ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
TRẦN THỊ THÚY HƯỜNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA DÂN CHỦ
VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THẠCH HÀ, TỈNH HÀ TĨNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
TRẦN THỊ THÚY HƯỜNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA DÂN CHỦ
VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THẠCH HÀ, TỈNH HÀ TĨNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lại Quốc Khánh
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ với việc thực
hiện quy chế dân chủ cơ sở trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh” là công
trình khoa học của riêng tôi. Các nội dung, số liệu được nêu trong Luận văn
có nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo độ tin cậy, chính xác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về cam kết của mình.
Tác giả
Trần Thị Thúy Hường
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNXH:
Chủ nghĩa xã hội
HĐND:
Hội đồng nhân dân
MTTQ:
Mặt trận Tổ quốc
QCDC:
Quy chế dân chủ
TNHH:
Trách nhiệm hữu hạng
UBND:
Ủy ban nhân dân
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................
1
1. Tính cấp thiết của đề tài....................................................................................
1
2. Tình hình nghiên cứu........................................................................................
2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.....................................................................
4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu........................................................
5
6. Đóng góp của luận văn......................................................................................
5
7. Bố cục của luận văn..........................................................................................
6
Chƣơng 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA DÂN CHỦ..
7
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về dân chủ và quy chế dân dân chủ ở cơ sở.........
7
1.1.1. Khái niệm dân chủ và bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa....................
7
1.1.2. Nội dung và tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.....
11
1.2. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vai trò dân chủ...................
18
1.2.1. Truyền thống dân tộc và tác động của hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam
cuối thế kỷ XIX.....................................................................................................
18
1.2.2. Những ảnh hưởng của văn hóa phương Đông và phương Tây đối với sự
hình thành tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh...........................................................
20
1.2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng Tháng Mười Nga tạo nên bước
ngoặt trong sự hình thành tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh...................................
24
1.2.4. Phẩm chất, trí tuệ, nhân cách Hồ Chí Minh cùng những giá trị được đúc
rút từ chính thực tiễn hoạt động cách mạng của Người........................................
25
1.3. Nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ..........................
28
1.3.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ....................................................
28
1.3.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ đối với sự nghiệp
cách mạng và đối với bản thân sự phát triển của nhân dân nói chung..................
31
1.3.3. Qua niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ đối với một số lĩnh
vực cụ thể trong xã hội..........................................................................................
35
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
THẠCH HÀ, TỈNH HÀ TĨNH THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH...........
48
2.1. Quá trình xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn
huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh từ năm 1998....................................................
48
2.1.1. Vị trí địa lý, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của huyện
Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.........................................................................................
48
2.1.2. Nội dung, cách thức triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của
huyện Thạch Hà....................................................................................................
53
2.1.3. Thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của
huyện Thạch Hà....................................................................................................
57
2.1.4. Những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện QCDC ở huyện Thạch Hà.........
78
2.2. Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ nâng cao
hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trên địa bàn huyện Thạch Hà.....
80
2.2.1. Phương hướng chung..................................................................................
80
2.2.2. Một số giải pháp chủ yếu............................................................................
81
KẾT LUẬN..........................................................................................................
97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................
99
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là một hiện tượng lịch sử - xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển của
đời sống con người. Đó vừa là giá trị xã hội mà loài người đạt được trong tiến trình đấu
tranh để tự giải phóng mình, từng bước vươn tới tự do, vừa là hình thức và tính chất tổ
chức của thể chế nhà nước. Đối với Việt Nam, dân chủ không chỉ là bản chất, mà còn là
mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới ở nước ta theo định hướng XHCN.
Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại, nhà tư tưởng, nhà mác-xít sáng tạo lớn của cách
mạng Việt Nam. Suốt cuộc đời mình, Người đấu tranh cho nhân dân Việt Nam có được
cuộc sống độc lập, tự do, dân chủ và giàu mạnh, bởi theo Người dân chủ là quý báu nhất
của nhân dân. Hồ Chí Minh không những đã để lại những kiến giải sâu sắc về dân chủ
và vai trò của dân chủ mà Người còn trực tiếp nêu gương về lối ứng xử dân chủ đối với
con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống.
Xác định đúng đắn tầm quan trọng của dân chủ, trong quá trình Đổi mới và hội
nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến vấn đề này và đã có nhiều
chủ trương, chính sách, quy chế để phát huy dân chủ trong đời sống xã hội, chẳng hạn
như: Chỉ thị 30- CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở; Chỉ thị 22/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện
QCDC ở xã; Nghị định số 79/2003/NĐ-CP của Chính phủ ban hành quy chế thực hiện
dân chủ ở xã, Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn,... Đây là một bước tiến lớn trong việc củng cố
kiện toàn tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, không chỉ là giải
pháp để hạn chế sự tha hóa quyền lực, chống lại tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy
nhà nước mà còn phản ánh tâm tư, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân, đáp
ứng nhu cầu và phù hợp với xu thế phát triển của đất nước theo định hướng XHCN; khơi
dậy mọi tiềm năng và trí tuệ của toàn thể nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Sau nhiều năm triển khai thực hiện QCDC trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà
Tĩnh, mọi mặt đời sống chính trị, xã hội của huyện đã có những bước phát triển quan
1
trọng. Trình độ dân trí, dân sinh được nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân được phát
huy; nhân dân tham gia tích cực công tác quản lý xã hội,... Tuy nhiên, việc thực hiện
QCDC ở cơ sở vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm: ở một số địa bàn, việc xây dựng và
thực hiện QCDC chưa đạt yêu cầu, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm; một số
cán bộ còn thiếu trách nhiệm trong việc triển khai thực hiện, công tác tuyên truyền chưa
đổi mới và có hiệu quả dẫn tới việc nhiều người dân chưa nhận thức đầy đủ quyền làm
chủ của mình. Quyền được biết, được bàn, được kiểm tra, thực hiện các chủ trương,
nhiệm vụ của địa phương, nhất là huy động nguồn lực đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội, tham gia đền bù, giải phóng mặt bằng, thực hiện chế độ, chính sách ở
một số nơi chưa thực hiện được đầy đủ và nhanh chóng. Nhiều người dân chưa được
cung cấp thông tin về công tác quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, ngân sách,... Tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí của công, sách nhiễu chưa được ngăn chặn triệt để, tình
trạng phân hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng,...
Trước tình hình đó, để chủ động phát huy những ưu điểm, hạn chế và khắc phục
những khuyết điểm trong quá trình thực hiện QCDC cơ sở và trên địa bàn huyện Thạch
Hà, tỉnh Hà Tĩnh, sớm đưa huyện trở thành huyện có công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
thương mại - dịch vụ phát triển, xứng tầm với truyền thống lịch sử quê hương theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần XXVIII, nhiệm kỳ 2010 - 2015, bên cạnh
việc chú trọng tổng kết thực tiễn, cần phải đi sâu nghiên cứu lý luận, đặc biệt là nghiên
cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò dân chủ. Đây là một nhiệm vụ có ý
nghĩa to lớn, vừa cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu dài.
Với mong muốn góp phần thực hiện nhiệm vụ trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở
trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh” làm đề tài nghiên cứu tốt nghiệp Cao học
chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ đề tài có tính cấp thiết trong giai
đoạn hiện nay. Chính vì thế, đã có nhiều cơ quan, tổ chức và nhiều nhà khoa học quan
tâm thực hiện và đã có nhiều công trình nghiên cứu đạt được những thành quả đáng kể.
Bên cạnh đó, từ khi có chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII), ngày 18/2/1998,
2
về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở, nhiều nhà khoa học và hoạt động thực tiễn đã
có những công trình nghiên cứu vấn đề dân chủ cơ sở, trong đó đã gắn nghiên cứu và vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh với về vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cụ thể như:
- Những nghiên cứu về tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh có: Dân chủ - Di sản
văn hóa Hồ Chí Minh (1997) của tác giả Nguyễn Khắc Mai, Nxb Sự thật, Hà Nội; Bác
Hồ nói về dân chủ tập trung (1999), tác giả Đặng Đình Phú, Tạp chí Cộng sản, số 8/1999;
Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh (2009) của Phạm Văn Bính (chủ biên), Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội; Phát huy các nguồn lực của dân làm lợi cho dân theo tư tưởng Hồ
Chí Minh (2012) của Phạm Ngọc Anh (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,...
- Những nghiên cứu về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở có: Tổng quan về dân
chủ và cơ chế thực hiện dân chủ: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu (1992),
tác giả Hoàng Chí Bảo đăng trên Tạp chí Thông tin lý luận số 9/1992; Quy chế thực hiện
dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (2000) của Dương Xuân Ngọc,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở (2004) của Trần Ngọc Khuê và Lê Kim Việt (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội; Dân chủ ở cơ sở và vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay
(2007) của Nguyễn Thị Tâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Dân chủ và dân chủ cơ sở
ở nông thôn trong tiến trình đổi mới (2010) của Hoàng Chí Bảo, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội,...
Ngoài ra còn có rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học, các luận
án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và vấn đề dân chủ, thực
hiện quy chế dân chủ cơ sở ở nước ta.
Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên đã tập
trung làm rõ cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và
việc thực hiện QCDC ở cơ sở, đồng thời phân tích, lý giải yêu cầu, cách thức tổ chức,
biện pháp,... để thực hiện tốt QCDC ở cơ sở một các khá sâu sắc. Song chưa có công
trình nào đề cập một cách cụ thể đến tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ với
việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trên một địa bàn cụ thể của tỉnh Hà Tĩnh như cách
đặt vấn đề của luận văn. Tuy nhiên, những công trình này là những chỉ dẫn, gợi ý hết sức
quý báu trong quá trình thực hiện luận văn.
3
Trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu, kế thừa và phát triển các công trình của các nhà
nghiên cứu đi trước, tôi thấy rằng có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để có thể nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trò dân chủ, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng và đề ra những
phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở
ở huyện Thạch Hà.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn trình bày những nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vai
trò của dân chủ và vận dụng những tư tưởng đó vào việc nghiên cứu thực trạng và đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu
sau đây:
- Hệ thống hóa nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò dân chủ.
- Phân tích thực trạng quá trình xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn huyện Thạch Hà, những thành tựu, hạn chế từ đó nêu lên những vấn đề đặt ra.
- Vận dụng tư tưởng về vai trò dân chủ của Hồ Chí Minh đề xuất phương hướng
và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở
trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò dân chủ với việc thực hiện
quy chế dân chủ ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ thể hiện trong
các bài nói bài viết của Người được tập hợp và công bố trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập
(15 tập) xuất bản lần thứ ba năm 2011.
4
Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa
bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh từ năm 1998 đến nay. Mốc thời điểm 1998 được lựa
chọn vì đây là năm Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở được ban hành và triển khai thực hiện trên cả nước.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận chính trị
học mác-xít về vai trò của dân chủ; các chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam và
chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở.
- Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước về các nội dung
có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, quy
nạp, diễn dịch, hệ thống - cấu trúc, so sánh, thống kê, nghiên cứu văn bản,... trong nghiên
cứu các vấn đề lý thuyết.
- Luận văn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, kết hợp phân tích báo cáo
tổng hợp của các cơ quan, ban ngành liên quan, các kết quả nghiên cứu khoa học có liên
quan trong quá trình nghiên cứu đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận: luận văn góp phần làm rõ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về vai
trò của dân chủ và giá trị của tư tưởng này, lấy đó làm cơ sở để nhận diện và giải quyết
một số vấn đề đặt ra trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở huyện Thạch Hà, tỉnh
Hà Tĩnh hiện nay, nhằm thực hiện tốt hơn công tác này trong thời gian tới.
Về mặt thực tiễn: luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy, tập huấn, tài liệu tham khảo để các cấp ủy đảng, chính quyền triển
khai thực hiện hiệu quả hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Thạch Hà,
tỉnh Hà Tĩnh.
5
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn được
chia làm hai chương, năm tiết.
6
Chƣơng 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA DÂN CHỦ
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về dân chủ và quy chế dân dân chủ ở cơ sở
1.1.1. Khái niệm dân chủ và bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Khái niệm dân chủ
Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII - VI trước công nguyên.
Theo nhà triết học Hy Lạp cổ đại Aristote (384 - 322 Tr.CN) thì Solon (khoảng 638 - 559
Tr.CN) là người đầu tiên đặt nền tảng cho nguyên lý dân chủ.
Hiểu theo từ nguyên, dân chủ, trong tiếng Hy Lạp cổ, là Demokratos. Đó là một
từ ghép bao gồm hai thành tố: Demos (dân) và kratos (cai trị). Như vậy theo nghĩa gốc
của thuật ngữ, dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân.
Đến thế kỷ XVIII, người Anh đã dựa vào ngôn ngữ Hy Lạp cổ để đưa ra thuật
ngữ “democracy”, có nghĩa là “chính thể dân chủ”, một trong những hình thức chính
quyền với đặc trưng là chính quyền nhà nước phải thừa nhận các quyền dân chủ, tự do và
bình đẳng của công dân.
Như vậy, dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế xã hội dựa trên việc thừa nhận
nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do.
Trong tiếng Việt, thuật ngữ dân chủ có ba hàm nghĩa: chỉ chế độ xã hội; chỉ
quyền của người dân (tương đương nghĩa gốc) và chỉ một phương thức công tác, phong
cách quản lý, lãnh đạo [75, tr.137].
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, dân chủ là có quyền tham gia, bàn bạc vào công
việc chung, được tôn trọng quyền lợi của từng thành viên trong xã hội. Dân chủ là khái
niệm để chỉ chế độ chính trị theo đó quyền làm chủ thuộc về nhân dân.
Ban đầu, khái niệm dân chủ được xem xét về mặt chính trị và pháp luật, càng về
sau càng mang ý nghĩa rộng hơn, thể hiện ở các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội
như kinh tế, văn hoá, tư tưởng, mối quan hệ giữa con người, giữa cá nhân với cộng đồng,
giữa công dân với nhà nước, giữa các nhà nước trên trường quốc tế,... Như vậy dân chủ
là một khái niệm phức tạp và rộng lớn.
Từ trước công nguyên, cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết hợp lực với
nhau để cùng sản xuất, chống thiên tai, thú dữ và tự tổ chức ra các hoạt động chung
7
mang tính xã hội, trong đó có việc cử ra người đứng đầu các cộng đồng để thực thi
những quy định chung và phế bỏ những người đó nếu họ không thực hiện theo ý nguyện,
lợi ích chung của cộng đồng. Khi lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng
lên, sản phẩm làm ra dư thừa, xuất hiện chế độ tư hữu, xã hội phân chia giai cấp và mâu
thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Một hình thức tổ chức xã hội mới ra đời - đó là nhà
nước dân chủ chủ nô thống trị đại đa số người lao động là giai cấp nô lệ. Khi đó nhà
nước chủ nô mới chính thức sử dụng danh từ dân chủ. Nhưng dân ở đây chỉ là dân theo
quy định của pháp luật do giai cấp chủ nô quy định bao gồm giai cấp chủ nô, tăng lữ,
thương gia, một số trí thức và người tự do. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, dân chủ
mang tính giai cấp. Chế độ dân chủ gắn với một chế độ xã hội cụ thể và một giai cấp cầm
quyền nhất định, đó là chủ nô.
Như vậy, với sự xuất hiện của nhà nước, quyền lực cộng đồng xã hội chuyển hoá
thành quyền lực nhà nước. Dân chủ mang bản chất giai cấp và trở thành mục tiêu đấu
tranh, giành, giữ và phát triển của nhân loại. Lịch sử của dân chủ cũng cho thấy các giai
cấp thống trị khác nhau hiện thực hoá chế độ dân chủ theo lập trường và lợi ích của mình.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, chế độ phong kiến ra đời thay thế
chế độ chiếm hữu nô lệ. Quyền lực xã hội bị thâu tóm vào tay nhà Vua, quyền thực hiện
quyền dân chủ của nhân dân lao động bị thu hẹp.
Khi quan hệ sản xuất phong kiến dần bị xóa bỏ, giai cấp tư sản ra đời, nền dân
chủ tư sản xuất hiện với nhiều mặt tiến bộ so với các chế độ dân chủ trước với những
thành tựu to lớn chủ yếu do nhân dân sáng tạo ra. Mặc dù chế độ đó mang tên chế độ dân
chủ, nhà nước dân chủ nhưng về thực chất vẫn không phải là nhà nước thực hiện quyền
lực thực sự của nhân dân, phạm vi dân chủ của nó chỉ bó hẹp trong một bộ phận là giai
cấp tư sản. Khái niệm tự do, dân chủ, bình đẳng bị che lấp bởi quan hệ bóc lột.
Chỉ đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thắng lợi, một thời đại mới mở
ra. Khi đó giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động đánh đổ sự thống trị của giai
cấp tư sản, giành lấy chính quyền, thiết lập nền dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân
dân mới trở thành thực chất và lập ra Nhà nước dân chủ XHCN, thiết lập nền dân chủ
XHCN để thực hiện quyền lực của nhân dân.
8
- Bản chất của nền dân chủ XHCN thể hiện ở chỗ:
+ Bản chất chính trị: dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng của giai cấp công
nhân, đảng Mác - Lênin mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của nhân
dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người, thỏa mãn nhu cầu và các
lợi ích của nhân dân. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: bản chất chính trị của nền dân chủ
XHCN là ở sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối với
toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp
công nhân mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân trong
đó có giai cấp công nhân.
Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là
chủ, dân làm chủ. Cán bộ là công bộc của dân. Bộ máy chính quyền đều do nhân dân lập ra:
“ Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [43, tr.232]
V.I.Lênin còn nhấn mạnh rằng: dân chủ XHCN là chế độ mà nhân dân ngày càng
tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Với ý nghĩa đó, Lênin diễn đạt một cách khái
quát về bản chất và mục tiêu của dân chủ XHCN là nền dân chủ “gấp triệu lần dân chủ tư
sản”. Do vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân vừa có tính
nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
+ Bản chất kinh tế: nền dân chủ XHCN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất
dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày càng cao những nhu
cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
Bản chất kinh tế chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình ổn định chính trị, phát
triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của đảng Mác Lênin và quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ của nhà nước XHCN.
9
+ Bản chất tư tưởng - văn hóa: Nền dân chủ XHCN lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin,
hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng chủ đạo, đối với mọi hình thái ý thức xã
hội khác trong xã hội mới. Đồng thời, dân chủ XHCN kế thừa và phát huy những tinh
hoa văn hóa truyền thống các dân tộc, tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hóa, văn minh
tiến bộ của nhân loại.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể, trong đó có tư tưởng về
dân chủ. Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ngày càng
được củng cố, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Trong văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp
tục khẳng định cần “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa”, cụ thể:
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức
trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân.
- Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia
quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền
làm chủ trực tiếp.
- Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương
xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân,
những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống tập
trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức.
- Quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của
con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các
điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết.
Có thể khẳng định rằng, việc mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng,
của cộng cuộc đổi mới và đi lên xây dựng CNXH ở nước ta.
10
1.1.2. Nội dung và tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở
1.1.2.1. Nội dung của quy chế dân chủ cơ sở
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định, cách
mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân thực hiện và vì cuộc sống hạnh phúc của
nhân dân. Lúc sinh thời Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Chế độ XHCN là chế độ do nhân
dân làm chủ và “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó
khăn” [42, tr.325]. Vì vậy, vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở được Đảng ta
đặc biệt chú trọng. Cơ sở là địa bàn sinh sống, làm ăn của nhân dân, là nơi hàng ngày cán
bộ đảng viên trực tiếp làm việc với dân và dân có quan hệ với đội ngũ cán bộ Đảng,
chính quyền, đoàn thể. Cơ sở là nơi trực tiếp diễn ra hoạt động quản lý của nhà nước gắn
với các hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư.
Thực hiện QCDC ở xã nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân
ở xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh
tế - xã hội, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết xây
dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân gắn liền với cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ. Thực hiện dân chủ ở cơ sở phải trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật đi
đôi với nghĩa vụ, kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ vi phạm Hiến pháp,
pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích tập thể, quyền tự do dân chủ và lợi ích
hợp pháp của công dân.
Đối với nước ta là nước một nước nông ngiệp, hiện nay nông dân còn chiếm hơn
70% dân số trong xã hội, đa phần sống ở nông thôn. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn
có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ
XHCN. Trong công cuộc đổi mới, nông dân có những đóng góp to lớn cho sự phát triển
kinh tế, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội,... Bởi vậy, phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân lao động ở cơ sở trước hết phải hướng tới nông dân, nông nghiệp, nông thôn.
Song, quá trình thực hiện dân chủ, đối với nhân dân đặc biệt là nông dân, vốn chưa quen
với nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Cho nên làm thế nào để vừa kêu gọi, tập
hợp, lôi cuốn, giáo dục nhân dân tham gia làm chủ, biết cách làm chủ, đồng thời củng cố
và xây dựng cơ chế đảm bảo quyền làm chủ của họ là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.
11
Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 30 - CT/TW về
“Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”. Trên cơ sở đó, ngày 11/5/1998,
Chính phủ ra Nghị định số 29/1998/NĐ-CP về việc ban hành “Quy chế thực hiện dân
chủ ở xã”. Cùng với chỉ thị số 22/1998 CT-TTg ngày 15/5/1998 “Về việc triển khai quy
chế thực hiện dân chủ ở xã”, Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 19/6/1998 “Về việc xây dựng
và thực hiện hương ước, quy ước của làng bản, thôn ấp, cụm dân cư”. Tiếp theo đó,
ngày 8/9/1998 Chính phủ ban hành Nghị định số 71/1998/NĐCP về quy chế thực hiện
dân chủ trong hoạt động của cơ quan cùng chỉ thị 38/1998/CT-TTg ngày 11/11/1998 của
Thủ tướng Chính phủ về việc “Triển khai quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động
của cơ quan” và đến ngày 13/2/1999 Chính phủ ban hành Nghị định số 07/1999/NĐ-CP
về “Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp Nhà nước”.
Ngày 28/3/2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 10-CT/TW “Về tiếp
tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” . Ngày 7/7/2003,
Chính phủ thông qua Nghị định 79/2003/NĐ-CP về “Ban hành Quy chế thực hiện dân
chủ ở xã” thay thế cho Nghị định số 29/1998/NĐ-CP. Để triển khai có hiệu lực, hiệu quả
hoạt động dân chủ cấp xã, đồng thời nâng tính pháp lý của việc thực hiện QCDC lên một
bước mới, ngày 20/4/2007 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh 34PL/UBTVQH về “Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn thay thế cho Nghị định
79/2003-NĐ/CP”. Đây là những văn bản pháp lý, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình, đồng thời là cơ sở để Nhà nước giám sát, bảo đảm quyền làm
chủ trực tiếp của nhân dân.
Trong quá trình triển khai QCDC ở cơ sở, Bộ Chính trị (khóa VIII) đã chỉ đạo
phải thực hiện tốt các yêu cầu sau.
Một là, đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng
thể của hệ thống chính trị “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Coi
trọng cả ba mặt này, không được nhấn mạnh hay hạ thấp mặt nào.
Hai là, phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, HĐND và UBND các cấp; đồng thời thực hiện tốt
chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân dân trực tiếp tham gia bàn bạc và quyết định
những công việc quan trọng, thiết thực gắn liền với lợi ích của họ.
12
Ba là, phát huy dân chủ phải gắn liền với phát triển KTXH, nâng cao dân trí, tạo
điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả.
Bốn là, nội dung của các quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở phải hợp Hiến, hợp
pháp thể hiện tinh thần dân chủ đi đôi với trật tự, kỷ cương, quyền hạn, gắn liền với trách
nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ, chống tham nhũng, quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền,
đồng thời chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ vi phạm pháp luật.
Năm là, gắn quá trình xây dựng và hoàn thiện QCDC ở cơ sở với công tác cải
cách hành chính, hoàn thiện hệ thống chính trị.
Nghị định 79/2003/NĐ-CP của Chính Phủ về “quy chế thực hiện dân chủ ở cơ
sơ”, quy định rõ trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân, của chính quyền cơ sở
trong quá trình thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống và lợi ích của nhân dân ở cơ sở,
theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. QCDC ở cơ sở cũng quy
định rõ những việc nào dân được biết, được tham gia ý kiến, bàn bạc, quyết định, giám
sát, kiểm tra, đồng thời quy định việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế, hình thức tổ chức
nhằm đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp. Bên cạnh đó, QCDC ở
cơ sở còn xác định trách nhiệm của chính quyền và các tổ chức tự quản trong việc giải
đáp những thắc mắc, khiếu nại, tố cáo và những ý kiến đóng góp, phê bình của nhân dân.
Có thể nói QCDC ở cơ sở chính là một bước tiến quan trọng cả về nhận thức, hành động
và hiệu quả thực tế của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
Tinh thần xuyên suốt của Chỉ thị 30 - CT/TW và Nghị định 79/2003/NĐ-CP về
QCDC ở cơ sở là việc thể chế hóa quan điểm của Đảng về dân chủ và bảo đảm quyền
làm chủ của nhân dân với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” tiếp
tục được thể hiện trong 6 Chương và 28 Điều của Pháp lệnh số 34/PL-UBTVQH của
ngày 20 tháng 4 năm 2007 Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Dân chủ chỉ thực chất khi nhân dân được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra
những nội dung gần gũi, thiết thực, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích của mình.
Bản chất của“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là những nội dung liên hoàn
của trình tự công khai hóa và dân chủ hóa. Thực hiện đúng, đầy đủ các khâu này cũng
chính để đảm bảo các quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật quy định.
13
Điều 5, Pháp lệnh dân chủ cơ sở quy định về những nội dung công khai: bao gồm
11 nội dung. Công khai cho dân biết: Kế hoạch phát triển KTXH; kế hoạch triển khai các
dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; nhiệm vụ, quyền
hạn của cán bộ, công chức cấp xã; công tác quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu
tư; các khoản huy động của nhân dân; chủ trương, kế hoạch vay vốn phát triển sản xuất,
xóa đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo, trợ cấp xã hội; chủ
trương thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh đơn vị hành chính; kết quả thanh tra, kiểm
tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực; kết quả lấy phiếu tín nhiệm lãnh đạo HĐND, UBND
cấp xã; nội dung, kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân; đối tượng, mức thu các loại phí, lệ
phí và nghĩa vụ tài chính; các quy định về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc
liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện và những nội dung
khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.
Các nội dung dân biết sẽ được công khai thông qua các hình thức như: niêm yết
công khai tại trụ sở HĐND, UBND cấp xã; Công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp
xã; Công khai thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân.
(Điều 6)
Điều 10, quy định về những nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp, cụ thể
là: Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp về chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở
hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do
nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và các công việc khác trong nội bộ
cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật.
Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp những nội dung quy định tại Điều 10 của
Pháp lệnh này bằng một trong các hình thức quy định tại Điều 11: Tổ chức cuộc họp cử
tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố và phát phiếu lấy ý
kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình.
Điều 13, quy định về những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết: Hương ước, quy
ước của thôn, tổ dân phố; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân
phố; bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng.
14
Về hình thức nhân dân bàn và biểu quyết quy định bằng một trong các hình thức
sau đây: một là tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng
thôn, tổ dân phố; hai là phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình.
(Điều 14).
Điều 19 của Pháp lệnh quy định những nội dung nhân dân tham gia ý kiến:
- Dự thảo kế hoạch phát triển KTXH của cấp xã; phương án chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cư, vùng kinh tế mới và phương án phát
triển ngành nghề của cấp xã.
- Dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh; việc
quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã.
- Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã; chủ
trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tái định
cư; phương án quy hoạch khu dân cư.
- Dự thảo đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới
hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã.
- Những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhân dân theo quy định của pháp luật,
theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.
Về hình thức để nhân dân tham gia ý kiến (Điều 20): họp cử tri hoặc cử tri đại
diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; Phát phiếu lấy ý kiến cử tri hoặc cử
tri đại diện hộ gia đình hoặc thông qua hòm thư góp ý.
Những nội dung nhân dân giám sát (Điều 23) và hình thức để thực hiện việc giám
sát của nhân dân (Điều 24): Được xác định thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân
dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng,… Đây là hình thức góp phần nâng cao trách
nhiệm của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng các tổ
chức đoàn thể ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Như vậy, với những quy định hết sức cụ thể và rõ ràng về vai trò làm chủ của
người dân, có thể khẳng định sự ra đời của QCDC ở cơ sở chính là bước đột phá về bản
chất ưu việt của chế độ ta, là nấc thang đánh dấu tiến trình thực thi nền dân chủ của một
chế độ phát triển.
15
Trong quá trình triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở, để dân chủ thật sự là mục
tiêu, động lực của công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn luôn quan tâm tới việc giữ vững
tính chất XHCN của nền dân chủ. Phải đảm bảo cơ sở kinh tế của nền dân chủ XHCN
đó là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Trong thực hiện dân chủ
XHCN, thực hiện dân chủ trên lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng. Chỉ khi nào
người lao động thực sự làm chủ về kinh tế, thì họ mới là lực lượng quyết định toàn bộ
quá trình phát triển xã hội. Do đó, sự phát triển của KTXH, đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân được cải thiện và nâng lên là tiêu chuẩn cao nhất, là thước đo quá
trình thực hiện QCDC ở cơ sở. Bên cạnh đó, phương thức tổ chức, chất lượng hoạt
động của hệ thống chính trị cũng với phẩm chất, năng lực công tác của đội ngũ cán
bộ cơ sở được củng cố và nâng cao cũng là một tiêu chí quan trọng. Bởi đó chính là
cơ chế bảo đảm cho thực thi dân chủ. Đồng thời, Đảng ta cũng rất quan tâm đến việc
nâng cao trình độ dân trí, trình độ văn hóa dân chủ, văn hóa pháp luật cho nhân dân,
đặc biệt là nhân dân ở cơ sở. Vì dân chủ là biểu hiện của trình độ văn hóa chính trị, có
quan hệ mật thiết với trình độ dân trí. Chỉ khi nào người dân tự giác nhận thức được
quyền hạn và nghĩa vụ của mình, tự giác tham gia vào việc nhà nước, công việc xã
hội, hoạt động với tư cách là công dân có tri thức, có văn hóa,... thì mới thực sự có
điều kiện thực hiện dân chủ. Đây cũng chính là những tiêu chí cơ bản để đánh giá
chất lượng thực hiện QCDC ở cơ sở.
Nói tóm lại, thực hiện QCDC cơ sở là một cuộc vận động chính trị lớn của
Đảng ta nhằm cụ thế hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”,
phát huy quyền làm chủ trực tiếp, sức sáng tạo của nhân dân ở cơ sở, động viên sức
mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển KTXH, cải thiện dân
sinh, nâng cao dân trí, ổn định chính trị; tăng cường đoàn kết, xây dựng Đảng bộ,
chính quyền và các đoàn thể ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn và khắc phục
tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên và các tệ
nạn xã hội; góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh theo định hướng XHCN. Đây cũng là một phương thức phát triển dân chủ
XHCN ở nước ta giai đoạn hiện nay.
16
1.1.2.2. Tầm quan trọng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
- Thực hiện QCDC ở cơ sở góp phần nâng cao vai trò hạt nhân lãnh đạo của tổ
chức cơ sở đảng; đổi mới phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc, phương pháp công tác
của cán bộ; ngăn ngừa sự thoái hoá, biến chất trong đội ngũ cán bộ cơ sở.
Quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở đã tác động tích cực đến việc củng cố, đổi
mới, nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn; thúc đẩy đổi mới
phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ
sở Đảng; tăng cường mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa dân với Đảng. Vai trò hạt nhân
lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng đối với chính quyền và các đoàn thể nhân dân được
nâng lên; hoạt động của các cấp uỷ Đảng, chính quyền đi vào khuôn khổ; khắc phục tình
trạng lấn sân, làm việc tuỳ tiện, vô nguyên tắc, độc đoán, gia trưởng, bè phái,...; đồng
thời là biện pháp thúc đẩy cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý, điều
hành của các cấp chính quyền.
Thực hiện tốt QCDC, các đoàn thể và các tổ chức chính trị ở cơ sở được củng cố,
hoạt động gắn bó, sâu sát hơn với nhân dân, cùng nhân dân giải quyết những vấn đề đặt
ra trong đời sống kinh tế, xã hội. Những tác động đó còn là yếu tố góp phần hoàn thiện
phong cách làm việc, trình độ, năng lực công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, tránh xa
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Thực hiện tốt QCDC, nhân dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về quyền hạn,
trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với việc xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì
dân. Thể hiện rõ hơn trách nhiệm trong lựa chọn những người xứng đáng đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền lợi của mình tham gia các chức danh chính quyền; đẩy mạnh
công tác giám sát các tổ chức Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên ở cơ sở.
- QCDC cơ sở đã tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống văn hoá của
nhân dân, củng cố và tăng cường tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái
Thực hiện QCDC, nhân dân tích cực hưởng ứng phong trào đền ơn đáp nghĩa,
ủng hộ, giúp đỡ người nghèo, giúp nhau phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa
mới; nêu cao ý thức tự giác trong việc giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ lợi ích chung của
cộng đồng.
17
QCDC ở cơ sở góp phần quan trọng vào việc thay đổi, nâng cao nhận thức trong
cán bộ, đảng viên và nhân dân giúp nhân dân hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của
mình. Cán bộ, đảng viên thấy rõ hơn sức mạnh to lớn, vai trò, động lực và hiệu quả của
dân chủ, từ đó tham gia tích cực nhiệm vụ phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,
củng cố QPAN.
1.2. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vai trò dân chủ
1.2.1. Truyền thống dân tộc và tác động của hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt
Nam cuối thế kỷ XIX
Dân tộc Việt Nam trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo
lập một nền văn hoá mang bản sắc riêng, phong phú và bền vững với những truyền thống
tốt đẹp và cao quý. Đó chính là chủ nghĩa yêu nước, ý chí đấu tranh kiên cường bất khuất
để dựng nước và giữ nước, là truyền thống lạc quan, cần cù dũng cảm, thông minh sáng
tạo,... Đặc biệt, truyền thống dân tộc nổi bật có ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng
dân chủ là tinh thần nhân nghĩa, tương thân tương ái; truyền thống đoàn kết keo sơn, tính
cố kết cộng đồng chặt chẽ, chung sức đồng lòng trong hoạn nạn khó khăn.
Các triều đại phong kiến Việt Nam ở thời kỳ hưng thịnh đều có quan điểm về dân
đúng đắn nên đã được dân ủng hộ, vì thế mà phát huy được sức mạnh của dân để xây
dựng và bảo vệ đất nước; đồng thời cũng củng cố được vương triều vững mạnh.
Tư tưởng dựa và dân, tin vào sức mạnh của dân ở thời Lý, Trần, Lê tạo sự gắn bó
giữa triều đình với dân chúng, củng cố vương triều vững mạnh, cục diện đất nước thống nhất.
Lý Thường Kiệt đã nêu lên tư tưởng: Người làm vua của dân, cốt phải nuôi dân.
Với ông, nuôi dân và dưỡng dân thì tất yêu phải từ bỏ các kế sách tham tàn, phải loại trừ
sự sách nhiễu làm hại nhân dân, ngăn ngừa sự đục khoét dân để làm giàu cho cá nhân.
Với tư tưởng này, những lần đưa quân ra trận của Lý Thường Kiệt đều động viên được
sức mạnh của nhân dân, giành nhiều thắng lợi trước nhiều thế giặc mạnh, đặc biệt là
quân xâm lược nhà Tống ở thế kỷ XI.
Sang thế kỷ XIII, với ba lần xâm lược của quân Nguyên - Mông, đội quân được
coi là mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ, Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn đã thu phục
được lòng dân, cố kết toàn dân tộc để giành thắng lợi hoàn toàn.
18
Tài năng kiệt xuất của Hưng Đạo vương chính là việc nhận thức rõ nhân dân mới
là nguồn sức mạnh giữ nước, nguồn sức mạnh vô địch, nguồn sức mạnh mà không một
kẻ thù tàn bạo nào có thể khuất phục. Ông luôn chăm lo sức dân ngay từ thời bình cũng
như trong thời chiến. Chủ trương sâu sắc của ông mà đỉnh cao là tư tưởng: "Khoan thư
sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách của sự giữ nước” [61, tr.398].
Cũng chính Hưng Đạo Vương, sau các chiến thắng lừng lẫy đã xác định, đại ý:
"Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục nên quân địch đã phải bị bắt”. Yếu tố đoàn kết từ
thượng tầng triều đình đến hạ tầng dân chúng, đoàn kết quân dân, đoàn kết toàn quân,
xây dựng đội quân "phụ tử chi binh” chính là khơi dậy mạch nguồn sức mạnh từng bước
tiến tới toàn thắng. Đó là nguồn sức mạnh vô địch mà nhân dân Đại Việt không những
đứng vững mà còn chiến thắng đế quốc Nguyên - Mông.
Hưng Đạo Vương không những là vị thống soái quân sự cao nhất mà còn là một
nhà lý luận, nhà tư tưởng quân sự nổi tiếng với nghệ thuật chiến tranh nhân dân. Điển
hình của lý luận quân sự của ông thể hiện cao nhất ở Hịch tướng sĩ và sau này là bản Di
chúc lịch sử thể hiện tinh hoa khí phách dân tộc Đại Việt trong việc đánh giặc giữ nước.
Tư tưởng khoan thư sức dân, dựa vào dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, toàn quân
và triều đình để làm kế sách giữ nước của ông là tư tưởng vượt qua mọi thời gian, đến
nay vẫn còn nguyên giá trị, đầy sức sống, luôn có mặt trong mọi thời đại mà hậu thế đã
tôn vinh.
Ở thời Trần, những cuộc hội nghị bàn việc nước như hội nghị Bình Than (1282),
hội nghị Diên Hồng (1283) đã thể hiện tính dân chủ. Qua những hội nghị này, vừa biết
được lòng dân vừa tăng thêm ý chí và quyết tâm đánh giặc, giữ nước của nhân dân.
Nguyễn Trãi là một nhà chính trị, quân sự lỗi lạc của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ
XV. Người góp phần tại dựng nên chính sách thân dân thời kỳ Lê sơ. Tư tưởng “thân
dân” thể hiện khá rõ nét “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” (Bình ngô đại cáo). Ông coi
trọng vai trò của nhân dân đối với đất nước, xem nhân dân là gốc với mục tiêu đem lại
thái bình, thịnh vượng cho dân, phải “nuôi dân”, “chăn dân”, “huệ dân”.
Có thể nói, thái độ và chính sách ở thời Lý, Trần, Lê đã góp phần to lớn trong
việc tạo tiền đề cho sự chuyển biến nhận thức trong quan niệm về dân ở các thời kỳ lịch
sử sau này, đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh.
19