Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận môn quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.11 KB, 26 trang )

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
KHOA SAU ĐẠI HỌC
---*****---


TIỂU LUẬN MÔN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG

Tên đề tài:
ANH (CHỊ) HÃY NÊU NHỮNG THÁCH THỨC CỦA MÔI TRƯỜNG VIỆT
NAM VÀ THẾ GIỚI. CÁC BIỆN PHÁP QUẢN Lí NHÀ NƯỚC CHỦ YẾU
ĐỂ GIẢM THIỂU NHỮNG THÁCH THỨC ĐÓ.

Họ và tên : Bùi Thị Lan Hương
Lớp
: CH13D - Tổ 3

Hà Nội, tháng 4 năm 2010


Tiểu luận môn Phân tích chính sách

Chương I: THÁCH THỨC CỦA MÔI TRƯỜNG
TOÀN CẦU VÀ VIỆT NAM
I. Những thách thức của môi trường toàn cầu
Có rất nhiều định nghĩa về môi trường. Theo “Luật Bảo vệ Môi trường
của Việt Nam”, thì : “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất
nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến
đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên”.
Còn theo kinh tế học: “Môi trường là toàn bộ các vùng vật lý và sinh học,
các điều kiện vật chất - tự nhiên với tư cách là sản phẩm lâu dài của tạo hóa, có


trước con người, có tương tác lẫn nhau, và cùng tác động đến sự hình thành, sinh
tồn và phát triển của con người, cùng các hoạt động xã hội của họ. Về cơ cấu,
môi trường bao gồm sinh quyển (không khí, nước, đất đai, ánh sáng...) và hệ
sinh sống, mà giữa chúng có ảnh hưởng tương tác đến nhau, và cùng ảnh hưởng
đến cuộc sống của con người”...
Vậy nhưng, môi trường toàn cầu đang có chiều hướng ngày càng xấu đi
và có ảnh hưởng nhất định đến sự tồn vong của con người. Và con người đang
đứng trước những thách thức lớn về môi trường toàn cầu.
a) Ô nhiễm tầng khí quyển và hiệu ứng nhà kính
Khí thải công nghiệp, khí thải của các phương tiện giao thông có động cơ,
khí thoát ra từ các qúa trình sinh học đã là các nguồn chủ yếu gây ô nhiễm môi
trường không khí. Hàm lượng ngày càng tăng của các loại khí CO 2, CH4, ... là
loại khí thải do các ngành công nghiệp có sử dụng nhiên liệu hoá thạch thải ra
đã gây hiệu ứng nhà kính với hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả đó được thể hiện ở
hai dạng:
- Sự thay đổi khí hậu của quả đất dẫn đến sự mất cân bằng của hệ sinh thái
đã có ở đây.

Bùi Thị Lan Hương - CH13D

2


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
- Mực nước biển dâng cao. Theo dự báo, đến giữa thế kỉ 21 nhiệt độ
không khí bình quân trên trái đất sẽ tăng thêm từ 1,5 - 4,5 oC và mực nước biển
trên toàn cầu sẽ dâng cao thêm từ 0,25 - 1,4m.
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, hiện có tới 50% dân số thành thị trên
thế giới sống trong môi trường không khí có mức khí SO2 vượt quá tiêu chuẩn
và hơn 1 tỉ người đang sống trong môi trường có bụi than, bụi phấn vượt quá

tiêu chuẩn cho phép. Những năm gần đây, lượng khí thải ngày càng tăng lên
(trong vòng 20 năm tới sẽ tăng gấp 15 lần so với hiện nay). Sự ô nhiễm không
khí có thể trực tiếp giết chết hoặc hủy hoại sức khỏe các sinh vật sống, gây ra
“hiệu ứng nhà kính” và các trận mưa a xít không biên giới làm biến dạng và suy
thoái môi trường, hủy diệt hệ sinh thái.
Ðồng thời, Hiện tượng El-nino, La- nina làm gia tăng mưa bão và hạn hán
nghiêm trọng cho một số vùng trên thế giới.
b) Vấn đề mưa a-xít
Mưa a-xít là là do SO2 và NOx do các ngành công nghiệp thải ra không
khí, sau đó kết hợp với nước, tạo thành các a-xít sulfuric và nitric. A-xít theo
nước mưa, tuyết, sương, rơi trở lại mặt đất. Mưa a-xít có thể tạo ra ô nhiễm
xuyên biên giới, khi di chuyển cùng gió và mây từ vùng này sang vùng khác.
Các hậu quả tiềm tàng của mưa a-xít bao gồm phá huỷ cây trồng, rừng và làm
giảm sản lượng nông nghiệp, ô nhiễm các dòng sông, các hồ ảnh hưởng đến
nuôi trồng thuỷ sản và các sinh vật khác, phá huỷ các công trình kiến trúc.
c) Ô nhiễm biển và đại dương
Ước tính đến năm 2000, tổng lượng chất phóng xạ có trong đại dương sẽ
tăng nhiều lần so với năm 1970, trong đó các chất thoát biến và chất phóng xạ sẽ
tăng lên 100 lần, chất triti (hidro siêu nặng) sẽ tăng 1000 lần.
Lượng dầu do đắm tàu, rò rỉ trong vận chuyển và phun ra từ giếng khai
thác vào các đại dương từ 5 - 10 triệu tấn/năm, số dầu do các xí nghiệp công
nghiệp thải từ 3 - 5 triệu tấn.
Các hợp chất hữu cơ, kim loại nặng, các nguồn chất thải từ đất liền đã gây
ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng.
Bùi Thị Lan Hương - CH13D

3


Tiểu luận môn Phân tích chính sách

Biển Ðông cũng đang nằm trong tình trạng chung như các đại dương và
biển khác.
d) Thủng tầng ôzôn
Sự phá hoại tầng ôzon là nguy hại rất lớn đối với con người và thiên
nhiên.
Nguyên nhân của sự phá hoại tầng ôdôn là do sự sử dụng và thải chất
CFC, ngoài ra còn do các hợp chất oxy nitơ được tạo ra trong khí thải của máy
bay phản lực cỡ lớn và của các loại máy bay khi bay vào tầng cao làm phân giải
khí ôzon. Theo dự báo đến năm 2000 các máy bay cỡ lớn bay ở tầng bình lưu sẽ
tiêu hao hàng chục vạn tấn xăng dầu chúng sẽ thải ra một lượng lớn oxit nitơ, có
thể phá hoại 10% khí ôzon.
e) Ô nhiễm nguồn nước
Sự ô nhiễm các nguồn nước đang có nguy cơ gia tăng do thiếu biện pháp
xử lý cần thiết các loại rác thải sinh hoạt và công nghiệp; do các hóa chất dùng
trong nông nghiệp và các nguồn nhiễm xạ, nhiễm bẩn từ các nguyên vật liệu
khác dùng trong sản xuất; ô nhiễm do các loài thực vật nổi trên mặt nước sinh
sôi mạnh làm động vật biển chết hàng loạt do thiếu ô xy. Một vài loài thực vật
nổi còn có thể sinh ra độc tố nguy hiểm cho hệ động vật và cả con người; ô
nhiễm do khai thác đáy biển lấy dầu khí và các loại khoáng sản quí hiếm khác; ô
nhiễm còn do các chất thải trong thiên nhiên (ước tính mỗi năm có hơn 60 vạn
tấn chất thải từ không trung rơi xuống nhất là chất hydro các bua từ khí quyển gọi là mưa khí quyển).
Hiện nay, có từ 40-50% lưu lượng ổn định của các dòng sông trên quả đất
bị ô nhiễm. Độ ô nhiễm nguồn nước trên thế giới có thể tăng 10 lần trong vòng
25 năm tới. Bên cạnh đó, theo ước tính của giới khoa học thì, ước tính có
khoảng 96,5% nước trên quả đất là nước mặn nằm trong các đại dương. Chỉ có
2,53% tổng lượng nước là nước ngọt có thể dùng được cho trồng trọt và sinh
hoạt của con người. Thế nhưng nhu cầu tiêu dùng nước sạch ngày càng tăng
nhanh do sự gia tăng dân số và yêu cầu phát triển sản xuất. Có thể nói, sau nguy
cơ về dầu mỏ, loài người đã, đang và sẽ phải đối mặt với nguy cơ phổ biến là
4

Bùi Thị Lan Hương - CH13D


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
thiếu nguồn nước sạch cần thiết để duy trì và phát triển đời sống kinh tế - xã hội
của mình.
Hiện nay, ước tính có trên 1/2 quốc gia và khu vực trên thế giới đang bị
thiếu nước với các mức độ khác nhau, trong đó có khoảng 50 quốc gia thiếu
nước nghiêm trọng. Có tới 80% bệnh tật liên quan trực tiếp do nguồn nước bị
nhiễm bẩn, mỗi năm có 25 triệu trẻ em đã chết vì dùng nước không sạch.
g) Chuyển dịch ô nhiễm
Theo tài liệu về qui hoạch môi trường của LHQ, mỗi năm toàn cầu có 500
triệu tấn rác thải nguy hại, trong đó có 98% là của các nước phát triển. Việc một
số nước phát triển chuyển dịch công nghệ lạc hậu và các chất thải dưới nhiều
hình thức khác nhau sang các nước đang phát triển là một thực tế cần được chú
trọng.
h) Ô nhiễm đất
Trên toàn thế giới đang có xu hướng tăng hiện tượng đất bị ô nhiễm, bởi:
một là, do con người quá lạm dụng hoặc do tác động phụ của việc sử dụng phân
hóa học, thuốc trừ sâu, chất diệt cỏ và các chất kích thích sinh trưởng khác. Mỗi
năm, trên thế giới có hàng nghìn hóa chất mới được đưa vào sử dụng trong khi
con người vẫn chưa hiểu biết hết tác động phụ của chúng đối với hệ sinh vật.
Hai là, không xử lý đúng kỹ thuật các chất thải công nghiệp và sinh hoạt khác
của người và súc vật, hoặc các xác sinh vật chết gây ra... Ô nhiễm đất làm giảm
năng suất và chất lượng cây trồng, hủy diệt sự sống một số sinh vật trong những
khu vực ô nhiễm nặng, đồng thời còn đe dọa đến sức khỏe con người thông qua
vật nuôi, cây trồng, thậm chí gây ra những biến dạng sinh thái và di truyền nặng
nề cho hệ sinh sống.
Ngoài ra, vấn đề ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm phóng xạ, bức xạ, sự mất ổn
định về khí hậu... đều gây hại trực tiếp và lâu dài đến sức khỏe và di truyền của

sinh vật, thực vật sống, trong đó có con người. Hậu quả sẽ thật khủng khiếp và
khó lường. Những tổn thất về con người và vật chất do môi trường suy thoái gây
ra đã và đang vượt quá tổn thất về người và của do các biến động xã hội và từ
chiến tranh.
Bùi Thị Lan Hương - CH13D

5


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
Dự báo, những năm đầu thế kỷ này, số nạn nhân của môi trường sẽ lên
đến ít nhất 50 triệu người. Con người đang đứng trước sự cảnh báo mới : Trừ
chiến tranh hạt nhân, thì sự biến đổi của khí hậu sẽ là mối đe dọa lớn nhất với sự
tồn vong của loài người và tương lai của quả đất. Đó là những lời cảnh báo để
con người mau chóng có những hành động tích cực với môi trường, vì môi
trường và vì sự sống của chính mình.
II. Những thách thức đối với môi trường Việt Nam
Hiện trạng môi trường tiếp tục xuống cấp và các vấn đề môi trường toàn
cầu vừa nêu là những thách thức nghiêm trọng đối với môi trường Việt Nam.
- Phát triển kinh tế - xã hội: Theo dự kiến, tốc độ tăng trưởng GDP phải
đạt xấp xỉ 7%/năm và được duy trì liên tục đến 2010. Theo tính toán của các
chuyên gia nước ngoài, nếu GDP tăng gấp đôi thì nguy cơ ô nhiễm tăng gấp 3
đến 5 lần.
Từ các mục tiêu của kịch bản tăng trưởng kinh tế nêu trên có thể thấy nếu
như trình độ công nghệ sản xuất, cơ cấu sản xuất và trình độ quản lý sản xuất,
quản lý môi trường không được cải tiến thì sự tăng trưởng sẽ kéo theo tăng khai
thác, tiêu thụ tài nguyên, năng lượng, dẫn đến khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên, tạo ra sự gia tăng các loại chất thải gây sức ép lên môi trường. Tình trạng
tài nguyên thiên bị cạn kiệt, chất lượng môi trường bị xuống cấp cũng chính là
những thách thức đặt ra đối với phát triển kinh tế- xã hội.

- Sự tăng dân số và di dân tự do: Những thách thức về nhân khẩu của
nước ta là rất nghiêm trọng đối với tất cả các vấn đề môi trường và tài nguyên
thiên nhiên. Tăng dân số vẫn ở mức cao và di dân nội bộ từ các khu vực nghèo
tài nguyên thiên nhiên và kinh tế kém phát triển vẫn đang tăng lên, không kiểm
soát được. Trung bình trong 10 năm qua (1989 - 1999) tỷ lệ tăng trưởng dân số
là 1,7%. Với mức tăng trưởng như vậy thì theo các dự báo đến năm 2020 số dân
nước ta sẽ xấp xỉ 100 triệu người, tức là phải bảo đảm cuộc sống cho thêm gần
25 triệu người, tương ứng với một số dân nước ta trước năm 1945, trong khi tài
nguyên đất, tài nguyên nước và các dạng tài nguyên khác có xu thế suy giảm,
vấn đề nghèo đói ở các vùng sâu vùng xa chưa được giải quyết triệt để (hiện có
6
Bùi Thị Lan Hương - CH13D


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
1750 xã ở diện đói nghèo). Tất cả những vấn đề trên là những thách thức
nghiêm trọng, gây ra sức ép to lớn đối với cả tài nguyên và môi trường trên
phạm vi toàn quốc.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Quá trình này đòi hỏi các nhu cầu về
năng lượng, nguyên liệu ngày càng to lớn, kéo theo chất lượng môi trường sống
ngày càng xấu đi, nếu không có biện pháp hữu hiệu ngay từ đầu. Mặt khác quá
trình phát triển công nghiệp và đô thị hoá ở nhiều khu vực, vùng lãnh thổ chưa
quán triệt đầy đủ hoặc quán triệt chưa đúng quan điểm phát triển bền vững, tức
là chưa tính toán đầy đủ hoặc tính đúng các yếu tố môi trường trong phát triển
kinh tế - xã hội của nhiều ngành, địa phương.
- Nhận thức về môi trường và phát triển bền vững còn thấp: Kiến thức
và nhận thức về môi trường và phát triển bền vững chưa được nâng cao cho các
nhà ra quyết định, các nhà quản lý, các doanh nghiệp và cộng đồng.Còn tồn tại
nhiều quan điểm cực đoan về môi trường.
- Du lịch, thương mại và môi trường: Trong nền kinh tế thị trường có

tính đến các yếu tố môi trường và hòa nhập với du lịch, thương mại khu vực và
toàn cầu, nhất thiết phải xem xét việc thay đổi mẫu hình tiêu thụ, phát triển các
sản phẩm thân thiện môi trường, chuẩn bị cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải,
năng lượng đồng thời với việc xem xét đồng bộ vấn đề môi trường xã hội, văn
hoá, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Việc phát triển kinh tế phải đi liền
bảo vệ môi trường, điều chỉnh dân số, xóa đói giảm nghèo trong tất cả các vũng
lãnh thổ, các vùng sinh thái của đất nước. Ðâylà một thách thức nghiêm trọng
đối với nước ta.
- Năng lực quản lý môi trường bị hạn chế: Hiện trạng về công tác quản
lý môi trường đang có nhiều vấn đề chưa đáp ứng được yêu cầu của quản lý Nhà
nước về bảo vệ môi trường, hệ thống tổ chức quản lý hiện nay còn nhiều bất cập
về nhân lực, nguồn lực và trang bị kỹ thuật và các cơ chế phối hợp có hiệu quả
giữa các bộ/ ngành và địa phương; đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường còn
quá ít và thiếu tập trung, hệ thống các chính sách, luật pháp còn chưa đồng bộ,
Bùi Thị Lan Hương - CH13D

7


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
thiếu tính hệ thống, các chính sách công cụ kinh tế trong quản lý môi trường còn
ít được áp dụng.
Các chương trình giáo dục, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường chưa
được tiến hành rộng khắp, chưa phát huy được vai trò của các đoàn thể, các tổ
chức chính trị và xã hội, cũng như các phong trào quần chúng tham gia công tác
bảo vệ môi trường.
Các kiến thức phổ cập về môi trường chưa được đưa vào hệ thống giáo
dục ở các cấp học, bậc học.
Các thông tin về môi trường, về chính sách, pháp luật chưa được cung cấp
và phổ biến thường xuyên đến cộng đồng.

- Mẫu hình tiêu thụ: Phát triển kinh tế đang đem lại mức tăng thu nhập,
mức tăng này sẽ làm tăng mức tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ xa xỉ, đồng thời
cũng làm tăng thêm lượng chất thải lên môi trường. Mẫu hình tiêu thụ này là
không phù hợp, thói quen này sẽ tác động nghiêm trọng lên môi trường, đòi hỏi
phải có sự thay đổi từ nhận thức đến hành động thực tế.

Chương II: BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỂ GIẢM THIỂU
CÁC THÁCH THỨC CỦA MÔI TRƯỜNG THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
I. Đối với môi trường toàn cầu
Ðứng trước những diễn biến xấu của môi trường toàn cầu, cộng đồng
quốc tế và khu vực đều cam kết phối hợp nỗ lực nhằm cải thiện môi trường vì
mục tiêu phát triển bên vững cho cả thế hệ hiện nay và các thế hệ sau này; cam
8
Bùi Thị Lan Hương - CH13D


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
kết hỗ trợ các nước chậm phát triển giải quyết các vấn đề môi trường sinh thái.
Ðặc biệt, các tổ chức tài chính thế giới cũng khuyến khích các dự án đầu tư theo
hướng thân môi trường. Nếu có định hướng đúng và sớm tăng cường năng lực
tiếp thu thì nước ta có thể tranh thủ được các nguồn tài trợ quốc tế để giải quyết
các vấn đề môi trường bức xúc và bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia.
Chúng ta có thể rút ra những bài học quý giá, cả thành công lẫn không
thành công, của các nước khác để có thể lựa chọn lộ trình thích hợp nhất cho
quá trình phát triển của mình, để sao cho vừa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh
tế mà không phải trả giá cao về môi trường. So với nhiều nước, nước ta vẫn còn
có những lợi thế nhất định về môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Nếu các
nguồn tài nguyên đó được sử dụng chuẩn mực và được bảo vệ đúng quy cách,
thì các nguồn tài nguyên này sẽ trở thành một lợi thế trong cạnh tranh quốc tế,
kể cả trước mắt lẫn lâu dài. Cho dù các kỹ năng quản lý môi trường của nước ta

còn bị hạn chế, nhưng những kinh nghiệm tích luỹ trong những năm gần đây sẽ
giúp chúng ta có khả năng xác định các định hướng và lựa chọn đúng đắn hướng
phát triển của mình trong thập kỷ tới đây.
II. Đối với môi trường Việt Nam
1. Các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo
Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị đã đưa ra những quan điểm, nguyên
tắc cơ bản, thể hiện đường lối, chủ trương về bảo vệ môi trường trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta: "Coi công tác bảo vệ môi trường là sự
nghiệp của toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân; là nội dung cơ bản không thể
tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
tất cả các cấp, các ngành; là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
Chính phủ cũng đã cam kết vận dụng các nguyên tắc và nội dung cơ bản
của Chương trình Nghị sự 21 vào điều kiện cụ thể của nước ta: "Coi phòng
ngừa và ngăn chặn ô nhiễm là nguyên tắc chủ đạo kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải
Bùi Thị Lan Hương - CH13D

9


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên; kết hợp phát huy nội lực với tăng
cường hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững".
Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Ðảng và cam kết của Chính phủ, Chiến
lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001 - 2010 phải được xây dựng dựa trên
những nguyên tắc cơ bản sau:
-

Mục tiêu và nội dung của chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia không


tách rời mục tiêu và nội dung của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, mà nó
phải là một bộ phận cấu thành của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, được
xây dựng theo hướng phát triển bền vững.
- Chiến

lược bảo vệ môi trường quốc gia phải dựa trên việc phân tích hiện

trạng và dự báo xu thế biến động môi trường của đất nước, trong bối cảnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ðồng thời chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia phải
phù hợp với nguồn lực của quốc gia, được xây dựng trên cơ sở tiếp thu các bài
học kinh nghiệm của các nước, thu hút được đầu tư của nước ngoài và là cơ sở
pháp lý cho việc xây dựng các kế hoạch môi trường quốc gia trung hạn và ngắn
hạn.
2. Các mục tiêu chiến lược
2.1. Mục tiêu tổng quát:
Không ngừng bảo vệ và cải thiện môi trường nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống và sức khoẻ của nhân dân, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất
nước.
2.2. Mục tiêu chiến lược
Tiếp tục phòng ngừa ô nhiễm, tăng cường bảo tồn đa dạng sinh học, chú
trọng sử dụng hợp lý các tài nguyên thiên nhiên và cải thiện môi trường.
3.3. Các mục tiêu cụ thể
- Phòng ngừa ô nhiễm:
Tăng cường khả năng về quản lý, đầu tư, pháp luật cưỡng chế và các giải
pháp hỗ trợ phòng ngừa ô nhiễm môi trường nước, không khí, tiếng ồn, và chất
Bùi Thị Lan Hương - CH13D

10



Tiểu luận môn Phân tích chính sách
thải rắn độc hại; nâng cao nhận thức và kiến thức, cung cấp đầy đủ thông tin về
phòng ngừa ô nhiễm cho toàn cộng đồng.
Xây dựng quy hoạch phát triển bền vững cho các đô thị, khu công nghiệp,
nông thôn, các vùng sinh thái.
Áp dụng các công nghệ sạch, công nghệ thích hợp trong sản xuất và xử lý
ô nhiễm môi trường.
Ðảm bảo thực hiện được tiêu chuẩn về môi trường tiệm cận với tiêu
chuẩn của các nước tiên tiến trong khu vực.
- Bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, đa dạng
sinh học:
Tăng cường khả năng về quản lý, đầu tư, pháp luật cưỡng chế và các giải
pháp hỗ trợ để thực hiện bảo tồn, phát triển và sử dụng bền vững đa dạng sinh
học của các hệ sinh thái: rừng, biển, trên cạn, dưới nước.
Bảo vệ, khôi phục và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên
nhiên hiện có như tài nguyên đất, rừng, nước, khoáng sản, năng lượng và tài
nguyên đa dạng sinh học, v.v... phục vụ sự nghiệp phát triển bền vững của đất
nước.
Bảo tồn các vùng có hệ sinh thái đặc thù để duy trì cân bằng sinh thái,
nâng tổng diện tích các khu bảo vệ đa dạng sinh học (công viên, vườn và khu
bảo tồn quốc gia) lên khoảng 2% diện tích tự nhiên của cả nước.
- Cải thiện môi trường:
Tăng cường khả năng về quản lý, đầu tư, pháp luật cưỡng chế và các giải
pháp hỗ trợ để tiến tới xử lý triệt để các cơ sở sản xuất có công nghệ lạc hậu,
gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Tiến tới thu gom, xử lý về cơ bản chất thải rắn, chất thải công nghiệp,
chất thải bệnh viện và chất thải sinh hoạt ở các thành phố và khu dân cư đông
đúc.
Tăng cường phục hồi và trồng mới rừng tiến tới đạt mức độ che phủ trên
40% diện tích cả nước vào năm 2010.

Bùi Thị Lan Hương - CH13D

11


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
Hạn chế sử dụng các hoá chất độc hại như: phân bón hoá học, thuốc trừ
sâu, các chất bảo quản nông sản, thực phẩm, v.v....
Phấn đấu đến năm 2010 đảm bảo 90% dân số được dùng nước hợp vệ
sinh và các hệ thống vệ sinh đạt tiêu chuẩn môi trường, xử lý về cơ bản các khu
vực bị ô nhiễm, suy thoái môi trường nghiêm trọng do hậu quả của chiến tranh
để lại và do hoạt động sản xuất gây ra.
3. Các nội dung chủ yếu của chiến lược
3.1. Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước
Nước là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng đối với đời sống sản xuất
và sinh hoạt của con người, để bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên này,
trong chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia giai đoạn 2001-2010 cần ban hành
bổ sung các tiêu chuẩn và các quy định bảo vệ đối với các nguồn nước ngầm,
nước mặt, các lưu vực, các đập chắn nước, đưa chất lượng nước ở các thuỷ vực
lớn đạt tiêu chuẩn chất lượng nước đã ban hành, đảm bảo chất lượng nước biển
tại khu vực ven biển cửa sông đạt tiêu chuẩn cho phép.
Phấn đấu đến năm 2005 cải tạo được khoảng 40% các dòng sông, hệ
thống tiêu thoát nước, đặc biệt là các dòng sông đi qua các khu dân cư tập trung,
các khu công nghiệp và đô thị. Cả nước cần tập trung xử lý triệt để 90% các
nguồn gây ô nhiễm nước nghiêm trọng tại các khu công nghiệp, giải quyết được
các vấn đề về nước đối với các khu vực hoang mạc hoá.
Tổ chức đánh giá và kiểm soát được chất lượng, trữ lượng nước ngầm, có
kế hoạch khai thác và ban hành những quy định cụ thể về khai thác nguồn này.
3.2. Bảo vệ môi trường đất và sử dụng bền vững tài nguyên đất
Hoàn thiện chiến lược, quy hoạch và các văn bản pháp quy quản lý tài

nguyên đất, bảo đảm việc quản lý và sử dụng đất trống có hiệu quả. Việc sử
dụng các hệ sinh thái, và địa lý đặc thù phải dựa trên cơ sở cân bằng sinh thái và
qui hoạch các khu bảo tồn.
Tăng cường các biện pháp quản lý, luật pháp và các biện pháp hỗ trợ để
giải quyết hài hoà các mâu thuẫn trong sử dụng đất với bảo vệ môi trường, giữa
khai thác khoáng sản với tài nguyên đất và các dạng tài nguyên khác.
Bùi Thị Lan Hương - CH13D

12


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
3.3. Bảo tồn đa dạng sinh học
Các bộ, ngành và địa phương cần phối hợp tổ chức thực hiện tốt các nội
dung kế hoạch hành động quốc gia về đa dạng sinh học, đồng thời tiến hành các
chương trình bảo vệ, tăng cường tài trợ, quản lý các vườn quốc gia, công viên
biển, mở rộng các khu bảo vệ, phân cấp cho địa phương, các tổ chức đoàn thể và
cộng đồng quản lý những khu hệ bảo tồn đa dạng sinh học phù hợp với năng lực
của từng đơn vị.
Ðể bảo tồn đa dạng sinh học có hiệu quả cần nâng độ che phủ rừng lên
40% diện tích, trong đó khoảng 20-30% rừng đặc dụng(bảo vệ) và khoảng1020% rừng sản xuất. Phải coi tăng diện tích rừng như là một biện pháp hữu hiệu
cân bằng sinh thái tự nhiên giữa các hệ sinh thái và chất lượng môi trường.
Bảo vệ và sử dụng bền vững tài nguyên đa dạng sinh học các hệ sinh thái
rừng phải đồng bộ với việc bảo vệ các hệ sinh thái biển và xem đó là một nội
dung quan trọng của chiến lược này.
3.4. Bảo vệ môi trường không khí
Với chức năng và nhiệm vụ của mình, từng đơn vị sản xuất, kinh doanh
và các cơ quan quản lý phải kiểm soát chặt chẽ việc phát thải khí CO 2, SO2,CO,
ô nhiễm bụi do các hoạt động sản xuất công nghiệp, năng lượng, xây dựng, nông
nghiệp, giao thông vận tải nhanh chóng tạo điều kiện thực hiện chính sách

không sử dụng xăng pha chì để giảm bớt ô nhiễm không khí. Từng bước phấn
đấu để bảo đảm môi trường không khí ở nước ta được trong lành theo các tiêu
chuẩn tiếp cận mức trung bình của các nước ASEAN.
3.5. Bảo vệ môi trường đô thị và khu công nghiệp
Ðể duy trì chất lượng và cải thiện môi trường ở các đô thị và khu công
nghiệp lâu dài, cần xây dựng và ban hành chiến lược, quy hoạch và thể chế hoá
bằng các văn bản pháp quy: luật, nghị định, tiêu chuẩn, quy chế về quản lý chất
thải rắn, chất thải nguy hại. Phấn đấu đến năm 2010 tất cả các thành phố loại I,
loại II, các đô thị đông dân, khu công nghiệp phải có các bãi chôn lấp và xử lý
chất thải rắn, chất thải nguy hại theo đúng tiêu chuẩn. Thu gom và xử lý 90%
13
Bùi Thị Lan Hương - CH13D


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
chất thải rắn tại các đô thị và khu công nghiệp, thu gom và xử lý100% chất thải
công nghiệp, chất thải bệnh viện và quản lý 100% chất thải độc hại. Ðảm bảo ít
nhất 60% thành phố đạt tiêu chuẩn về quy hoạch không gian, cảnh quan sinh
thái.
Cần có cơ chế chính sách và biện pháp đồng bộ để xử lý triệt để đối với
các cơ sở sản xuất, kinh doanh, ....đang gây ô nhiễm nghiêm trọng về nước,
không khí, và tiếng ồn.
Bằng nhiều biện pháp để xây dựng hoàn thành cơ bản cải tạo, cải thiện
các hệ thống cấp nước, tiêu thoát nước, các cơ sở vệ sinh môi trường ở các thành
phố trực thuộc Trung ương, thành phố loại 2.
3.6. Bảo vệ môi trường nông thôn
Bảo vệ môi trường nông thôn không có nghĩa chỉ gìn giữ môi trường
trong sạch trong vùng mà còn cần có nhiều biện pháp để ngăn chặn ô nhiễm có
tính chất phòng ngừa đó là việc xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn về vệ sinh
môi trường gắn với an toàn thực phẩm, tiến tới hạn chế về cơ bản và thay thế sử

dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật độc hại.
Thực hiện chính sách kế hoạch hoá gia đình để tạo điều kiện nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần đảm bảo không còn hộ đói nghèo ở nông thôn. Phấn
đấu đến năm 2010 đảm bảo 90% số hộ ở nông thôn được cung cấp nước hợp vệ
sinh, thu gom và xử lý được 90% chất thải sinh hoạt và xử lý về cơ bản chất thải
nguy hại, chất thải bệnh viện, các vùng nông thôn đều có cơ sở hạ tầng đạt tiêu
chuẩn môi trường.
3.7. Bảo vệ môi trường biển, ven biển và hải đảo
Cũng như chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vấn đề bảo
vệ môi trường biển, ven biển và hải đảo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia. Bảo vệ môi trường biển, ven biển và hải
đảo bao gồm các nội dung và liên quan đến các lĩnh vực sau:
Chiến lược phát triển kinh tế biển phải được xây dựng theo quan điểm sử
dụng tổng hợp, hợp lý đi đôi với bảo vệ tài nguyên và môi trường biển và ven
bờ. Lĩnh vực này cần được các ngành khai thác dầu khí, giao thông vận tải, thuỷ
14
Bùi Thị Lan Hương - CH13D


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
sản, lâm nghiệp, du lịch, .... thực hiện đầy đủ các yêu cầu bảo vệ môi trường
trong ngành và phối hợp với nhau cùng bảo vệ môi trường liên quan đến biển,
ven biển và hải đảo.
Chiến lược thực hiện các công ước và hiệp định quốc tế và khu vực liên
quan đến biển và đại dương và liên quan đến môi trường biển.
Chiến lược quản lý môi trường biển và ven biển với mục tiêu cơ bản là
tiến hành thành công xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh tế một cách bền
vững tại vùng duyên hải thông qua các hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường
trong vùng.
Chiến lược quản lý môi trường biển và ven biển bao gồm phân vùng chức

năng biển và ven biển, quản lý tổng hợp các hoạt động khai thác và nuôi trồng
thuỷ sản ven biển, thành lập hệ thống các khu bảo tồn biển và ven biển, phát
triển và cải thiện sinh kế cho những cộng đồng duyên hải, phòng ngừa và giảm
thiểu tác hại của thiên tai ven biển, trước hết là bão, lụt, xói lở và nước dâng đặc
biệt là ở các tỉnh miền Trung và tăng cường năng lực quản lý môi trường biển và
ven biển.
Thực hiện nội dung bảo vệ môi trường biển, ven biển và hải đảo là một
nhiệm vụ cấp bách trong thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia.
3.8. Bảo vệ các vùng đất ngập nước
Ðất ngập nước là một hợp phần đặc biệt quan trọng của môi trường. Bảo
vệ các vùng đất ngập nước về lâu dài là nhằm quản lý việc sử dụng có hiệu quả
các vùng đất ngập nước, bảo vệ đa dạng sinh học trong vùng, đồng thời duy trì
các chức năng sinh thái, chức năng kinh tế - xã hội của những vùng đất này.
Các hoạt động trước mắt nhằm bảo vệ môi trường trong vùng gồm:
- Chấm dứt việc sử dụng đất ngập nước một cách không bền vững, chỉ
chú trọng giá trị kinh tế, chuyển đổi mục đích sử dụng không hợp lý.
- Bảo tồn các giá trị đa dạng sinh học hiện còn của các vùng đất ngập
nước.
- Khôi phục các hệ sinh thái đất ngập nước ở các vùng nhạy cảm về môi
trường.
Bùi Thị Lan Hương - CH13D

15


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
- Áp dụng các hệ canh tác nông-lâm-ngư nghiệp bền vững, bảo đảm sự
cân bằng giữa các chức năng sinh thái - kinh tế - xã hội của đất ngập nước.
3.9. Bảo vệ môi trường thiên nhiên và di sản văn hóa
Các di sản văn hoá, thiên nhiên của đất nước có vai trò đặc biệt đối với

công tác bảo vệ môi trường do tính độc đáo, đặc thù, quí hiếm, có một không hai
về các khía cạnh văn hoá và môi trường.
Nước ta có nhiều di sản văn hoá, thiên nhiên có tầm cỡ quốc tế và quốc
gia trong đó có những di sản đã được thế giới công nhận (Huế, Hạ Long, Hội
An, Mỹ Sơn) hoặc chuẩn bị công nhận (Phong Nha-Kẻ Bàng, ....).
Cần phải coi việc gìn giữ, bảo vệ và tôn tạo môi trường văn hoá, tự nhiên
cho di sản văn hoá, thiên nhiên của đất nước như một bộ phận quan trọng của
Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia.
Bộ phận này của Chiến lược phải tính toán đầy đủ đến việc bảo vệ đồng
bộ các loại môi trường văn hoá, nhân văn, lịch sử, sinh thái,... của từng di sản.
3.10. Sản xuất sạch hơn
Sản xuất sạch hơn là sự áp dụng liên tục một chiến lược phòng ngừa tổng
hợp về môi trường đối với qui trình công nghệ, các sản phẩm và dịch vụ nhằm
nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra, bảo đảm sức
khoẻ, an toàn và chất lượng môi trường.Ðể thực hiện sản xuất sạch hơn cần xây
dựng một chương trình có tính chất quốc gia, ban hành các chính sách khuyến
khích chuyển giao công nghệ sạch và tổ chức tiếp xúc trao đổi, thông tin về sản
xuất sạch hơn giữa các nhà doanh nghiệp, các chuyên gia trong nước và Quốc tế
về sản xuất sạch hơn và những người quản lý.
3.11. Bảo vệ môi trường gắn với phát triển kinh tế - xã hội vùng
Chiến lược bảo vệ môi trường tại các vùng và các lưu vực sông cần được
lồng ghép với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và phải phù hợp với điều
kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế- xã hội có tính đặc thù của mỗi vùng. Nội
dung lồng ghép chủ yếu là căn cứ vào hiện trạng môi trường vùng và những
thách thức về môi trường trong tương lai chịu sự tác động của các hoạt động
kinh tế trong vùng và các mục tiêu kinh tế - xã hội được đặt ra. Ðặc biệt chú
16
Bùi Thị Lan Hương - CH13D



Tiểu luận môn Phân tích chính sách
trọng đến mối quan hệ tương tác về mặt môi trường với các vùng xung quanh
(kể cả của nước ngoài nếu có); Năng lực giải quyết các vấn đề môi trường của
vùng. Nhận thức của nhân dân trong vùng và các tập tục văn hoá-môi trường
liên quan và nêu rõ các phương án tổ chức thực hiện chiến lược vùng.
3.12. Bảo vệ môi trường gắn với phát triển các ngành kinh tế
Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia 2001-2010 gắn với các ngành
kinh tế được lựa chọn phù hợp với cơ cấu kinh tế trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội bao gồm các lĩnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và
kinh tế nông thôn; công nghiệp, kết cấu hạ tầng và dịch vụ và được lồng ghép
hài hoà theo hướng "cùng phát triển".
Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn được xác định
là một trọng điểm ưu tiên trong giai đoạn 2001-2010. Sự phát triển của lĩnh vực
này sẽ làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế và sẽ có tác dụng mạnh mẽ đến môi
trường theo hướng tích cực. Chiến lược bảo vệ môi trường phải được lồng ghép
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các ngành này theo những nội
dung chủ yếu sau:
- Qui hoạch môi trường gắn với qui hoạch ổn định các vùng sản xuất
lương thực, bảo đảm an ninh lương thực đồng thời bảo đảm gìn giữ môi trường.
Ðổi mới cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp, bảo vệ, khôi phục và phát triển tài
nguyên rừng theo hướng là những tác nhân tích cực đối với hệ sinh thái. Xây
dựng nông thôn mới gắn liền với chiến lược vệ sinh môi trường nông thôn nhằm
nâng cao chất lượng sống và đổi mới phương thức sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp theo hưóng tiên tiến hiện đại ít gây ô nhiễm môi trường.
- Công nghiệp được phát triển theo hướng đa dạng hoá sản phẩm với kỹ
thuật sản xuất tiên tiến hiện đại sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của ngành này,
nhưng sẽ có 2 hướng tác động tích cực và tiêu cực đến môi trường. Ðể giảm
thiểu tác động tiêu cực và đẩy mạnh lợi thế tác động tích cực, chiến lược bảo vệ
môi trường cần gắn một số nội dung sau: Áp dụng công nghệ sản xuất sạch, sử
dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên và qui hoạch ngành

Bùi Thị Lan Hương - CH13D

17


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
công nghiệp đồng bộ với qui hoạch môi trường, đặc biệt chú trọng các khâu khai
thác, sử dụng nguyên nhiên liệu, xử lý chất thải công nghiệp.
- Kết cấu hạ tầng là một lĩnh vực có nhiều tác động tích cực đến môi
trường, mạng lưới giao thông đường bộ, đường thủy không hợp lý sẽ là tác nhân
phá hủy hệ sinh thái hai bên đường, gây ô nhiễm môi trường nước mặt trên
sông, biển và ô nhiễm tiếng ồn trong các khu đô thị, dân cư, .... Chiến lược môi
trường cần được lồng ghép trong chiến lược kết cấu hạ tầng một số nội dung chủ
yếu sau: Qui hoạch mạng lưới giao thông đồng bộ với qui hoạch các vùng sinh
thái, khu bảo tồn thiên nhiên (trên đất liền và dưới biển), xây dựng chính sách
cung cấp nước sạch và xử lý nước thải và qui hoạch kết cấu hạ tầng ở các khu
công nghiệp, dân cư, .... gắn với qui hoạch xử lý chất thải (rắn và lỏng).
- Dịch vụ là loại hình phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thị
trường hiện đại, nhanh mang lại lợi nhuận cho nền kinh tế. Nhưng cũng chính vì
lợi nhuận và sự "nhanh nhậy" của cơ chế thị trường là những tác nhân gây ô
nhiễm môi trường nhanh nhất. Cần khai thác lợi thế trong ngành dịch vụ như: du
lịch sinh thái, đổi mới phong tục tập quán văn hóa, lễ hội, .... theo hướng thân
môi trường với những nội dung chủ yếu là: Tôn tạo cảnh quan sinh thái gắn với
lợi ích của ngành du lịch, xây dựng chính sách và qui chế dịch vụ, thương mại
liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường và duy trì và khôi phục nếp sống văn
hoá lành mạnh có lợi cho môi trường.
3.13. Nghiên cứu khoa học, công nghệ về môi trường
Cần tăng cường năng lực và đẩy nhanh tốc độ nghiên cứu khoa học công
nghệ về môi trường nhằm đặt nền móng vững chắc để phát triển ngành môi
trường, phục vụ một cách có hiệu quả các vấn đề về môi trường, đảm bảo cho

việc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta được bền vững.
Nghiên cứu khoa học công nghệ còn nhằm tạo cơ sở để đánh giá chính
xác hiện trạng môi trường, đề xuất các giải pháp tối ưu để bảo vệ môi trường
cũng như phục vụ việc hoạch định các chính sách quản lý môi trường, đồng thời
áp dụng các công nghệ môi trường tiên tiến trong việc giải quyết các vấn đề ô
nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường.
Bùi Thị Lan Hương - CH13D

18


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
Ðể công tác nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường thực sự có
hiệu quả cần xây dựng cơ sở nghiên cứu môi trường đủ khả năng đảm đương
nhiệm vụ nghiên cứu môi trường tầm quốc gia, tiến hành các chương trình
nghiên cứu các vấn đề bức xúc, trọng tâm, khuyến khích các nghiên cứu bảo vệ
môi trường.
4. Các biện pháp quản lý nhà nước trong thực thi chiến lược nhằm
giảm thiểu những thách thức của môi trường Việt Nam
4.1. Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức về môi trường
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, một trong những biện
pháp thực hiện tốt chiến lược là tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức môi
trường cho mọi người dân, cộng đồng, các doanh nghiệp, các nhà ra quyết định,
và các cán bộ của các cơ quan quản lý nhà nước các cấp. Chú trọng đào tạo cán
bộ cho cơ sở ở tỉnh, thành phố, quận, huyện và ở phường, xã có các kiến thức,
nhận thức môi trường ở địa phương, đào tạo và phát triển đội ngũ chuyên gia
môi trường phục vụ cho công tác quản lý nghiên cứu.
Tổ chức nâng cao nhận thức môi trường cho cộng đồng, tư nhân, doanh
nghiệp, các tổ chức chính trị, xã hội thông qua các biện pháp phổ biến kiến thức
pháp luật, tuyên truyền, phổ cập hoá nhận thức môi trường theo các chương

trình và thông tin môi trường như tivi, đài, báo hoặc mở lớp tập huấn vv...và các
phương tiện khác; Xây dựng mạng lưới phổ biến, nâng cao, đổi mới nhận thức
môi trường với sự tham gia của các đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ, các
tuyên truyền viên môi trường, thí điểm chương trình cung cấp thông tin về môi
trường cho cộng đồng; Thực hiện xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, như tổ
chức quần chúng tham gia các phong trào Xanh-Sạch-Ðẹp, VAC, VACR, cung
cấp nước sạch và vệ sinh môi trường, gia đình văn hóa mới,.....dưới các hình
thức phù hợp đối với mọi lứa tuổi, giới tính, dân tộc. Thông qua các phong trào
để giáo dục các ý thức và đạo đức bảo vệ môi trường.
Tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh đề án đưa các nội dung bảo vệ môi
trường vào hệ thống giáo dục quốc dân (Tất cả các cấp học, kể cả đại học và sau
đại học).
Bùi Thị Lan Hương - CH13D

19


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
4. 2.Tăng cường vai trò của cộng đồng, doanh nghiệp, tư nhân trong
bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân. Việc thực hiện chiến lược
bảo vệ môi trường đương nhiên đòi hỏi sự tham gia của cộng đồng, của các
doanh nghiệp và tư nhân.
Các tổ chức cộng đồng ở cơ sở, các tổ chức chính trị - xã hội tham gia
thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường Quốc gia 2001-2010 trong các kế hoạch,
các chương trình và các phong trào quần chúng tham gia bảo vệ môi trường.
Nhà nước thực hiện chính sách xã hội hoá bảo vệ môi trường bằng luật
pháp, các văn bản pháp lý, để huy động cộng đồng tham gia vào các hoạt động
quản lý môi trường các cấp, vào việc ra các quyết định liên quan của các cơ
quan nhà nước; tổ chức quản lý môi trường địa phương lồng ghép nội dung bảo

vệ môi trường vào các phong trào hiện có, tổ chức truyền thống, giáo dục nâng
cao nhận thức cho cộng đồng.
Các tư nhân, các doanh nghiệp thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường
theo các qui định của pháp luật, các chính sách và kế hoạch của nhà nước như
đầu tư cải thiện môi trường, tổ chức sản xuất sạch hơn để thực hiện hệ thống
quản lý môi trường doanh nghiệp theo tiêu chuẩn 780/4001 hoà nhập vào thị
trường thương mại trong khu vực và quốc tế. Nhà nước có chính sách tư nhân
hoá dịch vụ môi trường.
4.3. Tăng cường và đa dạng hoá đầu tư bảo vệ môi trường
Ðầu tư là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện thành công
chiến lược bảo vệ môi trường. Ðầu tư bảo vệ môi trường phải được thực hiện xã
hội hoá, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước và theo nguyên
tắc:"người gây ô nhiễm phải đầu tư". Hình thức xã hội hoá và nguyên tắc đầu tư
này phải được quán triệt sâu rộng trong tất cả các cấp lãnh đạo của Ðảng, chính
quyền và các nhà quản lý đến từng người dân sống trong cộng đồng.
Ðầu tư bảo vệ môi trường phải được đa dạng hoá về hình thức và nguồn
vốn nhằm huy động được mọi nguồn lực trong xã hội. Hình thức đầu tư bao gồm
đầu tư bằng trí lực, vật lực, ngày công lao động hữu ích và bằng tiền,..... Trong
20
Bùi Thị Lan Hương - CH13D


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
đó toàn xã hội tham gia đầu tư bảo vệ môi trường dưới mọi hình thức và chủ yếu
đầu tư cho những chương trình, dự án,.... mang tính cộng đồng; các đơn vị sản
xuất kinh doanh đầu tư cho việc phòng ngừa ô nhiễm, xử lý sự cố, cải tạo, bảo
vệ môi trường trong phạm vi quản lý của đơn vị mình. Ngân sách nhà nước
đóng vai trò chủ đạo trong việc đầu tư để bảo vệ môi trường có tính liên vùng,
liên ngành và thực hiện các dự án quốc gia, quốc tế.
Nguồn vốn đầu tư bảo vệ môi trường được huy động từ ngân sách nhà

nước, từ các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành
phần kinh tế, từ nguồn viện trợ ODA, GEF và các tổ chức trong, ngoài nước và
trong cộng đồng dân cư.
Mức đầu tư bảo vệ môi trường phải được tăng cường theo nhịp độ tăng
trưởng của nền kinh tế, trước mắt trong giai đoạn 2001-2005 hàng năm toàn xã
hội cần đầu tư để bảo vệ môi trường không dưới 1% GDP, trong đó huy động
khoảng 2% tổng chi ngân sách của nhà nước. Các doanh nghiệp được tính vốn
đầu tư bảo vệ môi trường trong giá thành chi phí sản xuất để huy động từ 1-2%
tổng chi phí của doanh nghiệp, ngoài ra cần huy động trong cộng đồng dân cư
và từ các nguồn viện trợ khác để đầu tư bảo vệ môi trường dưới mọi hình thức
khác nhau.
Nhà nước qui định mức kinh phí mà các doanh nghiệp phải đầu tư cho
bảo vệ môi trường, xử lý chất thải và có chính sách khuyến khích doanh nghiệp
đổi mới công nghệ thân thiện môi trường. Tranh thủ kinh phí từ các dự án Quốc
tế song phương, đa phương cho bảo vệ môi trường.
Ban hành Nghị định về tăng cường và đa dạng các nguồn vốn bảo vệ môi
trường, trong đó dự kiến hàng năm tăng dần tổng chi ngân sách cho hoạt động
bảo vệ môi trường 10%, thành lập cơ chế tài chính như Quỹ Môi trường Quốc
gia, địa phương, ngành và ngân hàng môi trường.
Thành lập Quỹ Môi trường Quốc gia để huy động các nguồn lực của Nhà
nước, cộng đồng, của các tổ chức trong và ngoài nước và sự ủng hộ, tài trợ của
các tổ chức quốc tế để tập trung giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc ưu
tiên. Quỹ môi trường là cơ chế tài chính để giải quyết những vấn đề bất cập hiện
21
Bùi Thị Lan Hương - CH13D


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
nay về đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường. Quỹ hỗ trợ đầu tư cho việc
phòng, chống, khắc phục suy thoái, ô nhiễm và sự cố môi trường; hỗ trợ các dự

án bảo vệ môi trường; hỗ trợ các dự án xử chất thải và đầu tư thay thế công nghệ
sạch. Quỹ Môi trường là tổ chức tài chính Nhà nước hoạt động trên phạm cả
nước, hoạt động theo điều lệ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Quỹ môi
trường được khai thác các nguồn kinh phí thu được từ việc áp dụng các công cụ
kinh tế như thuế, phí, quota chất thải, đặt cọc ký cược môi trường, các công kinh
tế này cần được nghiên cứu và triển khai một cách đồng bộ với các giải pháp: hỗ
trợ, khuyến khích, tăng cường năng lực cưỡng chế, tăng cường trang thiết bị kỹ
thuật kiểm tra giám sát, quan trắc môi trường, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn
môi trường.
4.4. Tăng cường năng lực quản lý nhà nước về môi trường
Phát triển bền vững trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và thực hiện chương trình hành động của thế kỷ 21, thế kỷ của chuẩn mực về
sinh thái nhân văn, của hội nhập khu vực và toàn cầu hoá trong thương mại với
môi trường. ...đòi hỏi phải kiện toàn tổ chức, tăng cường năng lực quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường.
Kiện toàn bộ máy tổ chức của hệ thống quản lý nhà nước về môi trường
từ trung ương đến địa phương, nâng cấp hệ thống cơ quan quản lý môi trường
trung ương thành lập Tổng cục Môi trường, hoặc Bộ Môi trường và kiện toàn tổ
chức quản lý môi trường ở các Bộ/ngành; kiện toàn tổ chức quản lý môi trường
ở cấp tỉnh, thành phố, quận huyện và các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công
nghiệp tập trung, .v.v..
Tăng cưòng năng lực quản lý nhà nước về môi trường phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ của hệ thống tổ chức như tăng cường nguồn lực về nhân lực về
đầu tư cho các hoạt động quản lý môi trường; chú trọng đầu tư cho nghiên cứu
chính sách và pháp luật, kiểm soát ô nhiễm và chất thải, thanh tra, hệ thống quan
trắc và phân tích môi trường, giáo dục và nâng cao nhận thức môi trường, cũng
như tăng cường các cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động quản lý Nhà nước về
môi trường từ Trung ương đến địa phương.
Bùi Thị Lan Hương - CH13D


22


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
Nghiên cứu thành lập một cơ chế quản lý liên ngành, có thể là một hội
đồng quốc gia về phát triển bền vững để điều phối thực hiện các mục tiêu, nội
dung các chương trình trong chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001-2010
cũng như thực hiện chương trình hành động của thế kỷ 21 mà Việt Nam đã ký
kết
4.5. Mở rộng hợp tác quốc tế và thu hút sự tài trợ của quốc tế
Môi trường quốc gia liên quan đến môi trường xuyên biên giới khu vực
và toàn cầu, vì vậy sự nghiệp bảo vệ môi trường của Việt nam cũng gắn với sự
nghiệp bảo vệ môi trường trong khu vực và trên toàn thế giới thông qua việc
thực hiện các Công ước quốc tế về môi trường, tham gia các chương trình, dự án
đa phương hoặc song phương về bảo vệ môi trường.
Phải tổ chức kiểm soát chặt chẽ bằng các biện pháp luật pháp, hành chính
nghiêm ngặt đi đôi với đối thoại, thương lượng trong việc vận dụng các thoả
thuận, các công ước, luật pháp quốc tế và thu hút tài trợ quốc tế như thu hút sự
trợ giúp của các nhà tài trợ, của nguồn ODA, của Quỹ môi trường toàn cầu
(GEF), của các hợp tác quốc tế đa phương, song phương.Phải tăng cường cơ chế
phối hợp thông qua việc thành lập Hội đồng các nhà tài trợ môi trường có thành
viên là đại diện của các tổ chức Quốc tế như chương trình phát triển của Liên
hợp quốc (UNDP), Ngân hành Thế giới (WB), Hiệp hội bảo vệ thiên nhiên thế
giới (IUCN),...
Hàng năm cần tổ chức diễn đàn các nhà tài trợ, tiến hành các hoạt động
trao đổi thông tin, thảo luận về các chủ đề có liên quan, các cơ chế hợp tác giữa
các bên liên quan, giữa các nhà tài trợ và giữa chính phủ với các nhà tài trợ để
phối hợp các nguồn viện trợ cho các chương trình, dự án hợp tác về môi trường.
Trên cơ sở chiến lược bảo vệ môi trường, cần xây dựng kế hoạch đầu tư
dài hạn, xác định các mục tiêu và danh mục các chương trình, dự án ODA và dự

án GEF để cân đối nguồn ngân sách quốc gia với hỗ trợ tài chính quốc tế. Ðể sử
dụng các nguồn tài chính quốc tế đó có hiệu quả, cần thiết phải tăng cường năng
lực các cơ quan đầu mối quốc gia, quốc tế về các chương trình, dự án thu hút từ
nguồn tài trợ quốc tế, nhất là các dự án được tài trợ từ nguồn vốn ODA, GEF.
Bùi Thị Lan Hương - CH13D

23


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
Ðối với nguồn vốn ODA cần nâng tỷ trọng viện trợ ODA cho môi trường
lên 2 lần so với tổng vốn viện trợ, đồng thời điều chỉnh cơ cấu ODA cho môi
trường, tập trung viện trợ nhiều hơn cho các dự án ưu tiên của chiến lược, tăng
cường năng lực cho các cơ quan quản lý môi trường ở TW, bộ/ ngành và địa
phương; Chú trọng khai thác nguồn ODA theo cơ chế của Nghị Ðịnh thư
KYOTO trong lĩnh vực biến đổi khí hậu.
Cần nhiều biện pháp có hiệu quả nhằm tranh thủ tối đa các dự án GEF để
hoà nhập các mục tiêu môi trường quốc gia với mục tiêu môi trường toàn cầu
trong các lĩnh vực ưu tiên đã được lựa chọn. Ðể thu hút được nhiều dự án từ
nguồn GEF, nhà nước đầu tư phát triển năng lực cho tổ chức GEF- Việt Nam, cơ
quan điều phối quốc gia trong lĩnh vực huy động nguồn GEF ở nước ta.
4.6. Kết hợp chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia với chiến lược phát
triển kinh tế xã hội
Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001-2010 là một bộ phận của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và là cơ sở để xây dựng chiến lươc bảo vệ
môi trường của các ngành, vùng và địa phương. Các chiến lược đó được thực
hiện trong 2 giai đoạn 5 năm: 2001-2005 và 2006-2010.
Giai đoạn 2001-2005 tập trung vào việc kết hợp giữa chiến lược kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội của tất cả các ngành, lĩnh vực nhằm xác định khuôn khổ
thích hợp để giám sát, báo cáo và có tính trách nhiệm. Các hoạt động và kế

hoạch về bảo vệ môi trường sẽ được chuẩn bị để đưa vào kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội. Giai đoạn chính trong quá trình này là xây dựng và thực hiện kế
hoạch môi trường cho các vùng kinh tế và vùng đa dạng sinh học được ưu tiên.
Các chương trình kiểm soát sự ô nhiễm môi trường, xây dựng năng lực và nâng
cao kỹ năng quản lý môi trường.
Giai đoạn 2006-2010 tập trung thực hiện các dự án ngăn ngừa ô nhiễm
môi trường. Trong giai đoạn này phải xử lý triệt để, đóng cửa hoặc di chuyển địa
điểm các cở sở sản xuất đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, những cơ
sở lạc hậu và không có khả năng đáp ứng được các tiêu chuẩn môi trường; Thực
Bùi Thị Lan Hương - CH13D

24


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
hiện các dự án cải thiện môi trường dự án nhằm khôi phục và nâng cao chất
lượng môi trường.
Các mục tiêu và nội dung của Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia
2001-2010 được kế hoạch hoá trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc
gia, các kế hoạch Ngành, địa phương và theo vùng kinh tế.
Bộ Kế hoạch và Ðầu tư và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường có
trách nhiệm thiết lập nhóm công tác liên bộ để hoà nhập các kế hoạch hành động
của Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội hàng năm, 5 năm và 10 năm chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nhóm công
tác này cần thực hiện ít nhất trong 2 năm, có nguồn ngân sách riêng cho hoạt
động của nhóm, thành phần nhóm gồm các nhà kinh tế môi trường để giúp phân
tích lợi ích chi phí của các chính sách phát triển chọn lọc.

Bùi Thị Lan Hương - CH13D


25


×