mắc lỗi khi viết chữ ghi các âm chính trong các vần sau đây:
+ ai/ay/ây: Bàn tai, đi cầy, dậy học…
+ ao/au/âu: Hôm sao, mầu đỏ…
+ iu/êu/iêu: chìu chuộng, cây niu…
+ oi/ôi/ơi: nôi gương, xoi nếp…
+ ăm/âm: con tầm, sưu tằm, bụi bậm…
+ im/iêm/êm/em: tim thuốc, lúa chim, cái kềm…
+ ăp/âp: gập gỡ, trùng lấp…
+ ip/iêp/êp/ep: số kíp, liên típ, thệp cưới…
+ ui/uôi: chín mùi, đầu đui, tủi tác…
+ um/uôm: nhụm áo, ao chum…
+ ưi /ươi: trái bửi…
+ ưu/ ươu: ốc bưu, con khứu
- Về âm cuối:
Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
+ an/ang: cây bàn, bàng bạc…
+ at/ac: lang bạc, lừa gạc, rẻ mạc…
+ ăn/ăng: lẳn lặn, căn tin…
+ ăt/ăc: giặc giũ, co thắc, mặt quần áo…
+ ân/âng: hụt hẫn, nhà tần…
12


+ ât/âc: nổi bậc, nhất lên…
+ ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển…

+ êt/êch: trắng bệt…
+ iêt/iêc: mải miếc, tiêu diệc…
+ ut/uc: chim cúc, bão lục…
+ uôn/uông: khuôn nhạc, buồn tắm…
+ uôt/uôc: rét buốc, chải chuốc…
+ ươn/ương: lươn bổng, sung sướn
* Kiểm tra, phân loại:
Vấn đề chữ viết xấu, sai lỗi chính tả không chỉ là mối lo chung của mọi người
làm nghề dạy học. Việc dùng vở luyện viết cho học sinh lớp 6 là rất cần thiết. Tôi đã
dựa vào vở luyện viết này mà uốn nắn, sửa chữa và luyện viết cho các em. Đồng thời
tìm ra những biện pháp phù hợp đối với học sinh lớp tôi. Năm học 2015-2016 tôi
được phân công dạy lớp 6A1, 6A2 với tổng số học sinh là 70 em. Vào đầu năm học,
tôi đã tiến hành phân loại chữ viết cho học sinh và chia làm ba nhóm chính:
Nhóm 1: Gồm những học sinh viết chữ đẹp, rõ ràng, không sai lỗi chính tả hoặc
có một hai lỗi không đáng kể (có 20 em chiếm 28,5 %).
Nhóm 2: Những em viết xấu, thiếu nét hoặc sai lỗi chính tả (có 35 em chiếm
50%). Hầu hết trong nhóm này các em đều mắc phải một số lỗi cơ bản như chữ viết
cẩu thả, tuỳ tiện, sai quy tắc chính tả và không hiểu nghĩa dẫn đến lẫn lộn phụ âm.
Nhóm 3: Còn lại những em viết chữ quá xấu, cẩu thả, sai và lẫn lộn các phụ
âm, không rõ chữ dẫn đến tình trạng không đọc được hoặc đọc sai nghĩa của từ (có 15
em chiếm 21,5%).
Qua thống kê lỗi và phân loại học sinh để có biện pháp phù hợp với từng đối
tượng. Đồng thời nhận xét chung về chữ viết của từng em và ghi vào sổ ghi chép của
giáo viên. Qua đó, giáo viên có cách uốn nắn một cách cụ thể và phù hợp với từng đối
13


tượng. Dựa vào vở luyện viết, tôi hướng dẫn học sinh cách luyện viết theo từng tuần
và yêu cầu học sinh mua thêm một vở ô-li để luyện văn và luyện viết nhằm giúp các
em vừa ôn luyện lại kiến thức đã học, vừa luyện chữ viết. Các vở này tôi kiểm tra một

tháng một lần gồm hai bài (trong vở ô-li tôi đã ra đề về nhà cho các em làm). Đối với
học sinh ở nhóm 1 không chỉ dừng lại ở mức độ rèn chữ viết mà còn chú ý đến nội
dung, chất lượng của bài viết. Đối với số học sinh ở nhóm 2 tôi cho thêm một tháng
một bài luyện viết và tập trung các em học một buổi trong một tháng để uốn nắn, sửa
chữa chữ viết tỉ mỉ hơn đối với nhóm 1. Riêng nhóm 3 mỗi tuần tôi cho thêm một bài
viết chính tả về nhà để học sinh rèn luyện thêm để sửa chữa tỉ mĩ hơn với nhóm 1 và
2. Đồng thời tôi đề nghị phụ huynh học sinh cần theo dõi hàng ngày về việc học tập
của các em ở nhà để có các biện pháp kịp thời uốn nắn các em.
* Các biện pháp thực hiện cụ thể:
- Giới thiệu kiểu chữ:
Trong tuần thứ nhất của tháng đầu tiên, tôi giảng giải cho các em nắm được
kiểu chữ, dáng chữ cách viết thường cách viết hoa và viết in. Mặc dù các em đã được
học nhiều nhưng khi nghe vấn đề này cứ như là lạ lắm. Bởi vì các em quen tính cẩu
thả và ít để tâm vào việc luyện chữ viết sao cho đẹp. Đầu tiên tôi giới thiệu cho các
em về cách viết hoa, viết thường theo hai kiểu là kiểu chữ đứng và kiểu chữ nghiêng.
Sau đó hướng dẫn học sinh chọn cho mình một kiểu chữ sao cho thuận tay và hợp ý
thích của mình. Khi đã chọn kiểu chữ nào thì viết theo kiểu chữ đó không được tuỳ
tiện thay đổi kiểu chữ, vì như vậy sẽ làm xấu chữ viết.
- Giúp học sinh ghi nhớ mẹo luật chính tả:
Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối hàng
loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất hữu hiệu.
Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu
k, gh, ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie. Ngoài ra, giáo viên có thể cung
cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như:
14


Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều
bắt đầu bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn, chõ,
chĩnh, chuông, chiêng, choé,… chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu,

chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi…
Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu
bằng s: Sả, si, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy, sấu,
sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo
sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô…
Để phân biệt dấu thanh hỏi/ngã: Các từ gộp âm chỉ mang thanh hỏi không
mang thanh ngã:
- Trong + ấy = trỏng.
- Trên + ấy = trển
- Cô + ấy = cổ
- Chị + ấy = chỉ
- Anh + ấy = ảnh
- Ông + ấy = ổng
- Hôm + ấy = hổm
- Bên + ấy = bển
Luật bổng - trầm: Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu tố ở
cùng một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ được 2
nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc 2 câu thơ:
“Em Huyền mang nặng, ngã đau
Anh Ngang sắc thuốc, hỏi đau chỗ nào”

15


Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền,
nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang thanh
ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại).
Ví dụ: Bổng
• Ngang + hỏi: Nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, vui vẻ…
• Sắc + hỏi: Nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vắng vẻ…

• Hỏi + hỏi: Lỏng lẻo, thỏ thẻ, hổn hển, thủ thỉ, rủ rỉ…
Trầm:
• Huyền + ngã: Sẵn sàng, lững lờ, vồn vã
• Nặng + ngã: Nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,…
• Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…
+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn:
Một số từ có vần ênh chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc: Gập ghềnh,
khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng,
lênh khênh, bấp bênh, công kênh…
Hầu hết các từ tượng thanh có tận cùng là ng hoặc nh: oang oang, đùng
đoàng, loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác,
ăng ẳng, ằng ặc, oăng oẳng, răng rắc, sằng sặc, pằng pằng, eng éc, beng beng,
chập cheng, leng keng, reng reng, phèng phèng, lẻng kẻng, lẻng xẻng, ùng ùng,
đùng đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, thình thình, rập rình, xập xình,
huỳnh huỵch…
Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu,
khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân.
- Cách rèn luyện chữ viết cho học sinh:
16


+ Đối với học sinh:
Trong buổi học đầu tiên, tôi lấy một đoạn văn mẫu và cho học sinh chép lại
đoạn văn đó trong thời gian 15 phút. Sau đó cho các em đổi chéo bài cho nhau để
cùng phát hiện lỗi của bạn, liệt kê những lỗi mà bạn mắc phải. Trong buổi học này
học sinh nhóm 2 và đặc biệt là nhóm 3 học rất vất vả nhọc nhằn bởi lâu nay các em
viết theo kiểu tuỳ hứng và không chú tâm vào việc luyện chữ. Đồng thời trong buổi
học đầu tiên này tôi kể cho các em nghe một số mẩu chuyện về tác hại của chữ viết
xấu, sai lỗi chính tả dẫn đến người đọc hiểu sai ý hoặc chất lượng bài kiểm tra kém…
để các em thấy rõ tầm quan trọng của chữ viết. Từ đó các em có ý thức uốn nắn, sửa

chữa và rèn luyện chữ viết của chính mình. Qua đó cho học sinh thấy “nét chữ là nết
người” để các em phải cẩn thận tránh cẩu thả trong khi viết chữ. Vấn đề rèn kỹ năng
viết đúng chính tả cho học sinh trung học cơ sở chủ yếu là luyện ở nhà dưới sự hướng
dẫn của thầy. Vì thế ngay trong kỳ họp phụ huynh đầu tiên của lớp, tôi trao đổi về
tình hình chữ viết của học sinh cùng với ý định luyện chữ của tôi và đề xuất với họ
một ngày dành chút ít thời gian quan tâm nhắc nhở các cháu học tập và luyện chữ, và
việc luyện chữ phải luyện vào một thời gian nhất định có thời gian biểu rõ ràng cho
các cháu. Việc làm này được tất cả các phụ huynh đồng tình ủng hộ. Trong buổi học
thứ nhất, sau khi hướng dẫn và luyện viết một phần ở lớp, tôi giao bài cho các em viết
vào vở luyện viết và vở luyện văn ở nhà để hôm sau thu chấm.
Sang tuần thứ hai tôi đọc chậm một đoạn văn cho học sinh chép vào vở. Sau đó
cho các em đổi bài cho nhau để chấm và kiểm tra lỗi chính tả của bạn. Riêng với các
bạn nhóm 1 tôi ra một đề bài yêu cầu các em viết đoạn mở bài của bài văn và cách
làm cũng như với nhóm 2 và nhóm 3 nhưng ở mức độ cao hơn là chấm cả nội dung
đoạn văn. Cứ một tuần, các em chép một bài trong vở luyện viết mà tôi đề ra và cứ
hai tuần cho các em làm một bài văn từ dễ đến khó. Đầu tiên là cho viết một đoạn văn
và tiếp đến là một bài văn. Sau đó, tôi thu vở chấm một tháng hai lần. Riêng nhóm 3
tôi chấm hằng tuần. Bằng sự nhắc nhở và giám sát của gia đình cùng với sự kiểm tra
chặt chẽ của giáo viên. Sau một tháng đầu khi chấm bài và xem vở ghi bài của các em
17


tôi thấy các em đã có tiến bộ về chữ viết – so với bài kiểm tra chất lượng đầu năm. Cụ
thể là: Các em đã có ý thức rèn luyện chữ viết, giảm được sự cẩu thả tuỳ tiện trong
khi viết. Chữ viết đẹp hơn, ít lỗi hơn. Trong đó, số học sinh ở nhóm hai tôi đã chọn
được năm em vào nhóm một. Số còn lại tuy viết đã có phần khá hơn song lỗi vẫn còn
nhiều. Riêng nhóm 3 tiến triển rất chậm.
Các tuần tiếp theo tôi tiếp tục yêu cầu học sinh viết thành nếp và cứ thế theo
thói quen và quy định của tôi các em tiến hành viết theo tuần. Đối với học sinh thuộc
đối tượng ở nhóm hai, tôi vẫn yêu cầu các em học thêm một tháng một buổi, nhóm 3

mỗi tuần thêm một buổi để có điều kiện uốn nắn và sửa lỗi cho các em. Ngoài ra, đối
với tất cả các học sinh trong lớp, thỉnh thoảng tôi cho thêm một bài để củng cố kiến
thức và ôn luyện về chữ viết. Muốn chữ viết của các em ngày càng tiến bộ thì điều
chủ yếu là người giáo viên phải thu bài và chấm chữa kịp thời, khen, chê đúng lúc. Có
như vậy mới khuyến khích được hứng thú luyện viết cho các em. Việc chấm chữa bài
cho các em là một công việc rất vất vả vì đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian và công sức.
Nhưng tôi nghĩ muốn khắc phục, uốn nắn tình trạng chữ viết xấu, sai lỗi chính tả cho
các em thì người giáo viên cần phân bố thời gian hợp lý và tận tuỵ. Chính vì vậy mà
tôi đã cố gắng thực hiện việc chấm chữa bài cho các em trong vở và yêu cầu cho các
em luyện viết và làm bài, sửa lỗi nghiêm túc, dựa vào lời phê của thầy cô. Vì thế,
trong suốt học kỳ I, chữ viết của các em đã tiến bộ rõ rệt. Số học sinh nhóm một đã
tăng lên. Điều đó làm tôi rất mừng bởi những công sức mà cô và trò đã bỏ công luyện
tập.
Bước sang học kỳ II, tôi gắn luôn chữ viết vào đánh giá bài làm ở lớp. Trong
các bài làm của học sinh nhất là bài làm Tập làm văn, tôi đề ra hai điều: “phải” và
“cấm” như sau:
 Phải:
(1) Viết cẩn thận, rõ ràng từng nét.
(2) Phải viết hoa đầu đoạn văn, đầu câu và những danh từ riêng.
(3) Phải chú ý phân biệt nghĩa của các từ để viết cho đúng.
18


 Cấm:
(1) Viết hoa tuỳ tiện.
(2) Viết thiếu nét nguệch ngoạc.
Các bài làm của các em, nếu em nào viết xấu và sai lỗi nhiều, lỗi về chữ viết tôi
đều không chấm và phê cụ thể yêu cầu viết lại hai lần mới chấm. Còn những bài lỗi
mà tôi gạch chân và bắt viết lại mỗi lỗi năm dòng cho đúng. Tôi kiểm tra chặt chẽ
việc sửa lỗi. Nếu em nào không chữa sẽ có hình thức phạt phù hợp. Chính vì vậy mà

các bài làm sau của các em, tôi thấy các em có ý thức tu luyện chữ, thể hiện ở chỗ chữ
ít lỗi và rõ ràng hơn. Vì phần lớn các em đều rất ngại viết đi viết lại nhiều lần. Cùng
với việc chấm chữa bài và các hình thức phạt phù hợp đối với những học sinh trong
những tiết bài trên lớp hay những bài các em làm trên bảng, khi chữa bài bên cạnh
chữa về mặt nội dung yêu cầu thì không thể thiếu được việc chữa lỗi về chữ viết cho
các em bằng các câu hỏi và cho các em nhận xét. Chữ viết của bạn đã đẹp và cẩn thận
chưa? Bài làm có mắc lỗi nào không? Muốn sửa những lỗi đó, ta phải sửa bằng cách
nào? Từ đó học sinh nhận thấy lỗi của các bạn và tự sửa lỗi cho chính mình.
+ Đối với giáo viên:
Khi dạy học cho các em, người giáo viên khi đọc (nói) phải phù hợp nghĩa là:
Phát âm chuẩn tiếng phổ thông vì nếu không phát âm chuẩn tiếng phổ thông sẽ dẫn
đến viết sai. Trường hợp này đã xảy ra. Vì thế phải dạy cho học sinh nói và phát âm
chuẩn mới được viết. Cho nên trong các giờ dạy ở lớp, tôi luôn chú ý vào việc đọc và
phát âm của các em, nếu em nào đọc sai tôi sẽ uốn nắn luôn.
Cùng với việc làm đó, tôi tìm hiểu về những lỗi mà do tiếng địa phương các em
hay mắc phải để chú ý sửa cho các em ví dụ ở phần in/iên; mông/ mong; chông đợi/
trông đợi; sâu đó/ sau đó; lông lanh/ long lanh…và chú trọng sửa những lỗi này để khi
các em viết bài các em chú ý và có thể sửa được những lỗi mà mình mắc phải. Để rèn
luyện cho học sinh tính cẩn thận trong khi viết chữ người giáo viên khi viết lên bảng
hay trong lời phê phải làm gương để cho học sinh học tập. Trong các bài luyện tập tôi
hướng dẫn học sinh kiểm tra chéo bài của nhau, ghi vào phiếu kiểm tra những lỗi của
19


bạn và nhận xét bài viết của bạn, mục đích là các em nhận biết được lỗi của bạn cũng
chính là lỗi của mình, để tự sửa chữa. Cuối cùng tôi thu bài viết và cả phiếu về nhà
kiểm tra, chấm lại. Cứ mỗi lỗi sai lại yêu cầu viết lại như lần trước. Khi phát hiện ra
những lỗi điển hình, tôi yêu cầu sửa dần bằng cách: Trong một thời gian nhất định
phải sửa dần từng lỗi một. Đối với nhóm 2 và đặc biệt là nhóm 3 yêu cầu sửa chữ
thiếu nét mới yêu cầu sang lỗi khác… Việc này kết hợp chữa lỗi những tiết ngoài giờ,

tiết tự chọn và cả trong giờ học chính khoá trên lớp. Cùng với những biện pháp trên,
khi luyện viết chữ cho các em vừa kết hợp luyện chữ, vừa tìm những nguyên nhân
mắc lỗi của các em để có cách sửa chữa cho phù hợp với từng đối tượng, từng lỗi và
học sinh.
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Rèn cho học sinh viết đúng chính tả là một việc làm khó khăn và lâu dài. Nó
quyết định chất lượng học tập và tỉ lệ học sinh lên lớp cao hay thấp; nó không những
giúp các em học tốt mà còn góp phần “giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt”. Mặt
khác, học sinh viết đúng chính tả thì chắc chắn chữ viết cũng sẽ đẹp hơn; khi chấm
bài, giáo viên sẽ có tâm lí thoải mái phấn chấn hơn. Nhưng nếu chỉ dùng các phương
pháp, biện pháp, hình thức dạy học thông thường; nếu chỉ cho học sinh làm các bài
tập có sẵn trong SGK thì không thể khắc phục được lỗi chính tả ; đặc biệt là lỗi chính
tả do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương. Tôi tin rằng mỗi thầy cô giáo sẽ có
những cách làm khác nhau, sẽ có những kinh nghiệm rèn chính tả hiệu quả. Nhưng
theo tôi, muốn rèn cho học sinh kĩ năng viết đúng chính tả thì cần phải:
Giáo viên phải nắm được các quy tắc chính tả, phát âm chuẩn tiếng phổ thông,
tìm hiểu rõ nguyên nhân sai lỗi chính tả của học sinh. Vì thế đòi hỏi giáo viên phải
nghiên cứu và hiểu đặc điểm tâm sinh lý của học sinh để từ đó có những biện pháp
thích hợp nhất giúp các em hạn chế tối đa lỗi chính tả.
Tích cực tìm tòi, sáng tạo áp dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy để áp
dụng nội dung chuyên đề một cách phù hợp với khả năng của học sinh và tình hình
thực tế ở trường, lớp.
20


Tận tình dạy bảo, ân cần hướng dẫn và giúp đỡ những học sinh yếu; thường
xuyên kiểm tra vở , nhắc nhở các em cách trình bày, cách sửa lỗi trong vở ; động viên,
tuyên dương và khen thưởng những học sinh có nhiều tiến bộ.
Luôn phối kết hợp chặt chẽ cùng phụ huynh học sinh gia đình và nhà trường
về việc rèn chữ cho học sinh.

Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, bài giảng điện tử, sưu tầm thêm tài
liệu để sử dụng trên tiết học và các hoạt động.
Lập kế hoạch tham mưu với ban giám hiệu tổ chuyên môn dự giờ đóng góp
xây dựng ý kiến.
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Để đạt được hiệu quả cao trong việc khắc phục lỗi chính tả cho học sinh đặc
biệt là học sinh lớp 6, tôi luôn kết hợp hài hòa giữa các biện pháp và giải pháp trên.
Dựa trên kết quả khảo sát tình hình thực tế của lớp từ đó tôi đã kết hợp lồng ghép việc
sữa lỗi chính tả vào trong các tiết dạy. Không chỉ dừng lại ở đó mà tôi cũng không
ngừng kết hợp với phụ huynh và lồng ghép vào những hoạt động ngoài giờ học.
Chính điều đó mà kết quả đạt được trong quá trình áp dụng các biện pháp trên rất cao.
Tôi thấy học sinh hứng thú hơn nhiều so với các tiết học trước, có ý thức về lỗi chính
tả hơn khi viết cũng như khi nói.
Bên cạnh đó, công tác này sẽ đạt được hiệu quả cao hơn khi có sự tham mưu
của Ban Giám hiệu nhà trường, sự phối hợp của các giáo viên trong tổ khối về ý nghĩa
của việc khắc phục lỗi chính tả cho học sinh.
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Cứ bằng các biện pháp như thế, khi thì cách này, khi thì cách khác, tôi liên tục
luyện chữ cho các em trong một học kì nên chữ viết của các em đã tiến bộ rất nhiều.
Cụ thể như sau: Cuối học kì I năm học 2015 - 2016, các em đã được các giáo viên dạy
hai lớp này khen ngợi chữ viết của học sinh tương đối đẹp, dễ đọc, rõ ràng và ít lỗi
chính tả, trình bày sạch, đẹp. Có được kết quả như vậy phải kể đến sự kiên trì, quyết

21


tâm luyện tập của học sinh dưới sự kiểm tra chặt chẽ, chỉ bảo ân cần, nhẹ nhàng của
giáo viên và sự giám sát kiên quyết của các bậc phụ huynh.
Học kì I kết thúc, với ý định viết sáng kiến này tôi đã tiến hành khảo sát chất
lượng về chữ viết của các em cụ thể như sau: Nhóm 1: có 10 em chữ viết đảm bảo.

Nhóm 2: có 22 em trong số những em viết vẫn còn sai lỗi chính tả. Những chữ còn
chưa đúng phụ âm, nguyên âm là 9 em, những em này chữ viết đã có tiến bộ hơn so
với đầu năm nhập học nhưng vẫn còn sai lỗi chính tả do tiếng địa phương và việc
phân biệt nghĩa của các từ chưa chính xác. Chỉ trong một học kì luyện viết, tỷ lệ
28,5% đạt yêu cầu về chữ viết đến nay đã tăng lên 39,5%. Tỉ lệ học sinh chưa đạt yêu
cầu từ 71,5% xuống còn 53,3%, giảm 18,2%.
Thật là vui mừng khi chữ viết của các em đã tiến triển như vậy. Nếu cứ tiếp tục
luyện chữ viết cho các em, tôi tin rằng lên lớp 9 chữ viết của các em sẽ đạt được như
mong muốn. Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã đề ra và áp dụng với học sinh của
lớp tôi chưa có gì là mới mẻ nhưng nhờ sự kiên trì, nhiệt tình của cả cô và trò mà kết
quả chữ viết của các em đã tiến bộ rõ rệt.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Với việc thực hiện những phương pháp trên, bước đầu đã có
những chuyển biến đáng kể trong việc viết chính tả của học sinh.
Trong các bài kiểm tra và những lần kiểm tra bài vở của học sinh tôi
nhận thấy những bài viết sau ít mắc lỗi chính tả hơn so với những
bài viết trước. Đó là một kết quả đáng mừng cần phải phát huy. Tuy
nhiên, vẫn còn một bộ phận học sinh do thiếu ý thức trong việc học
tập nên vẫn còn tình trạng viết sai chính tả. Nhưng dù sao, tôi hi
vọng rằng với sáng kiến này có thể góp một phần nào đó khắc phục
tình trạng viết sai chính tả trong học sinh và góp phần vào việc nâng
cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn tại đơn vị tôi đang công tác,
cũng như góp một phần nào đó cho sự nghiệp giáo dục của nước
nhà.
22


III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Trong sự nghiệp giáo dục, dù ai đã và đang công tác cũng chung nhau một

lòng mong mõi là làm sao, làm thế nào cho học sinh của mình viết đẹp và viết đúng
chính tả, góp phần làm rạng danh tiếng Việt, sử dụng đúng chính tả có tầm quan trọng
cho cả quốc gia và là một yêu cầu tất yếu của xã hội hiện tại.
Qua đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp nhằm khắc phục lỗi chính tả
cho học sinh lớp 6” tôi đã tìm hiểu được các cơ sở lý luận, xác định được chất lượng
chính tả của học sinh Trường THCS Lê Đình Chinh, từ đó đề ra những biện pháp cần
thiết. Đây là nhiệm vụ của mỗi người giáo viên nói chung và của giáo viên Trường
THCS Lê Đình Chinh nói riêng. Nhiệm vụ này không chỉ tiến hành trong một thời
gian ngắn mà cho ta kết quả tốt ngay được, nó phải được tiến hành trong một thời
gian dài với sự đồng bộ của các khối lớp. Tuy nhiên nhiệm vụ này có hoàn thành triệt
để hay không chúng tôi cũng cần có sự giúp đỡ của các cấp, các ngành có liên quan.
Với những dòng viết trên đây là những kinh nghiệm nhỏ không
phải chưa có ai nói, chưa có sách viết. Song tôi muốn qua những
kinh nghiệm nhỏ này một lần nữa giúp giáo viên – những người đang
trực tiếp giảng dạy hiểu rõ được vai trò chính tả tiếng Việt trong việc
giảng dạy môn Ngữ văn cũng như các môn học khác nhằm giúp học
sinh học tốt hơn. Góp phần vào việc nâng cao hiệu quả dạy – học
môn Ngữ Văn. Không có kinh nghiệm nào là chung cho tất cả mọi
người. Không có con đường nào để đi đến thành công mà không lắm
chông gai. Với những suy nghĩ trong đề tài này cũng như việc tôi áp
dụng đề tài này vào việc dạy học cụ thể và có những kết quả đáng
mừng, tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp để nhằm học hỏi và nâng
cao trình độ chuyên môn của mình. Vì vậy tôi kính mong quý vị vui
lòng đóng góp ý kiến để kinh nghiệm được hoàn thiện hơn.
23


2. Kiến nghị:
* Đối với giáo viên :
Để thực hiện được công việc này thì giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên

theo dõi, uốn nắn các em, hướng dẫn các em thường xuyên nhất là đối với học sinh
yếu.
Thay đổi linh hoạt các phương pháp giảng dạy, hình thức tổ chức để các em
cảm thấy thoải mái, tự tin khi học.
Giáo viên phải tận tình trong việc dạy bảo và kiên trì chờ đợi kết quả bởi vì
làm công tác giáo dục là cả một quá trình lâu dài chứ không phải là một sớm một
chiều.
Hàng tháng giáo viên phải theo dõi, phân loại từng đối tượng học sinh để có
những biện pháp uốn nắn kịp thời những em không tiến bộ.
* Đối với nhà trường:
Hằng năm, duy trì hội thi viết chữ đẹp, đúng chính tả ở giáo viên và học sinh.
Nhà trường cần tạo điều kiện có đầy đủ cơ sở vật chất để phục vụ cho việc
giảng dạy cũng như việc rèn luyện các em một cách chủ động.
* Đối với phụ huynh:
Luôn có sự quan tâm sâu sắc đến việc học của con em mình nhất là về chữ
viết. Bàn ghế phải đúng kích cỡ, chổ ngồi phải đủ ánh sáng thuận lợi cho việc học ở
nhà của các em.
Người viết sáng kiến
(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Thị Thùy Dung
24


NHẬN XÉT CỦA BAN GIÁM KHẢO
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)

25


×