Lời nói đầu
Sau hơn 12 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế từ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ sang nền kinh tế thị trờng, Việt Nam đã
đạt đợc những thành tựu đáng kể tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển
thị trờng chứng khoán (TTCK). Việc TTCK ra đời ở Việt Nam là kết quả
khách quan của quá trình phát triển cơ chế thị trờng đồng thời là mốc đánh
dấu bớc tiến mới của quá trình phát triển này. Dự kiến trong năm nay hai
trung tâm giao dịch chứng khoán (CK) ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh
sẽ đi vào hoạt động có tác động tích cực cho sự phát triển kinh tế ở Việt
Nam. Hai trung tâm này hoạt động có hiệu quả cao hay không là phụ thuộc
phần lớn vào quá trình xây dựng, lựa chọn mô hình TTCK đáp ứng với yêu
cầu, điều kiện cụ thể của Việt Nam đồng thời phù hợp với tiêu chuẩn, tập
quán quốc tế. Xây dựng lên một mô hình TTCK hoàn thiện thì cần phải có
sự nghiên cứu, trao đổi khoa học và đóng góp trí tuệ của nhiều con ngời. Với
sự mong mỏi đợc tham gia vào quá trình nghiên cứu, trao đổi khoa học đó
em xin phép đợc chọn đề tài"Lựa chọn mô hình cho TTCK ở Việt Nam" hy
vọng hiểu sâu, rộng hơn về TTCK của các nớc trên thế giới, từ đó góp một
phần nhỏ bé vào quá trình xây dựng TTCK ở nớc ta.
Muốn xây dựng lên đợc một TTCK cần phải dựa vào nhiều cơ sở trong
đó có một cơ sở quan trọng là kinh nghiệm thành bại của các quốc gia đi trớc. Mỗi nớc, theo điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mình có mô hình
TTCK riêng, đa dạng, điều phổ biến là nghiên cứu nhiều mô hình TTCK của
các nớc này thì thu đợc nhiều kinh nghiệm phong phú và bổ ích. Tuy nhiên, ở
Việt Nam đây là vấn đề mới, phức tạp đồng thời do khó khăn của việc thu
thập thông tin, t liệu và do phạm vi bài viết có hạn nên chỉ xin lựa chọn 2 mô
hình TTCK có tính đặc trng cao và hoàn cảnh tơng đối phù hợp với Việt Nam
để nghiên cứu đó là TTCK ở Anh và Trung Quốc, những kinh nghiệm thành
công hay thất bại của 2 nớc này có thể là bổ ích giúp Việt Nam hoàn thiện
mô hình thị trờng của mình.
Chơng I:
Những vấn đề lý luận chung về thị trờng chứng khoán
I. Khái niệm chung về thị trờng chứng khoán
1. Khái niệm chung về thị trờng chứng khoán (TTCK)
Trong nền kinh tế thị trờng, vốn là yếu tố không thể thiếu trong sản xuất
và kinh doanh, nó có vị trí to lớn trong nền kinh tế. Do tầm quan trọng đó
nên vấn đề giao lu vốn trở thành một nhu cầu không thể thiếu. Nhu cầu này
bắt nguồn từ hai phía: ngời cần vốn và ngời có vốn.
Theo qui luật cung - cầu thì vốn sẽ đi từ nguồn d thừa vốn sang ngời cần
vốn có thể dới các hình thức sau: Hai bên trực tiếp gặp nhau qua những mối
quan hệ họ hàng, quen biết. Phạm vi giao lu vốn theo phơng pháp này rất hạn
hẹp. Thông dụng hơn, hoạt động giao lu vốn qua trung gian là các ngân
hàng. Song cách này bất lợi ở chỗ ngời gửi tiền chỉ đợc hởng lãi xuất cố định
và khi muốn rút tiền ra sớm thì họ sẽ không đợc hởng lãi xuất còn ngời cần
tiền lại phải có tài sản thế chấp và phải chịu trả lãi khá cao. Do đó, để hoạt
động giao lu vốn thuận lợi hơn, ngời ta tìm ra cách thứ ba, đó là sự ra đời của
giấy tờ có giá trị (có mệnh giá) mà có thể mua bán đợc, trong đó cần vốn sẽ
phát hành những chứng chỉ này và ngời d vốn sẽ mua nó. Nhu cầu mua bán
loại hàng đặc biệt này tăng lên làm xuất hiện một loại thị trờng mới, gọi là
thị trờng tài chính. Thị trờng tài chính
+ Thị trờng tài chính huy động vốn gắn hạn.
+ Thị trờng vốn huy động vốn trung và dài hạn.
Thị trờng chứng khoán là một bộ phận cấu thành quan trọng của thị trờng vốn, nó có chức năng huy động vốn trung và dài hạn. Trên TTCK loại
giấy tờ có mệnh giá đợc mua, bán có tên chung là chứng khoán. Từ đó ta có
thể đi đến khái niệm chung về TTCCK.
Khái niệm chung về thị trờng chứng khoán: TTCK là nơi diễn ra các
hoạt động mua, bán các loại chứng khoán trung và dài hạn. TTCK có đặc
điểm là tất cả giá cả trên thị trờng này đều do quan hệ cung, cầu quyết định,
mà không có bất cứ sự can thiệp hành chính nào. Sự can thiệp của nhà nớc
(nếu có) đợc thực hiện qua các chính sách điều tiết vĩ mô, chủ yếu qua sự nới
lỏng hay thu hẹp chính sách tiền tệ thông qua một hành lang pháp lý rõ ràng.
Có thể nói thị trờng chứng khoán là một thị trờng cao cấp và nhạy cảm nhất
trong nền kinh tế thị trờng.
Thị trờng chứng khoán gồm 2 bộ phận cấu thành là thị trờng sơ cấp và
thị trờng thứ cấp:
+ Thị trờng sơ cấp: là nơi ngời mua mua đợc chứng khoán lần đầu từ
những ngời phát hành chứng khoán.
+ Thị trờng thứ cấp: là nơi mua đi bán lại những chứng khoán đã đợc
phát hành từ thị trờng sơ cấp.
Thị trờng chứng khoán đợc chia ra làm 2 loại:TTCK tập trung (Sở Giao
dịch chứng khoán) và thị trờng phi tập trung (OTC: Over - The - Counter
Market).
+ Sở Giao dịch chứng khoán: có địa điểm chính thức (sàn giao dịch) để
mua bán chứng khoán đã đợc đăng ký hay chứng khoán biệt lệ (do nhà nớc
hoặc chính quyền địa phơng phát hành không cần đăng ký) với thời điểm
mua bán rõ ràng và giá cả đợc tính theo hình thức đấu giá công khai, có sự
kiểm soát của Hội đồng chứng khoán.
+ Thị trờng phi tập trung (OTC): là nơi mua, bán chứng khoán thờng là
không đợc đăng ký, ở bên ngoài Sở giao dịch chứng khoán, không có địa
điểm cố định, không có ngày giờ hay thủ tục qui định cụ thể, giá cả trên thị
trờng OTC trên cơ sở thoả thuận giữa ngời mua và ngời bán.
Do phạm vi của TTCK rộng nh vậy và vì tính quan trọng, chính thức
của SGDCK nên bài viết xin chỉ tập trung chủ yếu vào thị trờng chứng khoán
tập trung (SGDCK).
2. Các điều kiện cơ bản để xây dựng TTCK:
Để xây dựng thành công một thị trờng chứng khoán và đảm bảo cho thị
trờng vận hành an toàn, minh bạch, có tổ chức và hiệu quả thì cần thiết phải
tuân theo 6 điều kiện cơ bản sau:
1. Đối tợng đầu t hấp dẫn
2. Thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời.
3. Tính thanh khoản của thị trờng cao.
4. Bảo đảm công bằng trong thị trờng.
5. Khả năng tin cậy của quá trình giao dịch.
6. Chi phí giao dịch thấp.
Muốn thực hiện đợc 6 điều kiện cơ bản nêu trên thì việc lựa chọn và xây
dựng thành công một mô hình TTCK có vai trò hết sức quan trọng. Do đó,
với một nớc cha có TTCK nh Việt Nam thì việc Nhà nớc lựa chọn mô hình
TTCK phù hợp là hết sức thận trọng, cần học hỏi những kinh nghiệm thành
công và thất bại về thị trờng chứng khoán của các nớc khác trên thế giới
đồng thời phải phù hợp với điều kiện, đặc điểm kinh tế - xã hội của Việt
Nam. Tuy nhiên, trớc khi đa TTCK vào vận hành, chúng ta nghiên cứu và
làm rõ xem liệu nền kinh tế Việt Nam đã phát triển đến mức cần thiết phải
cho có TTCK hay cha? làm sáng tỏ điều này là việc cần thiết bởi nếu một
nền kinh tế còn quá yếu, mới phát triển ở mức độ thấp điều kiện cha chín
muồi mà đã thành lập TTCK thì ngợc lại TTCK sẽ có tác động
xấu, gây
lũng đoạn nền kinh tế, nhng nếu sự ra đời của TTCK là một nhu cầu tất yếu
của nền kinh tế thì TTCK sẽ phát huy vai trò tăng tốc thúc đẩy nền kinh tế
phát triển nhanh hơn.
II. Sự cần thiết ra đời TTCK ở Việt Nam:
1. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đến năm 2000:
Xuất phát từ kết quả 10 năm đổi mới, từ những tiền đề đã đợc tạo ra, tại
Đại hội Đại biểu toàn quốc llần thứ 8, tháng 6/1996, Đảng ta đã nhận định
rằng: "Nớc ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hiện
đại hoá là xây dựng nớc ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với
trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, văn
minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội"1
Trong hai năm 1996, 1997 chúng ta đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu đề ra,
song đến năm 1989, điều kiện khách quan có tác động không thuận lợi đối
với nền kinh tế nớc ta. Cụ thể là chúng ta bớc vào năm 1989 khi đợt bão lũ
lớn ở đồng bằng Nam Bộ cuối năm trớc còn để lại hậu hoạ nặng nề, lại tiếp
đến hạn hán gay gắt kéo dài cha từng thấy ở nhiều vùng đã làm giảm sản lợng nông nghiệp, dẫn đến xuất khẩu gạo giảm và làm giảm lợng ngoại tệ thu
về. Thêm vào đó, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở các Đông á bắt đầu
từ Thái Lan tháng 7/1997 đã tác động xấu đến nền kinh tế nớc ta. Kim
ngạch xuất khẩu giảm do thị trờng bị thu hẹp và bất lợi về giá cả làm thâm
hụt cán cân thơng mại càng thêm trầm trọng, đầu t trực tiếp nớc ngoài giảm
mạnh cả về dự án mới lẫn thực hiện những dự án đã đợc cấp giấy phép, dịch
vụ thu ngoại tệ sút kém, nhất là dịch vụ về hàng không, du lịch và viễn
thông... Trớc tình hình đó việc duy trì chỉ tiêu kinh tế đặt ra từ năm 1996 là
không thực tế. Do đó, ngày 17/7/1998, Uỷ bản thờng vụ Quốc hội đã họp,
quyết định điều chỉnh chỉ tiêu cho năm 1998 và sau đó đợc đa lên thành chỉ
tiêu cho giai đoạn 1998 - 2000 tại Hội nghị lần thứ 6 - Ban chấp hành Trung
ơng khoá 6 và kỳ họp thứ 4 - Quốc hội đã họp quyết định điều chỉnh chỉ tiêu
cho năm 1998 và sau đó đợc đa lên thành chỉ tiêu cho giai đoạn 1998 - 2000
tại Hội nghị lần thứ 6 - Ban chấp hành Trung ơng khoá 6 và kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá X. Cụ thể các chỉ tiêu đợc điều chỉnh nh sau3.
- Giữ nhịp độ tăng trởng kinh tế GDP từ 5% - 6%
- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng : 10% - 11%/năm
- Nông nghiệp tăng: 3,5% - 4%/năm
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, trang 18
Nghị quyết về việc điều chỉnh một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu năm 1998 - Báo Hà Nội mới ngày 21/7/1998
- trang 1
1
3
- Dịch vụ: 1% - 5%/năm
- Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng: 5% - 7%/năm
Điều chỉnh các chỉ tiêu sát hơn với thực tế nhằm đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao, còn mục tiêu chung đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nớc đợc đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ 8vẫn không thay đổi. Trên
thực tế tuy các mục tiêu kinh tế của Việt Nam có giảm song nếu so với nhiều
nớc trong khu vực (có một số nớc hiện nay đang ở tốc độ tăng trởng kinh tế
âm) thì chỉ tiêu tăng trởng kinh tế của Việt Nam khá cao. Trong khi đó, cuộc
khủng hoảng tài chính - tiền tệ vẫn đang tiếp tục tác động đến Việt Nam làm
cho đầu t trực tiếp nớc ngoài, xuất khẩu, viện trợ và dịch vụ vẫn cha có chiều
hớng phục hồi. Ví dụ năm 1998 xuất khẩu chỉ tăng 0,9%, đầu t nớc ngoài
giảm 25% về dự án và 14,6% về vốn so với năm 1997 (Tổng quan kinh tế
năm 1998 - kinh tế '98 - '99. Thời báo kinh tế - trang 7). Trong hoàn cảnh
khó khăn đó việc đạt đợc những chỉ tiêu đã đợc điều chỉnh đòi hỏi có nhiều
biện pháp đồng bộ, nỗ lực to lớn hơn nữa. Đảng và Chính phủ đã đề ra một
loạt các giải pháp trên mọi lĩnh vực, trong đó việc thiết lập thị trờng chứng
khoán bền vững, có hiệu quả là một trong những giải pháp quan trọng.
2. Vai trò của TTCK đối với nền kinh tế Việt Nam.
a. Thị trờng chứng khoán là công cụ thu hút vốn trung và dài hạn:
Xuất phát từ chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 với mục
tiêu trọng tâm là thực hiện chơng trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá,
trong giai đoạn 1996 - 2000, nhu cầu đầu t cần khoảng 41 -42 tỷ USD và
trong giai đoạn tiếp theo 2000 - 2010 nhu cầu vốn bình quân không dới 10 12 tỷ USD/năm1.
Nguồn vốn này từ trớc tới nay dựa vào 3 nguồn cơ bản là: Xuất khẩu,
đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI) và viện trợ phát triển (ODA). Nhng từ khi
cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở khu vực Đông á nổ ra thì cả 3 nguồn
vốn này đều bị giảm mạnh. Vậy vấn đề đặt ra là lấy vốn ở đâu để thực hiện
mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá? Câu trả lời ở đây chính là nguồn
1
UBCKNN với việc xây dựng TTCK - PTS Nguyễn Đức Quang - Chứng khoán Việt Nam 9/1998 - trang 11
vốn trong nớc nhng nguồn vốn này vẫn cha đợc tận dụng tối đa do Việt Nam
cha có TTCK. Từ trớc tới nay nguồn vốn trong nớc mới chỉ đợc huy động
chủ yếu qua các ngân hàng thơng mại, ngoài ra còn có các quỹ tín dụng, các
đợt phát hành công trái và trái phiếu (thờng là ngắn hạn và số lợng ít do cha
có TTCK). Tuy nhiên, các ngân hàng thơng mại có điểm yếu là phần lớn chỉ
huy động đợc vốn ngắn hạn, có lẽ bởi tâm lý của ngời Việt Nam sợ lạm phát
và hậu quả của sự sụp đổ các quỹ tín dụng nhân dân trong giai đoạn trớc còn
nặng nề nên không muốn gửi tiền dài hạn, thậm chí họ còn đổi ra vàng đô la
để cất giữ trong nhà. Trờng hợp nếu đợc mua cổ phần của các doanh nghiệp
đang làm ăn có lãi họ sẽ cảm giác yêu tâm hơn vì đợc sở hữu một phần công
ty phát hành có thể chuyển đổi cổ phiếu thành tiền bất cứ lúc nào trên TTCK
mà vẫn đợc hởng lãi, nhất là trong thời gian qua khi giá vàng và đo la có biến
động lớn thì việc cất giữ tiền dới hai dạng này cũng không còn trở nên an
toàn nữa. Một số nhà nghiên cứu ớc đoán lợng vốn nằm dân hiện nay xấp xỉ
khoảng 12-15 tỷ USD tức là lớn hơn toàn bộ nguồn vốn huy động của toàn
bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam tới thời điểm này 1. Thực tế chỉ riêng hệ
thống ngân hàng Công thơng trong thời gian gần 1 tháng đã huy động đợc
hơn 2000 tỷ VNĐ và 40 triệu USD từ khu vực dân c, song phần lớn là vốn
ngắn hạn2.Còn đối với các nhà đầu t không đủ khả năng hoặc không muốn
tham gia đầu t trực tiếp thì họ cũng không thể gửi tiền mặt vào Ngân hàng để
lấy lãi mà họ muốn thông qua TTCK để đầu t vào hoạt động sản xuất kinh
doanh hởng cổ tức. Có thể thấy rõ sức hút của TTCK ở các nớc qua bảng dới
đây:
Nớc
Tài sản Ngân hàng
Thị trờng cổ phiếu
Thị trờng trái phiếu
USD(tỷ)
GDP(%)
USD (tỷ) GDP(%)
USD(tỷ)
GDP(%)
195
270
11
9
Hongkong 257
205
Malaysia
70
100
199
283
40
56
Philippine
34
54
56
87
25
39
Singapore
115
186
135
217
45
72
Thailand
113
110
132
164
14
10
(Nguồn: The Emerging Bond Market 6/1995- WB)
Nếu Việ Nam có thị trờng CK thì các doanh nghiệp đều có thể huy
động đợng vốn trung và dài hạn mà không gặp các vớng mắc từ phía nhà
hàng. Hơn nữa, TTCK còn là yếu tố thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài vì
các nhà đầu t nớc ngoài thờng coi TTCK là hàn thử biểu của một nền kinh tế,
họ nhìn vào hoạt động của TTCK xem có tốt hay không để đa ra các quyết
định đầu t. Nói tóm lại, việc thành lập TTCK là cần thiết, nhất là trong bối
cảnh Việt Nam đang chịu ảnh hởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính
- tiền tệ trong khu vực, việc ra đời TTCK sẽ góp phần quan trọng phát huy
nội lực, tạo thêm động lực mới cho Việ Nam tiếp tục sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Thì trờng chứng khoán cùng với hệ thống ngân hàng sẽ tạo
nên một hệ thống tài chính đủ mạnh cung cấp các nguồn vốn ngắn, trung và
dài hạn cho nền kinh tế.
b. TTCK là phơng tiện của Chính phủ trong việc thực hiện các chơng
trình phát triển kinh tế - xã hội:
Bất cứ Chính phủ nào cũng có ngân sách để thực hiện các chơng trình
phát triển kinh tế - xã hội. Ngân sách Nhà nớc càng lớn thhì các chơng trình
này càng dễ thành công. ở Việ Nam, trớc đây ngân sách chủ yếu đợc lấy từ
ba nguồn là: thuế, vay tín dụng nớc ngoài và công trái. Song thu không đủ
chỉ dẫn đến tình trạng ngân sách Nhà nớc thờng xuyên bị thâm hụt, buộc
Chính phủ phải in thêm tiền và chịu sức ép lạm phát. Do đó từ năm 1992, Việ
Nam đã phát hành tín phiếu và trái phiếu kho bạc nhằm bù đắp ngân sách và
giảm bớt sức ép lamj phát. Nhng những tín phiếu và trái phiếu này mới chỉ ở
dạng ngắn hạn (trên dới 1 năm) và cha huy động đợc nhiều vốn trong dân. ở
các nớc, ngời mua trái phiếu Chính phủ dài hạn thờng không giữ trái phiếu
cho tới khi đáo hạn mà họ sẽ bán chúng trớc thời hạn trên TTCK khi cần
tiền. ở Việt Nam, do cha có TTCK nên trái phiếu Chính phủ phải phát hành ở
dạng ngắn hạn, rất khó sử dụng để đầu t vào các công trình lớn. Do vậy, việc
thiết lập TTCK là cần thiết, Chính phủ có thể thông qua thị trờng này phát
hành loại trái phiếu trung và dài hạn (5 năm, 10 năm) với số lợng lớn hơn vì
số ngời mua sẽ tăng lên do họ có nơi để mua, bán lại, trao đổi, chuyển nhợng
dễ dàng khi cần thiết.
Hơn nữa, Việt Nam hiện đang từng bớc hoà nhập vào nền kinh tế thế
giới qua các tổ chức AFTA, WTO... thì trong tơng lai chắc chắc hàng rào
thuế quan sẽ bị cắt giảm và huỷ bỏ. Đến lúc đó, nếucông cụ trái phiếu Chính
phủ cha hoàn thiện thì ngân sách Nhà nớc sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, ảnh hởng đến việc thực hiện các chơng trình kinh tế - xã hội. Do vậy, thiết lập
TTCK chứng tỏ là quyết định đúng đắn giúp Việt Nam thực hiện thành công
tiến trình hội nhập với thế giới.
c. TTCK góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc là chính sách đúng đắn bởi cổ phần
hoá giúp cho các doanh nghiệp tự chủ hơn trong sản xuất, kinh doanh tạo
khả năng làm ăn có hiệu quả hơn, huy động thêm đợc njhiêu vốn mà không
cần phải phụ thuộc vào các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ góp phần
tăng tốc độ phát triển kinh tế và các doanh nghiệp cũng sẽ vững vàng hơn để
bớc vào cuộc cạnh tranh với các Công ty nớc ngoài khi Việt Nam tăng cờng
hội nhập kinh tế vào khu vực và thế giới. Tuy nhiên, quá trình cổ phần hoá
doanh nghiệp ở Việt Nam diễn ra còn chậm. Mặc dù Nghị định 44/NĐ-CP
của Chính phủ ban hành ngày 29/6/1998 đã tạo bớc đột phá trong tiến trình
cổ phần hoá song chỉ đặc ra cho năm 1998 vẫn cha đợc hoàn thành. Muốn
đạt đợc chỉ tiêu cổ phần hoá 400 DNNN cho năm 1999 và 500 DN cho năm
2000 thì Chính phủ phải có nhiều biện pháp tích cực hơn, trong đó việc đa
TTCK vào vận hành là một trong những biện pháp quan trọng bởi TTCK và
công ty cổ phần nh hình với bóng. Một doanh nghiệp muốn cổ phần hoá thì
cầnphải có ngời mua cổ phiếu còn ngời mua chỉ mua cổ phiếu khi họ nắm rõ
về công ty phát hành và cổ phiếu đó phải có tính thanh khoản cao. Chỉ có thị
trờng chứng khoán mới đáp ứng đợc những yêu cầu này. Hơn nữa đối với các
doanh nghiệp, việc đầu t thị trờng chứng khoán là cách mở thêm một cửa làm
ăn chứ không đơn thuần chỉ tận dụng nguồn tiền nhàn rỗi tạm thời. Do vậy,
thị trờng chứng khoán là động lực cần thiết để đẩy nhanh quá trình cổ phần
hoá doanh nghiệp Nhà nớc đồng thời cũng tạo cơ hội cho các doanh nghiệp
tự phát triển.
Nói tóm lại, kết quả của hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới kinh
tế ở Việt Nam đã hội tụ tơng đối đầy đủ điều kiện để cho phép sự ra đời của
một thị trờng chứng khoán. Thị trờng chứng khoán đi vào hoạt động sẽ góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tạo thêm một kênh quan trọng huy động
các nguồn vốn trong và ngoài nớc, góp phần phát huy nội lực tinh thần của
Hội Nghị TW 4, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang phải
chịu những cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực. Tuy nhiên,
chúng ta không đợc nóng vội mà phải thận trọng, từng bớc xây đựng mô hình
thị trờng chứng khoán trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của thị trờng chứng
khoán các nớc trên thế giới đồng thời phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội của Việt Nam. Do vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu mô hình thị trờng
chứng khoán của các nớc trên thế giới là bổ ích đối với quá trình xây dựng
mô hình TTCK ở Việt Nam.
Chơng II.
Phân tích, và sự vận dụng vào điều kiện Việ Nam một số mô hình thị trờng chứng khoán quốc tế
(Mô hình TTCK Anh và TTCK Trung Quốc)
Nh trên đã nêu, việc phân tích, nghiên cứu mô hình TTCK của các nớc
trên thế giới là việc làm cần thiết cho việc xây dựng mô TTCK ở Việt Nam.
Việc nghiên cứu càng nhiều mô hình càng giúp cho việc xây dựng TTCK
Việt Nam hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, do phạm vi hẹp, lên chỉ xin tập trung
nghiên cứu hai mô hình TTCK: thị trờng chứng khoán Anh và TTCKTrung
Quốc.
I. Mô hình thị trờng chứng khoán và SGDCK London
TTCK Anh có số lợng tơng đối nhiều các SGDCK, do vậy việc nghiên
cứu thị trờng sẽ tập trung vào SGDCK London vì vậy đây là SGD đầu tiên đợc hình thành ở Anh và cũng là SGD quan trọng nhất của nớc này.
1. Quá trình hình thành và phát triển của SGDCK London.
Tiền thân của TTCK Anh là một quán cà phê đặc biệt tại khu vực
Thrreadneedlle Street vào thế kỷ 17, dành cho những ngời mua bán chứng
khoán của Công ty. Các chi tiết về các công ty khác nhau có cổ phần đợc
chào bán trên các bàn của tiệm cafe đó và hầu bàn là những ngời đa tin cho
các nhà kinh doanh. Đầu năm 1700, nhà nớc vì nhận thấy sự thành công của
các nhà kinh doanh trong việc huy động vốn đầu t công chúng nên đã quyết
định áp dụng phơng pháp này để tài trợ cho những chi phí của mình. Do vậy,
bắt đầu sự hình thành các chứng khoán lãi suất cố định cung cấp một giải
pháp an toàn hơn so với mức độ rủi ro của các công ty cổ phần. Sau đó,
những cuộc kinh doanh về chứng khoán và cổ phiếu đã phát triển đến mức
cần có một thị trờng trung tâm. Do đó, năm 1773, các nhà môi giới đã mua
một căn nhà ở Threadneedllle Street để lập ra một phòng giao dịch có tên
"Toà nhà giao dịch chứng khoán", đây thực chất chính là SGDCK London.
Đến năm 1812 SGD đợc công nhận chính thức và lần đầu tiên đã phát hành
quyển sách qui tắc SGD.
Sự suy thái kinh tế vào những năm 19202 cộng với sự sụp đổ của
SGDCK ở Wall Street - New york (1929) tạo nên một thời kỳ khó khăn cho
các nhà đầu t và SGĐ, mãi đến cuối những năm 1930s mới có dấu hiệu phục
hồi nhng lại bị gián đoạn do chiến tranh thế giới lần thứ 2 gây ra. Sau chiến
tranh cho đến đầu những năm 1960s hoạt động của SGD tăng đều đặn vì nên
kinh tế Anh phát triển ổn định. Từ cuối những năm 1960 s, nền kinh tế liên
tục chịu khủng hoảng làm cho TTCK biến động mạnh. Năm 1974, SGD chịu
một cuộc "đầu cơ giá xuống" nặng nề nhất cha từng thấy trong nhiều thập
kỷ. Sang đến những năm 1980s nền kinh tế vẫn tiếp tục suy thoái nặng nề,
nhất là trong ngành công nghiệp đã tạo nên bầu không khí ảm đạm ở TTCK.
Để khôi phục lại sự sôi độngở SGD, năm 1986 chính phủ Anh đã đa ra hàng
loạt những cải cách lớn đối với TTCK nh loại bỏ cơ chế hoa hồng cố định
(SGD quy định mức hoa hồng tối thiểu và nhà môi giới không đợc tính hoa
hồng với khách hàng thấp hơn mức quy định này) thay vào đó cho phép các
công ty chứng khoán đợc tự đa ra mức giá dịch vụ của họ đối với khách
hàng, cho phép các công ty CK đợc thực hiện 2 chức năng môi giới và kinh
doanh CK mà vốn trớc đó các công ty này chỉ đợc thực hiện một trong 2
chức năng trên, cho phép các ngân hàng đợc tham gia vào hoạt động CK ...
Các thay đổi đã tạo dáng lại toàn bộ kỹ nghệ chứng khoán Anh và do tính
chất triệt để của việc thực hiện những thay đổi đó cho nên nhiều ngời gọi là
"cú nổ lớn" (Big bang). Trên cơ sở những cải cách này, TTCK Anh tiếp tục
phát triển đến ngày nay.
Nhìn vào lịch sử phát triển, có thể thấy TTCK Anh đợc hình thànhtrên
cơ sở tự phát, sau đó mới có sự tham gia điều tiết của chính phủ Anh. Trải
qua quá trình lịch sử lâu dài với những bớc thăng trầm, ngày nay TTCK Anh
phát triển khá vững vàng và đã trở thành một trung tâm tài chính lớn của thế
giới.
2. Hệ thống và cơ chế quản lý của TTCK Anh.
Công việc quản lý hoạt động tài chính ở Anh vốn đợc phân chia cho
nhiều cơ quan phụ trách. Riêng đối với lĩnh vực CK có 2 cơ quan quản lý
trực tiếp là:
+ Cơ quan quản lý CK và các hợp đồng tơng lai (Securities and Futures
Authority): Phụ trách hoạt động kinh doanh CK và các hàng hoá có nguồn
gốc CK.
+ Ban CK và đầu t (Securities and Investments Board): Phụ trách việc
giám sát SGD và cơ quan thanh toán bù trừ.
Còn lĩnh vực ngân hàng do 3 cơ quan khác quản lý. Việc phân tán
quyền quản lý cho nhiều cơ quan dễ tạo ra sự phối hợp thiếu đồng bộ, làm
cho quá trình giải quyết các công việc thờng bị chậm lại. Do đó, năm 1998,
Quốc hội Anh đã quyết định thành lập cơ quan quản lý các dịch vụ tài chính
(Financial Services Authority - FSA) và sẽ đợc đa vào hoạt động trong năm
1999. Cơ quan này tập trung quyền quản lý trên cả 3 lĩnh vực: Ngân hàng,
đầu t và bảo hiểm. Trong lĩnh vực đầu t bao gồm cả TTCK. Cơ quan này chịu
trách nhiệm trớc Bộ Tài chính, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trớc Quốc hội
và chịu sự quản lý trực tiếp của Uỷ ban Tài chính Quốc hội. Có thể khái quát
mối quan hệ này qua sơ đồ sau:
*********
Đứng đầu cơ quan FSA là một Chủ tịch phụ trách chung, bên cạnh là một
Ban trợ lý. Dới Chủ tịch là 3 ban Giám đốc.
(1) Ban Giám đốc phụ trách hành chính gồm:
- Giám đốc nhân sự
- Giám đốc phụ trách kế hoạch tài chính và kinh doanh.
- Giám đốc phụ trách về thơng mại, công nghiệp và viễn thông.
- Giám đốc quản lý trụ sở, văn phòng.
(2)Ban giám đốc phụ trách các dịch vụ tài chính gồm:
- Giám đốc quản lý các tập đoàn
- Giám đốc phụ trách các công ty bảo hiểm và quỹ đầu t
- Giám đốc phụ trách lĩnh vực ngân hàng.
- Giám đốc phụ trách lĩnh vực kinh doanh và đầu t
- Giám đốc phụ trách thị trờng
(3) Ban giám đốc phụ trách việc soạn thảo các qui định và bảo đảm thực
thi.
- Giám đốc phụ trách soạn thảo và thực thi các qui định.
- Giám đốc phụ trách lĩnh vực bảo vệ quyền lợi ngời đầu t, kinh doanh.
- Giám đốc phụ trách đào tạo.
Tổng số nhân viên của FSA khoảng 2000 ngời (riêng lĩnh vực đầu t và
ngân hàng là 1700 ngời) với ngân sách là 144 triệu bảng Anh 1, nguồn ngân
sách này chủ yếu lấy từ lệ phí hoạt động trên các lĩnh vực tài chính. Trong
lĩnh vực TTCK, FSA phụ trách chung các SGDCK và các tổ chức thanh toán
bù trừ. FSA có quyền hạn và chức năng sau:
- Xây dựng, ban hành và bảo đảm thi hành các văn bản pháp lý, các qui
định có liên quan đến hoạt động của TTCK.
- Có quyền yêu cầu CSD cung cấp các thông tin cụ thể trong thời gian
cần thiết.
- Thông qua hoặc không thông qua đơn xin phép của các tổ chức tự
quản (Self - Regulating Organizations), SGDCK, các tổ chức t vấn đầu t, các
tổ chức thanh toán bù trừ. FSA không có quyền giới hạn số lợng Sở Giao
dịch.
-Thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động đầu t.
Trong trờng hợp phát hiện ra hành vi kinh doanh phạm pháp trên TTCK
thì việc xử lý đợc phân định nh sau:
1
Regulation of Secondary Market in the UK - FSA -1998 - Trang 12
- FSA phối hợp với cơ quan điều tra và cơ quan quyền lực cấp trên có
liên quan xét xử các hành vi kinh doanh phạm pháp mang tính dân sự.
- Nếu hành vi phạm pháp mang tính hình sự thì phải chuyển lên các cơ
quan công tố, phòng điều tra các vụ lừa đảo nghiêm trọng và Bộ thơng mại
và Công nghiệp.
+ Các vụ tính toán sai lệch nhằm ăn cắp tài sản và những vụ gây lũng
đoạn thị trờng sẽ thuộc thẩm quyền của cơ quan công tố và Phòng điều tra
những vụ lừa đảo nghiêm trọng.
+ Những vụ buôn bán nội gián thuộc thẩm quyền xử lý của Bộ Thơng
mại và Công nghiệp.
Nh vậy, FSA là cơ quan quản lý bao trùm các hoạt động tài chính nói
chung và TTCK nói riêng.
Quản lý trực tiếp lĩnh vực TTCK, bên dới FSA là các SGDCK. ở Anh,
các SGD thuộc về t nhân và phần lớn do vốn của t nhân tài trợ. SGD đợc tổ
chức dới hình thức công ty cổ phần. Các thành viên của SGD bao gồm các cá
nhân đồng sở hữu SGD và điều hành thông qua Hội đồng các thành viên. Các
thành viên phải tuân theo các điều lệ và quy định do chính SGD đặt ra phù
hợp với quy định của FSA. Ngoài ra SGD còn có đạo lý bất thành văn bản
mà mọi thành viên đều chấp nhận và đợc phản ánh qua câu châm ngôn:"Lời
nói của tôi là điều ràng buộc tôi". Câu này có vẻ nh một truyền thống lãng
mạn nhng đó chính là điều rất căn bản để theo đó thị trờng duy trì và phát
triển. Chức năng chính của SGD là:
+ Tuân thủ các quy định chung của FSA
+ Đảm bảo cho đầu t, ngời phát hành và các tổ chức tham gia thị trờng
khác một thị trờng thuận tiện, công bằng và an toàn.
+ Xây dựng các luật lệ, quy định tiến hành giao dịch, kinh doanh trên
thị trờng.
+ Giám sát, ngăn chặn buôn bán nội gián và các hành vi kinh doanh
phạm pháp, nếu phát hiện thấy có hiện tợng lập tức chuyển thông tin lên các
cơ quan có thẩm quyền (Bộ Công nghiệp và Thơng mại, FSA, Phòng Công tố
viên và Phòng Điều tra những vụ lừa đảo nghiêm trọng).
+ Hoạt động của SGD phải dựa trên kế hoạch hoạt động hàng năm do
SGD lập và trình lên FSA.
+ Tổ chức các cuộc họp định kỳ và các cuộc họp cấp cao bàn về công
việc của Sở.
+ Xem xet có thể quyết định sửa đổi điều lệ, quy định theo những kiến
nghị của các công ty thành viên.
+Bảo đảm việc cung cấp thông tin trên thị trờng chính xác, đúng thời
gian quy định.
+ Nộp báo cáo định kỳ về tình hình giao dịch của Sở cho FSA.
+ Tiến hành các dự án nghiên cứu lớn về TTCK.
+ Nhanh chóng phát hiện dấu hiệu rủi ro lớn đối với TTCK để có biện
pháp phòng tránh kịp thời.
+ SGD có quyền xét xử những hành vi lạm dụng thị trờng, vi phạm luật
lệ và quy định của SGD.
Trong trờng hợp xảy ra khủng hoảng thị trờng, SGD có quyền:
+ Ngừng phiên giao dịch trong khoảng một thời gian nhất định
+ Lập tức tìm nguyên nhân để có biện pháp giải quyết kịp thời. Trớc
hết tập trung điều tra vào hoạt động bán khống trên thị trờng.
SGD phải lập thành Quỹ bồi thờng, quỹ này do các thành viên của SGD
đóng góp để bồi thờng những thiệt hại cho nhà đầu t, trong trờng hợp khách
hàng mất tiền vì lỗi của công ty thành viên. Việc thanh toán bồi thờng sẽ
không đợc tự động thực hiện mà phải xem xét các tình huống của từng trờng
hợp.
Nói tóm lại, SGDCK Anh là tổ chức thuộc về t nhân, hoạt động vì mục
tiêu lợi nhuận, quyền kiểm soát của SGD đối với TTCK là khá lớn. Đây là
điểm khác nhau giữa TTCK Anh và TTCK Trung Quốc. Tuy nhiên, do tầm
quan trọng của TTCK đối với nền kinh tế nên Chính phủ Anh không thể để
toàn bộ quyền kiểm soát TTCK trong tay SGD mà phải lập ra một cơ quan
quản lý cấp Nhà nớc (FSA). Cơ quan này quản lý chung ở cấp vĩ mô các dịch
vụ tài chính trong đó có TTCK. Mô hình này giúp cho TTCK có tính linh
hoạt cao, phản ứng nhanh với những biến cố xảy ra, song do SGD nắm
quyền khá lớn nên Chính phủ Anh sẽ khó hớng TTCK hoạt động phù hợp với
những mục tiêu, lợi ích kinh tế - xã hội của quốc gia.
3. Các chủ thể hoạt động trên SGDCK:
Chủ thể quan trọng nhất hoạt động trên SGD là các công ty thành viên
hay còn gọi là các công ty chứng khoán. Các công ty này có thể là công ty
môi giới hoặc công ty kinh doanh CK hoặc là công ty môi giới kinh doanh
CK. Mức phí hoa hồng trên các dịch vụ chứng khoán là do từng công ty
quyết định. Trên thực tế là do Sở giao dịch CK thực hiện hệ thống ghép lệnh
hoàn toàn nên hầu nh ngày nay ở Anh không còn tồn tại công ty môi giới CK
thuần tuý nữa. Tuy nhiên, do SGD cha thực hiện ghép lệnh tự động hoàn toàn
tất cả các loại CK trên thị trờng và có thể do nhu cầu của khách hàng nên
dịch vụ môi giới ở các công ty CK vẫn còn tồn tại, nhng thực chất hoạt động
môi giới này chỉ mang tính chất là sự chuyển lệnh vào hệ thống qua trung
gian. Các công ty chứng khoán có thể đăng ký thực hiện chức năng chuyên
gia CK (Market makers) đối với một số CK nhất định, chuyên gia CK có vai
trò làm cân bằng thị trờng, khi một loại cổ phiếu có nhiều lệnh mua vào mà
không có lệnh bán ra tơng ứng sẽ dẫn đến khả năng có thể đẩy giá CK đó lên
cao thì chuyên gia phải dùng CK của mình để bán ra làm cân bằng thị trờng,
và ngợc lại nếu nhiều lệnh bán ra mà không có lệnh mua vào tơng ứng thì
chuyên gia chứng khoán phải mua vào một lợng CK nhất định để tạo cân
bằng cho thị trờng. Với chức năng này, công ty CK phải sẵn sàng kinh doanh
và phải báo giá chắc chắn mọi thời điểm đối với các loại CK mà họ đăng ký
để đảm bảo tính thông suốt trên thị trờng.
Trớc đây, trong thành phần các công ty CK không có sự tham gia của
các ngân hàng nhng sau đó do sự phát triển mạnh mẽ của TTCK, ngời ta
nhận thấy rằng các công ty thành viên lớn nhất và vững mạnh nhất của SGD
Anh cũng không thể gom đủ số lợng tiền không lồ cần thiết để có thể cạnh
tranh với các nhà kinh doanh CK lớn hơn của Mỹ và Nhật Bản. Do vậy, các
công ty này cần tiếp sức bằng nguồn sức mạnh tài chính của các định chế tài
chính lớn nhất Vơng Quốc Anh - đó là các ngân hàng lớn. Tuy nhiên, cũng
nảy sinh một vấn đề là công ty CK thuộc một ngân hàng thực hiện giao dịch,
kinh doanh cổ phần của công ty khác mà ngân hàng này đóng vai trò t vấn
hoặc vai trò ngân hàng của công ty đó. Nếu nh các bộ phận của ngân hàng
trao đổi những thông tin với nhau về công ty có cổ phiếu thì ngân hàng sẽ là
ngời đợc hởng lợi nhất trên TTCK và TTCK không còn là một "sân chơi công
bằng" với mọi nhà đầu t nữa. Do vậy, trong điều lệ quản lý kinh doanh của
Ban chứng khoán và đầu t (nay sát nhập vào FSA) xuất hiện khái niệm "bức
tờng Trung Hoa" (Chinese wall) nhằm ngăn chặn việc truyền thông tin nhạy
cảm về cổ phần giữa các bộ phận giữ chức năng khác nhau của một ngân
hàng. Nếu ngân hàng vi phạm sẽ bị xử phạt nặng (nhẹ nhất là bồi thờng danh
dự cho ngời bị vi phạm và khách hàng).
Khác với các SGD khác, thành phần tham gia trực tiếp vào các SGD ở
Anh còn có các khách hàng. Do SGDCK Anh sử dụng hệ thống ghép lệnh tự
động đa lệnh mua hay bán CK của mình vào hệ thống qu máy tính có nối
mạng với SGD của mình mà không cần phải qua các nhà môi giới CK.
Những khách hàng này chủ yếu là những nhà kinh doanh độc lập lớn, các
công ty bảo hiểm, quỹ hu trí và các quỹ đầu t.
Quỹ đầu t là một phơng tiện tốt cho các nhà đầu t cá thể muốn tìm cách
đa dạng hoá đầu t vào TTCK hoặc những ngời muốn tham gia đầu t vào
TTCK nhng không có đủ kinh nghiệm và vốn để đầu t độc lập.
Chủ thể thứ ba không thể thiếu trên TTCK là các tổ chức thanh toán bù
trừ (clearing houses). Các tổ chức này có nhiệm vụ thực hiện việc thanh toán
cho khách hàng sau khi giao dịch đợc thực hiện và làm luôn dịch vụ lu giữ
CK cho khách hàng. ở Anh, các tổ chức thanh toán đợc nối mạng với hệ
thống máy tính của SGD và cung cấp các dịch vụ thanh toán qua hệ thống
máy tính dới hình thức ghi sổ (phi vật chất CK). Hiện nay, các tổ chức thanh
toán bù trừ của Anh sử dụng hệ thống CREST với thời gian thanh toán là 5
ngày. Các tổ chức thanh toán muốn thành lập phải đợc sự chấp thuận của
FSA là chịu sự quản lý của FSA, đồng thời cũng phải tuân thủ Luật về dịch
vụ tài chính của Anh. SGD và các tổ chức thanh toán bù trừ phải phối hợp
hoạt động cũng nh phối hợp giải quyết khi có sự cố để tạo sự trôi chảy cho
TTCK.
4. Hệ thống ghép lệnh:
SGDCK London sử dụng phơng pháp ghép lệnh tự động phi tập trung
nghĩa là các giao dịch đợc thực hiện qua hệ thống máy tính điện tử nối mạng
giữa các công ty CK, khách hàng, SGD và tổ chức thanh toán bù trừ. Đây là
TTCK đã bỏ sàn giao dịch và hầu nh không còn các nhà môi giới CK nữa.
Giá giao dịch ở các thị trờng này đợc xác lập theo phơng pháp so khớp lệnh
hoặc theo phơng pháp so khớp các tập hợp lệnh. Phơng pháp so khớp về tính
chất đợc hình thành nh giao dịch thủ công, nghĩa là có hai lệnh so khớp thì 2
lệnh đó đợc thực hiện. Nếu giá giao dịch đợc xác lập theo các tập hợp đăng
ký lệnh thì giá chốt là giá có số lợng CK mua bán đợc nhiều nhất trong số
những lệnh đã đăng ký.
Do sử dụng hệ thống ghép lệnh tự động nên cổ phiếu trên SGD London
đợc chia thành 4 loại: Anpha, bêta, gama và denta. Loại anpha bao gồm các
chứng khoán vốn của các công ty hàng đầu ở Anh, loại này đợc ghép lệnh
liên tục từ khi mở cửa đến khi đóng cửa thị trờng. Loại gama có rất ít giao
dịch nên đợc chuyển sang một hệ thống dành riêng cho các cổ phiếu có tính
linh hoạt kém. Còn cổ phiếu đenta bao gồm các chứng khoán không có báo
giá trên hệ thống ghép lệnh tự động. Việc phân loại này giúp cho hoạt động
giao dịch không bị rối loạn.
Trong hoạt động giao dịch CK, SGDCK Anh cho phép sử dụng lệnh bán
khống và các giao dịch kỳ hạn (bao gồm các quyền lựa chọn và hợp đồng t-
ơng lai). Tuy nhiên những giao dịch này cũng phải tuân theo một số qui định
nhất định để không gây rối loạn thị trờng.
5. Hệ thống chỉ báo của thị trờng chứng khoán Anh
Hệ thống chỉ báo của TTCK là những chỉ tiêu phản ánh bức tranh của
TTCK và tình hình kinh tế tại những thời điểm hoặc thời kỳ khác nhau của
từng quốc gia, từng nhóm ngành. Hệ thống chỉ báo của TTCK đợc phân
thành 3 nhóm lớn:
+ Hệ thống chỉ báo cổ phiếu.
+ Hệ thống chỉ báo trái phiếu
+ Hệ thống chỉ báo khác.
Tuy nhiên, hệ thống chỉ số thờng hay đợc sử dụng nhất là chỉ số giá cổ
phiếu vì chỉ số này đợc coi là phong vũ biểu thể hiện tình hình hoạt động của
TTCK. Các nhà đầu t thờng xem xét chỉ số này để đánh giá thị trờng CK và
đánh giá nền kinh tế. Chỉ số này đợc tính theo giá cổ phiếu bình quân trên thị
trờng tại từng thời điểm, thờng đợc đem so sánh với thời kỳ gốc đã chọn. Giá
bình quân thời kỳ gốc thờng đợc lấy là 100 hoặc 1000. Trên SGDCK
London có hai chỉ số cổ phiếu nổi tiếng nhất là:
+ Chỉ số FT - 30: là chỉ số giá của 30 cổ phiếu công nghiệp hàng đầu
của TTCK London. Chỉ số này đợc công bố từng giờ một kể từ 10h sáng cho
đến 3h chiều và vào lúc đóng cửa SGD. Thời gian gốc là năm 1935 với giá trị
100.
+ Chỉ số FT - SE 100: là chỉ số giá của 100 cổ phiếu hàng đầu tại
SGDCK London. Ngày gốc là ngày 3/1/1984 với giá trị gốc là: 1.000
Các chỉ số này đều đợc quy định điểm "giới hạn" và "điểm liệt". Chẳng
hạn ngời ta có thể quy định "điểm giới hạn" là 1.200 điểm và "điểm liệt" là
600 điểm, điều đó có nghĩa là nếu chỉ số vợt lên trên 1.200 điểm là nền kinh
tế đang phát triển theo chiều hớng đi lên, còn dới 1.200 điểm là báo hiệu sự
suy thoái kinh tế và khi chỉ số giảm đến 600 điểm thì thị trờng tự đồng đóng
cửa để có thời gian lấy lại cân bằng cho thị trờng và tránh khủng hoảng kinh
tế. Nh vậy, có thể nói TTCK là chiếc hàn thử biểu của nền kinh tế vì khi nhìn
vào chỉ số thị trờng ngời ta có thể biết đợc tình hình kinh tế của một quốc
gia.
6. Nhận xét chung về TTCK Anh:
Qua quá trình hình thành, phát triển cũng nh cơ cấu tổ chức quản lý có
thể nhận thấy TTCK Anh mang đậm màu sắc của chủ nghĩa t bản, có nghĩa
là hoạt động của TTCK nhằm phục vụ lợi ích t nhân. Tuy nhiên, điều không
thể phủ nhận là cơ chế quản lý TTCK ở Anh khá đồng bộ và chặt chẽ, có sự
phối hợp đồng bộ và nhịp nhàng của TTCK với các lĩnh vực tài chính khác
có liên quan. Mô hình phân cấp quản lý SGDCK Anh tạo cho TTCK Anh khả
năng linh hoạt và phản ứng nhanh trớc những biến cố xảy ra làm giảm hậu
quả ở mức tối đa. Hiện nay, hệ thống ghép lệnh tự động của SGD London là
một trong những hệ thống hiện đại nhất trên thế giơí. Hệ thống này tiết kiệm
đợc thời gian, nhân viên và các chi phí cho dịch vụ giao dịch, đồng thời cho
phép cung cấp thông tin ở mức nhanh và chính xác cao nhất. Tuy nhiên, tiền
đầu t xây dựng hệ thống này là rất lớn, đây là vấn đề Việt Nam cần xem xét
khi xây dựng trung tâm giao dịch chứng khoán.
II. Mô hình TTCK Trung Quốc - SGDCK Thợng hải và thâm quyến:
1.Quá trình hình thành và phát triển:
Từ đầu những năm 80, nhận thức đợc tầm quan trọng của việc huy động
vốn trong nớc cho đầu t phát triển kinh tế, Chính phủ Trung Quốc bắt đầu
thực hiện các chính sách nhằm xây dựng TTCK. Bắt đầu từ năm 1981, chính
quyền trung ơng nối lại việc phát hành trái phiếu với tổng giá trị lên tới 45,5
tỷ nhân dân tệ1 theo cơ chế phân bổ bắt buộc. Tiếp sau đó các loại trái phiếu
doanh nghiệp nhà nớc , trái phiếu doanh nghiệp địa phơng cũng dần dần đợc
phát hành. Nhằm tạo dựng hàng hoá cho thị trờng chứng khoán, công tác cổ
phần hoá bắt đầu đợc thực hiện, trong đó nổi bật là ở Thợng Hải. Nhà nớc
đã thực hiện cổ phần hoá hàng loạt các xí nghiệp quốc doanh trong nhiều
Các giải pháp tài chính thúc đẩy sự hình thành và phát triển TTCK Việt Nam - Viện nghiên cứu tài chính
-Hà Nội 1998 - trang 1
1
lĩnh vực theo nguyên tắc không bán vốn hiện có của nhà nớc tại công ty mà
chỉ phát hành thêm cổ phiếu để huy động thêm vốn, mở rộng qui mô hoạt
động cho công ty. Nhằm tạo điều kiện thu hút tối đa mọi nguồn lực cho công
cuộc xây dựng kinh tế, đồng thời để phục vụ cho việc quản lý việc phát hành
và đầu t chứng khoán, Trung Quốc đã thực hiện đa dạng hoá các loại cổ
phiếu đợc phát hành:
+ Cổ phiếu loại A bán cho ngời trong nớc
+ Cổ phiếu loại B dành cho ngời nớc ngoài (mua bán bằng ngoại tệ).
+ Cổ phiếu C do các DNNN nắm giữ nhằm nắm quyền sở hữu đối với
các công ty mới thành lập.
+ Cổ phiếu loại H niêm yết tại SGD Hongkong
+ Cổ phiếu loại N niêm yết tại SGD New york
Sau khi tiến hành tạo hàng hoá cho TTCK, Chính phủ chủ trơng mở một
số bàn mua bán lại chứng khoán tại các Ngân hàng thơng mại. Sau đó, các
quầy này cũng không đáp ứng đủ nhu cầu nên Bộ tài chính phải mở thêm
một số quầy mua bán chứng khoán nữa. Việc hình thành các quầy mua bán
chứng khoán tại các Ngân hàng thơng mại là bớc sơ khai của quá trình thành
lập các công ty chứng khoán ở Trung Quốc. Tiếp đó, nhà nớc đa ra nhiều
chính sách khuyến khích đầu t và phát hành cổ phiếu nên đã đẩy nhanh đợc
số lợng công ty phát hành và thu hút đợc nhiều nhà đầu t. Sau khi cung cấp
chứng khoán đã đạt đợc qui mô tơng đối ổn định, Chính phủ quyết định
thành lập Sở giao dịch chứng khoán Thợng Hải (năm 1990) và Sở GDCK
Thâm Quyến (năm 1991). Cả hai SGD này đều do Nhà nớc thành lập và
trao cho chính quyền địa phơng quản lý. Tuy nhiên, việc trao cho chính
quyền địa phơng quản lý các SGD đã gây ra một số khó khăn cho việc quản
lý thống nhất TTCK trong cả nớc vì các địa phơng thờng quá tập trung vào
lợi ích của riêng mình mà không chú trọng tới lợi ích tổng thể của toàn
quốc. Do đó, đến tháng 10/1992, Hội đồng Nhà nớc đã quyết định thành
lập Uỷ ban Hội đồng chính sách chứng khoán Nhà nớc và uỷ ban giám quản
chứng khoán để tập trung sự quản lý đối với TTCK. Nh vậy, sự ra đời của
SGDCK Thợng Hải và Thâm Quyến đã đánh dấu sự hình thành TTCK ở
Trung Quốc và cho đến nay hai SGD này vẫn tiếp tục phát triển à hoàn thiện.
2. Hệ thống và cơ chế quản lý TTCK:
Công tác quản lý TTCK Trung Quốc tập trung trong một cơ quan cấp
quốc gia do Quốc vụ viện thành lập và trực thuộc Quốc vụ viện. Cơ quan này
đợc xây dựng theo hai cấp:
- Hội đồng hoạch định chính sách chứng khoán nhà nớc
(HĐHĐCSNN): Là cơ quan cơ quan cấp I, chịu trách nhiệm ban hành các
chính sách vĩ mô đối với TTCK, bao gồm cả việc châp thuận thành lập
SGDCK mới, các qui định và qui chế về TTCK. HĐHĐCSCK nhà nớc có các
thành viên là đại diện các Bộ, ngành liên quan (Bộ Tài chính, Uỷ ban kế
hoạch nhà nớc, Bộ kinh tế đối ngoại và thơng mại, Uỷ ban nhà nớc về sửa
đổi cơ cấu kinh tế...)
- Uỷ ban giám quản chứng khoán (UBGQCK): là cơ quan quản lý cấp
II, đợc thành lập và hoạt động một cách độc lập. Các chức năng chính của
UBGQCK bao gồm:
+ Dự thảo các quy chế và quy định.
+ Giám sát và quản lý công tác phát hành công khai, niêm yết và giao
dịch CK (Kiểm tra bản cáo bạch, giám sát các hoạt động kinh doanh CK...)
+ Giám sát và quản lý các công ty CK, các công ty lu ký, thanh toán bù
trừ và chuyển giao CK, các quỹ tơng hỗ và các nhà đầu t có tổ chức tham gia
vào TTCK.
+ Xây dựng các tiêu chí cho việc cấp giấy phép hành nghề CK.
+ Quản lý của công ty đợc niêm yết trên SGDCK hải ngoại.
+ Giám sát hoạt động của các SGDCK và hệ thống yết giá tự động
+ Chỉ định Chủ tịch của SGDCK.
Chức năng của SGDCK ban đầu đợc quy định tại các văn bản dới luật
sau đó đã đợc đa vào Luật chứng khoán. Luật này đã đợc Uỷ ban thờng vụ
Quốc hội Trung Quốc thông qua ngày 29/9/1998 và sẽ bắt đầu có hiệu lực từ
ngày 1/7/1999. Nh vậy, nhiệm vụ quản lý TTCK tập trung trong tay
UBGQCK Trung Quốc thay vì sự phân cấp không rõ ràng trớc đây giữa cấp
Trung ơng và cấp địa phơng, giữa UBQG và NHTW.
Quản lý trực tiếp các giao dịch hàng ngày trên TTCK và SGDCK. Việc
thành lập và giải thể các SGD do Quốc vụ Viện quyết định. SGD là một pháp
nhân hoạt động không vì lợi ích. Theo điều 96 của Luật chứng khoán thì
việc:"Thành lập SGDCK phải có điều lệ. Việc soạn thảo và sửa đổi điều lệ
SGD phải đợc UBGQCK và Quốc vụ viện phê chuẩn". SGDCK đợc tổ chức
theo mô hình công ty và theo chế độ thành viên, đứng đầu SGD là một Tổng
giám đốc do UBQGCK bổ nhiệm và miễn nhiệm. Các thành viên lãnh đạo
gồm đại diện thành viên công ty chứng khoán, đặc phái viên UBGQCK và
chuyên gia. SGD có chức năng sau:
+ Bảo đảm duy trì thị trờng hoạt động an toàn, có hiệu quả.
+ Hoạch định điều lệ liên quan đến quản lý, giao dịch CK có sự phê
chuẩn của UBGQCK.
+ Giám sát các thành viên, các hoạt động giao dịch trong sở.
SGDCK phải thờng xuyên báo cáo tình hình với UBGQCK và trong các
trờng hợp đột xuất ảnh hởng đến việc tiến hành bình thờng của giao dịch
chứng khoán, tùy từng mức độ SGD có thể quyết định dừng giao dịch kỹ
thuật hoặc ngừng tạm thời phiên giao dịch, đồng thời phải báo cáo ngay cho
UBGQCK để tìm cách giải quyết. Để phòng ngừa rủi ro, SGD phải trích một
khoản tiền từ phí giao dịch, phí thành viên, phí chỗ ngồi để lập Quỹ phòng
ngừa rủi ro. Quỹ này do Hội đồng giám sát của SGD quản lý (Hội đồng giám
sát do SGD thành lập lên). Tỷ lệ của quỹ phòng ngừa rủi ro và phơng pháp sử
dụng do UBGQ cùng với cơ quan tài chính của Quốc vụ viện quy định.
Cơ quan thứ ba cũng tham gia giám sát, quản lý các hoạt động phát
hành và giao dịch chứng khoán trên SGD là Hiệp hội ngành chứng khoán.
Đây là tổ chức tự quản của ngành CK, là một pháp nhân đoàn thể xã hội.
Thành viên của Hiệp hội bao gồm các Công ty chứng khoán, cơ quan quyền
lực của Hiệp hội là Đại hội thành viên do toàn thể các thành viên họp lại, dới
Đại hội thành viên là Hội đồng giám sát đợc bầu cử theo quy định của Điều
lệ là do Hiệp hội tự lập ra và trình lên UBGQ. Chức năng, nhiệm vụ của Hiệp
hội này đợc quy định tại Điều 164 Luật CK bao gồm:
+ Tổ chức hoạt động đào tạo, nghiên cứu cho nhân viên của các thành
viên.
+ Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các thành viên, phản ánh các kiến nghị
yêu cầu của các thành viên lên UBGQ.
+ Hoà giải mâu thuẫn giữa các thành viên, giữa thành viên và khách
hàng.
+ Giúp UBGQ giám sát, kiểm tra hoạt động của các thành viên.
Nhìn chung, TTCK Trung Quốc là do Nhà nớc thành lập, khác với sự
hình thành trên cơ sở tự phát của TTCK Anh.TTCK Trung Quốc chịu sự quản
lý, giám sát của các cơ quan là: HĐHĐCSCKNN, UBGQCK, SGDCK và
Hiệp hội ngành chứng khoán, nhng cơ quan quản lý TTCK chủ yếu là UBGQ
và SGDCK, trong đó UBGQ là cơ quan nắm quyền quản lý bao trùm cao
nhất, SGDCK cũng chịu sự quản lý, giám sát của UBGQ. Mô hình này có u
điểm ở chỗ tạo sự quản lý chặt chẽ, rõ ràng và tập trung đối với các hoạt
động trên SGD, nhằm tránh tình trạng chồng chéo chức năng, khó quản lý.
Tuy nhiên, mô hình quản lý này cũng có những hạn chế, chẳng hạn việc đa
ra quyết định nhanh nhạy và sát thực tế là tiêu chuẩn tối quan trọng trong
quản lý TTCK lại phải báo cáo lên UBGQ nên quá trình này luôn bị làm
chậm lại và đôi khi thiếu thực tế. Nên chăng khi TTCK đã đi vào hoạt động tơng đối ổn định thì nhà nớc trao thêm quyền chủ động cho SGD trong việc
điều hành và đa ra quyết định, giảm bớt sự quản lý trực tiếp của UBGQ để
tạo cho thị trờng tính linh hoạt và nhanh nhạy hơn.
3. Các chủ thể hoạt động trên SGDCK: