Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Phân tích thực trạng về đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại tổng công ty may việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.27 KB, 93 trang )

Phân tích thực trạng về đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả SXKD
tại tổng công ty may Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Với xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh
nghiệp Việt Nam đứng trước một thử thách rất lớn phải vượt qua.
Trước bối cảnh đó để có thể duy trì được sự phát triển bền vững với
hiệu quả kinh tế cao, các nhà quản lý cần trang bị cho mình những
kiến thức về phân tích hoạt động kinh doanh nhằm biết cách đánh
giá kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh, biết phân tích có hệ
thống các nhân tố tác động thuận lợi và không thuận lợi đến hoạt
động kinh doanh từ đó đề xuất các giải pháp phát triển các nhân tố
tích cực, hạn chế và loại bỏ các nhân tố ảnh hưởng xấu, nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp
mình.
Trong thời gian thực tập tại Tổng công ty Dệt May Hà Nội bản
thân sinh viên đã nghiên cứu tìm hiểu một số tình hình thực tế sản
xuất kinh doanh tại Tổng công ty, qua đây cũng phần nào cho thấy
bức tranh chung nhất, khái quát nhất về tình hình hoạt động sản xuất
của các doanh nghiệp nói chung và Tổng công ty Dệt May Hà Nội
nói riêng trong một số năm gần đây. Chính vì vậy em xin được đi
sâu vào nghiên cứu đề tài: “Phân tích thực trạng và đề xuất biện
pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Tổng Công ty
Dệt may Hà Nội” làm đồ án tốt nghiệp của em. Đồ án tốt nghiệp
của em gồm 03 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về phân tích hiệu quả sản xuất kinh
doanh
Chương II:
Phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh Tổng Công ty Dệt May Hà Nội



Chương III:
Đề xuất biên pháp nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh tại Tổng Công ty Dệt May Hà Nội
Thông qua đồ án tốt nghiệp của mình em tập trung làm rõ bản
chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như tầm quan trọng của
việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trong các doanh
nghiệp, đồng thời hy vọng với những phân tích và đánh giá của
mình để đóng góp một tiếng nói chung, nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty Dệt May Hà Nội.
Để hoàn thành được đồ án tốt nghiệp này, em nhận được sự giúp
đỡ của cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty và sự nhận xét
bổ sung nhiệt tình của các thầy, cô giáo trong Khoa Kinh tế và
Quản lý - Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội và đặc biệt sự tận
tình hướng dẫn chỉ bảo của cô Trịnh Thu Thuỷ giảng viên trong
Khoa Kinh tế và Quản lý.
Do điều kiện, thời gian tìm hiểu tình hình thực tế và trình độ
bản thân còn hạn chế nên đồ án tốt nghiệp của em không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
các thầy cô giáo để bản đồ án tốt nghiệp này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, Ngày

tháng

năm 2007

Sinh viên

Khương Danh Lam



CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ
SẢN XUẤT KINH DOANH
1.1 Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả là tiêu chuẩn chủ yếu đánh giá mọi hoạt động kinh tế xã
hội. Hiệu quả là phạm trù có vai trò đặc biệt và có ý nghĩa to lớn
trong quản lý kinh tế cũng như trong khoa học kinh tế. Hiệu quả là
chỉ tiêu kinh tế xã hội tổng hợp để lựa chọn các phương án hoặc các
quyết định trong quá trình hoạt động sản xuất thực tiễn của con
người ở mọi lĩnh vực và tại các thời điểm khác nhau. Chỉ tiêu hiệu
quả là tỷ lệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu của hoạt động đề ra
so với chi phí đã bỏ vào để có kết quả về số lượng, chất lượng và
thời gian.
Công thức đánh giá hiệu quả chung:
Hiệu quả sản
xuất kinh doanh

=

Kết quả đầu ra

(I.1)

Yếu tố đầu vào

Kết quả đầu ra được đo bằng các chỉ tiêu như: Giá trị tổng sản
lượng, tổng doanh thu, lợi nhuận thuần, lợi tức gộp. Còn các yếu tố
đầu vào bao gồm: Tư liệu lao động, đối tượng lao động, con người,
vốn chủ sở hữu, vốn vay. Công thức này phản ánh sức sản xuất của

các chỉ tiêu đầu vào được tính cho tổng số và cho phần riêng gia
tăng.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh lại có thể được tính bằng cách
so sánh nghịch đảo:
Hiệu quả sản
xuất kinh doanh

=

Yếu tố đầu vào
Kết quả đầu ra

(I.2)


Công thức trên phản ánh suất hao phí của các chỉ tiêu đầu vào,
nghĩa là để có được một đơn vị kết quả đầu ra thì hao phí hết bao
nhiêu đơn vị chi phí ở đầu vào.
Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế,
là nơi kết hợp các yếu tố cần thiết để sản xuất và bán các sản phẩm
dịch vụ tạo ra với mục đích thu lợi nhuận. Hoạt động của doanh
nghiệp thể hiện hai chức năng cơ bản là thương mại và cung ứng
sản xuất được gọi chung là sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều có mục
tiêu là tối đa hoá lợi nhuận. Vấn đề xác định hiệu quả sản xuất kinh
doanh được đề cập nhiều ở việc xác định các loại mức sinh lợi
trong phân tích tài chính. Mức sinh lợi là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
tổng hợp về hoạt động của doanh nghiệp. Nó được xác định bằng
chỉ tiêu tương đối khi so sánh giá trị kết quả thu được với giá trị của
các nguồn lực đã tiêu hao để tạo ra kết quả. Hiệu quả hoạt động của

mỗi doanh nghiệp được đề cập đến trên nhiều khía cạnh khác nhau
nhưng hiệu quả tài chính được thể hiện qua các chỉ tiêu mức sinh lợi
và luôn được xem là thước đo chính. Từ những khái niệm ở trên, có
thể hiểu hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản
ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị máy móc,
nguyên nhiên liệu và nguồn vốn) để đạt được mục tiêu mà doanh
nghiệp đã đề ra.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là chênh lệch giữa kết quả
mang lại và những chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nó phản
ánh trình độ tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiệu quả là một thước đo ngày càng quan trọng để đánh giá sự tăng
trưởng kinh tế của mỗi doanh nghiệp nói riêng cũng như của toàn
bộ nền kinh tế của từng khu vực, quốc gia nói chung. Hiệu quả sản
xuất kinh doanh càng cao, càng có điều kiện mở rộng và phát triển


sản xuất đầu tư tài sản cố định, nâng cao mức sống của công nhân
viên, thực hiện tốt nghĩa vụ với nhà nước.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp phải
được xem xét một cách toàn diện cả về không gian và thời gian
trong mối quan hệ với hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Hiệu quả sản xuất kinh doanh giữ vai trò quan trọng đối với sự
phát triển của mỗi doanh nghiệp, là động lực thúc đẩy, kích thích
người lao động làm việc với hiệu suất cao hơn, góp phần từng bước
cải thiện nền kinh tế quốc dân trong mỗi quốc gia.
1.2 Phân loại hiệu quả sản xuất kinh doanh
Căn cứ vào nội dung và tính chất của kết quả cũng như đáp
ứng nhu cầu đa dạng của mục tiêu người ta đưa ra hiệu quả sản xuất
kinh doanh thành hai loại hiệu quả kinh tế và hiệu quả khác.
1.2.1 Hiệu quả kinh tế

Hiệu quả kinh tế là mối quan hệ giữa kết quả sản xuất và kinh
tế đạt được so với chi phí bỏ ra trong việc sử dụng các nguồn lực,
tức là hiệu quả kinh tế là tác dụng của lao động xã hội đạt được
trong quá trình sản xuất và kinh doanh cũng như quá trình tái tạo
sản xuất xã hội trong việc tạo ra của cải vật chất và các dịch vụ
khác, gồm các hiệu quả sau:
* Hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh chính và
phụ là khoản chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm và cung
cấp dịch vụ và chi phí cho việc sản xuất kinh doanh khối lượng sản
phẩm và cung cấp dịch vụ đó.
* Hiệu quả do các hoạt động khác mang lại là lợi nhuận thu
được do kết quả của các hoạt động kinh tế khác.
1.2.2 Hiệu quả xã hội


Hiệu quả đạt được trong sản xuất kinh doanh biểu thị qua việc
đóng góp của doanh nghiệp đối với nền kinh tế của đất nước, dưới
dạng tổng quát là mức thực hiện các nghĩa vụ với nhà nước. Khi
doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả đạt được
lợi nhuận có đóng góp cho nền kinh tế, xã hội trên những khía cạnh:
* Tăng sản phẩm xã hội.
* Nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ giá thành, góp phần ổn
định tăng trưởng nền kinh tế.
* Tạo việc làm cho nhiều lao động.
* Tăng nguồn thu cho ngân sách.
1.3 Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh
doanh ở doanh nghiệp
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù kinh
tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp nhằm
đạt được kết quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh với

chi phí thấp nhất.
Thông thường để đánh giá tình hình hiệu quả sản xuất kinh
doanh của một doanh nghiệp người ta thường hay quan tâm tới các
số liệu ở các báo cáo tài chính. Tuy nhiên để có thể đưa ra được một
cách nhìn khái quát phù hợp về mọi hoạt động của doanh nghiệp,
các nhà quản trị kinh tế không chỉ quan tâm tới các số liệu trong báo
cáo tài chính đơn thuần mà còn quan tâm tới một lượng khá lớn các
chỉ số tài chính để giải thích cho các mối quan hệ tài chính.
1.3.1 Các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp
Để đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp cần phải xây dựng hệ thống các chỉ
tiêu phù hợp bao trùm mọi chỉ tiêu khác. Các chỉ tiêu đó phải phản
ánh được sức sản xuất, xuất hao phí cũng như sức sinh lợi của từng


yếu tố, từng loại vốn và phải thống nhất với công thức đánh giá hiệu
quả:

Hiệu quả sản
xuất kinh doanh

=

Kết quả đầu ra
(K)

(I.3)

Giá trị đầu vào
(C)


Kết quả đầu ra được đo bằng các chỉ tiêu như: giá trị tổng sản
lượng, doanh thu, lợi nhuận, các khoản nộp ngân sách, còn chi phí
đầu vào bao gồm tư liệu lao động, lao động, đối tượng lao động,
vốn cố định, vốn lưu động.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh còn được tính theo công thức
sau:
Hiệu quả sản
xuất kinh doanh

=

Giá trị đầu vào
(C)

(I.4)

Kết quả đầu ra
(K)

Công thức (I.3) phản ánh sức sản xuất của các chỉ tiêu đầu
vào. Công thức (I.4) phản ánh hao phí của chỉ tiêu đầu vào, nghĩa là
để có một đơn vị kết quả đầu ra thì hao phí bao nhiêu đơn vị chi phí.
1.3.2 Các chỉ tiêu hiệu quả của các yếu tố thành phần
1.3.2.1 Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động (HLĐ)
Nhóm chỉ tiêu này gồm hiệu suất sử dụng lao động và tỷ suất
lợi nhuận lao động.
* Hiệu suất sử dụng lao động (H N) được tính bằng công thức
(I.5). Chỉ tiêu này phản ánh một lao động trong kỳ tạo ta được



bao nhiêu đồng doanh thu. Về thực chất đây chính là chỉ tiêu
năng suất lao động (W).

Hn

Tổng doanh thu
trong kỳ

=

Tổng số lao động
trong kỳ

(I.5
)

= W

* Tỷ suất lợi nhuận lao động RN được tính bằng công thức
(I.6):
Lợi nhuận trong kỳ
RN

=

(I.6)

Tổng số lao động
trong kỳ


Tỷ suất lợi nhuận lao động phản ánh một lao động trong kỳ
tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Hai chỉ tiêu có mối quan hệ với nhau theo công thức dưới đây:
R
N

=

L

=

N

L
DT

x

DT
N

= Rdt

x

HN

(I.7)


Trong đó: L: Lợi nhuận trong kỳ.
DT : Tổng doanh thu trong kỳ.
N: Tổng số lao động trong kỳ.
Rdt = L/Dt : Là tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (doanh
lợi) biểu thị một đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lợi nhuận.
1.3.2.2 Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh
* Hiệu suất sử dụng vốn (Hv) là tỷ số giữa doanh thu trong kỳ
(DT) và tổng số vốn phục vụ sản xuất kinh doanh trong kỳ:

Hv

=

Tổng doanh thu trong kỳ
Tổng vốn sản xuất kinh doanh

(I.8)


trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn bỏ ra để sản xuất kinh
doanh sẽ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu, nghĩa là biểu thị khả
năng tạo ra kết quả sản xuất kinh doanh của một đồng vốn. Hiệu
quả sử dụng vốn càng cao hiệu quả kinh tế càng lớn.
Vốn sản xuất kinh doanh gồm có vốn cố định (V cđ) và vốn lưu
động (Vlđ) nên ta có thêm các chỉ tiêu sau:

HVCĐ


HVLĐ

=

=

Tổng doanh thu trong
kỳ

(I.9)

Tổng vốn cố định
trong kỳ
Tổng doanh thu trong
kỳ

(I.10)

Tổng vốn lưu động
trong kỳ

Khi phân tích, đánh giá hiệu suất sử dụng vốn lưu động trong
quá trình sản xuất kinh doanh thì việc phân tích, đánh giá tốc độ
luân chuyển vốn lưu động cũng rất quan trọng. Vốn lưu động vận
động không ngừng và thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình
tái sản xuất (dự trữ - sản xuất - tiêu thụ). Đẩy nhanh tốc độ luân
chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho
doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Để đánh giá tốc độ luân chuyển của vốn lưu động, người ta
thường dùng các chỉ tiêu sau:

+ Số vòng quay của vốn lưu động
Vlđ

=

Tổng số doanh thu
thuần
Vốn lưu động bình

(I.11)


quân
Trong đó: Vlđ là số vòng quay vốn lưu động, cho biết vốn lưu
động quay được (luân chuyển) mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng
quay nhiều chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cao và ngược lại. Chỉ
tiêu này còn được gọi theo một tên gọi khác là Hệ số luân chuyển.
+ Thời gian của một vòng luân chuyển (TLC)
Thời gian của kỳ phân tích
TLC

=

Số vòng quay của vốn lưu động
trong kỳ

(I.12
)

Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay

được một vòng. Thời gian của một vòng quay vốn lưu động càng
ngắn thì thể hiện tốc độ luân chuyển càng lớn, đồng nghĩa với hiệu
quả cao.
Ngoài ra khi đánh giá hay phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu
động người ta còn dùng chỉ tiêu Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động
(Hđn)

Hđn

=

Vốn lưu động bình
quân

(I.13)

Tổng số doanh thu
thuần

Chỉ tiêu này cho ta biết được rằng để có được một đồng doanh
thu doanh nghiệp cần có bao nhiêu đồng vốn lưu động luân chuyển.
Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao, số vốn
tiết kiệm được càng nhiều.
* Tỷ suất lợi nhuận vốn (Rv)
Rv

=

Tổng lợi nhuận
trong kỳ

Tổng vốn trong kỳ

(I.14)


Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn kinh doanh trong kỳ sinh
ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Trong nhóm này ta có quan hệ
Rv

=

L
V

=

L
DT

x

DT
V

= Rdt

x

Hv


(I.15
)

1.3.2.3 Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng chi phí
Hiệu quả sử dụng chi phí (HC)

HC

=

RC

=

Tổng doanh thu
trong kỳ

(I.16)

Tổng chi phí trong
kỳ
Tổng Lợi nhuận
trong kỳ

(I.17)

Tổng chi phí trong
kỳ

Chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi phí sản xuất kinh doanh

bỏ ra trong kỳ thu được bao nhiêu đồng doanh thu - lợi nhuận.
Trong nhóm này ta có mối quan hệ:
Rv

=

L
C

=

L
DT

x

DT
C

= Rdt

x HC

(I.18)

Như vậy, tỷ suất lợi nhuận chi phí bằng tích số của tỷ số lợi
nhuận doanh thu và hiệu suất sử dụng chi phí.
Sơ đồ dưới đây cho ta thấy để phản ánh hiệu quả của một chi
phí nào đó (lao động, vốn hoặc giá thành) có hai chỉ tiêu hiệu quả
tương ứng đó là chỉ tiêu về lợi nhuận và chỉ tiêu về năng suất. Từ hệ

thống các chỉ tiêu ta có thể nhận thấy chúng có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau.


Ta hãy xem xét mối quan hệ giữa các chỉ tiêu này
Sơ đồ I.1: Sơ đồ biểu diễn các chỉ tiêu hiệu quả của doanh nghiệp
Kết quả

Chi phí

Lợi nhuận

Doanh
thu

L

Rn

Hn

V

Rv

Hv

Z

Rz (Rc)


Hz (Hc)

a) Mối quan hệ giữa hiệu quả lao động và hiệu quả vốn
Mối quan hệ giữa hai nhóm chỉ tiêu này thể hiện mối quan hệ
nhất định giữa lao động sống và lao động vật hoá. Lao động sống
trong quá trình phát triển sản xuất cùng với sự ứng dụng của tiến bộ
khoa học công nghệ dần được thay thế bằng lao động vật hoá. Cùng
với quá trình này, toàn bộ chi phí sản xuất cho một đơn vị sản phẩm
ngày càng giảm. Đây là một nhân tố quan trọng trong việc nâng cao
năng suất lao động và thể hiện rõ nhất trong việc nâng cao chỉ tiêu
trang bị vốn cho lao động.
Như vậy, muốn giảm chi phí về lao động, kể cả lao động sống
và lao động vật hoá cho một đơn vị sản phẩm cần phải thực hiện
được một khối lượng sản xuất lớn bằng số vốn và tài sản vật chất
được trang bị, tức là phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Từ đó suy
ra các chỉ tiêu hiệu quả của lao động và các chỉ tiêu hiệu quả vốn có
mối quan hệ mật thiết:
Vậy HL R
v
= HV x
VL

L
= N
L

=

LN

V

x

V
L

(I.19)
= RN

x

VL


Ta thấy rằng ở đây trang bị vốn cho lao động VL và năng suất
vốn là nguyên nhân tổng hợp chủ yếu của năng suất lao động. Lợi
nhuận vốn RV là nguồn gốc của lợi nhuận lao động Rn.
Ngoài ra, chỉ tiêu trang bị vốn cho lao động là chỉ tiêu liên kết
giữa hiệu quả lao động và hiệu quả vốn.
Việc khảo sát mối quan hệ giữa hai loại chỉ tiêu hiệu quả lao
động và hiệu quả vốn như trên là một căn cứ để đánh giá sự tăng
trưởng của hiệu quả, giúp cho các nhà quản lý có thể đưa ra các
quyết định trong điều hành sản xuất kinh doanh.
b) Quan hệ giữa hiệu quả vốn và hiệu quả giá thành
Chỉ tiêu hiệu quả vốn và hiệu quả chi phí khác nhau ở chỗ là
với hiệu quả vốn đó là mức vốn, còn đối với hiệu quả chi phí đó là
tiêu hao về lao động vật hoá và lao động sống. Quan hệ giữa vốn và
chi phí thường xuyên trong giá thành được thể hiện đặc trưng qua
tốc độ luân chuyển vốn:

Z
(I.20)
TCV =
V
Nâng cao chỉ tiêu này là một nhân tố quan trọng để nâng cao
hiệu quả bởi nó có nội dung kinh tế là sự giảm sử dụng vốn đối với
một đơn vị sản phẩm. Tốc độ chu chuyển vốn cố định lưu động có
khác nhau. Tốc độ chu chuyển vốn lưu động cho phép tiết kiệm vốn
và có thể sử dụng vốn đó cho việc đầu tư tài sản cố định. Còn tốc độ
chu chuyển vốn cố định có thể tác động làm giảm nhu cầu vốn đầu
tư và trong điều kiện tăng khối lượng sản xuất sẽ góp phần hạ chi
phí cho một đơn vị sản phẩm.
Có thể nói rằng, hiệu quả vốn càng lớn khi vốn được sử dụng
càng nhanh và kết quả sản xuất càng lớn so với tiêu hao về lao động
vật hoá và lao động sống trong giá thành sản phẩm.
Từ công thức:


Tương
L
(I.21)
LN
Z
tự ta có Rv = N =
x
= RZ x TCV
HV =
L
Z
V

HZ
x
TCV
Chỉ tiêu tốc độ chu chuyển vốn có vai trò liên kết giữa các chỉ
tiêu hiệu quả vốn và hiệu quả giá thành.
Như vậy, giữa các nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn, hiệu
quả sử dụng lao động và hiệu quả sử dụng chi phí trong doanh
nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi chỉ tiêu hiệu quả trong
nhóm này có thể được xem xét trong tác động qua lại với nhiều chỉ
tiêu hiệu quả khác. Tổng hợp các mối quan hệ đó cho ta sơ đồ (I.2)
dưới đây:
Sơ đồ I.2: Sơ đồ liên kết giữa các chỉ tiêu hiệu quả
Rn ----------- Rdt ------------ Hn

Hiệu

quả

Hiệu

quả

Hiệu

quả

lao động
|

|


VL

VL

|

|

RV ----------- Rdt ------------ HV
vốn
|

|

TCV

TCV

|

|

RZ ----------- Rdt ------------ HZ
chi phí
Lợi nhuận

Năng suất



1.4 Phân biệt chỉ tiêu hiệu quả và chỉ tiêu kết quả, chỉ tiêu thời
đoạn và chỉ tiêu thời điểm
1.4.1 Chỉ tiêu hiệu quả và chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh
* Chỉ tiêu hiệu quả phản ánh trình độ quản lý sản xuất kinh
doanh, chất lượng của công tác kinh doanh trong thời kỳ đang xét,
là chỉ tiêu so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí mà doanh
nghiệp phải bỏ ra để đạt được kết quả đó. Các chỉ tiêu hiệu quả
chính bao gồm hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu, lao động, hiệu quả
sử dụng vốn, tài sản, hiệu quả sử dụng chi phí.
* Chỉ tiêu kết quả phản ánh về mặt số lượng công việc đã thực
hiện trong một thời kỳ của doanh nghiệp, bao gồm các chỉ tiêu sản
lượng, doanh thu, lợi nhuận.
1.4.2 Chỉ tiêu thời đoạn và chỉ tiêu thời điểm
Chỉ tiêu thời đoạn phản ánh kết quả đạt được sau một thời
đoạn sản xuất kinh doanh. Số lượng của chỉ tiêu thời đoạn được
phép cộng dồn với nhau. Các chỉ tiêu hiệu quả, kết quả cuối cùng
của doanh nghiệp đều là các chỉ tiêu thời đoạn.
Chỉ tiêu thời điểm phản ánh số lượng các yếu tố đầu vào tại
một thời điểm nào đó. Số lượng của các chỉ tiêu này không được
phép cộng dồn. Khi so sánh với chỉ tiêu thời đoạn với các chỉ tiêu
thời điểm, tất cả các chỉ tiêu thời điểm phải lấy số bình quân để so
sánh.
Khi tính tỷ số giữa hai đại lượng, một đại lượng mang tính
thời điểm, một đại lượng mang tính thời đoạn, đại lượng mang tính
thời điểm phải lấy trung bình. Việc lấy trung bình đối với các chỉ
tiêu tập hợp theo năm đòi hỏi phải có số liệu đầu năm và cuối năm.
Như vậy muốn biết xu thế biến động của các tỷ số tài chính cần có
số liệu của 3 năm liên tiếp. Nếu chỉ có thể thu thập được số liệu của
2 năm liên tiếp, có thể tính các tỷ số tài chính theo kiểu sau: các chỉ
tiêu thời điểm không lấy bình quân mà lấy theo số cuối kỳ. Về



nguyên lý, cách tính như vậy không chính xác, nhưng nó là một
thực hành được chấp nhận trong tài chính.
1.5 Nội dung phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh
Khi phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh
nghiệp có thể phân tích theo nhiều phương cách khác nhau phù hợp
với các đặc điểm của doanh nghiệp đó nhưng luôn phải tiến hành
một số công việc chủ yếu dưới đây:
* Phân tích hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu.
* Phân tích hiệu quả sử dụng lao động.
* Phân tích hiệu quả sử dụng chi phí.
* Phân tích hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
* Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản.
* Phân tích hiệu quả của các hoạt động tài chính.
Trong quá trình phân tích, ngoài việc tính toán và so sánh các
chỉ tiêu hiệu quả còn cần thiết phải xác định các nhân tố ảnh hưởng
và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đó tới hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, cũng như các nguyên nhân ảnh hưởng đến
các chỉ tiêu hiệu quả (kiểm soát được và không kiểm soát được chủ quan và khách quan).
1.6 Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp
Môi trường tổng quát mà doanh nghiệp gặp phải có thể chia thành
3 mức độ: Môi trường vĩ mô, môi trường ngành (môi trường tác
nghiệp) và hoàn cảnh nội bộ trong doanh nghiệp. Môi trường vĩ mô
ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh doanh, nhưng không theo một
cách nhất định. Môi trường ngành gây ảnh hưởng tới mọi doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh đó. Hai môi trường này
thường được gọi chung là môi trường bên ngoài hay môi trường
nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Riêng hoàn cảnh nội bộ

trong doanh nghiệp hoàn toàn doanh nghiệp có thể điều chỉnh được.


* Môi trường vĩ mô bao gồm 5 nhóm yếu tố chính là: Yếu tố
kinh tế; Yếu tố chính phủ và chính trị; Yếu tố xã hội; Yếu tố tự
nhiên; Yếu tố công nghệ.
* Môi trường ngành bao gồm các yếu tố và lực lượng can thiệp
nằm bên ngoài tổ chức. Môi trường ngành định hình và tạo nên mối
tương quan kinh doanh của các tổ chức, ảnh hưởng tới sự thành
công của mỗi loại sản phẩm và dịch vụ của ngành. Các yếu tố chủ
yếu trong môi trường tác nghiệp của doanh nghiệp có ảnh hưởng
lớn tới hoạt động cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
* Hoàn cảnh nội bộ doanh nghiệp bao gồm các yếu tố nội tại của
doanh nghiệp mà trong quá trình sản xuất kinh doanh chính, doanh
nghiệp đã tạo ra chúng và có thể kiểm soát chúng. Bao gồm: nhân tố
lao động, trình độ tổ chức và quản lý doanh nghiệp, cơ sở vật chất,
công tác Marketing và tài chính và kế toán.
Các nhân tố trong nội bộ doanh nghiệp chính là những nhân tố
quan trọng nhất có ảnh hưởng quyết định tới hiệu quả của các hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây cũng là những
nhân tố mà doanh nghiệp có thể trực tiếp điều chỉnh được theo
hướng có lợi nhất cho mình.
1.7 Phương pháp phân tích
1.7.1 Thế nào là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu
quả
Muốn biết doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả phải
tiến hành so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp giữa thực tế và kế
hoạch; giữa năm sau với năm trước; giữa doanh nghiệp với bình
quân ngành; giữa doanh nghiệp với nền kinh tế chung.

* So sánh giữa thực tế và kế hoạch: Doanh nghiệp hoạt động
sản xuất kinh doanh có hiệu quả sẽ có các kết quả đạt được trong


thực tế cao hơn so với kế hoạch. Các con số, chỉ tiêu doanh nghiệp
đề ra trên kế hoạch là những căn cứ rất quan trọng để đánh giá tình
hình của doanh nghiệp. Các nhà hoạch định, phân tích dựa vào khả
năng thực có để đưa ra các kế hoạch nhằm thực hiện. Chính vì vậy,
việc thực tế vượt so với kế hoạch là một dấu hiệu rõ nét chứng tỏ
doanh nghiệp hoạt động hiệu quả.
* So sánh giữa năm sau với năm trước: Mục tiêu của mỗi
doanh nghiệp đều nhằm tới là mục tiêu lợi nhuận. Hơn nữa, doanh
nghiệp cũng mong muốn có thể tồn tại và phát triển hơn trong suốt
quá trình hoạt động của mình. Chính vì lẽ đó, những doanh nghiệp
hoạt động có hiệu quả bao giờ kết quả của năm sau cũng lớn hơn
năm trước.
* So sánh doanh nghiệp với mức bình quân của ngành: Mỗi
doanh nghiệp với quy mô khác nhau, mỗi ngành nghề lĩnh vực kinh
doanh khác nhau sẽ có những tiêu thức đánh giá khác nhau. Vì vậy
để đánh giá doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hay không phải so
sánh doanh nghiệp với mức bình quân chung của toàn ngành sản
xuất đó.
* So sánh doanh nghiệp với nền kinh tế chung: Các doanh
nghiệp hoạt động, ngoài mục đích tìm kiếm lợi nhuận cho các chủ
đầu tư, những người chủ doanh nghiệp, còn góp phần cải thiện
nhiều mục đích xã hội khác như tạo công ăn việc làm cho người lao
động, đóng góp các khoản thuế cho nhà nước nhưng khi xét đơn
thuần mục tiêu kinh tế thì để đánh giá doanh nghiệp có hoạt động
hiệu quả hay không người ta thường so sánh doanh nghiệp với nền
kinh tế chung, cụ thể là với lãi suất ngân hàng.

1.7.2
doanh

Các phương pháp phân tích hiệu quả sản xuất kinh

Để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
sau khi xác định chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh người ta


thường dùng các phương pháp phân tích, so sánh để đánh giá hiệu
quả, so sánh các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh kỳ phân tích với kỳ
trước hay với kế hoạch của doanh nghiệp; hoặc so sánh với các chỉ
tiêu của các doanh nghiệp khác trong ngành.
Sau khi đã có được những đánh giá chung về hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ta đi phân tích cụ thể từng yếu tố
đầu vào ảnh hưởng tới quan hệ sản xuất kinh doanh như lao động,
nguyên vật liệu, tài sản cố định để từ đó tìm ra được những biện
pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả trong doanh nghiệp.
Trong toàn bộ quá trình phân tích hiệu quả sản xuất kinh
doanh, cần đảm bảo thống nhất về nội dung kinh tế của các chỉ tiêu,
các phương pháp tính các chỉ tiêu cũng như thống nhất đơn vị tính
toán cả về khối lượng, thời gian, giá trị
1.7.2.1 Phương pháp so sánh
Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong phân tích để
xác định xu hướng, mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích.
*Mục tiêu so sánh: trong phân tích kinh doanh là xác định
mức biến động tuyệt đối hay tương đối cùng xu hướng biến động
của chỉ tiêu phân tích.
Mức độ biến động tuyệt đối được xác định trên cơ sở so sánh
trị số tuyệt đối của chỉ tiêu trong hai kỳ: kỳ phân tích C 1 và kỳ gốc

C0
± ÄC = C1 - C0
Trong đó: ± ÄClà mức chênh lệch tuyệt đối giữa kỳ phân tích và
kỳ gốc
C1 là số liệu kỳ phân tích (báo cáo)
C0 là số liệu kỳ gốc.


Mức độ biến động tương đối là kết quả so sánh giữa số thực tế
C1 với số gốc C0 đã được điều chỉnh theo một hệ số của chỉ tiêu có
liên quan theo hướng quy định quy mô của các chỉ tiêu phân tích.
Trong
C1 (I.22)
%
đó:
= C0
x 100%
ÄC
ÄC:
C0

mực chênh lệch tương đối giữa kỳ phân tích và kỳ gốc
C1 : Là số liệu kỳ phân tích (báo cáo)
C0 : Là số liệu kỳ gốc
1.7.2.2 Phương pháp thay thế liên hoàn (Phương pháp loại trừ)
Phương pháp thay thế liên hoàn là phương pháp xác định mức
độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến sự biến động của chỉ tiêu phân
tích qua việc thay thế lần lượt và liên tiếp các nhân tố để xác định trị
số của chỉ tiêu khi nhân tố thay đổi. Sau đó lấy kết quả trừ đi chỉ
tiêu khi chưa có biến đổi của nhân tố nghiên cứu sẽ xác định được

mức độ ảnh hưởng của nhân tố này.
* Trình tự thực hiện phương pháp thay thế liên hoàn:
- Lập mô hình toán học biểu hiện mối liên hệ giữa các chỉ tiêu
nghiên cứu và các nhân tố ảnh hưởng.
- Theo thứ tự sắp xếp các nhân tố (từ số lượng đến chất lượng)
ta đặt đối tượng phân tích trong điều kiện giả định khác. Sau đó lần
lượt thay thế các số liệu kế hoạch bằng số liệu thực tế để tính ra
mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến đối tượng phân tích.
- Mỗi nhân tố chỉ thay thế một lần, giữ nguyên số thực tế đã
thay thế ở các bước trước.
- Khi kiểm tra sự chính xác của các số liệu phân tích, áp dụng
công thức:
Σxi = sự biến động của toàn bộ đối tượng phân tích


Trong đó: xi : là mức độ ảnh hưởng của nhân tố i đến đối tượng
phân tích
Để xác định sự ảnh hưởng của từng nhân tố, ta có thể lượng
hoá các yếu tố dưới dạng hàm số toán học f (x,y,z) và thực hiện
tính toán theo công thức sau:
Ä Cx = f (x1,y0,z0) - f (x0,y0,z0)
Ä Cy = f (x1,y1,z0) - f (x1,y0,z0)
Ä Cz = f (x1,y1,z1) - f (x1,y1,z0)
Từ những công thức trên ta thay thế lần lượt để xác định mức
độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng như sau:
± Ä C = Ä Cx + Ä Cy + Ä Cz
*Ưu điểm của phương pháp: Đơn giản, dễ hiểu, dễ tính toán
hơn so với các phương pháp khác dùng để xác định nhân tố ảnh

hưởng.
*Nhược điểm: Các mối quan hệ của các yếu tố phải được giả
định là có quan hệ theo mô hình tích số trong khi thực tế các nhân tố
có thể có mối quan hệ theo nhiều dạng khác nhau. Hơn nữa, khi xác
định nhân tố nào đó ta phải giả định nhân tố khác không thay đổi
nhưng trong thực tế điều này hoàn toàn không xảy ra.
Việc sắp xếp trình tự các nhân tố từ số lượng đến chất lượng
trong nhiều trường hợp rất dễ dẫn đến sai lầm, gây thiếu chính xác.
1.7.3 Các số liệu sử dụng để phân tích hiệu quả sản xuất kinh
doanh
Để phân tích được một cách chính xác kết quả và xu hướng
của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khi phân
tích cần thu thập được ít nhất số liệu của 2 năm liên tiếp (thường sử
dụng số liệu của 3 năm liên tiếp) từ các báo cáo tài chính và các sổ
sách chứng từ có liên quan.


* Kết quả kinh doanh: Sản lượng, doanh thu, lợi nhuận, nộp
ngân sách. (bảng báo cáo kết quả kinh doanh và các bảng biểu có
liên quan)
* Các yếu tố đầu vào: Lao động, chi phí, tài sản, nguồn vốn
của doanh nghiệp. (bảng báo cáo tình hình lao động và sử dụng thời
gian lao động, bảng giá thành sản phẩm, bảng cân đối kế toán và các
bảng biểu kế toán chi tiết khác) .
1.8 Phương hướng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp
Doanh nghiệp để có thể tồn tại thì hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp tối thiểu cũng phải bù đắp được tất cả các
khoản chi phí bỏ ra. Muốn doanh nghiệp phát triển ngày càng đi lên
thì kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không

những phải bù đắp được chi phí mà còn phải dư thừa ra một khoản
để doanh nghiệp có thể tích luỹ cho tái đầu tư sản xuất mở rộng. Đạt
được như vậy chính là doanh nghiệp phải hoàn thành được mục tiêu
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Có một số phương
hướng chính để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp như sau:
1.8.1 Tăng kết quả đầu ra, giữ nguyên đầu vào
Như ta đã biết ở trên, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp chính là phần chênh lệch giữa những kết quả thu về với toàn
bộ chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong quá trình hoạt động
kinh doanh. Do đó phương cách đầu tiên để doanh nghiệp có thể
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là giữ nguyên các yếu tố đầu
vào đồng thời tìm biện pháp nâng cao, tăng kết quả đầu ra để thu về
phần chênh lệch nhiều hơn, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Tuy nhiên doanh nghiệp chỉ có thể áp dụng hướng nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh này khi doanh nghiệp đã có một vị thế
tốt trên thị trường. Khi đó doanh nghiệp mới có thể có những điều


chỉnh nhằm tăng kết quả đầu ra như tăng giá bán của các sản phẩm,
dịch vụ sản xuất và cung ứng cho thị trường mà vẫn có thể giữ
nguyên mức chi phí như trước đó. Trong trường hợp doanh nghiệp
chỉ thuộc mức trung bình trong ngành hoặc như trong một số ngành
sản xuất kinh doanh có mức độ cạnh tranh khốc liệt thì việc doanh
nghiệp tăng kết quả thu về trong khi vẫn giữ nguyên đầu vào gần
như là điều không thể thực hiện.
1.8.2 Giảm đầu vào, giữ nguyên đầu ra
Một hướng biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh khác cũng đang được khá nhiều các công ty, doanh nghiệp áp
dụng, đó là giảm các chi phí đầu vào, giữ nguyên đầu ra. Những

biện pháp như vậy có thể áp dụng ở hầu khắp trong mọi doanh
nghiệp tại mọi lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân. Nội dung chủ
yếu của hướng thực hiện là tiết kiệm các nguồn lực, áp dụng các dây
chuyền công nghệ mới nhằm tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, sức
lao động cũng như các chi phí khác có liên quan.
Giảm đầu vào trong khi giữ nguyên đầu ra không làm ảnh
hưởng tới vị trí của doanh nghiệp trên thị trường, góp phần nâng cao
hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Tuy nhiên trong thực tế,
hướng giải quyết này chỉ có thể dừng lại ở một mức tới hạn. Doanh
nghiệp không thể liên tiếp giảm các yếu tố đầu vào, giữ ổn định các
sản phẩm dịch vụ sản xuất ra mà không thay đổi về chất lượng. Hơn
nữa để có thể tiết kiệm được đầu vào doanh nghiệp cũng cần phải
đầu tư những khoản kinh phí, nguồn vốn không nhỏ vào công tác
nghiên cứu hay đầu tư vào trang thiết bị máy móc
1.8.3 Tăng đầu vào, đầu ra tăng với tốc độ nhanh hơn
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như ở Việt Nam ta hiện
nay, các doanh nghiệp đang cạnh tranh với nhau hết sức gay gắt và
quyết liệt không chỉ về giá cả mà cả về chất lượng, dịch vụ. Do vậy


để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh mỗi doanh nghiệp, tất
nhiên, vẫn có thể áp dụng hai hướng thực hiện như trên và mang lại
kết quả trong những trường hợp, tình huống cụ thể, nhưng có lẽ để
mang lại hiệu quả lâu dài thì các doanh nghiệp sẽ thực hiện một số
biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh như ở phần thứ ba
này. Để cạnh tranh có hiệu quả, doanh nghiệp thường áp dụng tổng
hợp các biện pháp: Hoàn thiện công tác tổ chức quản lý, công tác
Marketing, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm; giảm giá thành,
giảm giá bán, tăng lượng hàng hoá tiêu thụ (giảm lợi nhuận trên một
đơn vị sản phẩm hàng hoá nhưng nhờ lượng hàng tiêu thụ tăng cao

hơn nên tổng lợi nhuận tăng)…


CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
TỔNG CÔNG TY DỆT MAY HÀ NỘI
2.1 Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty
- Tên Tổng Công ty: Tổng Công ty Dệt – May Hà Nội
- Tên giao dịch quốc tế:
HANOSIMEX
- Trụ sở chính: Số 01 Mai Động, Phường Mai Động, Quận Hoàng
Mai – Hà Nội
- Điện thoại
: 04 - 8621023 - 8624619 - 8627438
- Fax
: 84-4-8622334
- Email
:
- Website
: http\www.hanosimex.com.vn
- Lôgô
Tổng Công ty Dệt may Hà Nội là Doanh nghiệp Nhà nước, thành
viên hạch toán độc lập của Tập đoàn Dệt may Việt Nam. Tổng Công
ty hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước, các quy định của
pháp luật và điều lệ tổ chức hoạt động của Tổng Công ty Dệt may Hà
Nội được Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Dệt may Việt Nam
phê chuẩn.
Bảng 2.1 Các mốc quan trọng trong quá trình phát triển của
Tổng Công ty
Mốc sự

kiện
7/4/1978

Sự kiện/ Tình hình

Ký kết hợp đồng xây dựng nhà máy Sợi giữa Tổng công ty
nhập khẩu thiết bị Việt Nam và hãng UNIOMATEX (CHLB
Đức)
2/1979
Công trình được khởi công xây dựng
21/11/198 Chính thức bàn giao công trình, với tên gọi xí nghiệp Sợi Hà


×