Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Giáo trình mỹ học đại cương phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296 KB, 34 trang )

Khoa Sư Phạm

Mỹ Học Đại Cương

Tác giả: Ths. Phùng Hoài Ngọc
Đồng tác giả: Jesse Bader
Biên mục: sdms

Phần mở đầu: Khái luận về mỹ học
Sơ lược lịch sử về bộ môn mỹ học

TRƯỚC MÁC:






Aristote thế kỉ 7 trước công nguyên, trong cuốn Poetic ( thi pháp), ông yêu
cầu triết học nghiên cứu qui luật sáng tạo nghệ thuật. Lúc ấy, mĩ học còn
phôi thai, chưa tồn tại độc lập.
Baumgacten giaó sư Đức 1735: yêu c ầu mĩ học nhận nhiệm vụ nghiên
cứu con đường nhận thức thế giới bằng cảm xúc. Ông viết hai cuốn: Mĩ
học tập I –1750, Mĩ học tập II –1758. Từ đây mĩ học ra đời chính thức, trở
thành khoa học độc lập.
Immanuel Kant cuối thế kỉ 18:

Xác định đối tượng của mĩ học là “thị hiếu thẩm mĩ” – cái chủ quan, ông bác bỏ
sự nghiên cứu đối tượng khách quan ( cái đẹp không phải ở trên đôi má hồng
thiếu nữ mà ở trong con mắt kẻ si tình)



Hegel: đầu thế kỉ 19.


Mĩ học chỉ nghiên cứu cái đẹp nghệ thuật do Chúa trời ban phát cho nghệ sĩ,
“ nghệ thuật là vương quốc bao la của cái đẹp “. Cái đẹp chủ yếu tập trung ở
nghệ thuật, còn những cái đẹp khác trong đời sống thì đơn giản, thiếu hụt và
nhàm chán





Tsernysevski ( Nga thế kỉ 19) trái ngược với Hegel, khẳng định “cái đẹp là
cuộc sống”
Dostoievski: “Cái đẹp sẽ cứu cả thế giới “ - cái đẹp là lí tưởng đấu tranh
của nhân dân ”
Bielinski mở rộng đối tượng mĩ học đến “lí tưởng thẩm mĩ”
Gogol nghiên cứu thi ca Puskin, từ đó đến với mĩ học.Ông viết:" con
người có thể suy tư lặng đi trước mọi thứ nhỏ bé và vĩ đại, đó là lúc phát
sinh tia lửa điện thi ca – cái đẹp. Nó vốn có trong toàn bộ thế giới (mọi
công trình của thượng đế), kể cả và trước hết là trong Con Người " (vừa
là chủ thể vừa là khách thể)

CẤU TRÚC MĨ HỌC THEO QUAN ĐIỂM MÁC - LÊ NIN:
Đời sống thẩm mĩ gồm:





khách thể thẩm mĩ
chủ thể thẩm mĩ
nghệ thuật

Mối quan hệ của mỹ học với các khoa học khác


Quan hệ với triết học:

Triết học là cái nôi sinh ra Mĩ học:




· Bản thể luận: Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, cái thẩm mĩ có sẵn
trong bản chất thế giới. Giác quan con người là công cụ của đời sống
thẩm mĩ. Mĩ học thừa nhận “cái đẹp mang tính thứ nhất triết học”.
· Nhận thức luận:

Theo Lê nin, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nên chúng ta
có thể dựa vào nghệ thuật để nhận thức thế giới khách quan.
Mặt khác, con người còn sáng tạo những cái thẩm mĩ chưa có trong thực tiễn.


Chủ nghĩa duy vật lịch sử: Là công cụ đắc lực khi nghiên cứu mĩ học.



Quan hệ với tâm lí học: cùng nghiên cứu một đối tượng là con
người. Con người có hai hoạt động là sinh lí và tâm liù. Mĩ học chú ý hoạt

động tâm lí, nó nghiên cứu “ cái đẹp tâm lí học “, và “ tâm lí học thẩm mĩ “.




Quan hệ với nghệ thuật học:

Nghệ thuật học bao gồm nhiều chuyên ngành:
Lịch sử nghệ thuật
Lí luận nghệ thuật
 Văn bản học
 Tâm lí học sáng tạo nghệ thuật
 Tâm lí học tiếp nhận nghệ thuật
 Phê bình nghệ thuật
Quan hệ giữa mĩ học và nghệ thuật học là quan hệ hai chiều nhưng mĩ học chi
phối mạnh hơn.
Cấu trúc của đời sống thẩm mỹ
Nếu bổ dọc đời sống con người thì thấy 2 nửa: nửa vật chất và nửa tinh thần
Nếu cắt ngang, ta thấy lát cắt chính là đời sống thẩm mĩ.
Nghĩa là, đời sống thẩm mĩ thấm sâu hòa lẫn vào cả đời sống vật chất lẫn tinh
thần.
KHÁCH THỂ THẨM MĨ gồm:
Bốn phạm trù (4 cái) thẩm mĩ cơ bản:
Cái đẹp - Cái trác tuyệt - Cái bi kịch - Cái hài kịch
CHỦ THỂ THẨM MĨ gồm:
Những tố chất thẩm mỹ của CON NGƯỜI:
Cảm xúc thẩm mĩ
Biểu tượng thẩm mĩ
Hình tượng thẩm mĩ
Tình cảm thẩm mĩ

Thị hiếu thẩm mĩ
Lí tưởng thẩm mĩ.


Phần thứ nhất: Khách thể thẩm mỹ

Cái đẹp
Khái niệm
Thế giới là vương quốc bao la của cái đẹp.
1.1 - Phong cảnh đẹp,

cho nên “thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp, mây gió trăng hoa tuyết núi sông ”.
Phong cảnh muôn màu sắc, muôn dáng điệu, muôn hương thơm.
1.2 - Con người đẹp muôn hình muôn vẻ:













xinh đẹp (dung mạo)
xinh xắn (hơi nhỏ về kích thước tầm vóc)
kiều diễm (xinh đẹp có trang điểm)

duyên dáng (cử chỉ hòa nhã, dáng điệu đẹp …)
thanh nhã (tinh thần, dễ gần, tinh tế..)
mảnh dẻ
tươi thắm (nữ, sức sống, hồn nhiên..)
dễ thương (tinh thần và vật chất, thiên về tinh thần)
ưa nhìn (nét đẹp chưa rõ nét, đẹp hài hòa chung)
khả ái...
phương phi (nam, hơi lớn)
khôi ngô, tuấn tú (nam, hơi nhỏ)...



Phái nữ có nhiều vẻ đẹp tự nhiên phong phú hơn nên được gọi là “phái
đẹp”, nghệ thuật hội họa thường chọn mẫu vẽ nữ để miêu tả thế giới.

1.3 - Nghệ thuật và hàng hóa đẹp:
Tác phẩm nghệ thuật và những đồ thủ công mĩ nghệ, ngay cả mọi hàng hóa,
dụng cụ cũng vươn tới một vẻ đẹp nào đấy.
1.4 - Cảm xúc và tình cảm thẩm mĩ của cái đẹp:
Đứng trước những cái đẹp, con người cảm thấy khoan khoái, dễ chịu, pha chút
bàng hoàng, ngạc nhiên và cảm thấy yêu đời hơn.
Phân loại cái đẹp theo ba phạm vi tồn tại
Cái đẹp trong Xã
hội
Phong cảnh thiên nhiên: cây lá hoa … Giá trị nhân bản
bầu trời trăng sao... sông biển, loài
(bao dung)
vật, chim hót... với tiêu chuẩn sau:
Lao động, kĩ
* Hình dáng cân đối, cân xứng,Trật

xảo
tự, Màu sắc, hương vị, hài hòa,hoàn
Cái đẹp trong Tự nhiên

Cái đẹp trong Nghệ thuật



-Tái tạo những vẻ đẹp của tự nhiên và xã
hội, lấy con người làm trung tâm. Tác động
vào hai giác quan chính là Nghe và Nhìn
(âm thanh và hình ảnh đẹp..)


Tình yêu, tình
bạn...
Tình xóm
giềng,
Tình đồng bào,
Tình nhân loại.
Dung thứ, ân
hận
hảo trong muôn hình muôn vẻ thiên
nhiên

Đoàn kết

* tất cả thế giới sinh vật đều đẹp, do
trải qua hàng triệu năm nó đã đào
thải những gì không đẹp.


tự do

dân chủ

công bằng
* Sức sống làcái đẹp cơ bản nhất của
sinh vật. con người là sinh vật hoàn Trí tuệ
hảo nhất. 
Làm ra sản
phẩm tiêu dùng
đẹp. Giải trí



- Chọn lựa, tập trung những hình ảnh đẹp,
gạt bỏ những cái bình thường, bố trí lại, soi
tỏ cái đẹp.



- Sáng tạo những vẻ đẹp mới chưa có
trong hiện thực, nhân vật lãng mạn, cảnh
vật huyền ảo, kì vĩ... và những ước mơ
khát vọng cao cả.

Trang trí, trang
điểm
(thẩm mĩ
viện...)

và cao nhất là
Tác phẩm nghệ
thuật 

Câu hỏi: cái đẹp nhất tồn tại ở đâu trong 3 nơi: Tự nhiên - Xã hội - Nghệ thuật?
Gv -Câu chuyện Pigmalion và bức tượng ngà voi. Nữ thần Venus cho nàng sức
sống, chàng đặt tên khai sinh cho vợ là Galatea, sinh con trai đặt tên là Paphos
(Hy lạp = say mê. Latin - Pháp - Anh: pathetique (sympathetic: cảm động, thống
thiết).
Vậy cái đẹp là sự sống. Cuộc sống tự nhiên cao hơn nghệ thuật (? Tsernysevski đúng / sai?)
Thật ra chính nhờ bức tượng ngà voi - tác phẩm nghệ thuật tạo hình mà
Pigmalion mới cảm nhận được vẻ đẹp của nàng Galatea bằng xương bằng thịt con người thật sự.
Cái đẹp trong Tự nhiên rất phong phú, trong Xã hội càng phong phú hơn, cái
đẹp trong Nghệ thuật là vô tận.
Những quan niệm trước Mác về cái đẹp
Các nhà triết học cổ đại đã giải thích cái đẹp như những ma thuật, như cái lan
tỏa chứa đầy bí ẩn.
Nhà triết học -toán học Pythagore căn cứ vào các con số để giải thích sự cân
đối, hài hòa của thế giới. Cái đẹp sinh ra từ những sự chuyển động có nhịp điệu


và âm thanh. Vậy cái đẹp là sự vận động nhịp nhàng của các con số và sự hòa
điệu của chúng (tiến tới lí thuyết âm nhạc hiện đại: cái đẹp của âm thanh gọi là
giai điệu)
Nhà triết học Heraclet: cái đẹp sinh ra từ sự hài hòa của mâu thuẫn. Ông nhấn
mạnh tính tương đối của cái đẹp. Dấu hiệu của cái đẹp là sự hòa hợp trong mâu
thuẫn và phù hợp với điều kiện sống.
Nhà triết học Democrit cho rằng: điều tốt nhất của con người là sống, sống
khoan khoái hơn, ít buồn phiền hơn. Không nên cố đạt tới bất kì sự khoái cảm
tột đỉnh nào mà chỉ nên đạt tới khoái cảm gắn liền với cái đẹp. Ai vi phạm độ thì

cái dễ chịu sẽ trở thành cái khó chịu. Ông cũng cho rằng khi con người muốn tái
hiện cuộc sống, tái sản xuất cuộc sống thì nghệ thuật xuất hiện.
Nhà triết học Platon: Cái đẹp là ý niệm vĩnh cửu, siêu cảm giác và siêu trần thế.
Mọi vẻ đẹp là do Thượng đế nhập vào, con người chỉ nhận ra cái đẹp mà không
thể giải thích được cái đẹp
Kant thế kỉ 18: Cái đẹp chỉ tồn tại trong chủ thể,
Hegel thế kỉ 19: Caí đẹp chỉ có ở nghệ thuật
Ý kiến của các nhà văn, nhà mĩ học Nga thế kỉ 19 tiến thêm một bước khi xác
định quan niệm đầy đủ về cái đẹp.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đúc kết, hoàn thành quan niệm về cái đẹp
Định nghĩa về cái đẹp:.
Cái đẹp là nhu cầu tinh thần vô hạn của con người (nhu cầu vật chất thì có hạn)
giúp con người khoan khoái dễ chịu. Cái đẹp là một hiện tượng vô cùng phức
tạp và đa dạng. Nó là một lĩnh vực tinh thần và tình cảm dù nó tồn tại dưới dạng
vật chất hay tinh thần. Nó là một loại giá trị giúp con người đánh giá thế giới và
bản thân mình. Nó là nhu cầu cá nhân nhưng đồng thời cũng mang tính định
hướng của xã hội. Nó tồn tại trong ba phạm vi: tự nhiên - xã hội và nghệ thuật.
4.1 - Cái đẹp khách quan, tự nó:

có những chuẩn mực như cân đối trật tự, hợp lí. Về kích thước, đó là “ tỉ lệ vàng
“, kích thước vàng.
Thiên nhiên là nơi chứa đựng những cái đẹp khách quan tự nó, trải qua hàng
triệu năm thích nghi, đào thải và tích lũy...
Loài vật có óc thẩm mĩ hay không? - người ta mới chỉ thừa nhận chúng có bản
năng sinh vật về cái đẹp.
4.2 - Cái đẹp hài hòa, chỉnh thể trong tự nhiên, xã hội và nghệ thuật:

Hài hòa là sự phối hợp những bộ phận nếu đứng riêng lẻ chưa phải là đẹp sẽ
tạo ra một cái đẹp. (ví dụ: đôi chân con cò khẳng khiu, quá dài so với thân thể
nhỏ bé, nhưng lại hòa hợp với cổ dài, mỏ dài, do đó nhìn toàn bộ con cò rất

đẹp).


Chỉnh thể có thể thiếu sự cân xứng, nhưng nó được đặt trong một tương quan
nào đó vẫn tạo ra được cảm giác hài hòa và đẹp (ví dụ: mái tóc lệch, chiếc răng
khểnh)
4.3 - Cái đẹp mang tính chủ thể - khách thể:

Cái đẹp này phụ thuộc vào năng lực vào ý thức thẩm mĩ của con người (chủ
thể). Bên cạnh đó, còn phụ thuộc vào những yếu tố khác như: lứa tuổi, nghề
nghiệp, hoàn cảnh xuất thân, trình độ học vấn và văn hóa, dân tộc, thời đại.
Những yếu tố ấy tạo ra những thị hiếu thẩm mĩ khác nhau.
4.4 -Cái đẹp trong nghệ thuật:


Khái niệm:

Đó là cái đẹp do nghệ sĩ sáng tạo ra trong các loại hình nghệ thuật. Cái đẹp
nghệ thuật có quan hệ mật thiết với cái đẹp trong tự nhiên và xã hội.
Trước hết, nghệ thuật tái tạo những cái đẹp có sẵn trong tự nhiên mà trung tâm
là con người. Tái tạo không phải là sự chép lại đơn giản (copy), mà là chọn lựa,
sắp xếp bố cục, gạt đi những cái rườm rà, và tập trung chiếu sáng cái đẹp. Qua
sự tái tạo, nghệ sĩ bộc lộ cách đánh giá và ca ngợi cái đẹp.
Tiến hơn nữa, nghệ sĩ còn sáng tạo những vẻ đẹp mới mẻ như một ước mơ,
một dự báo về cái đẹp tương lai, hoặc quay về sống với những cái đẹp đã trôi
vào quá khứ...


Tiêu chuẩn cái đẹp trong nghệ thuật:


Tính điển hình của vẻ đẹp: cái đẹp phổ biến, quen thuộc, sinh động cụ thể
nhưng gây rung động khoái cảm thẩm mĩ cho người thưởng thức.
Trong quan niệm về cái đẹp cần tránh hai hướng lệch lạc: sự giáo điều, khô
khan hoặc tự nhiên chủ nghĩa (câu chuyện nhà thơ - nhà soạn kịch Bertolt
Brecht đến thăm một nhà hát “ nổi tiếng “ với sự cố: một khán giả qúa xúc động
đã bắn diễn viên. Tiểu thuyết Đẹp của Khái Hưng kể chuyện họa sĩ Nam mỏi
mệt, thất vọng vì đi tìm mẫu vẽ không thỏa mãn. Trở về nhà người quen ở Hà
Nội, anh gặp lại Lan - cô bé ngày xưa gọi anh bằng chú anh không chú ý, nay
lớn lên xinh đẹp bất ngờ. Anh xúc động, say mê vẽ.Và tình yêu đến, anh cưới
Lan. Một thời gian trôi qua, anh lại thất vọng, không vẽ được nữa, Lan đã thành
thiếu phụ. Bạn bè hỏi, anh buồn bã nói: trên đời không có cái đẹp vĩnh cửu, nó
đã chết, cái đẹp rất yểu mệnh, thật là chán ! (!?) (sinh viên nên thảo luận về 2
chuyện kể trên).
4.5. Nhân vật lí tưởng (cái đẹp nhất) đi cùng lịch sử mĩ học, lịch sử nghệ thuật và lịch sử
phát triển của nhân loại:

Nhân vật lí tưởng là mẫu người đẹp nhất của thời đại.
(xem phần thứ hai: Chủ thể thẩm mỹ - mục Sự thể hiện lí tưởng thẩm mĩ trong
nghệ thuật)


Cái trác tuyệt
Bốn dạng trác tuyệt





Cái trác tuyệt huy hoàng
Cái trác tuyệt rợn ngợp

Cái trác tuyệt thán phục
Cái trác tuyệt thanh cao

1.1 - Cái trác tuyệt huy hoàng









Ngắm nhìn toàn cảnh buổi bình minh báo hiệu một ngày đẹp trời - đó là
một cảnh tượng huy hoàng khiến ta cảm thấy khoan khoái cao độ,vui
mừng tràn ngập.
Một buổi hòa nhạc lớn hàng nghìn diễn viên với bài đồng ca hùng tráng
Bản giao hưởng số 5 của Beethoven với những giai điệu huy hoàng tràn
đầy niềm tin tất thắng vào sức mạnh con người
Trận đánh “ Điện biên phủ trên không “ chống lại máy bay B.52 của đế
quốc Mĩ ở Hà Nội cuối năm 1972
Bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 do Hồ Chủ tịch viết và
đọc
Chiến thắng 30 tháng Tư năm 1975
Những câu nói nổi tiếng của một số vĩ nhân, lãnh tụ, nhà văn hóa lớn trên
thế giới.

(danh ngôn)...
1.2 - Cái trác tuyệt rợn ngợp:







Cảnh biển động dữ dội, bão táp cuốn trôi tất cả, sấm chớp đầy trời
Núi lửa đang phun cuồn cuộn
Đứng nhìn cảnh rừng già mênh mông, trầm lặng, không bóng người, thiếu
những cái quen thuộc, chỉ có tiếng gió rừng xào xạc
Nghĩ đến một thời gian kéo dài thuộc về tương lai vô định và vô vọng, ta
cảm thấy rợn ngợp...
Chúng làm cho ta cảm thấy bị ức chế, dồn nén rồi dâng trào xúc cảm
mãnh liệt.

1.3 - Cái trác tuyệt thán phục:


Hình ảnh anh Nguyễn Văn Trỗi mảnh mai quần áo trắng bình tĩnh hiên
ngang trên pháp trường khiến bao người Việt Nam cảm động, thán phục
và tự hào, khiến hàng triệu thanh niên noi theo anh











Hình ảnh chị Uùt Tịch bụng mang dạ chửa chèo đò chở mấy đứa con nhỏ
qua sông Cổ Chiên rộng lớn, mưa bão, đò chìm, trong đêm tối chị chỉ huy
và đưa thoát các con lên bờ.
Những bài thơ ca ngợi Bác Hồ của nhà thơ Tố Hữu
Bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc của thầy Đồ Chiểu
Tình bạn vĩ đại và cảm động của Marx và Engels
Kim Tự Tháp và bức tượng con Sphins ở Ai cập
Vạn lý trường thành, Những con đê sông Hồng, khu chùa tháp Aêng kor...

1.4 - Cái trác tuyệt thanh cao






Ngôi nhà sàn của Bác Hồ bên hồ nước lặng lẽ
Cảnh ngôi chùa Một Cột (chùa Diên hựu) đơn sơ cũ kĩ ở Hà Nội
Mối tình của Mác và Gienny
Nghĩ về một thời gian rất dài đã thuộc về quá khứ của một đời người, một
dân tộc
Truyện Kiều của Nguyễn Du...

Cái trác tuyệt thanh cao có vẻ bề ngoài giản dị, gần gũi nhưng hàm chứa những
vẻ đẹp tiềm tàng, tinh khiết tưởng như vô hạn, khiến cho ta khâm phục, rồi suy
nghĩ miên man thấy nó gần gũi thân thương lạ.
Tình cảm thẩm mĩ của cái trác tuyệt
Các phạm trù mĩ học là thể thống nhất và phân lập ở hai cực: một, nó có tính
chất bản thể (tự nó); mặt khác, nó mang tính chất giá trị học định vị (tuỳ theo
cách đánh giá của con người)

ĐỊNH NGHĨA: Cái Trác Tuyệt một mặt phản ánh bản thân tính chất đồ sộ, to
lớn, hùng vĩ, vũ bão, mạnh mẽ hay là thanh cao, tiềm tàng, sâu lắng, vô cùng
trong sáng, vô cùng thanh khiết của các sự vật khách quan, mặt khác nó phản
ánh xu hướng con người luôn luôn có khát vọng vươn tới cái vĩ đại.
Nếu cái đẹp thúc đẩy con người vươn đến cái hoàn thiện hoàn mỹ thì cái trác
tuyệt phản ánh một phẩm chất rất quan trọng là: trong khi hoàn thiện, hoàn mĩ
bản thân mình, con người còn muốn hùng vĩ hóa bản thân một cách bất tận để
đáp ứng những nhiệm vụ to lớn và bất tận của cuộc đời đang đặt ra trước con
người.
Xu hướng không ngừng nâng cao năng lực và tâm hồn con người hướng đến
cái vĩ đại đã yêu cầu mĩ học phải đề cập đến cái trác tuyệt.
Như vậy, hai tiêu chí đầu tiên để xây dựng tình cảm thẩm mĩ của cái trác tuyệt



Bản thân các sự vật khách quan còn tiềm tàng biết bao năng lực to lớn
mà con người chưa thể một lúc đã phát hiện hết.




Mặt khác ngay trong bản thân con người cũng còn chứa biết bao nhiêu
khả năng hùng mạnh chưa thể một lúc sử dụng hết, phát huy hết.

Khi nói về mối quan hệ giữa hai năng lực tiềm tàng này, ngay từ thời cổ Hy Lạp,
tác phẩm mĩ học Bàn về cái trác tuyệt (tác phẩm vô danh, nhưng vẫn được gán
một cách ước lệ cho nhà từ chương học Leghinnutxơ), đã nhấn mạnh: “Trong
tính bẩm sinh của nó, về bản chất, tâm hồn con người có thể đồng vọng với cái
trác tuyệt”. Nhưng đó không phải là tiếng đồng vọng thông thường, mà là “ tiếng
đồng vọng về cái vĩ đại của tâm hồn” (Đỗ Văn Khang, Lịch sử mỹ học, NXB Hà

Nội, 1983).
Để phân biệt tình cảm của cái đẹp và tình cảm của cái trác tuyệt, chúng ta cần
chú ý, khi cảm thụ cái đẹp, người bình thường cũng có thể bị cái đẹp quyến rũ.
Nhưng khi cảm thụ cái trác tuyệt, không phải bất cứ ai cũng nẩy sinh tâm hồn
trác tuyệt. Muốn có tình cảm về cái trác tuyệt, tư tưởng và cảm hứng của con
người không thể thấp kém. Những người suốt đời mắt nhìn xuống đất, trong
đầu đầy những ý nghĩ thông tục sẽ không thể “đồng vọng với cái vĩ đại”. Chỉ
những ai mà lí tưởng sống có nội dung lành mạnh, có khát vọng vươn lên cái
cao đẹp thì mới có năng lực cảm nhận “tiếng đồng vọng về cái vĩ đại của tâm
hồn”.
Tình cảm về cái trác tuyệt có cường độ mạnh với nhiệt tình hăng say đầy khát
vọng hướng về sự hùng vĩ. Tình cảm trác tuyệt chứa đựng một giá trị tổng hợp đó là thành quả cao của mối quan hệ Chân - Thiện - Mỹ- chính là chất lý tưởng
đã được xoa mình bằng “một chất dầu thánh” làm cho ngây ngất.
(Lưu ý: khi cảm thụ cái trác tuyệt rợn ngợp, trong cảm xúc của con người rõ
ràng có tồn tại yếu tố khó chịu, bó buộc, đè nén. Nhưng, điều thú vị là ở chỗ,
con người sau khi trải qua những giây phút khó chịu cảm thấy bất lực, nhỏ bé
trước những hiện tượng đồ sộ, dữ dội ngoài tự nhiên thì khi đã định thần lại, một
người có bản lĩnh se õ cảm thấy dâng trào trong tâm hồn một niềm kiêu hãnh,
rằng bão tố, sấm chớp, cảnh hoang vu, núi cao rừng thẳm, tuyết dày có gì mà
đáng sợ! Con người sẽ nhìn thẳng vào nó, và một ngày kia sẽ tìm cách chinh
phục nó. Chẳng hạn, đứng trước cảnh núi lửa đang phun nham thạch nóng
bỏng, trong một giây phút choáng ngợp ta thấy sức mạnh dữ dội kinh người của
từng đụn khói tỏa ngút trời cao. Khi trấn tĩnh, trong ta dâng trào niềm cảm khoái
vô tận, rằng sức mạnh của núi lửa cũng không phải là sức mạnh phá hoại.
Cũng vậy, khi hình nấm choáng cả góc trời của vụ thử bom nguyên tử đầu tiên
ở Arizona đã khiến cho cô gái mù tròn hai mươi tuổi ở cách xa chỗ đó 100km
phải thốt lên: “Trong phòng này có ánh sáng”, câu nói đã chứng minh cho cái
cảm quan đi từ sức mạnh của tự nhiên đến sức mạnh của con người).
Tuy nhiên, khi cảm thụ cái trác tuyệt rợn ngợp, người cảm thụ phải ở trong
trạng thái gián tiếp. Một người đang rong thuyền trên biển mà gặp sóng thần,

anh ta chỉ có cách là tìm cách chạy thoát thân. Nhưng người đứng trên bờ mà
cảm thấy con thuyền nhỏ bé kia đang thoát dần ra khỏi sóng thần thì anh ta sẽ
có cảm xúc về cái trác tuyệt cuả biển cả và cái thông minh dũng cảm của người
đi biển. Khi người đi biển trở về đúng căn nhà của người ngắm biển, cả hai


cùng chia nhau cốc trà nóng và cùng ngắm lại biển cả. Tất nhiên cả hai sẽ lại có
tình cảm về cái trác tuyệt chẳng khác gì nhau, thậm chí, khâm phục chính cái
sức mạnh và tài trí của bản thân mình một cách sâu sắc và ấn tượng hơn.
Khi cảm thụ cái đẹp, con người đã nắm được nó hoặc đã hiểu được nó. Ngược
lại, khi cảm thụ cái trác tuyệt, cảm xúc lại phải chạy qua một đường kênh phức
tạp. Mặc dù ta chưa khám phá hết được, hoặc chưa hoàn toàn nắm được đối
tượng để cảm thụ cái trác tuyệt nhưng con người vẫn có khát vọng cháy bỏng
muốn chiếm lĩnh nó. Nhiệm vụ cơ bản của cái trác tuyệt là hỗ trợ con người
thêm sức mạnh, tăng uy lực và khát vọng chiếm lĩnh bằng cách phát triển vô tận
“ tiếng đồng vọng vĩ đại của tâm hồn”.
Cái trác tuyệt trong nghệ thuật
Trước hết chúng ta hãy xem vị trí của cái trác tuyệt trong các loại hình và loại
thể của nghệ thuật.
Theo phân loại của Hegel, chúng ta có các loại hình và loại thể nghệ thuật sau
đây có khả năng miêu tả cái trác tuyệt:
Về loại hình nghệ thuật có: kiến trúc, điêu khắc, hội họa, sân khấu, âm nhạc,
điện ảnh, vũ đạo và văn học.
Về loại thể văn học: sử thi (thể tự sự), kịch (chính kịch và bi kịch) và trữ tình.
Trong số đó, sử thi (cũng gọi là anh hùng ca) là thể loại chủ yếu miêu tả cái trác
tuyệt, giống như bi kịch là thể loại nghệ thuật của cái bi và hài kịch là thể loại
nghệ thuật của cái hài.
Vai trò của anh hùng ca ở các thời đại khác nhau thì khác nhau, nhưng cùng qui
luật là: “ mỗi thời đaị đều cần có những con người vĩ đại của nó, và nếu không
có những con người như vậy, thì, thời đại sẽ sáng tạo ra những con người như

thế ”.
Vai trò mĩ học của cái trác tuyệt trong nghệ thuật đã không bó hẹp trong những
lời tụng ca về những anh hùng đã có, mà còn có nhiệm vụ rất trọng đại là
sáng tạo ra những anh hùng cho lịch sử. Nghệ thuật có thể và cần đi
trước thanh gươm và khẩu súng.
Nghệ thuật Phục Hưng đã góp phần sáng tạo ra những anh hùng tư sản. Mác
đã nói rất rõ về điều này: “Những bài ca về người anh hùng tư sản chính là
phương tiện quan trọng giúp con người tư sản thay Chúa làm chủ linh hồn và
thay vua làm chủ xã hội”. Xã hội tư sản tuy “ ít tính chất anh hùng nhất “, nhưng
khi ra đời nó vẫn cần đến những người anh dũng hi sinh:" Trước lưỡi rìu của
tên đao phủ phong kiến màcó người vẫn đòi đánh đổ đức vua, trước giàn thiêu
của tôn giáo vẫn phủ định đức Chúa, đó cũng là anh hùng".(Mác, Aênggen,
Lênin, Stalin, Bàn về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, NXB ST, Hà Nội.
Tr.13.97)
Nếu trong thời đại suy tàn của các triêù đại phong kiến, “tuấn kiệt như sao buổi
sớm, anh hùng như lá mùa thu “ (Nguyễn Trãi - Bài Cáo Bình Ngô) và trong xã


hội tư sản hầu như có ít tính chất anh hùng nhất thì cách mạng vô sản là thời
đại nở rộ những anh hùng:" trên vết máu của các vị anh hùng đã hi sinh vẻ
vang trong chiến đấu, hàng nghìn hàng vạn chiến sĩ mới đã đứng dậy cũng
gan dạ như thế, để đảm bảo thắng lợi bằng chủ nghiã anh hùng quần chúng
" (Mác, Ănggen... -sách đã dẫn. Tr.13.97). Trên nền hiện thực vĩ đại đó, đã nỡ
rộ một nghệ thuật anh hùng lấy cái trác tuyệt làm phương tiện hùng vĩ hóa sức
mạnh con người. Khởi đầu của công trình đó phải kể đến Trái tim Đan kô, Bài
Ca Chim Ưng, Bài Ca Chim Báo bão và tác phẩm Người Mẹ của Maxim Gorki.
Nghệ thuật cách mạng Việt Nam suốt hơn hai mươi năm qua đã vận dụng sáng
tạo cái trác tuyệt, tạo nên một nền nghệ thuật anh hùng sáng chói. “Với những
thành tựu đạt được chủ yếu trong việc phản ánh hai cuộc kháng chiến vĩ đại
của dân tộc, văn học nghệ thuật nước ta xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên

phong của những nền văn học, nghệ thuật chống đế quốc ngày nay” (Báo cáo
Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đai hội 4.Tạp chí Học tập, số
12.1976. tr.84).
Nghệ thuật cách mạng đã góp phần quan trọng khơi gợi tầm vóc vĩ đại ở mỗi
một con người Việt Nam, nó đã mách bảo chúng ta:
“ Chỉ vì ta quỳ gối,
Nên ta cảm thấy các vĩ nhân là to lớn.
Hãy đứng lên đi
Ta sẽ hóa anh hùng “
Việc vận dụng cái trác tuyệt trong nghệ thuật hiện đại ở nước ta đã làm biến đổi
diện mạo của nền văn nghệ nước nhà và ảnh hưởng to lớn đến phương pháp
và phong cách của đội ngũ văn nghệ sĩ. Nền nghệ thuật công khai thời Pháp
thuộc đầy rẫy những hình ảnh thất vọng của các “chàng “ và “nàng”, đầy rẫy
những con người nhỏ bé bị vùi dập và bị tha hóa thì nghệ thuật hiện thực xã hội
chủ nghĩa đã hướng con người tới cái vĩ đại trong sự nghiệp cứu nước, cứu
nhà, khiến cho văn nghệ Việt Nam hiện đại vận động mạnh trên con đường sử
thi hóa. Từ đó tạo nên một nghệ thuật có đặc điểm: nghệ thuật bắt gặp trong
mình một “nhà sử thi”, trở thành người viết biên niên sống của lịch sử. Chỉ nói
riêng trong lĩnh vực thơ ca, khoảng hai mươi năm chống Mĩ, văn nghệ Việt
Nam đã gặt hái bội thu một mùa thơ ca có tính sử thi hoành tráng có thể
thâu tóm cả một thời kì lịch sử vĩ đại của dân tộc.
Cũng do sử dụng rộng rãi cái trác tuyệt trong nghệ thuật, một loại phong cách
độc đáo và mới mẻ ra đời: phong cách trữ tình trong dòng sử thi lớn của nhân
dân cách mạng. Phong cách này đã thành tựu trong các tập thơ như: Việt
Bắc, Ra Trận, vv.. của nhà thơ Tố Hữu - ngọn cờ đầu của thi ca cách mạng
Việt Nam.
Tuy nhiên chúng ta cần nhớ rằng: nghệ thuật tối kị sự giản đơn, máy móc.
Ngoài thể loại sử thi anh hùng, nghệ sĩ còn tìm cách đan kết một cách tài tình
giữa cái trác tuyệt với cái đẹp, cái bi và có khi cả với cái hài nữa. Chỉ có
kiến trúc là không phù hợp với cái hài kịch (chỉ vài trường hợp có tính chất dụng



ý như kiến trúc nhà gương ở công viên Lênin Hà nội), còn điêu khắc, hội họa,
âm nhạc, thơ ca, đặc biệt sân khấu và điện ảnh lại rất cần sự pha trộn hợp lí
các hình thái thẩm mĩ, trong đó có cái trác tuyệt, để làm cho sự phản ánh của
nghệ thuật trở nên đa dạng y như sự đa dạng của cuộc sống vẫn thường đòi
hỏi.
Điều cần chú ý thêm, cái trác tuyệt là một phạm trù thẩm mỹ mang tính lí tưởng.
Nó thường nhân danh lí tưởng để thể hiện những vấn đề nhân sinh, thế đạo.
Thông qua cách tạo hình bằng một bảng màu trong sáng, nghệ thuật vận dụng
cái trác tuyệt để dệt nên chất hùng vĩ của tâm hồn, của những chiến công rạng
rỡ với tầm vóc lớn, tạo nên nhân vật mang chất lí tưởng thời đại. Nhờ đó hình
tượng nghệ thuật ánh lên như một thực thể đầy sức cuốn hút.
Bi kịch cũng là một thể loại nghệ thuật rất gần với chất lí tưởng. Do đó, khi xây
dựng những tác phẩm thuộc loại này, nghệ sĩ cũng thường pha trộn chất hùng
tráng với chất bi thương để tạo nên những khúc ca bi tráng. Bởi lẽ, như Aristote
đã nói, chỉ có cái chết có ý nghĩa rộng lớn đối với xã hội mới làm cho người đời
luyến tiếc, xót thương như luyến tiếc một ráng chiều còn đẹp mà sớm bị mây
mù che khuất. Do đó, chất đồng cảm trong bi kịch phải khởi đầu từ những hồi
quang có “ tiếng đồng vọng vĩ đại của tâm hồn”.
Cái trác tuyệt trong nghệ thuật uyển chuyển đến mức bên cạnh vẻ đẹp anh
hùng của nhân vật, đôi khi nghệ sĩ còn tìm cách đưa thêm vào đó đôi nét “ yếu
đuối mà ta quen thuộc “ để làm cho nhân vật của mình nổi bật chất người chân
chính, cao đẹp, nhưng vẫn thật gần gũi chẳng hề gượng gạo, xa lạ với cuộc đời
thực.
Khi biểu hiện cái trác tuyệt trong nghệ thuật, nghệ sĩ còn lồng khéo chất hài
hước để làm cho nhân vật anh hùng của mình bớt bị “ lên gân “, để nụ cười hiền
hòa ấm áp xua tan cái cứng đờ, nghiêm nghị. Mọi người đều biết câu chuyện
Trapaep - người anh hùng nội chiến cuả Liên Xôâ. Vốn xuất thân từ nông dân,
tràn đầy lòng căm ghét đối với bọn Bạch vệ, Trapaep không thiếu nhiệt tình

cách mạng, nhưng vốn lí luận không lấy gì làm nhiều lắm. Một lần có bác nông
dân hỏi “ Đồng chí ủng hộ Bolsevich hay ủng hộ đảng Cộng sản? ”. Trapaep
nhanh trí trả lời “Tôi ủng hộ quốc tế”. Phuôcmanop - chính ủy của Trapaep (sau
này trở thành nhà văn) có mặt lúc đó, hỏi đùa thêm: “Đồng chí ủng hộ quốc tế
nào, Đệ tam hay Đệ nhị? ". Trapaep bối rối, nhưng đâu có chịu, bèn tìm cách
phản công lại: Lê nin ở quốc tế nào? Phurmanop: “Đệ tam”. Trapaep: “ Thế thì
tôi cũng ở Đệ tam”… (Hai anh em Vaxiliep,Trapaep.NXB Văn học).
Ở một đoạn khác - trong tác phẩm văn học đó - một đêm Trapaep và người cận
vệ Belaia chuyện trò thân mật. Bỗng nhiên Belaia hỏi:



Đồng chí Vaxili Ivananki, đồng chí có thể chỉ huy một quân đoàn không?”
Được.

Belaia sung sướng hỏi tiếp:


Một mặt trận?




Được, Belaia ạ! Có thể làm được.

Belaia mở to mắt:


Lực lượng vũ trang toàn quốc?


Trapaep ngừng giây lát:


Chỉ cần học thêm chút nữa, thì cũng có thể chỉ huy được.

Belaia phục lăn ra:


Vaxili Ivananki, đồng chí có thể chỉ huy quân đội toàn thế giới chứ?

Trapaep trầm ngâm, nghiêm chỉnh trả lời:


Không … không được đâu … tôi không biết ngoại ngữ “

Như vậy, khi nghệ sĩ biết đem cái hài kịch điểm xuyết vào cái trác tuyệt một
cách đúng chỗ, cái hài kịch kéo người đọc xáp lại phía vĩ nhân, xóa đi sự ngăn
cách giữa họ với nhau, làm tăng thêm nhiệt tình say đắm của người đọc, kích
động được khát vọng quần chúng cách mạng vươn lên ngang tầm vĩ nhân của
mình.
Có một vấn đề cần đặt ra: Trong nghệ thuật, cái trác tuyệt có thể dùng để biểu
hiện vẻ đẹp của những người bình thường không? Thúy Kiều của Nguyễn Du
đã có một vẻ đẹp trác tuyệt ấy. Vẻ đẹp trác tuyệt của con người đành rằng
không hoàn toàn chỉ ở chỗ “ một hai nghiêng nước, nghiêng thành / Sắc đành
đòi một, tài đành họa hai “ nhưng nó không thể không liên quan một tình người
vô cùng cao quý ở trong tâm hồn nàng, nhất là khi số phận đời nàng bị đem ra
thử thách. Trước cơn gia biến, Kiều phải lựa chọn. Éo le thay sự lựa chọn của
Kiều không phải là sự lựa chọn thông thường, mà một bên là “tình sâu mong trả
nghĩa dày “ - mối tình đầu thiêng liêng cùng Kim Trọng và một bên là “ đức cù
lao “ - “công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra “.

Nhưng Kiều khác với mọi cô gái khác, nàng dám quyết định và quyết định đúng,
dám ghé đôi vai mảnh mai của mình gánh cả “nỗi oan dậy đất, oán ngờ lòa mây
“. Vì thế, qua Truyện Kiều, ta như thấy nếp nhăn từng hằn sâu trên vầng trán ưu
tư của nhân loại trải qua bao thế kỉ đăm chiêu trước ngọn đèn dầu bao lần vơi
cạn khắc khoải chua chát trước nỗi đau triền miên của con người bỗng thoáng
lên một niềm tin yêu, thương cảm. Hành động cao đẹp của Kiều tuy chỉ là sự
quên mình của một cô gái dám bán mình chuộc cha, nhưng cũng đủ để cho bao
thế hệ " lệ chảy quanh thân Kiều ", để người đời phải ngẩn ngơ trầm ngâm suy
nghĩ, vấn vương hi vọng. Và cũng ở đây, thiên tài của Nguyễn Du không phải
đợi đến ba trăm năm sau mới có một hậu thế như nhà thơ mong ước “ Ba trăm
năm nữa ta đâu biết.Thiên hạ ai người khócTố Như “Độc Tiểu thanh ký". Thơ là
điệu tâm hồn “. Thi hào Nguyễn Du đã có “một tâm hồn đồng điệu “ - và Tố Hữu
đã nói hộ chúng ta:


“ Mai sau, dù có bao giờ
Câu thơ thuở trước đâu ngờ hôm nay”.
Từ Kiều ta nhớ đến một Anna Karenina của Lev Tônxtôi và so sánh với một
Emma Bôvari của nhà văn Flaubert. Anna Karenina của Lev Tonxtôi có vẻ đẹp
trác tuyệt vì Anna dám tự mình đứng lên đương đầu với cuộc sống, dám tự
giành lấy hạnh phúc cho mình trong một thế giới tẻ nhạt, giả dối và cứng nhắc.
Emma Bovari không phải như thế, nàng lừa dối chồng để yêu đương vụng trộm,
chẳng để phản kháng một cái gì mà chỉ để thỏa mãn một dục vọng. Lỗi đó
không hoàn toàn do cuộc đời hoặc do thói xấu của Emma, mà còn thuộc về nhà
văn. Khi viết tác phẩm Bà Bôvari, nhà văn Flaubert đã mất lòng tin vào con
người. Khắp nơi, nhà văn chỉ thấy một sự mong manh, đáng chán; nhìn về
tương lai, nhà văn chỉ thấy “đó là một hành lang tối om”.
Khi biểu hiện cái trác tuyệt trong nghệ thuật, nghệ sĩ phải có lòng tin cháy bỏng
vào con người. Khi thể hiện " tiếng đồng vọng vĩ đại của tâm hồn ", nghệ sĩ
cũng phải nâng tâm hồn mình lên ngang tầm vĩ đại đó. Nếu không, dù

miêu tả cái trác tuyệt, tác phẩm sẽ sẽ chỉ đạt mức độ " thuật lại "mà không
được coi là tác phẩm trác tuyệt

Cái bi kịch
Khái niệm
Bi kịch là tình trạng xung đột trực tiếp xảy ra giữa cái đẹp và cái xấu. Cái đẹp và
cái xấu đều muốn tồn tại hợp pháp và cố gắng duy trì sự tồn tại của mình.
Đó là những xung đột có ý nghĩ a xã hội, lịch sử, đạo đức, tâm lí, chứ không
phải bất kì sự xung đột nào trong cuộc sống. Những xung đột bi kịch liên quan
đến lẽ sống và tình đời rộng lớn của con người, có ý nghĩa triết lí sâu xa, khiến
chúng ta xúc động và rút ra những bài học răn đời.
Quan điểm của Aristote về bi kịch sau đây rất cô đọng và chuẩn xác:
1. Bi kịch là một hiện tượng quan trọng trong xã hội, thông qua số phận cá
nhân.
2. Bi kịch chân chính (là bi kịch chính thống)ø là bi kịch của những con
người có hành động nghiêm túc và cao thượng “người tốt nhất so với
những người trong thực tế"
3. Kết thúc xung đột, những người tốt chịu đựng sự bất hạnh, thậm chí bị
tiêu vong thảm khốc.
4. Nhưng sự thất bại của họ làm cho người đời xót thương, ca ngợi họ, vẽ
chân dung họ đẹp, “ đẹp hơn thực “ để treo trước cuộc đời một tấm
gương.
5. Tấm gương đó là bài học, giúp con người tránh điều ác, làm điều thiện. Bi
kịch làm trong sạch hóa cảm xúc tương tự bằng cách khêu gợi sự xót
thương và khủng khiếp.


Có người gọi bi kịch là loại “ anh hùng ca đẫm lệ “, nó làm cho con người ghê
tởm và căm ghét cái xấu, cái ác và khích lệ con người đấu tranh cho lí tưởng
sống của xã hội.

Phân loại bi kịch
2.1 - Bi kịch chính thống: gồm 2 loại

2.1.1 - Bi kịch của các nhân vật chết trong đêm trường đen tối của lịch sử
Bi kịch của các nhân vật chết trong đêm trường đen tối là một dạng thức bi kịch
lịch sử và có tính chất điển hình nhất. Nói như Engels “ đây là xung đột bi kịch
giữa yêu sách tất yếu về mặt lịch sử và tình trạng không thể nào thực hiện được
điều đó trong thực tiễn “ (Mác-Engels -Lenin - Về văn học và nghệ thuật). Như
vậy, bi kịch ở đây là bi kịch của cái mới, cái tiến bộ, cái cách mạng còn đang ở
trong thế yếu, ở trong một hoàn cảnh nảy sinh nhu cầu tất yếu cần thay đổi lịch
sử hiện hành, vì nó đã già cỗi, nhưng điều kiện để thực hiện nhu cầu đó lại
chưa chín muồi. Nhưng không vì thế mà ngã lòng, lịch sử đã hiến dâng những
người con ưu tú nhất của mình, những người dám đón nhận sứ mạng cao quí là
hiến dâng cả cuộc đời mình để đốt lên những ngọn đuốc làm bừng tỉnh cả một
dân tộc, thậm chí cả nhân loại, đang còn chìm đắm trong giấc ngủ triền miên.
Các nhân vật đó phải chết và chết một cách vĩ đại. Lúc đó, họ không chỉ đại
diện cho cá nhân họ. họ cũng không chỉ đại diện cho một bộ phận nhỏ bé nào
đó của xã hội. Hơn thế họ đại diện cho “ những giai cấp và những trào lưu nhất
định của thời đại “.
Tính cách của các nhân vật loại này trở nên hùng mạnh và có tính chất bi kịch
cũng bởi hành động của họ không phải là một thứ “ ham thích vụn vặt “, mà là
một hành động có ý thức sâu sắc trước lịch sử, coi sự dấn thân vào dông bão là
một nhiệm vụ thiêng liêng không thể thoái thác được, và họ cũng nhận thấy
rằng, ngoài họ ra, những người khác chưa thể làm thế được.
Tấm gương của họ trở thành trác tuyệt, cũng vì cái chết của họ không phải là
cái chết trong bối cảnh đối địch thông thường của các giai cấp trong lịch sử, mà
là cái chết trong bối cảnh vận động của lịch sử đã tạo thành phong trào đối địch.
Và họ là người góp phần quan trọng đẩy mạnh phong trào lịch sử đó.
Họ chết, nhưng không vì thế mà lý tưởng của họ trở thành bi thảm; Trái lại, cái
chết của họ có tác dụng thôi thúc mọi người đứng dậy đấu tranh cho lẽ phải.

Cũng thông qua cái chết bi kịch này mà lịch sử đã hiện lên rõ nét những khuôn
mặt và những tâm trạng, sắp xếp các khuôn mặt, các tâm trạng đó thành hai
tuyến đen, trắng rõ ràng. Mác đã nói đến tình huống đấu tranh của nhân vật bi
kịch và tác dụng của nó làm cho “tâm trạng của kẻ thù trở thành bảo thủ thực sự
một cách điển hình và tất yếu “. Nói một cách khác, họ làm cho bộ mặt kẻ thù
không còn ngụy trang được bằng bộ mặt dễ coi, mị dân mà buộc phải tỏ thái độ,
do đó, sự tàn bạo của kẻ thù phải bộc lộ trắng trợn, làm cho xã hội ghê tởm và
cảm thấy không còn sợ chúng nữa.
Chính vì thế, lịch sử mãi mãi ca ngợi sự thất bại của nghĩa quân Yên Thế và cái
chết của cụ Hoàng Hoa Thám. Lịch sử cũng ghi đậm nét trên trang sách của


nhà trường bài ca chưa thành của nghĩa quân Bãi Sậy. Và cái chết của liệt sỹ
Phạm Hồng Thái không hề uổng phí vì tiếng bom Sa Điện (Quảng Châu) ném
vào mặt tên toàn quyền Pháp đã làm thức tỉnh cả một thế hệ thanh niên Việt
Nam, khiến đời đời còn ghi nhớ:
“ Sống, chết, được như anh
Thù giặc, thương nước mình
Sống, làm quả bom nổ
Chết, như dòng nước xanh “.
(Tố Hữu)
Tấm gương sống của những người cộng sản Việt Nam trước lúc tử hình nhu:
Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai, Lý Tự Trọng v.v..còn mãi mãi làm cho
cuộc đời ngân vang nững câu nói bất tư û. Câu nói của Phuxich - người cộng
sản Tiệp khắc nhắn nhủ con người lúc ông viết dưới giá treo cổ: “ Hỡi nhân loại,
hãy cảnh giác “ ngày nay vẫn còn ngân vang nhắc nhở loài người.
2.1.2 - Bi kịch của nhân vật chết trước bình minh
Đây là một dạng bi kịch lịch sử, nhưng là cái bi của cái mới, cái tiến bộ, cách
mạng đã ở thế thắng trong toàn cục, nhưng một bộ phận nào đó của nó còn lâm
vào hoàn cảnh trớ trêu, khiến cho người anh hùng bị sa cơ và bị tiêu vong thảm

thương.
Hành động của các nhân vật anh hùng thuộc loại này là một hành động hợp với
yêu cầu tất yếu của lịch sử và khả năng thực hiện lí tưởng của họ đã mở rộng,
song cuộc chiến đấu một mất một còn đó vẫn diễn ra gay gắt, trong một hoàn
cảnh và điều kiện nhất định, ở một thời điểm nhất định, kẻ địch còn tập trung
được nhiều lực lượng và tỏ ra lợi hại, người anh hùng chiến đấu trong điều kiện
đó rất có thể bị thất bại, bị đàn áp khốc liệt.
Tuy người anh hùng chết đi, nhưng lí tưởng của họ không còn bị treo đấy (ở
trường hợp trên), mà đã được cả thế hệ của họ, dân tộc của họ dấy lên một
phong trào nối tiếp xả thân vì lí tưởng ấy.
Sự ngã xuống của họ không phải là sự vấp ngã giữa đêm dài đen tối, mà là sự
ngã xuống ngay trước ngưỡng cửa bình minh; do đó nó có tác dụng bật tung cái
then chốt cài im ỉm, khóa chặt nhiều năm để mọi người từ trong hầm tối tràn ra
ánh sáng, trước Cung điện Mùa đông hoặc Quảng trường Ba Đình lịch sư û…
Chính vì thế, cái chết của nhân vật anh hùng này có một tính chất mĩ học mới,
đó là tính bi - hùng kịch.
Có thể kể về những tấm gương anh hùng thuộc dạng bi kịch của các nhân vật
chết trước bình minh như: Nữ chính ủy trong tác phẩm Bi kịch lạc quan của nhà
văn Vinhepxki. Các anh hùng trong tác phẩm Chiến bại của nhà văn Fadeep,
Các nghĩa sĩ Cần Giuộc trong Văn Tế của thầy Đồ Chiểu v.v..


Trong văn học - nghệ thuật Việt Nam cũng không thiếu những nhân vật ngã
xuống đêm hôm trước của Cách mạng và ngày đấu tranh sắp giành thắng lợi.
Chúng ta có thể kể đến: cái chết của anh Hùng và Rin trong Bài ca chim Chơrao của nhà thơ Thu Bồn. Hình tượng chị Sứ trong tác phẩm Hòn Đất của nhà
văn Anh Đức. Võ Thị Sáu và bài ca ngát hương hồn người nữ anh hùng trẻ tuổi
- Mùa hoa Lekima nở, v.v…
2.2 - Bi kịch của cái cũ

Nó là cái cũ, như một cuốn vở sờn gáy, đang lật những trang cuối, nhưng với

lịch sử nó chưa trở thành xấu xa, phản động, trái lại nó có ít nhiều sứ mạng
trước lịch sử mà sớm bị tiêu vong thảm thương cũng trở thành một hiện tượng
bi kịch.
Bằng một cái nhìn tinh tế và sâu sắc, Mác viết: “Lịch sử của chế độ cũ là bi kịch
chừng nào nó còn là quyền lực của thế giới tồn tại bao nhiêu đời nay, còn trái
lại, tự do là cái tư tưởng ám ảnh một số người cá biệt “ (Mác-Engels Toàn Tập.)
Khó có thể đánh giá hết lời chỉ dẫn sâu sắc đó của Mác. Mỹ học trước đây mới
chỉ thấy bi kịch là bi kịch của cái mới. Mác không chỉ thừa nhận bi kịch là sự
xung đột giữa cái đẹp và cái xấu, vì Mác đã nhấn mạnh đến cái quyền lực của
thế giới tồn tại bao nhiêu đời nay và đối lập với nó “tự do”, “ cái tư tưởng ám
ảnh một số người cá biệt “. Tiến xa hơn, Mác còn phát hiện ra bi kịch của cái cũ.
Đó là trường hợp khi cái cũ còn chưa mất hết sinh lực của nó và cái mới vừa
nảy sinh chưa đủ lông cánh, nó là thứ tự do nhưng chưa phải là chùm nho trên
giàn quả đỏ.
Ơû phần trên, chúng ta đã đi sâu nghiên cứu bi kịch ở phùia sự tiêu vong oan
uổng của cái tự do non trẻ thì ở đây, Mác lại lưu ý chúng ta cái bi kịch của một
lực lượng khác: lực lượng của cái cũ.
Qua ý kiến của Mác, có thể xác định ba tiêu chí cơ bản làm nên bi kịch của cái
cũ:




Cái cũ chưa phải đã mất hết vai trò trong lịch sử, chưa trở thành hoàn
toàn xấu xa, phản động.
Bản thân cái cũ vẫn còn tin vào tính chất hợp lí của nó.
Những con người “đứng ở phía chế độ cũ không phải là sự lầm lạc có
tính cá nhân, mà là sự lầm lạc có tính chất lịch sử toàn thế giới. Chính vì
vậy cái chết của nó là bi kịch “. (Mác-Engels Toàn Tập).


Như vậy bi kịch ở đây không phải là xung đột giữa cái mới và cái cũ, mà là bi
kịch của sự lầm lạc của chính cái cũ. Nói một cách khác, đó là sự lầm lạc của
những con người chưa nhận thức ra tính tất yếu của quá trình đang chết dần
của cái cũ, nên vẫn đem hết cả tài trí và sức lực của mình ra để bảo vệ nó, do
đó họ không thể tránh khỏi thất bại thảm thương và bị tiêu vong oan uổng.
Những “ anh hùng “ của cái cũ phần đông đều trở thành các nhân vật như
“Đông Ki Sôt “. Họ là những người có lí tưởng, nhưng lí tưởng đó đã lạc hậu và


trở thành mơ hồ. Họ chiến đấu cho lí tưởng đó theo thói quen, theo một “truyền
thống” nhất định, hơn là nhận thức ra sức sống của lí tưởng mà họ đang bảo vệ
ấy cũng đã quá lung lay vì nó đang đi hết đoạn đường phát triển nội tại của nó.
Sự thất bại thảm hại của vua Duy Tân nước ta và việc ông bị giặc Pháp bắt đi
đày đến trọn đời cũng vì lí do đó.
Sự thất bại của họ là tất yếu, vì trong cuộc chiến đấu đó, họ trở thành “ đơn
thương, độc mã “, họ không biết dựa vào ai cả, quần chúng cũng chả ai tin rằng
họ sẽ đem lại gì cho mọi người nên tất thẩy đã đứng ngoài, hoặc thờ ơ với cuộc
đấu tranh của người “anh hùng “ ấy.
Nhưng khi họ chết, quần chúng vẫn xót thương họ, như luyến tiếc một chiều
đẹp trong một buổi hoàng hôn mà thôi.
2.3 - Bi kịch cuả sự lầm lẫn, sự kém hiểu biết hoặc sự “ ngu dốt “

Bi kịch của sự lầm lẫn được nêu ra như một bài học xương máu của đường đời
- có tác dụng nhắc nhở con người một bài học cảnh giác.
An Dương Vương mất Loa Thành phải giết con gái và tự vẫn vì đã mất cảnh
giác, quá tin vào kẻ địch, tưởng có thể lấy tình cảm gia đình san bằng được
lòng tham không đáy của kẻ thù.
Othello - từ một nô lệ da đen, bằng cả cuộc đời dũng cảm và thông minh của
mình, trở thành một võ tướng và lay động được một tình yêu say đắm, trong
trắng của một thiếu nữ da trắng cao quí tuyệt vời. Nhưng rồi Otenlô bóp chết

người mình yêu ngay trên giường hạnh phúc của mình không phải vì quá ghen,
mà vì quá tin, nên bị kẻ địch lừa dối.
Ở dạng thức này chúng ta thấy có " Ơ đip làm vua". Do “số mệnh”, Ơ đip đã giết
cha mà không biết nạn nhân là cha đẻ, lấy mẹ mà không hay biết đó là người đã
sinh ra chính mình. Khi nhận ra, Ơ đíp dã tự chọc thủng hai mắt để trừng phạt
mình. Hình tượng tự chọc thủng mắt là sự trừng phạt tội không biết phân biệt lẽ
đời một cách anh minh - một sự anh minh không đạt tới được của một con
người, nhưng khát khao cần phải đạt tới như một bản chất người cần sự trong
sáng.
Bi kịch của sự kém hiểu biết liên quan đến vấn đề mà Mác gọi là sự “ngu dốt”:
“Sự ngu dốt là con quỷ mà chúng ta e rằng chúng sẽ còn gây ra nhiều tấn bi
kịch “.
Ở một trường hợp khác, bi kịch của sự kém hiểu biết xảy ra không phải do một
lực lượng xã hội nào, cũng không phải do một phép tắc đạo đức nào dẫn dắt
họ, mà là một tai nạn, một sức mạnh mù quáng của tự nhiên. Thí dụ: cái
chết của những người đi khai phá miền bắc cực, những anh hùng đã khuất
trong cuộc thám hiểm biển cả, những anh hùng đi mãi không biết rằng họ có thể
hi sinh trong lúc làm nhiệm vụ.Họ cũng thừa biết rằng trong cuộc đọ sức ấy, con
người còn nhiều điều chưa lường hết và khả năng có hạn của con người chưa


một lúc đã có đầy đủ phương tiện dự phòng hết. Nhưng họ vẫn ra đi với niềm
tin rằng họ là người khai phá con đường cho thế hệ sau. (Thực ra bi kịch của
cái cũ cũng thuộc loại này nhưng được ưu tiên tách ra thành một loại riêng do
tính lịch sử của nó).
2.4 - Bi kịch của những khát vọng con người

Loại bi kịch này nảy sinh do xung đột gay gắt bởi những mâu thuẫn không thể
nào khắc phục nổi giữa nhung khát vọng chính đáng riêng tư của con nguời và
khả năng không thể thực hiện được những khát vọng đó trong cuộc sống. Bi

kịch này thể hiện những đau khổ, dằn vặt của cá nhân, song nó lại động chạm
đến lẽ sống, tình yêu, sứ mệnh của con người, vì thế nó day dứt mãi lòng
người.








Thị Kính cả một cuộc đời oan uổng, đến chết, lúc thay áo liệm xác mới trả
được nỗi oan đời (và còn những Chị Dậu trong Tắt Đèn, Đời Cô Lựu...)
Maxlova phải ra vành móng ngựa mới làm cho kẻ hại đời mình là
Nexliudop tỉnh ngộ (tiểu thuyết Phục Sinh của L.Tôn-xtôi).
Kiều là một nhân vật bi kịch, cuộc đời trầm luân của nàng đã nói lên sự
vật lộn gay gắt giữa con người tài sắc “mười phân vẹn mười “ ấy với
những thế lực đen tối như Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh v.v..
Anna Karenina đau khổ, sống cuộc sống đầy bi kịch cũng bởi nàng có một
tình yêu mãnh liệt mà lại phải sống với người chồng quá khô khan, kiểu
cách và quan liêu.
Phồn Y trong bi kịch Lôi Vũ

Đau khổ của Kiều, Anna Karenina... tuy là những đau khổ của những con người
bình thường, không có gì xuất chúng, họ không phải những anh hùng, nhưng
nỗi đau của họ là nỗi đau đời, bi kịch của họ có ý nghĩa phổ biến. Khát vọng của
họ nó là những gì đáng yêu quí nhất, đáng trân trọng của con người. Bi kịch này
có yếu tố vạch trần, lên án gay gắt cái xấu và dạy cho con người biết trân trọng
những nguyện vọng chính đáng của mỗi người.
2.5. Bi kịch của chính cái xấu


Cái cũ đã thực sự trở thành xấu và gây ra tác hại khủng khiếp, nó cần phải bị
trừng phạt một cách nghiêm khắc, “kẻ gieo gió ắt phải gặt bão”, đó là nội dung
cơ bản của bi kịch của chính cái xấu.
Giá trị mỹ học của bi kịch này là: nếu các dạng thức bi kịch khác đều là bi kịch
của cái đẹp, cái tốt, hoặc cái còn tốt mà bị lầm lạc thì bi kịch của chính cái xấu
là bi kịch của tội ác. Ở đây, người ta không lấy nước mắt để răn đời, không lấy
lòng xót thương mà luyến tiếc người đã mất, trái lại, lấy sự khủng khiếp để nhắc
con người chớ làm điều khủng khiếp.
Đến đây chúng ta hiểu rõ quan điểm của Aristote về bi kịch khi ông viết: “ Bi kịch
làm trong sạch hóa những cảm xúc tương tự qua cách khêu gợi sự xót thương
và khủng khiếp “Cái ý nghĩa khủng khiếp do tác động của bi kịch của cái xấu mà


mãi sau này qua tài nghệ của Shakespeare trong vở Macbeth người ta mới
nhận thức một cách rõ ràng. (Macbeth là một tướng giỏi của vua Duncan xứ
Scottland. Vốn vô tư, không sẵn lòng tham tàn, trên đường chiến thắng trở về,
Macbeth được ba mụ phù thủy báo cho hắn biết sẽ lên làm vua, mụ vợ độc ác
lại xúi vào, một số cận thần xiểm nịnh, nên hắn càng đẩy nhanh ý định giết vua
để chiếm ngôi, cuối cùng bị trừng phạt thảm hại).
Tóm lại, xét về mặt tình huống, bi kịch rất đa dạng, phong phú và phức tạp
y như sự phong phú và phức tạp của cuộc đời. Tình huống của bi kịch có thể là
những xung đột của cái mới, cái tiến bộ, cái cách mạng; nhưng cũng có thể là
xung đột của chính cái cũ, cái xấu xa cái phản động. Bi kịch cũng còn do sự lầm
lẫn, do sự “ngu dốt” hoặc do những khát vọng chính đáng của đời người bị phủ
định một cách oan uổng. Vấn đề là, mọi tình huống của bi kịch phải thuộc
những vấn đề có ý nghĩa xã hội rộng lớn, có ảnh hưởng đến lịch sử, lẽ sống,
đạo đức và thân phận con người. Nghĩa là những vấn đề có ý nghĩa triết luận
sâu xa của xã hội và con người, trong đó, xung đột giữa cách mạng và phản
động phải là xung đột trung tâm và chủ yếu của bi kịch.

Truyện Kiều - một vương quốc của nỗi buồn - do thi hào Nguyễn Du dựng lên
để làm nơi chiêm nghiệm suy tư của mỗi người Việt Nam. Chỉ có kim cương
mới cắt được kim cương, chỉ có nỗi buồn mới cứu được nỗi buồn
Nghệ thuật bi kịch
3.1 - Nguồn gốc của bi kịch

Ôn Như Hầu viết về định mệnh của con người một cách duy tâm:
Thảo nào khi mới chôn rau (nhau)
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra
Rõ ràng, bi kịch không gắn với tiếng khóc chào đời của con người. Phải trải qua
một thời gian phát triển khá dài, mãi đến thời kì giáp ranh giữa xã hội công xã
nguyên thủy và chiếm hữu nô lệ, bi kịch mới hình thành và phát triển.
Mác cho rằng: khi loài người chuyển dần sang chế độ chiếm hữu nô lệ, nghĩa là
từ cái giai đoạn mông muội sang thời đại văn minh, con người đã sáng tạo ra
lịch sử anh hùng, đồng thời đẻ ra một bi kịch lớn nhất của xã hội loài người
là bóc lột và áp bức lẫn nhau.
Nhưng không phải con người ngay một lúc đã có thể nhận thức ra tình trạng bi
kịch của mình. Đầu tiên là sự cảm nhận mà sự cảm nhận nguyên thủy thường
pha chất tôn giáo rõ rệt. Cho nên thuở sơ khai, bi kịch nảy sinh từ hình thức tế
lễ thần rượu nho (Dionysos) - đó là vị thần tượng trưng cho sự tái sinh, sự trù
phú, cho nghề ép rượu, cho những cơn say, và vị chúa tể của những vong hồn.
Thần Rượu nho (Dionysos) là con riêng của Dớt (Zeus) - khi ngoại tình với công
chúa Semele thành Thebes. Chức năng của thần bao gồm hai quá trình đối lập
nhau, đó là quá trình sinh tử được chung đúc lại.


Bi kịch đầu tiên xảy ra là bi kịch của Icare mục tử. Icare gặp Dionysos, người
mục tử đã tiếp thần với tất cả lòng chân thành. Để đáp lại, thần tặng Icaremột
cành nho trĩu quả, dạy cho Icare cách nấu rượu. Vốn lòng mến khách, vả lại “
rượu ngon mà thiếu bạn hiền mất vui “, Icare đem mẻ rượu đầu tiên ấy đãi các

bạn bè của mình. Các mục tử này chưa bao giờ biết đến điều say, nên khi
hương mật ngào ngật của rượu nho thấm vào, họ đều lăn quay ra bãi cỏ ngủ
mê mệt. Tỉnh dậy, không thấy đàn cừu đâu,họ tưởng rằng Icarơ đã đầu độc họ
để chiếm đoạt gia súc, họ nổi giận giết chết Icarơ và vùi xác ở trong núi. Nhờ
con chó dẫn đường, cô con gái yêu của Icarơ tìm được xác cha mình. Đau buồn
quá đỗi, nàng treo cổ chết trên cành cây rủ bóng xuống ngôi mộ. Con chó trung
thành buồn quá cũng chết theo. Cảm kích trước tai họa đau thương và tình cha
con, tình chủ tớ, Dionysos đã hồi sinh tất cả và dẫn họ lên thiên đàng Olympe.
Theo truyền thuyết, từ đó trên bầu trời bỗng hiện ra chòm sao mục tử, cô gái và
con chó lớn.
Nhưng rồi bản thân Dyonysos cũng phải chết vì sự tỵ hiềm của những thế lực
hắc ám, đó là con quỷ khổng lồ Titan đã xé xác thần ra làm nhiều mảnh, nhưng
thần vẫn hồi sinh vào mỗi mùa xuân bằng chất nhựa của những mầm nho.
Qua thiên thần thoại trên, con người không chỉ phản ánh nghề trồng nho và
nghề ép rượu nho mà qua đó, con người muốn trình bày sự gặp gỡ và chung
đúc của hai luồng cảm xúc đối lập: Vui và buồn, sướng và khổ, hồi sinh và tàn
tạ, nhập vào nhau, thống nhất trong một chỉnh thể, có thể xây dựng thành nghệ
thuật để nói lên những triết lý của lẽ đời.
3.2. Bi kịch Hy Lạp cổ đại

Sự hình thành nhà nước dân chủ- chủ nô trong hình thái chiếm hữu nô lệ đã tạo
ra những cảm xúc thẩm mỹ độc đáo. Một mặt là cuộc đấu tranh giữa những thế
lực dân chủ và tự do với những thế lực phú hào, mặt khác là cuộc đòi quyền
sống của những người nô lệ vẫn thường xuyên diễn ra gay gắt. Tuy nhiên, vai
trò của những cá nhân tự do trong đời sống xã hội (những thợ thủ công, thương
nhân và làm ruộng, chăn nuôi v.v..) đã được khẳng định hơn so với chế độ thị
tộc. Do đó cá nhân con người trở thành có vai trò độc lập nhất định.
Tất cả những nguyên nhân xã hội này dẫn tới một khát vọng là, con người
muốn nhận thức, muốn lí giải những xung đột gay gắt của cuộc đời bằng thẩm
mỹ. Cũng từ đó đánh dấu sự ra đời của nền bi kịch chính thống, nghĩa là có sự

chuyển từ hình thức tế lễ nguyên thủy sang một loại hình nghệ thuật có khả
năng tái hiện cuộc sống một cách rộng rãi, khái quát và sâu sắc.
Đến đây, bi kịch không còn chỉ bó hẹp trong sự miêu tả cuộc đời và những
bước thăng trầm của thần Dionysos nữa. Bi kịch đã mở rộng chủ đề và đề tài
của mình và mang ý nghĩa xã hội phổ biến hơn. Bi kịch đã chú trọng đến các đề
tài lịch sử, chú trọng phản ánh nnững lỗi lầm của cuộc đời, xây dựng các tính
chất anh hùng và các tính cách đau thương khác. Nhưng các truyện thần thoại
vẫn còn đóng vai trò quan trọng trong bi kịch Hy Lạp cổ đại.


Bên cạnh anh hùng ca Iliade và Odyssee của Homer, Hy Lạp cổ đại đã để lại
cho kho tàng văn hóa nhân loại một nền bi kịch quý giá với ba nhà viết kịch tiêu
biểu là Essille, Sophocle vàEuripide, cùng các vở nổi tiếng là Promethe bị xiềng,
Eudip làm vua, Aêngtigon, Medee
Có thể nêu mấy đặc điểm quan trọng của nền bi kịch này là:
Các lực lượng đối lập với con người thường có uy quyền rất lớn, thường được
khoác áo thần linh (Zeus trong Promete bị xiềng), nhưng cũng có khi được biểu
hiện như một thứ định mệnh (trong Ơdip làm vua) hoặc một thứ khát vọng
cuồng nộ (trong vở Medee của Euripide).
Các anh hùng của bi kịch thường bị thất bại thảm thương, bị đọa đầy đau khổ,
hoặc bị hi sinh trong biển máu.
Bi kịch Hy Lạp cổ đại đã chú ý khai thác những yếu tố thẩm mỹ như:Tính bất tử
của con người chân chính. Bi kịch cũng chú ý cảm hứng về sự tái sinh của vẻ
đẹp con người dưới một hình thái mới.
Người anh hùng trong bi kịch này bị hi sinh vì lợi ích của con người nên vẫn
được người đời mến phục và xót thương, đời đời dành cho họ những vòng
nguyệt quế đẹp nhất. Chính vì vậy, có thể nói nghệ thuật bi kịch Hy Lạp cổ đại
đã biết buộc cái chết phục vụ cuộc sống.
3.3. Bi kịch thời Trung cổ phương Tây


Bi kịch Trung cổ phương Tây mang màu sắc tôn giáo rõ nét. Quan niệm về bi
kịch Trung cổ phương Tây gắn với truyền thuyết về sự phạm tội của ông bà
Adam và Eâva; gắn với truyền thuyết giáng thế và chịu khổ hình trên thánh giá
của chúa Jesus. Các hình ảnh được biểu hiện đầy rẫy trong những tác phẩm
nghệ thuật và những tranh tượng trong những nhà thờ Cơ đốc giáo.
Xuất phát từ những quan niệm tôn giáo ấy, bi kịch Trung cổ gắn với ý niệm gọi
là tuẫn giáo, khổ hình (martyre), nghĩa là sự tự dày vò, tự nguyện sống khổ cực,
nhẫn nhục để chuộc lại tội tổ tông đã gây ra cho con cháu. Người Trung cổ
quan niệm “ Cuộc đời là ngọn nến leo lét trước cơn gió mạnh “, là “con thuyền
mong manh trước cơn sóng dữ”, “Đời là bể khổ”.Chỉ có sống chịu đựng và cầu
xin Chúa ban phước mới mong được lên thiên đàng. Chính vì thế, hình tượng
con người trong nghệ thuật Trung cổ hiện ra với dáng lom khom, mặt choắt, mũi
khoằm, ở hai tư thế: nhìn xuống hoặc ngước lên. Nhìn xuống để sám hối tội lỗi;
ngước lên là để cầu xin Chúa rủ lòng thương.
Như vậy, bi kịch Trung cổ phương Tây không mỹ hóa vẻ đẹp con người, mà chỉ
mỹ hóa thảm cảnh của con người. Nó ca ngợi sự quằn quại đau thương của đời
người bằng thứ triết lí khắc kỉ giả dối. Nó quan niệm bi kịch theo tư tưởng tôn
giáo.
3.4 - Bi kịch thời Phục hưng


Bi kịch Phục hưng gắn với tên tuổi của Sếchxpia và các tác phẩm nổi
tiếng: Hamlet, Othello, Romeo và Juliet, Macbeth, Vua Lia, v.v..
So với Trung cổ, nghệ thuật bi kịch thời Phục Hưng là một bước tiến quan
trọng, vì nó đặt ra những vấn đề nhân sinh trực tiếp. Khi giai cấp tư sản ra đời,
nó làm cho cá nhân con người ý thức sâu sắc về mình; cá nhân lao đầu về phía
trước, tìm niềm vui và ham muốn trần tục. Mâu thuẫn trong bi kịch thời Phục
hưng là mâu thuẫn trong bước quá độ chuyển từ phong kiến sang tư bản. Bước
quá độ đó không mang theo sự tiến bộ tuyệt đối. Nó làm cho nhiều mặt của xã
hội được phát triển, nhưng cũng hủy hoại nhiều giá trị đạo đức và giá trị tinh

thần của thế giới cũ.
Bi kịch Phục Hưng có tính lí tưởng rõ rệt. Nó xây dựng được những mâu thuẫn
điển hình giữa một bên là những tính cách khổng lồ với một bên là hoàn cảnh
khắc nghiệt, sẵn sàng đè bẹp tính cách khổng lồ đó.
Bi kịch Phục hưng còn phát hiện và miêu tả những cơn lốc dục vọng, ham muốn
quá độ và quá trình trở thành nạn nhân của chính dục vọng đó.
Bi kịch P.H đã phản ánh được những trở ngại khách quan như một lực lượng
tàn ác không sao khắc phục nổi (bức tượng Người khổng lồ bị trói của
Michellangelo) hoặc đi sâu vào mâu thuẫn nội tâm (kịch Othello của
Shakespeare).
BKPH thiên về ý nghĩa triết luận của cuộc đời, phát hiện ra tính phổ biến của
các mâu thuẫn (kịch Hamlet của SP).
Tóm lại, bi kịch Phục Hưng đã phản ánh được những mâu thuẫn sâu sắc giữa lí
tưởng nhân văn, tự do, giải phóng với một thực tại là: con người lại đang rơi
vào những xiềng xích mới của “ lối trả tiền mặt lạnh lùng “ phi nhân tính.
3.5 - Nghệ thuật bi kịch cổ điển thế kỉ 17

Mâu thuẫn cơ bản của thế kỉ 17 Pháp là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản đang
lên và giai cấp phong kiến lỗi thời vẫn còn sức sống dai dẳng nên họ buộc phải
hòa hoãn, tạm thời bắt tay nhau.
Nhân vật bi kịch là người bị rơi vào hoàn cảnh trớ trêu. Một mặt, anh ta muốn đi
theo lí tưởng nhưng mắc kẹt giữa nhà vua và nhà tư sản, không biết nên dâng
hiến trọn đời cho ai. Đó là thứ “ bi kịch ngập ngừng “. Đáng lẽ phải miêu tả mâu
thuẫn ngấm ngầm giữa hai đối thủ lớn, nhà văn lại đi miêu tả mâu thuẫn giữa
nghĩa vụ và dục vọng cá nhân (vở Le Cid của Corneill).
Do vậy, bi kịch cổ điển Pháp còn nhiều nhược điểm về giá trị nhận thức xã hội,
nhưng cũng có đóng góp quan trọng về nghệ thuật xây dựng tính cách, tu từ lời
thoại và kết cấu vở kịch. Kịch của Corneill được coi là “ trường học của những
tâm hồn cao thượng “, còn Racine là tài năng khám phá những uẩn khúc trong
lòng giai cấp quí tộc phong kiến đang tàn, phân tích sự giằng xé bi đát của dục



vng con ngi, s bt lc ca h trc nh mnh , gõy cho khỏn gi cm
xỳc va thng va s .
3.6 - Ngh thut bi kch ca th k nh Sỏng (th k 18)

Hng vo nhng vn c bn ca i sng, m hc hin thc thi Khai
sỏng ó to nhng tin cho bi kch, t nhiu thnh tu mi so vi bi kch C
in
Nu bi kch C in, mi bin c gõy ra bt hnh cho con ngi thng c
cho l xut phỏt t nhng cỏi khung nh sn ca lớ tng hũa hoón giai cp, thỡ
bi kch thi Khai sỏng, mi bin c gõy ra tn thng cho con gni li c
ỏnh giỏ xut phỏt t nhng lớ tng ca chớnh quỏ trỡnh tin b khỏch quan
ca hin thc.
Nu bi kch C in, tớnh cỏch khụngcúquan h bin chng vi hon cnh thỡ
ỷbi kch Khai sỏng cú s tỏc ụùng tớch cc ln nhau gia tớnh cỏch v hon
cnh, trong ú vai trũ ch o thuc v tớnh cỏch. Nu bi kch C in cú tớnh
mc thc lnh lựng ca tớnh cỏch, thỡ bi kch Khai sỏng li trn ngp s nng
nhit l lựng ca tớnh cỏch cỏc nhõn vt, s nng nhit ny thm vo tt c cỏc
mt ca tớnh cỏch: ú l s nng nhit ca khỏt khao, ca nhng am mờ, cm
gin, kiờu hónh, au n, hy vng v tuyt vng, ca tỡnh yờu v tui tr.
V bi kch Aõm mu v ỏi tỡnh ca Shiller l mt v nh th. ỷ tỏc phm ny,
cun cun nhng tỡnh cm bóo tỏp, nhng t tng v hin thc va phúng
khoỏng ca th k, trn ngp trong tng chi tit v lp thnh mt ng dõy
xuyờn sut tỏc phm. Nú to thnh th ỏnh sỏng trong tro chiu ri trờn nhng
no ng mi cũn rt gp ghnh. ú l th ỏnh sỏng va p nỏt nhng
xing xớch, nhng ngc tự trúi buc, giam hóm con ngi thi phong kin v soi
sỏng nhng bc i mi cho con ngi. ỷ õy, cỏc nhõn vt u c bc l
n tn cựng ca tớnh cỏch v tõm trng. Nhng tỡnh hung cng thng, quyt
lit, nhng i thoi chỏt chỳa, o t, rc la quyn vi nhng li tõm tỡnh ngt

ngo, cay ng, m ui m vn trớ tu ó nõng ý ngha ca v Aõm mu v
ỏi tỡnh lờn ngang tm thi i. ỷ õy, cỏi cht ca Louise v Fecdinant lm
au nhúi mói tõm hn ca nhng con ngi cú lng tri. Hỡnh tng v cỏi cht
trong v bi kch vỡ th ó vt qua tớnh hn hp ca thi gian cựng hnh
ng, lờn ting ũi t do chõn chớnh cho con ngi.
3.7 - Nhng khỏi quỏt chung v ngh thut bi kch hin i

3.7.1 - Bi kch thi t bn, xột v tng th, cú th núi l nhng bi kch da trờn
trit lớ ngm ngựi. Bi kch hin i phng Tõy li da trờn trit lớ bi ỏt. Bi kch
hin i ca nn vn hc cỏch mng da trờn mt c s hon ton mi - bi kch
lcquan.
Trit lớ bi ỏt ca ngh thut phng Tõy hin i da trờn quan nim v s
tha hip au thng khụng trỏnh khi ca con ngi vi thc ti nghit ngó v
bo tn. Chớnh iu ny khụng cho phộp ngh thut ca nú tn ti nhõn vt anh
hựng. Vỡ th, ngh thut y ch cú th dng lờn nhng con ngi b tha húa mt
cỏch ti t. Cú th rỳt ra my kiu nhõn vt tha húa ca bi kch hin i:


×