Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

ÔN THI TRIẾT HỌC CAO HOC KHÔNG CHUYÊN 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.68 KB, 42 trang )

ÔN THI TRIẾT HỌC CAO HOC KHÔNG CHUYÊN 2014
1. Phân tích luận điểm “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại,
là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề trong đấu tranh
bảo vệ, phát triển triết học Mác - Lênin hiện nay?
Trả lời:
Trong tác phẩm Lútvích Phơibắc, Ăngghen viết: “ Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc
biệt là triết học hiện đại là vấn đề mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại” (vật chất và ý thức).
1. Vì sao đây là vấn đề cơ bản của triết học.
- Vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy hay giữa tự nhiên và tinh thần là
vấn đề cơ bản của triết học
- Đây là vấn đề cơ sở, nền tảng, xuyên suốt mọi học thuyết triết học trong lịch sử, quyết định sự
tồn tại của triết học.
- Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề cơ bản triết học quyết định sự hình thành thế giới
quan và phương pháp luận của các triết gia, xác định bản chất của các trường phái triết học.
- Giải quyết VĐ này là cơ sở, điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học, đồng
thời QĐ cách xem xét các vấn đề khác trong đời sống XH.
2. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
a. Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
* Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt.
- Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: giữa vật chất và ý thức, giới tự nhiên và tinh thần cái nào có
trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai trả lời câu hỏi: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
* Vì sao đây là vấn đề cơ bản của triết học?
- Thứ nhất, tư tưởng về vật chất, ý thức nảy sinh sớm nhất.
+ Từ cổ xưa con người đó sớm phát hiện ra vấn đề: “dường như” bên cạnh thế giới hiện thực
còn có một thế giới tư duy, cảm giác, thế giới của các linh hồn sống mãi. Và thế giới tư duy, cảm giác
có quan hệ như thế nào với thế giới hiện thực đang tồn tại. Triết học quan tâm giải quyết vấn đề này,
trước khi đi tìm hiểu về chính thế giới tự nó.
+ Vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ sở nền tảng, xuyên suốt mọi học thuyết
triết học trong lịch sử, quy định sự tồn tại, phát triển của triết học.
Thứ hai, dù thừa nhận hay không thừa nhận thì việc nhận thức, giải quyết vấn đề quan hệ giữa


vật chất và ý thức luôn là điểm xuất phát, cơ sở nền tảng để giải quyết các vấn đề còn lại của tất cả các
loại hình triết học trong lịch sử. ở đâu và lúc nào quan tâm nghiên cứu trên bình diện vật chất - ý thức
hay quan hệ vật chất - ý thức thì lúc đó việc nghiên cứu triết học được bắt đầu.
- Thứ ba, kết quả và thái độ giải quyết quan hệ vật chất - ý thức, quy định thế giới quan, phương
pháp luận của các nhà triết học, các trường phái, hệ thống triết học; tiêu chí cơ bản, chủ yếu nhất phân biệt
các trường phái triết học trong lịch sử.
* Tư duy ( ý thức) của con người cú nhận thức được TG hay không?
- Bất khả tri: Cho rằng con người không thể nhận thức được TG ( duy tâm).
- Khả tri: Cho rằng con người có khả năng nhận thức được TG ( duy vật).
Ngoài ra còn có các trường phái “ hoài nghi luận” nghi ngờ khả năng nhận thức của con người. Trong
CNDT có người còn cho rằng: Con người có khả năng nhận thức TG bằng “ siêu tự nhiên” chứ không
phải bằng phương pháp, cơ chế, con đường khoa học.
b. Việc giải quyết vấn đề cơ bản triết học của Mác- Ăng ghen và Lênin.
* Mác Ăngghen:
1


- Đã làm cho CNDV trở thành triệt để và nhất quán bằng cách phát triển quan điểm DV về tự
nhiên thành quan điểm duy vật cả trong lĩnh vực XH và lịch sử.
- ở góc độ thứ hai các ông hầu như chỉ quan tâm luận chứng cho quan điểm: xét cho cùng thì
tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
* Sự phát triển của Lênin.
- Lênin chú ý đến hai khía cạnh trong mặt thứ nhất, đó là khía cạnh nguồn gốc và khía cạnh
quyết định luận.
+ Về nguồn gốc phát sinh: Xét cho cùng cái nào có trước và sinh ra cái nào.
+ Về mặt quyết định luận: Cái nào quyết định cái nào.
- Theo Lênin, ở cấp độ thứ nhất thì mặt nguồn gốc hình thành là mặt trội, ở cấp độ thứ hai thì mặt
quyết định luận là mặt trội.
c. ý nghĩa phương pháp luận.
Phải xây dựng lập trường DV trong nhận thức, xem xét các SVHT của thế giới. Đấu tranh phê

phán quan điểm duy tâm trong nhận thức TG.
2. Những vấn đề có tính quy luật của sự hình thành, phát triển tư tưởng triết học trong lịch
sử. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề trong nghiên cứu tư tưởng triết học Việt Nam?
Trả lời:
a. Những vấn đề có tính quy luật của sự hình thành và phát triển tư tưởng triết học trong lịch sử
Sự hình thành và phát triển của các tư tưởng triết học phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và
nhu cầu phát triển của thực tiễn
Sự hình thành và phát triển của các tư tưởng triết học phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội
Sự hình thành và phát triển của các tư tưởng TH phụ thuộc vào cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng triết
học cơ bản DV và DT
Sự hình thành và phát triển của các tư tưởng TH phụ thuộc vào cuộc đấu tranh giữa hai phơng pháp nhận
thức biện chứng và siêu hình
Sự hình thành và PT của các tư tưởng TH liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các trờng phái và sự kế thừa các
tư tưởng trong lịch sử.
Sự hình thành, PT của các tư tưởng TH có sự liên hệ tác động lẫn nhau với các tư tưởng chính trị, đạo đức,
pháp quyền, tôn giáo, nghệ thuật…
b. Sự ra đời và phát triển của triết học phương Đông
- Khái niệm triết học phương Đông: là triết học ở các nước phương Đông: gồm triết học ở ấn
Độ, Trung Quốc, và các nước khác ở phương Đông tồn tại phương thức sản xuất châu á
- Đặc điểm của triết học phương Đông:
Triết học phơng Đông là thế giới quan, phơng pháp luận của xã hội phong đông cổ trung đại
Triết học phơng Đông thường gắn với chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, thần quyền
Triết học phơng Đông thường hướng tới giải quyết các vấn đề chính trị, đạo đức và nhân sinh
quan
Triết học phơng Đông không gắn trực tiếp với các khoa học tự nhiên như triết học phơng Tây
Triết học phơng Đông quan niệm con người là tiểu vũ trụ. Nhận thức, hiểu con người là cơ sở
nhận thức thế giới
- Khái lược sự ra đời, phát triển và thành tựu chủ yếu của triết học phương Đông:
Triết học phương Đông ra đời sớm, phát triển mạnh, là cơ sở thế giới quan phương pháp luận

cho xã hội cổ, trung đại trên nền tảng kinh tế “phương thức sản xuất châu á”
Triết học phương Đông phát triển mạnh và đạt được nhiều thành tựu ở các nước ấn Độ, Trung
Quốc, Nhật bản, Hàn Quốc…
2


Triết học ấn Độ có 9 trường phái, đặc biệt là triết học Phật giáo: Tư tưởng DV thô sơ và BC tự
phát, những quan điểm về nhân văn, nhân đạo vị tha, duy tâm thần bí thoả hiệp …..
Triết học Trung Quốc với Âm- Dương, Ngũ hành, Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia đã đạt
được nhiều thành tựu về thế giới quan duy vật, phép biện chứng, quan điểm chính trị xã hội, nhân sinh
quan phong phú, đa dạng, sâu sắc.
c. Sự ra đời, phát triển của triết học phương Tây trước Mác
- Khái lược sự ra đời và phát triển của triết học phương Tây trước Mác:
Triết học ra đời sớm, phát triển mạnh ở các nước phương Tây, là cơ sở lý thế giới quan phương
pháp luận cho xã hội cổ, trung, cận đại ở phương Tây
Triết học phương Tây phát triển mạnh và đạt được nhiều thành tựu ở HyLạp Lamã cổ đại, Anh,
Pháp, Đức thời kỳ phục hưng, cận đại
Triết học Hylạp La mã 9 trường phái, DV, DT, BC, SH, Vô thần hữu thần, khả tri và bất khả tri
luận, nhị nguyên v……..
Triết học phương Tây đạt được nhiều thành tựu về các vấn đề chủ yếu của triết học như bản thể
luận, nhận thức luận, thế giới quan duy vật, phép biện chứng, quan điểm chính trị, đạo đức, tôn
giáo..v….
- Những đặc điểm chủ yếu của triết học phương Tây trước Mác:
Triết học ra đời sớm, phát triển mạnh phong phú là cơ sở lý thế giới quan phương pháp luận cho
xã hội nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa ở phương Tây
Triết học phương Tây trước Mác đi sâu giải quyết các vấn đề bản thể luận, nhận thức luận gắn
với các quan điểm chính trị xã hội, tôn giáo, đạo đức và nhân sinh.
Triết học phương Tây trước Mác thường gắn trực tiếp với khoa học tự nhiên. Triết học đi từ
nhận thức giới tự nhiên đến nhận thức xã hội và con người.
Triết học phương Tây giải quyết vấn đề cơ bản của triết học khác nhau, có sự phân chia và đấu

tranh giữa các trường phái phản ánh những biến đổi của tồn tại xã hội phương Tây
- Những thành tựu cơ bản của triết học phương Tây trước Mác:
Triết học HyLạp Lamã cổ đại, Hê raclít, Đêmôc rít, Platon, Arixtốt với các thành tựu, chủ nghĩa
duy vật và tư tưởng biện chứng, nhận thức luận, lôgíchọc…..
Triết học cận đại Phranxibêcơn, Brunô, Jônlốccơ, Béccơli, Hyum, Điđrô, Hôbách…….Với
những tư tưởng duy vật vô thần, đề cao khoa học và hướng tới giải phóng con ngời,
Triết học cổ điển Đức là đỉnh cao của triết học cận đại, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
trước Mác, tiền đề lý luận trực tiếp cho xuất hiện triết học Mác
Triết học phương Tây đạt được nhiều thành tựu song có nhiều hạn chế về chủ nghĩa duy vật,
phép biện chứng, về quan điểm chính trị, về vấn đề con ngời và tôn giáo...
d. Khái lược về sự ra đời và phát triển tư tưởng triết học Việt Nam thời phong kiến
- Điều kiện lịch sử của sự ra đời và phát triển tư tưởng triết học Việt Nam thời phong kiến:
Việt Nam là một nước nông nghiệp, tồn tại lâu dài phương thức sản xuất châu Á, tư tưởng tôn
giáo thần quyền thống trị xã hội, cư dân sống phân tán.
Khoa học, văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc.....không phát triển. Quá trình hình thành và phát triển
của tư tưởng triết học Việt Nam chịu ảnh hưởng của triết học Trung Quốc và Ấn Độ.
Hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Việt Nam gắn với quá trình đấu tranh chống xâm
lược, giành chủ quyền dân tộc và xây dựng đất nước.
Tư tưởng triết học Việt Nam thường là tư tưởng của các nhà lãnh đạo đất nước trong các thời kỳ
lịch sử và những quan niệm sống được tuyền miệng trong nhân dân.
- Những giá trị của tư tưởng triết học Việt Nam thời phong kiến:
Triết học Việt Nam có cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, vấn đề kiếp
nghiệp, luận hồi quả báo, vấn đề linh hồn và thể xác khi con người chết và số mệnh con người.
3


Tư tưởng triết học là lý luận về quốc gia độc lập có chủ quyền, lý luận về sức mạnh cộng đồng
để giữ nước chống kẻ thù xâm lược, về kế sách dựng nước và giữ nước, an dân.
Giá trị đặc sắc của tư tưởng triết học Việt Nam là vấn đề về đạo làm người, đạo làm tướng, làm
cha, làm chồng , làm con …..

Sự kế thừa phát triển và vận dụng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng Cộng sản
Việt Nam trong thực tiễn cách mạng Việt nam
- Hồ Chí Minh đã vận dụng TGQ DVBC và PBC duy vật để lý giải một cách đúng đắn, khoa
học những vấn đề đặt ra của lịch sử Việt Nam, tư tưởng HCM là kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phong Miền
Nam thống nhất Tổ quốc.
Đường lối dương cao ngọn cờ, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đường lối kháng
chiến kiến quốc.
- Sự vận dụng của Đảng ta trong đổi mới toàn diện đất nước, mở cửa hội nhập quôc tế, phát
triển kinh tế thị trờng định hướng xã hội chủ nghĩa với sự quản lý của nhà nước. Thể hiện sự vận dụng
và phát triển những nguyên lý của triết học Mác - Lê nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
3. Phạm trù vật chất của triết học Mác - Lênin và giá trị của nó đối với sự phát triển của khoa
học hiện đại?
Trả lời
Phạm trù VC có quá trình phát sinh và phát triển gắn liền với HĐ thực tiễn của con người và với
sự hiểu biết của con người về giới tự nhiên.
* Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm: Không thừa nhận sự tồn tại khách quan của VC
* Quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác:
-Thừa nhận sự tồn tại khách quan của sự vật, hiện tượng, của thế giới vật chất, coi vật chất là tính thứ nhất,
ý thức là tính thứ hai.Song khuynh hướng chung là đi tìm bản nguyên ban đầu của thế giới. Đồng nhất vật
chất với vật thể cụ thể, với thuộc tính của nó (do lẫn lộn vật chất với tư cách là một phạm trù nhận thức
luận với cấu tạo của nó như là đối tượng của khoa học cụ thể)
*Quan điểm của Mác, Ang ghen:
Các ông không đưa ra định nghĩa kinh điển về VC nhưng đã chỉ ra những vấn đề có tính nguyên tắc để
nghiên cứu VC với tính cách là phạm trù triết học. Theo Mác và Ang ghen, VC với tính cách là phạm
trù triết học thì không tồn tại cảm tính hữu hình và chỉ có thể nhận thức được bằng con đường trừu
tượng hoá.
*Định nghĩa vật chất của Lênin:
Trong tác phẩm “chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, Lênin đã định nghĩa: “ vật

chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc và cảm giác”
Phân tích những nội dung định nghĩa vật chất :
*Vật chất là phạm trù triết học, là sự xác định “góc độ” của việc xem xét sự khác mhau giữa quan
niệm triết học về bản chất của vật chất với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu trúc và những
thuộc tính cụ thể của các đối tượng vật chất khác nhau.
-Với tư cách là một phạm trù triết học, vật chất phản ánh thể hiện thế giới quan (mối quan hệ con
người và thế giới xung quanh) và hướng đến sự giải quyết vấn đề cơ bản của triết học (mối quan hệ
giữa tồn tại và tư duy).
-Vật chất là một phạm trù triết học rộng nhất, bao quát nhất, nên không thể định nghĩa bằng cách thông
thường trong lôgíc học. Vật chất chỉ có thể định nghĩa được bằng cách đặt nó trong quan hệ đối lập với
ý thức xem cái nào có trước, cái nào quyết định cái nào.
4


* Thuộc tính chung phổ biến cơ bản nhất của vật chất là “thực tại khách quan” “tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác”.
-Vật chất là vô cùng tận, nó có vô vàn các thuộc tính khác nhau rất đa dạng và phong phú mà khoa học
ngày càng tìm ra, phát hiện thêm những thuộc tính mới của nó. Trong tất cả các thuộc tính của vật chất
thì thuộc tính “thực tại khách quan” tức sự tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người, là
thuộc tính chung nhất, vĩnh hằng nhất, đối với mọi dạng, mọi đối tượng khác nhau của vật chất. Vì thế,
Lênin xem thực tại khách quan là “thuộc tính duy nhất” của vật chất.
-Đây chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất là cái gì không phải là vật chất, cả trong tự
nhiên lẫn trong đời sống xã hội. Tất cả những cái gì nếu nó tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của
con người thì đều là những dạng khác nhau của vật chất (như những quy luật kinh tế- xã hội, những
quan hệ sản xuất của xã hội... tuy không tồn tại dưới dạng các vật thể, không manh thuộc tính khối
lượng, năng lượng, không có cấu trúc phân tử, nguyên tử nhưng chúng tồn tại khách quan, có trước ý
thức và quyết định ý thức nên chúng là vật chất dưới dạng xã hội)
*Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh

-Vật chất với tư cách là phạm trù triết học thì không tồn tại cảm tính, Song VC không tồn tại vô hình,
trừu tượng mà nó biểu hiện ra các sự vật hữu hình, cảm tính. Các sự vật này khi tác động vào cơ quan
cảm giác của con người thì gây cho ta cảm giác (nhận thức) về chúng, cảm giác của chúng ta là bản
sao của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Cảm giác là tiền đề của mọi sự hiểu biết,
nguồn gốc của mọi tri thức.
Vật chất không phải là thần bí, không thể biết mà về nguyên tắc, con người có thể nhận thức được thế
giới vật chất, không có gì con người không thể nhận thức được, chỉ có cái con người chưa nhận thức
được mà thôi.
* ý nghĩa :
Qua định nghĩa VC cho thấy đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật triệt để.
Định nghĩa VC là cơ sở lí luận, phương pháp luận cho nhận thức và cải tạo hiện thực, đòi hỏi phải
luôn quán triệt và thực hiện nguyên tắc khách quan, đồng thời phát huy vai trò của YT và của nhân tố
chủ quan
Định nghĩa VC là cơ sở lí luận để đấu tranh chống CNDT, CNDV siêu hình và thuyết bất khả tri luận.
Định nghĩa VC trang bị thế giới quan khoa học, mở đường cho khoa học tự nhiên tiếp tục phát triển.
4. Nội dung cơ bản và giá trị phương pháp luận của phép biện chứng duy vật. Ý nghĩa của
vấn đề trong đánh giá tình hình thời cuộc hiện nay?
Trả lời
Trong triết học Mác - Lênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau.
Vì thế, việc nghiên cứu toàn diện phép biện chứng duy vật có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhằm xây
dựng thế giới quan duy vật triệt để và hệ phương pháp phổ biến, khoa học trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp. Hệ
thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật nó không chỉ phản ánh đúng sự
vận động của tự nhiên, xã hội, tư duy mà còn là công cụ sắc bén để con người nhận thức thế giới khách
quan, chỉ ra phương pháp hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo thế bgiới khách quan ấy một cách có hiệu
quả.
- Trong lịch sử triết học, phép biện chứng đã xuất phát từ gốc Hylạp thời kỳ cổ đại
“Dialectique”, có nghĩa là nghệ thuật tranh luận để tìm chân lý, bằng cách phát hiện mâu thuẫn trong
cách lập luận. Theo đó, chúng ta có thể hiểu rằng phép biện chứng là nghệ thuật đối thoại, đàm thoại,
nghệ thuật tranh luận và phát hiện ra mâu thuẫn. Nhưng nghệ thuật hiểu theo nghĩa rộng hơn, nó có thể

là thiên biến vạn hoá, nó phụ thuộc vào các nhà đề xuất tư tưởng. Từ sự hiểu biết đến chân lý, đến
khoa học, đến tri thức, do đó cần nghệ thuật tranh luận, đàm thoại và nó là con đường để đạt đến chân
5


lý. Thực ra tranh luận cốt là để tìm ra mâu thuẫn, có tranh luận mới tìm ra được chân lý, bác bỏ sai
lầm.
Phép biện chứng nó luôn luôn gắn liền với các nhà triết học, với lịch sử phát triển của khoa học,
của thực tiễn và trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Các nhà triết học sử dụng phép biện chứng để tìm
ra chân lý, phát hiện mâu thuẫn.
- Ph.Ăngghen: “Phép biện chứng chẳng qua là môn khoa học về những quy luật phổ biến của
sự vận động, phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
+ Đối tượng nghiên cứu của PBCDV là những quy luật chung nhất, những mối liên hệ phổ
biến của thế giới vật chất (khác khoa học cụ thể).
+ Nghiên cứu sự vận động, phát triển của thế giới rút ra hệ thống các quy luật chung nhất (cả
phạm trù) và hệ thống PPL trong nhận thức và cải tạo thế giới.
* Vị trí, vai trò của PBCDV
- Bộ phận cấu thành tất yếu của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Cơ sở lý luận chủ yếu và trực tiếp của hệ thống nguyên tắc phương pháp luận duy vật biện
chứng, là cơ sở PPL chung nhất và TGQ chung nhất cho hoạt động nhận thức và thực tiễn; là công cụ
nhận thức và cải tạo thế giới.
- Là vũ khí tinh thần, tư tưởng của giai cấp công nhân về nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh
giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột.
* Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật
- Tính hệ thống: PBCDV được xây dựng trên cơ sở hệ thống những nguyên lý, phạm trù cơ
bản và những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn thế giới hiện thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất.
- Tính hoàn bị: đó là sự thống giữa tính đảng với tính khoa học, giữa CNDV và PBC thành môn
khoa học duy nhất vừa là TGQ vừa là PPL, vừa là lý luận vừa là phương pháp.
Nghĩa là, nó khắc phục được mọi thiếu sót cơ bản của PBC cổ đại, PSH, PBCDT, CNDV cũ;

khắc phục được tính phiến diện hoặc tách rời giữa các bộ phận triết học có liên hệ hữu cơ với nhau.
Nó duy vật cả trong tự nhiên và trong xã hội: đó là sự thống nhất giữa CNDVBC và CNDVLS; giữa
CNDV, PBC và LLNT; giữa TGQ và PPL khoa học.
Phê phán quan điểm cho rằng: CNDVBC = CNDV + PBC; hoặc quan điểm cho rằng CNDV là
lý luận, còn PBC là phương pháp.
- Tính tự giác: nó dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn, được xây dựng nên nhằm phục vụ cho
lực lượng vật chất xã hội năng động, cách mạng có sứ mệnh xoá bỏ áp bức, bóc lột, giải phóng loài
người.
- Tính chất “mở”: nó không phải là một giáo điều, tự bản thân nó luôn mở ra khả năng và yêu
cầu cần phải bổ sung, phát triển cùng với sự phát triển của thực tiễn và khoa học.
V. I. Lênin viết: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như một cái gì đã xong xuôi hẳn và
bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho một môn khoa học mà
những người XHCN cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu
đối với cuộc sống”.
- Ngoài các đặc điểm trên cần chú ý:
+ Phép biện chứng mang tính khách quan, phổ biến, cụ thể, phong phú; sự thống nhất giữa biện
chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
+ PBCDV, lý luận nhận thức, lôgíc học có sự thống nhất.
+ Đây là phương pháp luận khoa học đối lập với phép siêu hình.
Do đó, khi xem xét các SVHT cần vận dụng tổng hợp hệ thống nguyên tắc PPL được rút ra từ
hai nguyên lý và từ toàn bộ PBCDV.
6


Phép biện chứng duy vật gồm hệ thống các khái niệm, nguyên lý, phạm trù, quy luật, trong đó
nguyên lý là yếu tố đầu tiên có ý nghĩa phổ quát nhất, định hướng toàn bộ nội dung, đồng thời xác định
những nguyên tắc, phương pháp luận cơ bản của cả hệ thống của phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật được khái quát từ hiện thực, phù hợp với hiện thực, các nhân tố đó được
tạo thành một hệ thống, một chỉnh thể liên hệ chặt chẽ với nhau theo những phương thức xác định
trong một hệ thống, mỗi nhân tố vừa có chức năng riêng, lại vừa có chức năng chung của hệ thống.

5. Qui luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập với tính cách là hạt nhân của phép
biện chứng duy vật. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề trong nhận diện và xem xét các mâu
thuẫn của thời cuộc hiện nay?
Trả lời
* Vị trí vai trò
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là một trong ba quy luật cơ bản, giữ vai
trò hạt nhân của phép biện chứng duy vật.
- Nó chỉ ra nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động và phát triển trong thế giới.
Khi bàn về vị trí, vai trò của quy luật này, V.I. Lênin viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện
chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép
biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”.
1. Mặt đối lập và mâu thuẫn.
* Mặt đối lập và mâu thuẫn là hai phạm trù có quan hệ chặt chẽ với nhau những không phải là
một. Để có được một quan niệm thực sự khoa học về hai phạm trù này cũng như mối quan hệ nội tại
giữa chúng là cả một quá trình lịch sử lâu dài, gắn liền với sự phát triển quan niệm của con người về
nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển.
Thế giới hiện thực vốn không phải là một chỉnh thể đồng nhất tuyệt đối, mà trái lại, luôn bao
hàm trong đó vô vàn sự khác nhau và đối lập giữa các mặt. Các mặt đối lập này, do tính tất yếu nội tại
của nó quy định, lại thường biểu hiện ra dưới hình thức hữu hình.
- Ngay từ thời cổ đại đã có những phỏng đoán khá sâu sắc về sự tác động qua lại giữa các mặt
đối lập và xem đó như là cơ sở vận động, phát triển của thế giới. Có thể tìm thấy tư tưởng này ở cách
luận giải về tính biến dịch của vạn vật thông qua sự chuyển hoá âm – dương trong triết học Trung
Hoa cổ đại; ở quan niệm của Hêraclít về khuynh hướng chuyển sang mặt đối lập trong quá trình vận
động của sự vật, hiện tượng; hay ở quan niệm của Platôn về sự tồn tại thông qua cái đối lập của các
khái niệm…
- Trước khi phép biện chứng mácxít ra đời, tư tưởng biện chứng về những đối lập đạt được đỉnh
cao nhất trong sự phát triển của nó trong học thuyết biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức, tiêu
biểu nhất là ở triết học của I. Cantơ và G.Hêghen.
+ Bằng sức mạnh của tư duy trừu tượng, I.Cantơ đã lập ra một hệ thống các phán đoán trái
ngược nhau về cùng một sự vật, trong cùng một quan hệ – nghĩa là chúng được coi là các mặt đối lập

khác nhau về chất – nhưng cả hai đều được chứng minh là đúng. I.Cantơ gọi đó là các antinômi.
Nhưng do không giải quyết được vấn đề “vô lý” trên, nên ông đã từ bỏ luôn vấn đề thừa nhận mâu
thuẫn khách quan, xem sự tồn tại của chúng như là bằng chứng nói lên sự bất lực của con người trong
quá trình nhận thức hiện thực.
+ Khi nghiên cứu phép biện chứng trong sự vận động, phát triển của “ý niệm tuyệt đối”,
G.Hêghen đã kịch liệt phê phán quan điểm siêu hình về sự đồng nhất. Theo ông, bất kỳ sự đồng nhất
nào cũng bao hàm sự khác biệt và mâu thuẫn. Hơn nữa, ông khẳng định: “Mâu thuẫn là nguồn gốc của
tất cả mọi sự sống, chỉ trong chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn, thì nó
mới vận động, mới có xung lực và hoạt động”, rằng “Tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong
bản thân nó”.
7


- Bằng việc kết thừa những thành quả tư tưởng biện chứng về mâu thuẫn và bằng việc tổng kết
từ thực tế lịch sử loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã phát triển học thuyết về mâu
thuẫn lên một tầm cao mới.
Theo đó, mâu thuẫn là phạm trù dùng để chỉ các mặt đối lập có mối quan hệ biện chứng với
nhau, cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng.
Mâu thuẫn trong phép biện chứng, trước hết được cấu thành bởi các mặt đối lập. Đó là những
mặt (những thuộc tính, sự vật, hệ thống sự vật…) có những đặc điểm, những thuộc tính có khuynh
hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nhưng sự đối lập giữa các mặt không phải là nội hàm chính của khái niệm mâu thuẫn biện
chứng, cũng như mâu thuẫn không phải được tạo dựng từ những sự đối lập bất kỳ. Trái lại, chỉ những
mặt đối nằm trong sự liên hệ, sự tác động qua lại với nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Đặc trưng đó cho
thấy sự khác biệt rất cơ bản giữa quan điểm duy vật biện chứng và quan điểm duy tâm, siêu hình về
mâu thuẫn cũng như sự khác biệt về chất giữa mâu thuẫn biện chứng với các loại mâu thuẫn khác.
2. Nội dung cơ bản của quy luật
* Việc nghiên cứu thực chất mối quan hệ biện chứng giữa các mặt đối lập và vai trò của chúng
đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật, hiện tượng cho phép chúng ta vạch ra quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập (hay còn gọi tắt là quy luật mâu thuẫn).

* Sự thống nhất
- Trước hết, hai mặt đối lập tuy có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, nhưng chúng lại
gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng tồn tại trong sự thống nhất của chúng.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của mặt đối lập,
sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Nói cách khác, cũng có thể xem sự
thống nhất của hai mặt đối lập là tính không thể tách rời nhau của hai mặt đó.
Chẳng hạn, về vấn đề này C. Mác giải thích: “Giai cấp vô sản và sự giàu có là hai mặt đối lập.
Với tính cách như vậy, chúng hợp thành một chỉnh thống nhất nào đó… Là chế độ tư hữu, là sự giàu
có, chế độ tư hữu không thể không duy trì sự tồn tại của bản thân nó, do đó cũng không thể không duy
trì sự tồn tại của mặt đối lập của nó là giai cấp vô sản… Trái lại, với tư cách là giai cấp vô sản, giai
cấp vô sản buộc phải thủ tiêu bản thân mình, do đó tiêu diệt cả cái mặt đối lập của nó – tức là chế độ
tư hữu - đang chi phối nó và làm cho nó thành giai cấp vô sản”1.
- Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, “đồng nhất” với nhau. Đó là
một biểu hiện khác về sự thống nhất của các mặt đối lập.
Do có sự “đồng nhất” này mà trong sự triển khai của mâu thuẫn, đến một lúc nào đó, mặt đối lập
này có thể chuyển hoá sang mặt đối lập kia (khi xét về một vài đặc trưng nào đó). Ví dụ, sự phát triển
của kinh tế trong chủ nghĩa tư bản phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, nhưng lại tạo ra tiền đề cho sự
thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng.
Tồn tại trong sự gắn bó chặt chẽ với nhau nhưng lại có khuynh hướng vận động trái ngược
nhau, do đó, đến một lúc nào đó trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, tương quan giữa các mặt đối
lập là cân bằng và chúng có vai trò, tác dụng ngang nhau đối với sự vật. Trong thực tế tình hình này
thường được biểu hiện ra ở điều kiện tương đối “hoà bình”, trước khi xảy ra những thay đổi có tính
chất bước ngoặt trong tiến trình phát triển của sự vật.
* Đấu tranh giữa các mặt đối lập
Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn tác động qua lại với nhau, “đấu tranh” với
nhau.
- Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn
nhau giữa chúng.
1


C.Mác và Ph. ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 11995, tập 2, tr. 54
8


- Trong một mâu thuẫn, “đấu tranh” giữa các mặt đối lập là mặt đối lập với sự “thống nhất” của
chúng. Sự thống nhất duy trì tính nương tựa vào nhau, đồng nhất và tác dụng ngang nhau, còn đấu
tranh lại phá vỡ hiện trạng ấy bằng việc làm gia tăng sự khác nhau và đối lập giữa các mặt của mâu
thuẫn.
- Phương thức theo đó các mặt đối lập đấu tranh và chuyển hoá lẫn nhau là hết sức phong phú
và đa dạng.
Tính chất phong phú và đa dạng này, một mặt là do tính chất của mâu thuẫn, mặt khác là do
tính chất của điều kiện lịch sử trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định. Nhưng
bất cứ cuộc đấu tranh nào cũng hướng tới sự phá vỡ sự thống nhất cũ để thiết lập sự thống nhất mới
cao hơn, và vì thế, bất cứ sự chuyển hoá nào cũng không phải là sự chuyển đổi vị trí giản đơn giữa hai
mặt đối lập.
* Mối quan hệ
Với tính cách là hai trạng thái đối lập nhau trong biện chứng của mâu thuẫn, sự thống nhất và
đấu tranh của hai mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Sự thống nhất duy trì sự đứng im, sự ổn định tạm thời của mâu thuẫn, do đó, nó là cơ sở, tiền
đề cho đấu tranh, chuyển hoá của các mặt đối lập.
Sự đấu tranh trực tiếp quy định sự vận động, sự phát triển không ngừng của mâu thuẫn, do đó,
nó vừa là thực chất, vừa là nội lực quy định sự thay thế lẫn nhau của các trình độ thống nhất.
Điều đó cũng có nghĩa, sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh giữa các
mặt đối lập là tuyệt đối.
* Tóm lại
- Trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn xét về thực chất, là sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập. Nhưng không phải sự thống nhất thuần tuý mà là sự thống nhất gắn bó hữu cơ với
đấu tranh; cũng không phải là sự đấu tranh chung chung mà là sự đấu tranh gắn bó hữu cơ với sự
thống nhất mới là nguyên nhân chân chính, cuối cùng cho sự vận động, biến đổi của mọi mâu thuẫn

nói chung, do đó, cũng là nguyên nhân chân chính cuối cùng cho sự vận động, biến đổi của từng sự
vật, hiện tượng nói riêng.
- Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi.
Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định những tính chất ấy của sự vật. Khi coi “thống
nhất” như là một trường hợp đặc biệt của “đấu tranh” thì hoàn toàn có thể định nghĩa: “Sự phát triển là
một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”.
* Nội dung quy luật
Từ những điều trình bày trên đây, có thể nêu thực chất quy luật thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập như sau:
Mọi sự vật và hiện tượng đều chứa đựng những mặt đối lập cấu thành những mâu thuẫn
nội tại; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận
động và phát triển.
3. Phân loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy hết sức đa dạng. Tính đa dạng của các
mâu thuẫn được quy định một cách khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện mà
trong đó sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập được triển khai, bởi trình độ tổ chức của hệ thống (sự
vật) mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
* Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lạp đối với một sự vật, người ta phân loại các mâu thuẫn
thành những mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
- Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự
vật.
9


- Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa sự vật đó với các
sự vật khác.
Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là tương đối. Do
vậy, để xác định một mâu thuẫn nào đó là mâu thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài, trước hết cần
xác định phạm vi sự vật cần xem xét.
- Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó mâu

thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật.
* Dựa trên ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, các mâu thuẫn được chia
thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
- Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả
các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật.
- Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó
quy định sự vận dộng và phát triển của một mặt nào đó của sự vật
* Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai
đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
* Căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập tạo thành mâu thuẫn xã hội, người ta chia các mâu
thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
- Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, những xu
hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh hướng xã hội có đối
lập về lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời.
- Phân biệt mâu thuẫn đối kháng với mâu thuẫn không đối kháng có ý nghĩa quan trọng trong
việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn.
4. ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng
- Muốn nhận thức đúng bản chất của sự vật, hiện tượng, tìm ra phương hướng và giải pháp đúng
cho hoạt động thực tiễn phải nhận thức đúng mâu thuẫn của sự vật, tìm ra những mặt, những mối liên hệ,
tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.
- Phải nhận thức rõ vai trò của từng mâu thuẫn và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn, điều kiện
chuyển hoá giữa chúng. Tìm ra phương thức, phương tiện, lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Tạo ra
những điều kiện thúc đẩy mâu thuẫn phát triển chín muồi; tìm phương thức phù hợp để giải quyết;
không thủ tiêu, né tránh, điều hoà mâu thuẫn. Phải tìm các hình thức linh hoạt, tạo ra các đều kiện
nhằm chuyển hoá các mặt đối lập phù hợp với từng loại mâu thuẫn và phương pháp giải quyết mâu
thuẫn, thúc đẩy sự vật phát triển.
- Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn và
mối quan hệ lẫn nhau của mâu thuẫn; hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, xu hướng vận động, phát triển
và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết mẫu thuẫn phải căn cứ trình độ phát triển của mẫu

thuẫn. Mẫu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi; không chủ quan, nóng vội. Mặt
khác, phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều kiện phát triển của mâu
thuẫn theo chiều hướng có lợi, giải quyết mâu thuẫn khi có đủ các điểu kiện.
Hiện nay, trên thế giới có 4 mâu thuẫn cơ bản sau:
- Thứ nhất: Mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB
Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, nổi cộm nhất của thời đại, mâu thuẫn giữa 2 chế độ chính trị đối lập. Nó
xuyên suốt thời đại từ khi CM XHCN T10 Nga thành công cho đến lúc CNXH và CN cộng sản được
xác lập trên phạm vi toàn thế giới, CNTB hoàn toàn bị thủ tiêu. Thực tiễn lịch sử từ sau CM XHCN
T10 Nga đến nay đã xác nhận mâu thuẫn này.
Sự vận động và giải quyết mâu thuẫn này có tác động, chi phối tới những mâu thuẫn còn lại của thời
đại. Mặc dù ngày nay, một số nước XHCN đã quan hệ ngoại giao, quan hệ kinh tế và nhiều quan hệ
10


khác với các nước TBCN. Điều đó không có nghĩa là mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB dịu đi hoặc
không còn nữa. Trái lại, mâu thuẫn giữa 2 chế độ này đang biểu hiện dưới dạng mới là vừa hợp tác,
vừa đấu tranh, trong đấu tranh có hợp tác trên nhiều phương diện.
- Thứ 2: Mâu thuẫn giữa giai cấp TS và giai cấp công nhân, giữa TB và lao động
Đây là mâu thuẫn nội tại trong lòng xã hội TBCN, trong đó mâu thuẫn giữa giai cấp VS và giai cấp TS
là cơ bản nhất. Chừng nào CNTB vẫn còn tồn tại thì mâu thuẫn giữa 2 giai cấp cơ bản trong XH này
vẫn là khách quan vì giai cấp TS là giai cấp thống trị, nắm TLSX, còn giai cấp công nhân là giai cấp
làm thuê cho giai cấp TS. Mặc dù hiện nay do sự đấu tranh của giai cấp công nhân và các lực lượng
tiến bộ, cùng với năng suất lao động cao do cuộc CM KHKT – công nghệ tạo ra, CNTB có những điều
chỉnh trong chính sách XH, tăng phúc lợi XH. Song phân hóa giàu nghèo vẫn diễn ra quyết liệt. Sự
phân hóa càng làm cho mâu thuẫn giai cấp trong XH TBCN vẫn tồn tại và gay gắt.
- Thứ 3: Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với CNĐQ
Mâu thuẫn này được nảy sinh khi CNTB chuyển thành CNĐQ, biến các nước kém phát triển về kinh
tế, văn hóa nhưng lại giàu về tài nguyên khoáng sản và dồi dào sức lao động thành hệ thống thuộc địa
và phụ thuộc của chúng. Bằng những biện pháp tinh vi, các nước TB đang bóc lột các nước thuộc địa
một cách thậm tệ, làm cho khoảng cách giữa các nước giàu và các nước nghèo ngày càng gia tăng.

Nhiều nước hiện nay không còn khả năng trả nợ. Tình trạng đói nghèo của các nước kinh tế chậm phát
triển là nguyên nhân dẫn tới những xung đột dân tộc, tôn giáo ở những nước này gia tăng.
Như vậy, hiện nay các nước chậm phát triển, một mặt phải tiến hành đấu tranh chống lại sự can thiệp
và xâm lược bằng quân sự, bằng kinh tế, bằng văn hóa của các nước phương Tây, mặt khác phải đấu
tranh chống lại nghèo đói, bệnh tật, lạc hậu…Tình trạng trên làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc
thuộc địa và phụ thuộc với CNĐQ ngày càng tăng.
- Thứ 4: Mâu thuẫn giữa các nước TBCN với nhau
Mặc dù các nước TBCN luôn có sự thống nhất với nhau về mặt bản chất, chế độ, về lợi ích giai cấp, về
mục tiêu chống phá CNXH và phong trào CM, nhưng quan hệ giữa các nước TBCN, giữa các tập
đoàn TB luôn là quan hệ liên minh nhằm tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Song, giữa các nước TBCN có
những mâu thuẫn về lợi ích quốc gia, lợi ích mỗi tập đoàn TB, do vậy luôn diễn ra những cuộc đấu
tranh lúc ngấm ngầm, lúc công khai.
Mâu thuẫn trên là nguyên nhân nổ ra 2 cuộc CT thế giới. Hiện nay mâu thuẫn này được thể hiện thông
qua mâu thuẫn giữa 3 trung tâm TB lớn: Mỹ - Nhật – Tây Âu.
Việc xác định đúng những mâu thuẫn của thời đại ngày nay giúp chúng ta từng bước giải quyết mâu
thuẫn và đưa lịch sử vận động, đi lên.
6. Cơ sở khoa học và yêu cầu của nguyên tắc toàn diện. ý nghĩa phương pháp luận của vấn
đề trong nhận thức và đánh giá tình hình thời cuộc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của
Đảng?
Trả lời
Cơ sở khoa học của nguyên tắc toàn diện xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: khái quát bức tranh sinh động của thế giới vật chất, ở đó
các sự vật, hiện tượng tồn tại, vận động và phát triển trong mối liên hệ phổ biến. Nó đòi hỏi phải có
quan điểm toàn diện khi xem xét các sự vật, hiện tượng. Lênin viết: “Tính linh hoạt áp dụng một cách
khách quan, nghĩa là phản ánh tính toàn diện của quá trình vật chất và sự thống nhất của quá trình đó,
thì đó là phép biện chứng”.
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lí cơ bản của phép biện chứng duy
vật, nó khẳng định giữa các SVHT trong thế giới luôn tồn tại trong mối liên hệ phổ biến tác động qua
lại lẫn nhau tạo nên sự vận động phát triển không ngừng. Việc nghiên cứu và nắm vững nguyên lí về
mối liên hệ phổ biến có ý nghĩa to lớn trong xem xét cải tạo các sự vật hiện tượng trong hoạt động

thực tiễn.
11


- Trong lịch sử triết học đã từng có quan điểm không thừa nhận sự liên hệ giữa các sự vật hiện
tượng. Quan điểm của các nhà siêu hình họ xem xét thế giới trong sự cô lập, tách rời, giữa các sự vật
hiện tượng không liên hệ với nhau. Nếu phải thừa nhận họ chỉ thừa nhận mối liên hệ hời hợt bên ngoài,
không lên hệ, không chuyển hoá lẫn nhau, cái nọ đặt bên cạnh cái kia. Ph.Ăngghen đã nhận xét họ chỉ
nhìn thấy cây mà không nhìn thấy rừng, thấy sự vật mà không nhìn thấy chúng.
- Đối lập với các quan điểm trên, các nhà kinh điển của chủ nghiã Mác – Lênin khẳng định, thế
giới là một chỉnh thể thống nhất của các sự vật, hiện tượng luôn liên hệ một cách khách quan, phổ biến
và phong phú muôn vẻ với nhau.
+ Liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác đọng, ảnh hưởng qua lại,
chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt, các yếu tố của một sự vật, hiện
tượng.
+ Khi khẳng định tính khách quan của liên hệ, phép biện chứng duy vật coi đó là những mối
liên hệ hiện thực của bản thân thế giới vật chất, bắt nguồn từ sự thống nhất vật chất trong các quá trình
tự nhiên và xã hội. Các sự vật, hiện tượng không tồn tại ở ngoài liên hệ.
+ Liên hệ bao giờ cũng là liên hệ của sự vật, hiện tượng, quá trình. Sự vật, hiện tượng thay đổi
thì sự liên hệ của chúng cũng thay đổi và việc thay đổi hoàn toàn những mối liên hệ, mà trong đó sự
vật, hiện tượng đang tồn tại có thể dẫn đến sự thay đổi hoàn toàn sự vật, hiện tượng ấy.
+ Một mối liên hệ cụ thể có thể mất đi, nhưng sự liên hệ nói chung của thế giới thì không thể
mất đi. Do đó, liên hệ vừa mang tính khách quan vừa mang tính phổ biến, tồn tại cả trong cả tự nhiên,
xã hội và tư duy.
-> Ví dụ, trong tự nhiên, sự tác động liên hệ lẫn nhau giữa động vật và thực vật; trong xã hội, đó
là mối liên hệ giữa kinh tế - chính trị, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa người với
người; trong tư duy, đó là mối liên hệ giữa các phạm trù - khái niệm, giữa biết và chưa biết.
-> Như vậy, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Không có sự
vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
+ Nghiên cứu mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng còn thấy rõ tính phong phú muôn vẻ của

nó.
-> Tính phong phú muôn vẻ có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: Mối
liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ bản
chất và mối liên hệ không bản chất, mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên, mối liên hệ chung
bao quát toàn bộ thế giới và mối liên hệ riêng bao quát một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực của thế giới,
mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp, mối liên hệ giữa các sự vật và mối liên hệ giữa các mặt
hay giữa các giai đoạn phát triển của một sự vật để tạo thành lịch sử phát triển của sự vật, Có những
mối liên hệ tác động đến nhiều lĩnh vực rộng lớn của thế giới (Mối liên hệ: bản chất - hiện tượng, mối
liên hệ cái chung cái riêng, nội dung - hình thức) ... Trong một sự vật có thể bao gồm rất nhiều loại
mối liên hệ, chứ không phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác định.
Ví dụ, mỗi cá nhân trong một tập thể nhất định vừa có mối liên hệ bên trong, vừa có mối liên hệ
bên ngoài, vừa có mối liên hệ bản chất, vừa có mối liên hệ không bản chất, vừa có mối liên hệ trực
tiếp, vừa có mối liên hệ gián tiếp …
-> Mỗi loại mối liên hệ có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Mối
liên hệ ben trong là sự tác động qua lại, sự quy định, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các yếu tó, các thuộc
tính, các mặt của một sự vật. Mối liên hệ này giữ vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của sự
vật. Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ này, nói chung,
không giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật
Ý nghĩa PPL:
Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến có thể rút ra phương pháp
luận khoa học để nhận thức và cải tạo hiện thực. Vì bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn
12


tại trong mối liên hệ với các sự vật khác và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, do đó khi nhận thức về
sự vật, hiện tượng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật,
hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật của chúng.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ
phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các
sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức

đúng về sự vật. Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy đủ tri thức của khoa học triết học, chúng ta
còn phải tìm ra mối liên hệ của tri thức triết học với tri thức khoa học khác, với tri thức cuộc sống và
ngược lại, vì tri thức triết học được khái quát từ tri thức của các khoa học khác và hoạt động của con
người, nhất là tri thức chuyên môn được chúng ta lĩnh hội.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối liên hệ, phải biết
chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên ...
để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất
trong sự phát triển của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự
chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định. Trong quan hệ giữa con người
với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng con người. Ngay cả quan hệ với
một con người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải
có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không
những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự
vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương
tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu : “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta;
mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hoá mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và toàn cầu hoá kinh tế đưa lại.
7. Cơ sở khoa học và yêu cầu của nguyên tắc phát triển. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn
đề trong xem xét con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay?
Trả lời
* Nguyên lý về sự phát triển: phản ánh đặc trưng phổ quát nhất của thế giới là xu hướng vận
động biến đổi của thế giới là tiến lên. Nó cung cấp cho chúng ta phương pháp nhận thức khoa học về
thế giới, chỉ cho chúng ta con đường đúng đắn để cải tạo tự nhiên và xã hội. Lênin chỉ rõ: “Điều kiện
quan trọng nhất của một sự nghiên cứu khoa học là không nên quên mối liên hệ lịch sử căn bản, là
xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như
thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của
sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào”.

Nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lí cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó
khẳng định giữa các SVHT trong thế giới không chỉ tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, tác động qua lại
lẫn nhau mà nó còn luôn vận động phát triển không ngừng. Việc nghiên cứu và nắm vững nguyên lí về
sự phát triển có một ý nghĩa rất lớn trong xem xét cải tạo các sự vật hiện tượng trong hoạt động thực
tiễn.
Cũng như mọi vấn đề triết học khác, phát triển cũng được xem xét dưới các góc độ phương
pháp luận và thế giới quan khác nhau, đối lập nhau: biện chứng và siêu hình, duy tâm và duy vật.
- Quan điểm siêu hình xem xét phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi thuần tuý về lượng,
không có sự thay đổi về chất. Tất cả tính phong phú muôn vẻ về chất của các sự vật, hiện tượng đều
được xem là nhất thành, bất biến trong suốt quá trình tồn tại của nó. Sự phát triển không nhất thiết phải
có sự ra đời của cái mới, mọi thay đổi nếu có cũng chỉ diễn ra theo một vòng tròn khép kín. Quan điểm
13


siêu hình cũng xem xét phát triển như một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co
phức tạp và nguồn gốc của nó nằm bên ngoài sự vật, hiện tượng.
- Theo quan điểm duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá
trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.
+ Theo quan điểm đó, vận động và phát triển là hai khái niệm không đồng nhất với nhau. Vận
động chỉ phản ánh sự biến đổi nói chung, không kể tính chất, khuynh hướng hay kết quả của sự biến
đổi đó. Còn phát triển phản ánh tính chất, khuynh hướng đi lên của sự biến đổi nói chung ấy.
+ Sự phát triển có đặc tính là đi lên, có tính kế thừa nhất định, có sự lặp lại cái cũ trên cơ sở cao
hơn và tất yếu có sự ra đời của cái mới. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là đặc tính cố hữu
của vật chất, gắn với mọi dạng vật chất. Sự phát triển là một kiểu vận động đặc biệt, được đặc trưng bởi
tính xu hướng, tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Vì
thế, không phải bất cứ sự vận động nào cũng được coi là sự phát triển.
+ Phép biện chứng duy vật khẳng định, sự phát triển của sự vật, hiện tượng là một quá trình khách
quan, là sự tự thân phát triển. Đó là một quá trình tiến lên mà nguồn gốc, động lực của nó là cuộc đấu
tranh giữa các mặt đối lập bên trong của sự vật, hiện tượng; là một quá trình mà trạng thái tiến lên thông
qua các bước nhảy chuyển hoá từ lượng sang chất và ngược lại; là một quá trình tiến lên không phải theo

đường thẳng, cũng không phải theo đường vòng tròn mà theo đường “xoáy ốc”, có thể có bước thụt lùi
tạm thời, nhưng cái mới sẽ ra đời và chiến thắng. Đó là khuynh hướng tất yếu của sự phát triển. Những
quan điểm cơ bản trên đây được trình bày trong những quy luật cơ bản, phổ biến của phép biện chứng duy
vật.
Quan điểm trên đây của phép biện chứng duy vật hoàn toàn đối lập với quan điểm duy tâm về
sự phát triển. Những người theo quan điểm duy tâm thường tìm nguồn gốc của sự phát triển ở các lực
lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức chủ quan của con người. Đó là một phương pháp luận sai lầm nên đã
bị thực tiễn lịch sử và khoa học bác bỏ.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự
vật, do mâu thuẫn của sự vật quy định. Phát triển, theo quan điểm duy vật biện chứng, là quá trình tự
thân của mọi sự vật, hiện tượng. Do vậy, quá trình đó diễn ra khách quan, độc lập với ý thức con
người.
+ Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển không chỉ thừa nhận tính khách quan của sự
phát triển mà còn khẳng định tính phổ biến của quá trình này. Tính phổ biến của sự phát triển được
hiểu là nó diễn ra ở mọi lĩnh vực : Tự nhiên, xã hội và tư duy ; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế
giới khách quan. Ngay cả các khái niệm, phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận
động và phát triển, hoặc đúng hơn, mọi hình thức của tư duy cũng luôn phát triển. Chỉ trên cơ sở của
sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các phạm trù mới có thể phản ánh
đúng đắn hiện thực luôn vận động và phát triển.
+ Ngoài tính khách quan và tính phổ biến, sự phát triển còn mang tính đa dạng, phong phú.
Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chúng của mọi sự vật, hiện tượng. Song, mỗi sự vật, hiện
tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, thời gian khác
nhau, sự phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác
động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí
làm cho sự vật thụt lùi. Ví dụ, nói chung, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ
so với trẻ em ở các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành quả, những điều kiện thuận
lợi mà xã hội mang lại.
Tóm lại, tự nhiên, xã hội và tư duy đều nằm trong quá trình vận động và phát triển không
ngừng. Bản chất khách quan đó của hiện thực đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm phát triển

trong nhận thức và thực tiễn.
14


Nếu phát triển là một quá trình đổi mới không ngừng thì nhiệm vụ của khoa học là phải nghiên
cứu xem xét các sự vật, hiện tượng của thế giới đang vận động, biến đổi từ dạng này qua dạng khác, từ
giản đơn đến phức tạp, từ thấp đến cao như thế nào.
Ý nghĩa PPL:
- Trong nhận thức và cải tạo sự vật đòi hỏi phải có quan điểm phát triển, nghĩa là phải phân
tích khách thể trong sự vận động của nó.
-> Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận nhận thức hiện thực, đòi
hỏi chúng ta không chỉ thấy sự vật như là cái đang có, mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển
tương lai của nó; không chỉ thống kê được những khuynh hướng vận động phức tạp của nó, mà còn
phải khái quát và làm sáng tỏ được xu hướng vận động, phát triển chủ đạo của.
->Theo đó, việc phát hiện và ủng hộ cái mới và loại trừ cái cũ đều là công việc hết sức cần thiết
trong quá trình phát triển của sự vật. Điều này hết sức quan trọng trong thực tiễn xã hội. Vấn đề có tính
quy luật là đi liền với cái mới, bao giờ cũng có cái cũ, cái cũ có lúc nhiều hơn, mạnh hơn, thậm chí còn
được che giấu. Vì thế, chỉ có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới chưa đủ mà phải tỉnh táo, sắc sảo
phân biệt cái mới với cái cũ, với cái giả danh là mới; phải thông qua hành động thực tiễn làm chuyển
biến tương quan lực lượng giữa cái cũ và cái mới, làm cho cái mới mạnh lên, cái cũ suy yếu dần đi
trong quá trình phát triển của sự vật.
- Phải biết phát hiện, đấu tranh ủng hộ cái mới, cái tiến bộ kiên quyết đấu tranh xoá bỏ cái lạc
hậu.
- Phải thấy được sự phát triển là quá trình khó khăn, phức tạp, vừa mang tính khuynh hướng
chung là phát triển đi lên nhưng phải gắn với quan điểm cụ thể.
-> Sự phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thực tế là một quá trình biện chứng đầy mâu
thuẫn. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ tính chất quanh co, phức tạp của mọi quá trình phát triển.
Thiếu quan điểm khoa học như trên, người ta rất dễ bi quan, dao động khi tạm thời gặp khó khăn trắc
trở trong quá trình hoạt động thực tiễn.
- Cần phải chống định kiến cá nhân, bảo thủ, chủ quan, nóng vội hoặc nóng vội, tả khuynh.

Ý nghĩa vận dụng
- Những thành tựu cách mạng nước ta mấy chục năm qua cũng như những thành công to lớn
của công cuộc đổi mới những năm gần đây dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng
minh rằng cách mạng nước ta đang đi đúng quy luật của sự phát triển.
- Kiên định sự nghiệp đổi mới toàn diện nhưng có nguyên tắc, tỉnh táo cảnh giác vạch trần và
kiên quyết đập tan mọi mưu đồ của các thế lực thù địch đối với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
sự bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Người cán bộ cần quán triệt quan điểm phát triển vào nhận thức các hiện tượng trong quá trình
công tác. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì nó cho phép chúng ta luôn nắm chắc tình hình mọi mặt,
luôn luôn làm chủ tình hình trước mọi diễn biến, dù phức tạp khó khăn đến đâu.
- Phép biện chứng cũng đòi hỏi chúng ta phải chống cả hai khuynh hướng “tả” và “hữu” trong
nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Thói quen cứng nhắc, bảo thủ trì trệ, chủ nghĩa kinh nghiệm
cực đoan và sự nôn nóng chủ quan, đổi mới không có nguyên tắc, lầm lẫn cái mới tất yếu với những
cái gọi là mới… đều nguy hiểm như nhau và đều là lực cản trong tiến hành công tác tư tưởng...
8. Đặc điểm về nội dung và hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép
biện chứng duy vật. Ý nghĩa của vấn đề đối với người cán bộ hiện nay?
Trả lời
Một số nguyên tắc phương pháp luận cơ bản được rút ra từ nội dung của phép biện chứng
duy vật giữ vai trò định hướng cho hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
1. Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
15


- Vị trí: là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện
chứng duy vật.
- Nội dung nguyên tắc: muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng chúng ta phải
xem xét sự tồn tại của nó trong các mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau
trong chỉnh thể sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác.
- Yêu cầu:
+ Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, chỉ ra đâu

là mối liên hệ bản chất quy định sự vận động phát triển của sự vật (chống chủ nghĩa chiết chung kết
hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ, coi cái cơ bản thành không cơ bản... dẫn đến nhận thức sai lệch,
xuyên tạc bản chất của sự vật, hiện tượng).
+ Xem xét sự vật trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người, gắn với mỗi hoàn cảnh
nhất định (tránh tuyệt đối hóa tri thức đã có về sự vật, hiện tượng, coi đó là những chân lý bất biến,
không bổ sung, không phát triển).
+ Nguyên tắc toàn diện đối lập với cách nhìn phiến diện một chiều; đối lập với chủ nghĩa
chiết trung và thuật ngụy biện (chủ nghĩa chiết chung chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự
vật, hiện tượng nhưng không rút ra được mặt bản chất, mối liên hệ cơ bản, mà xem xét bình quân, kết
hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau; thuật ngụy biện đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản,
cái không bản chất thành cái bản chất).
+ Từ quan điểm toàn diện trong nhận thức, chúng ta rút ra cái nhìn đồng bộ trong hoạt động
thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn phải áp dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau
để cải tạo sự vật, hiện tượng. Trong mỗi giai đoạn phải xác định khâu trọng tâm, then chốt để tập trung
lực lượng giải quyết vấn đề.
+ Trong hoạt động thực tiễn (các ngành KHTN và KHXH) phải quán triệt quan điểm toàn
diện. Chúng ta không thể hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng nếu tách nó ra khỏi những mối liên
hệ, những tác động qua lại giữa chúng. Đây là cơ sở phương pháp luận trong xem xét công cuộc đổi
mới của cách mạng Việt Nam hiện nay (nếu không phân tích toàn diện những mối liên hệ, quan hệ...
sẽ không đánh giá đúng tình hình, thuận lợi, khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất
nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh).
2. Nguyên tắc phát triển.
- Vị trí: đây là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Nội dung:
+ Phát triển là sự vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động và trong sự phát triển
sẽ nảy sinh những tính quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó, cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và
vận động của sự vật, hiện tượng cùng chức năng của nó ngày càng hoàn thiện hơn.
+ Để nhận thức được sự tự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng phải thấy được sự

thống nhất giữa sự biến đổi về lượng với sự biến đổi về chất trong quá trình phát triển; phải tìm ra
nguồn gốc, động lực bên trong, nghĩa là tìm ra và biết cách giải quyết mâu thuẫn; phải xác định xu
hướng phát triển của sự vật, hiện tượng do sự phủ định biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề
cho sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới; sự vật, hiện tượng mới ra đời phù hợp với quy luật vận động
và phát triển, bởi vậy phải ủng hộ cái mới, cái tiến bộ.
- Yêu cầu:
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải đặt nó trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hóa
để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng trong trạng thái hiện tại, mà còn thấy được khuynh hướng
phát triển của nó trong tương lai, ... cần phải chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu thuẫn.
16


+ Phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
+ Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái
mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ; chống quan
điểm bảo thủ, trì trệ...
+ Vận dụng quan điểm phát triển vào nhận thức con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
3. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và thực tiễn.
- Vị trí: đây cũng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Nội dung: xem xét sự vật, hiện tượng phải xem xét sự hình thành, tồn tại và phát triển của
nó trong trong điều kiện, môi trường cụ thể, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể; nghiên cứu sự vật, hiện tượng
trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể của nó.
- Yêu cầu:
+ Nhận thức được vận động có tính phổ biến, là phương thức tồn tại của vật chất: vận động
làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định và hình thức của vận
động quyết định bản chất của nó; phải chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó đã trải qua...
+ Nhận thức những thay đổi diễn ra trong sự vật, hiện tượng, trạng thái chất lượng thay thế

nhau, chỉ ra quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, quy định sự
tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hóa của nó.
+ Xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ cụ thể của chúng. Xem xét các mặt, các
mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt vong của
chúng cho phép nhận thức đúng đắn bản chất sự vật, hiện tượng từ đó có định hướng đúng cho hoạt
động thực tiễn của con người.
+ Xem xét các mối liên hệ, sự biến đổi của sự vật, hiện tượng theo thời gian, cũng như trong
những không gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng của sự vật, hiện tượng;
tránh khuynh hướng giáo điều, chung chung, trừu tượng không cụ thể. Mặt khác, đề phòng khuynh
hướng tuyệt đối hóa tính cụ thể, không thấy sự vật, hiện tượng trong cả quá trình vận động, biến đổi.
9. Phân tích luận điểm: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là
một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin”. Ý nghĩa phương
pháp luận của vấn đề đối với công tác tư tưởng, lý luận trong sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay ?
Trả lời
Vì sao phải đặt ra nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Thực tiễn và lý luận là 2 mặt đối lập, có xu hướng vận động tách rời nhau. Thực tiễn luôn vận
động biến đổi không ngừng, trong khi lý luận kết quả quá trình nhận thức, phản ánh thực tiễn của con
người, về mặt hình thức là chủ quan, có tính độc lập tương đối so với thực tiễn.
Phải đặt ra nguyên tắc để cho lý luận theo kịp thực tiễn, phản ánh đúng thực tiễn, đồng thời dẫn
dắt, chỉ đạo thực tiễn đúng hướng và có hiệu quả.
* Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
“Thống nhất” ở đây không phải là “đồng nhất”, mà là sự thống nhất biện chứng, bao hàm mâu
thuẫn. Thực tiễn và lý luận cần đến nhau, tác động lẫn nhau, nương tựa vào nhau, bổ sung cho nhau.
Không có thực tiễn thì không thể có lý luận, ngược lại, không có lý luận khoa học thì cũng không thể
có thực tiễn chân chính.
Cơ sở chung nhất của nguyên tắc xuất phát từ vai trò của học thuyết Mác - Lênin
- Phát hiện ra vai trò của thực tiễn và nguyên tắc thống nhất giữa lý luận - thực tiễn là một
trong các nội dung cơ bản của bước ngoặt cách mạng trong triết học do Mác - Ăngghen thực hiện.
17



- Học thuyết Mác - Lênin là sự biểu hiện sinh động, có sức thuyết phục nhất về sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn (vấn đề không chỉ là nhận thức thế giới mà là cải tạo thế giới).
- Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đã thể hiện trong toàn bộ quá trình hình
thành, phát triển của lý luận mácxít; cũng như trong thực tiễn cách mạng của của giai cấp công
nhân.
Cơ sở trực tiếp đi từ vai trò của thực tiễn đối với lý luận và vai trò của lý luận đối với thực tiễn
- Vai trò của thực tiễn đối với lý luận
+ Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức, của lý luận
Mọi tri thức của con người đều bắt nguồn từ thực tiễn. Bằng và thông qua hoạt động thực tiễn,
con người mới có hiểu biết (tri thức) về sự vật và có cơ sở để khái quát những hiểu biết (tri thức) này
thành lý luận.
Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi các nhà lý luận phải giải quyết, trên cơ sở đó,
thúc đẩy lý luận phát triển và quy định khuynh hướng phát triển của lý luận.
Thực tiễn luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học mới, của các lý luận mới. Bởi thực
tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển, luôn đòi hỏi phải được khái quát, tổng kết để làm giàu kinh
nghiệm, phát triển lý luận, định hướng cho hoạt động thực tiễn tiếp theo.
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người cũng cải biến chính bản thân mình, từ việc hoàn thiện
các giác quan đến phát triển năng lực, trí tuệ của mình, để nhận thức hiệu quả hơn, khái quát lý luận
đúng đắn hơn. Ph.Ăng ghen đã viết: “…chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải một
mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con
người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”.
Trong thực tiễn, chính nhu cầu chế tạo, cải tiến công cụ sản xuất cũng như công cụ, máy móc
hỗ trợ con người nhận thức đã thúc đẩy nhận thức, tư duy, lý luận phát triển.
+ Thực tiễn là mục đích của lý luận
Để sống, sản xuất vật chất, cải tạo tự nhiên, xã hội buộc con người phải tìm hiểu, khám phá,
nhận thức thế giới xung quanh. Vì thế, nhận thức của con người ngay từ đầu đã bị quy định bởi nhu
cầu thực tiễn. Nếu nhận thức, lý luận không vì thực tiễn, không nhằm phục vụ, soi đường, dẫn dắt, chỉ
đạo thực tiễn thì nhất định sẽ mất phương hướng, phải trả giá.

+ Thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của lý luận.
Con người có được những hiểu biết về thế giới thông qua hoạt động thực tiễn, đồng thời, chỉ có
thông qua hoạt động thực tiễn, con người mới “vật chất hóa” được tri thức, “hiện thực hóa được tư
tưởng”, khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm.
C.Mác trong Luận cương về Phoiơbắc đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là vấn
đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính
hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình. Sự tranh cãi về tính hiện thực hay tính không
hiện thực của tư duy tách rời thực tiễn, là một vấn đề kinh viện thuần túy”.
Với tư cách là tiêu chuẩn chân lý, thực tiễn vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tính
tuyệt đối của thực tiễn thể hiện ở chỗ, ở mỗi giai đoạn lịch sử - cụ thể thực tiễn luôn là tiêu chuẩn
khách quan duy nhất để khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối của thực tiễn thể hiện ở
chỗ, thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển, do đó, “không bao giờ có thể xác nhận hoặc bác bỏ
một cách hoàn toàn một biểu tượng nào đó của con người, dù biểu tượng ấy là thế nào chăng nữa”.
Ý nghĩa phương pháp luận rút ra ở đây là phải có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt
động. Theo V.I.Lênin: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của
lý luận nhận thức”
- Vai trò của lý luận khoa học đối với thực tiễn
18


+ Lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận khoa học vạch ra phương
hướng, phương pháp cho hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi hiện thực khách quan theo hướng tiến bộ
vì lợi ích của con người. Nếu thực tiễn không được soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo bởi lý luận khoa học thì
dễ rơi vào mò mầm, mù quáng, mất phương hướng.
+ Lý luận góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần chúng để tạo thành phong
trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng. Bởi lẽ, khi lý luận thâm nhập vào đông
đảo quần chúng sẽ chuyển hoá thành lực lượng vật chất vĩ đại cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ con
người.
+ Lý luận khoa học cung cấp cho con người những tri thức khoa học về tự nhiên, xã hội và bản

thân con người. Trên cơ sở những tri thức khoa học đó, con người có thể làm biến đổi tự nhiên, xã hội
và bản thân phục vụ cho mục đích của mình.
+ Lý luận có tính độc lập tương đối so với thực tiễn, do vậy nó có thể tác động trở lại thực tiễn,
góp phần làm biến đổi thực tiễn. Mức độ, hiệu quả tác động của lý luận đối với thực tiễn phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, nhưng trước hết phụ thuộc vào tính đúng đắn, khoa học của lý luận; mức độ thâm
nhập của lý luận vào quảng đại quần chúng nhân dân; vào sự vận dụng sáng tạo, đúng đắn lý luận hay
không bởi chủ thể hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận phải thấy được vai trò to lớn của lý luận khoa học, đồng thời không
được tuyệt đối hóa lý luận.
Thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ Minh: “Lý luận rất cần thiết nhưng nếu cách học tập không
đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong học tập lý luận chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên
hệ với thực tế”.
* Nội dung của nguyên tắc
- Lý luận và thực tiễn là hai mặt cơ bản của quá trình hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới
của con người, là một thể thống nhất không thể tách rời. Trong mối quan hệ đó, thực tiễn luôn luôn là
tính thứ nhất, giữ vai trò quyết định lý luận, còn lý luận là tính thứ hai, tác động tích cực trở lại thực
tiễn.
- Lý luận chỉ trở thành khoa học khi xuất phát từ thực tiễn, được thực tiễn kiểm nghiệm
- Hoạt động thực tiễn chỉ đạt được mục đích khi được lý luận soi đường.
Không có lý luận khoa học soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, định hướng thì cũng không thể có thực
tiễn đúng đắn, đúng hướng, đạt hiệu quả. Thực tiễn đúng đắn, đạt hiệu quả là thực tiễn cải tạo được
trên thực tế tự nhiên và xã hội, phục vụ cho mục đích tốt đẹp của con người. Rõ ràng, sản xuất vật chất
chỉ đạt hiệu quả cao; chính trị - xã hội chỉ được cải tạo theo hướng nhân văn vì con người; thực nghiệm
khoa học chỉ gắn với phát triển sản xuất và cải tạo xã hội vì con người, khi được chỉ đạo bởi một lý
luận thực sự khoa học, đúng đắn.
Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải được
hiểu:
Một mặt, thực tiễn đúng đắn luôn phải được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi một lý luận khoa
học. Nếu không, thực tiễn đó sẽ là thực tiễn mù quáng, mò mẫm, mất phương hướng, không có tính
hướng đích.

Mặt khác, lý luận khoa học phải được hình thành trên cơ sở thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn,
bằng con đường tổng kết, khái quát kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh thực tiễn đó và phục vụ thực tiễn.
Nếu không, lý luận đó sẽ là lý luận suông, lý luận thuần túy sách vở, xa rời cuộc sống, dễ trở thành lý
luận ảo tưởng, không có căn cứ, giáo điều, kinh viện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thi hành thực tiễn mù
quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”
* Yêu cầu nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
19


- Nắm vững bản chất khoa học và cách mạng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
làm cơ sở nền tảng tư tưởng và kim nam cho mọi hoạt động.
- Mỗi chủ thể nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nắm chắc lý luận của các môn khoa học cụ
thể cùng các môn khoa học chuyên ngành, từ đó vận dụng sáng tạo trong điều kiện, tình hình cụ thể.
- Phải có quan điểm thực tiễn đúng đắn, tích cực hoạt động trong thực tiễn; rèn luyện khả
năng, trình độ nắm bắt các yêu cầu thực tiễn và nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, từ
lý luận trở về thực tiễn phải có ý chí, tình cảm, có khả năng tổ chức và khả năng vận dụng.
- Phải biết kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận cần bám sát thực tiễn, vận dụng
và cụ thể hoá sáng tạo. Đồng thời, trên cơ sở thực tiễn phải thường xuyên sơ kết, tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn, khái quát và bổ sung phát triển lý luận; luôn có sự kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng và
công tác tổ chức.
- Khắc phục chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm trong nhận thức và thực tiễn.
+ Bệnh kinh nghiệm về bản chất là tuyệt đối hóa kinh nghiệm, đề cao thực tiễn để hạ thấp lý
luận, coi KN là yếu tố duy nhất quyết định thành công trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, áp dụng
những kinh nghiệm cá biệt, cụ thể cho mọi trường hợp, mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh; xem thường, hạ
thấp lý luận khoa học, không chịu học tập lý luận, không đánh giá đúng vai trò của đội ngũ tri thức…
Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm có nhiều, chẳng hạn như ảnh hưởng tiêu cực của nền sản
xuất nhỏ, lúa nước, theo mùa, theo chu kỳ, ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng gia trưởng, phong kiến,
ảnh hưởng của kinh nghiệm chiến tranh quá lâu dài,v.v… Nhưng nguyên nhân cơ bản, trực tiếp là do
hạn chế cả về trình độ lý luận và trình độ tổ chức thực tiễn, trình độ chuyên môn; vi phạm nguyên tắc

thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Để khắc phục bệnh kinh nghiệm có hiệu quả, phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó
căn bản nhất là phải thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để khắc phục ảnh
hưởng tiêu cực của nền sản xuất nhỏ; khắc phục tư tưởng gia trưởng, phong kiến, như tư tưởng coi
thường tri thức… Đặc biệt, phải nâng cao trình độ lý luận và trình độ tổ chức thực tiễn, quán triệt sâu sắc
và vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
+ Bệnh giáo điều, về bản chất là tuyệt đối hóa lý luận, xa rời thực tiễn, không đánh giá đúng vai
trò của thực tiễn trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động lý luận, hoặc áp dụng lý luận và kinh
nghiệm không tính tới điều kiện lịch sử - cụ thể.
Nước ta có hai loại bệnh giáo điều: Một là, giáo điều lý luận, thể hiện ở chỗ vận dụng lý luận
không căn cứ vào những điều kiện lịch sử – cụ thể, học tập lý luận tách rời thực tiễn, xa rời cuộc sống,
rơi vào bệnh sách vở, “tầm chương, trích cú”; bệnh câu chữ… Hai là, giáo điều kinh nghiệm, thể hiện
ở chỗ vận dụng kinh nghiệm của ngành khác, người khác, địa phương khác, nước khác vào mình
nhưng không tính tới những điều kiện thực tiễn lịch sử - cụ thể của mình.
Nguyên nhân của bệnh giáo điều: ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
quá lâu; ảnh hưởng của tư tưởng tiểu tư sản, như bệnh thành tích, bệnh hình thức…đặc biệt là hạn chế
về trình độ tổ chức thực tiễn, không bám sát thực tiễn, không nhận thức đúng vai trò của thực tiễn đối
với lý luận, vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn.
Để ngăn ngừa, khắc phục có hiệu quả bệnh giáo điều, cần thực hiện nhiều giải pháp, như hoàn
thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tư tưởng tiểu tư sản, như chủ
nghĩa thành tích chủ nghĩa hình thức, v.v.. nhất là phải quán triệt và vận dụng đúng đắn nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận với thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
10. Bản chất cách mạng và khoa học của phương pháp tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội của
C. Mác. Phê phán những quan điểm sai trái về vấn đề này hiện nay?
Trả lời

20


Các nhà triết học trước Mác thường bàn về xã hội một cách chung chung, trừu tượng. Họ chưa

có một lý luận thực sự khoa học để nhận thức bản chất xã hội, nhận thức các quy luật khách quan chi
phối sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người.
* Phương pháp tiếp cận của triết học Mác – Lênin và bản chất khoa học, cách mạng của nó
C.Mác đã tiếp cận lịch sử xã hội loài người bằng phương pháp biện chứng duy vật.
- Điểm xuất phát để nghiên cứu lịch sử xã hội là từ nền tảng vật chất của xã hội, đó là phương
thức sản xuất vật chất.
- Trong hệ thống các quan hệ xã hội đa dạng, phong phú và phức tạp giữa người với người
trong đời sống xã hội, ông làm nổi bật lên các mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật
chất. Đó chính là quan hệ kinh tế - vật chất của xã hội và chỉ rõ đây là mối quan hệ cơ bản, đầu tiên,
quyết định tất cả các mối quan hệ xã hội khác.
- Trong quá trình nghiên cứu, C.Mác đã đi sâu giải phẫu xã hội tư bản chủ nghĩa, phát hiện ra
các mối quan hệ bản chất, tất yếu, ổn định trong mọi xã hội, từ đó tìm ra quy luật vận động, phát triển
của lịch sử xã hội. Mỗi xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất riêng biệt đặc trưng cho xã hội đó. C.Mác
cho rằng, tổng hợp lại những quan hệ sản xuất cấu thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội,
cái gọi là xã hội mà lại là một xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính
chất độc đáo, riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư bản đều là những thể tổng hợp các
quan hệ sản xuất theo loại đó, mà mỗi thể tổng hợp ấy đồng thời lại tiêu biểu cho một giai đoạn phát
triển đặc thù trong lịch sử nhân loại.
- C.Mác không nghiên cứu quan hệ sản xuất xuất một cách riêng biệt, mà coi quan hệ sản xuất
tồn tại tương ứng trên một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Hai mặt này hợp thành
phương thức sản xuất của xã hội, là nền tảng vật chất của mọi hình thái kinh tế - xã hội. Toàn bộ
những quan hệ sản xuất vật chất hiện thực là cơ sở hạ tầng của xã hội, tức là “cơ sở thực tại” trên ấy
xây dựng một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Đó là những quan điểm về chính trị, đạo đức, pháp
luật, triết học v.v.. cùng các thể chế tương ứng.
V.I.Lênin đã kế thừa những tư tưởng cơ bản của C.Mác, phát triển và làm phong phú thêm lý
luận hình thái kinh tế - xã hội. V.I.Lênin nhấn mạnh, C.Mác đã làm nổi bật lĩnh vực kinh tế trong các
lĩnh vực khác của đời sống xã hội, tách riêng quan hệ vật chất trong hệ thống quan hệ xã hội, coi đó là
bộ xương” của cơ thể xã hội. V.I.Lênin đã phân biệt hai loại quan hệ xã hội là quan hệ vật chất và quan
hệ tư tưởng của xã hội. Trên lập trường duy vật lịch sử, các nhà kinh điển mácxít khẳng định, những
quan hệ vật chất của xã hội là quan hệ cơ bản quyết định các quan hệ xã hội khác và chỉ ra cấu trúc

hiện thực của một xã hội cụ thể thông qua phạm trù hình thái kinh tế - xã hội.
11. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội và ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề đối với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay?
Trả lời:
Bằng cách là nghiên cứu các lĩnh vực của đời sống xã hội từ nền sản xuất vật chất và trong tất cả
các quan hệ xã hội làm nổi bật những quan hệ sản xuất coi đó là những quan hệ cơ bản ban đầu và
quyết định các quan hệ khác,là “cái sườn” của toàn cơ thể xã hội và thêm thịt, thêm da cho cái sườn
đó”, Mác đã tìm ra phạm trù hình thái kinh tế xã hội
Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của CNDVLS, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch
sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất
định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những
quan hệ sản xuất ấy.
Phân tích:
+ Phạm trù hình thái kinh tế xã hội dùng để chỉ những xã hội, kiểu xã hội trên thực tế. Đây không phải
là phạm trù triết học mang tính tư biện thuần tuý chủ quan.
21


+ Phạm trù hình thái kinh tế xã hội vạch ra cấu trúc của hình thái kinh tế xã hội có các yếu tố cơ bản
(không phải tòan bộ). Đó là: LLSX, QHSX( Tổng hợp những QHSX hợp thành CSHT), KTTT
+ Phạm trù hình thái kinh tế xã hội chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố cơ bản của xã hội
tuân theo quy luật khách quan. Đó là Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của
LLSX, Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT.
+ Phạm trù hình thái kinh tế xã hội chỉ ra vai trò không ngang bằng nhau của từng yếu tố trong hình
thái kinh tế xã hội. Trong đó, LLSX là yếu tố phản ánh trình độ kinh tế kỹ thuật, năng lực chinh phục
tự nhiên của con người và là yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận đông, phát triển của xã hội. QHXS
là yếu tố chủ yếu thể hiện bản chất của chế độ xã hội qua mối quan hệ giữa con người với con người
trong sản xuất. KTTT là yếu tố chủ yếu thể hiện bộ mặt đời sống tinh thần của xã hội.
*ý nghĩa phương pháp luận của phạm trù hình thái kinh tế xã hội
-Phạm trù này là phạm trù cơ bản, nền tảng của CNDVLS

-là cơ sở phương pháp luận để nhận thức xã hội và cải tạo xã hội: coi trọng 3 yếu tố, 2 quy luật
- Là cơ sở xác định mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường thực hiện:
+ xã hội do nhân dân lao động làm chủ
+ có nền kinh tế phát triển cao dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu
+ con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, làm theo năng lực hưởng theo lao động có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc và phát triển toàn diện.
+ các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
+ có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước
Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta
1. Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Sau khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã vận dụng học thuyết đó vào phân tích
xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó và đã đi đến dự báo về sự ra đời
của hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã
hội.
Chủ nghĩa xã hội đã hình thành phát triển từ sau Cách mạng tháng Mười Nga. Khi đó, chủ nghĩa xã
hội được xây dựng theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Mô hình đó đã phát huy vai trò tích cực trong
một giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX đã rơi vào khủng hoảng
nghiêm trọng, dẫn đến chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Từ đó, có quan điểm
khẳng định chủ nghĩa tư bản là vĩnh viễn và phủ nhận chủ nghĩa xã hội.
Thực ra, khủng hoảng đó chỉ bác bỏ chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, chứ không
phải bác bỏ chủ nghĩa xã hội với tính cách là xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Chính sự khủng hoảng
đó giúp cho chúng ta nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Nếu như cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII - XIX đã quyết định thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối
với phong kiến, thì cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tạo ra những tiền đề vật chất
để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.

Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: do nhân dân lao động làm chủ; có một
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp
bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau
22


cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Mục tiêu của
chúng ta là: "Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh".
"Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư
bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền
kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội
trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài
với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ"(.
12. Tư tưởng của C. Mác: “ Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá
trình lịch sử - tự nhiên” với vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay?
Trả lời
- Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội: là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để
chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó,
phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương
ứng đựơc xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
- Về mặt cấu trúc: Tiếp cận xã hội với tính cách một HTKH-XH, C.Mác cho rằng: xã hội
không phải là sự kết hợp ngẫu nhiên giữa các cá nhân, mà là một hệ thống có cấu trúc phức tạp gồm

nhiều lĩnh vực: lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị; lĩnh vực ý thức, tư tưởng; lĩnh vực các quan hệ xã
hội về gia đình, giai cấp, dân tộc... có quan hệ biện chứng với nhau. Trong hệ thống các lĩnh vực, các
quan hệ xã hội phức tạp đó Mác đã trừu tượng hóa để thấy ró 3 yếu tố cơ bản QHSX, LLSX và KTTT
+ QHSX là quan hệ cơ bản của xã hội, là cơ sở của các quan hệ xã hội khác; nó phản ánh bản
chất, quy định tính độc đáo riêng của từng xã hội trong lịch sử.
+ Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, phản ánh quan hệ giữa người với tự nhiên
trong quá trình sản xuất, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là yếu tố suy cho cùng
quyết định sự vận động, phát triển của xã hội.
+ Sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo thành một phương thức sản
xuất nhất định, mà trong đó lực lượng sản xuất là cơ sở vật chất của hình thái kinh tế - xã hội.
+ KTTT là bộ mặt tinh tinh thần của xã hội bao gồm các quan hệ về chính trị, pháp quyền và
các hình thái ý thức xã hội... được hình thành, phát triển trên cơ sở hạ tầng nhất định, phù hợp với cơ
sở hạ tầng đó (CSHT là toàn bộ những quan hệ sản xuất tạo thành một kết cấu kinh tế của xã hội là cơ
sở thực tại.
Các lĩnh vực trong xã hội - các yếu tố của HTKTXH có vị trí vai trò không ngang bằng nhau,
liên hệ chặt chẽ với nhau, thống nhất biện chứng với nhau, cấu thành một cơ thể sống của xã hội – một
HTKTXH ở mỗi giai đoạn lịch sử.
- Tính quy luật khách quan trong quá trình vận động phát triển của xã hội:
+ Các hình thái kinh tế - xã hội vận động, phát triển theo các quy luật khách quan, không phải
theo ý muốn chủ quan của con người, song lại buộc phải thông qua hoạt động có ý thức của con người
+ Sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội vừa bị chi phối bởi các quy luật phố
biến, vừa bị chi phối bởi các quy luật riêng, đặc thù.
+ Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là ở sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
23


+ Sự tác động cua các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế xã hội phát triển thay
thế nhau từ thấp đến cao, đó là con đường phát triển chung của nhân loại.
- Vai trò của nhân tố chủ quan đối với tiến trình vận động, phát triển của XH

+ Quá trình vận động phát triển của xã hội luôn thống nhất biện chứng giữa điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan. Vai trò nhân tố chủ quan ở đây chính là vai trò của chủ thể (cá nhân, tập thể,
giai cấp, cộng đồng dân tộc, nhân loại).
+ Lịch sử phát triển nhân loại vừa tuân theo những quy luật chung, vừa rất phong phú, đa dạng
gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia dân tộc như về điều kiện tự nhiên, về chính trị,
về truyền thống văn hóa, nguồn lực con người, về tác động quốc tế... Trong đó, nguồn lực con người –
nhân tố chủ quan giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Tất cả các nguồn lực khác chỉ có thể phát huy vai trò
thông qua nguồn lực con người...
Vì vậy, con đường phát triển của mỗi dân tộc vừa tuần tự từ thấp đến cao theo quy luật chung,
vừa có thể “bỏ qua” một, hoặc vài HTKTXH tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
V.I.Lênin đã chỉ ra: “tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã không
loại trừ mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm hoặc về hình thức,
hoặc về trình tự của sự phát, triển đó".
Như vậy quá trình lịch sử- tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra theo con
đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một hoặc
một số hình thái kinh tế xã hội nhất định.
- Về khả năng, điều kiện bỏ qua
Toàn bộ lịch sử xã hội loài người phát triển tuần tự từ thấp đến cao qua tất cả các hình thái kinh
tế - xã hội đã có, xét đến cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, do đặc điểm về
lịch sử, về không gian, thời gian, với các điều kiện khách quan và chủ quan nhất định, có quốc gia
phát triển tuần tự, có quốc gia phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó.
Vì sao có sự bỏ qua?
+ Do quy luật phát triển không đều, trên thế giới thường xuất hiện những trung tâm phát triển cao
hơn, đồng thời bên cạnh đó còn có những vùng, những quốc gia, dân tộc ở trình độ phát triển thấp,
thậm chí rất thấp.
Ví dụ:
. Thời cổ đại đã từng xuất hiện và tồn tại những trung tâm phát triển cao như Trung Quốc, Ấn
Độ, Hi Lạp, La Mã.
. Giai đoạn đầu của CNTB đã xuất hiện các nước Tây Âu với trình độ phát triển kinh tế - xã hội
cao như Anh, Pháp, Đức. Hiện nay, Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu là ba trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển

cao của thế giới.
. Bên cạnh đó còn có các vùng, các khu vực vẫn ở trình độ phát triển thấp như các nước châu Phi,
Mỹlatinh…
+ Do sự giao lưu, hợp tác quốc tế mà giữa các trung tâm, các khu vực, các quốc gia xuất hiện khả
năng một số nước đi sau có thể rút ngắn tiến trình lịch sử.
-> Quy luật kế thừa sự phát triển lịch sử luôn cho phép các quốc gia, dân tộc cụ thể có thể bỏ qua
các giai đoạn phát triển không cần thiết để vươn tới trình độ tiên tiến của nhân loại.
Ví dụ: Nga, Ba Lan, Đức…đã phát triển từ chế độ CSNT lên chế độ PK không qua chế độ
CHNL; Mỹ, Canađa…phát triển từ chế độ CHNL lên chế độ TBCN không qua chế độ phong kiến;
Trung Quốc đang phát triển từ chế độ PK lên chế độ XHCN không qua chế đ ộ TBCN; Việt Nam từ
xã hội CSNT phát triển lên chế độ PK không qua phát triển chế độ CHNL.
-> Bản chất của vấn đề phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế - xã hội trong tiến trình
lịch sử là sự phát triển rút ngắn các giai đoạn, các bước đi của nền văn minh loài người, mà cốt lõi là
sự tăng trưởng nhảy vọt của lực lượng sản xuất.
24


Vấn đề quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN
- Từ HTKTXH này chuyển sang HTKTXH khác có một giai đoạn lịch sử đặc biệt với độ dài
ngắn khác nhau, kết cấu và hình thức biểu hiện khác nhau, đó là thời kỳ quá độ
- Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ chính trị TBCN là khái niệm chỉ sự chuyển biến từ một xã hội
tiền tư bản hoặc chủ nghĩa tư bản chỉ mới ra đời lên chủ nghĩa xã hội, trong đó chế độ chính trị là chế
độ xã hội chủ nghĩa, còn sự phát triển kinh tế được thực hiện đa thành phần, đan xen hỗn hợp một
cách chủ động như khâu trung gian, không trở thành cơ sở kinh tế của chế độ chhính trị TBCN
-> Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các
lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
-> Thời kỳ quá độ bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền và kết thúc khi xây
dựng đầy đủ cơ sở vật chất cho CNCS
- Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, một dân tộc muốn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua

chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa phải có đủ những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
+ Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa đã ra đời và tỏ rõ sự ưu việt trong thực tế, HTKT
– XH định bỏ qua đã lỗi thời
+ Chủ nghĩa tư bản đã bộc lộ sự hạn chế, lỗi thời, phản động;
+ Phải có sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước.
+ Cùng với điều kiện khách quan, các quốc gia, dân tộc phải có đủ nhân tố chủ quan như vai trò
lãnh đạo của Đảng cộng sản; đất nước đã sẵn sàng những yếu tố nội lực để thực hiện sự quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Đặc điểm thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta
- Là quá độ gián tiếp từ một nước thuộc địa nửa phong kiến tiến thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN, trong điều kiện vừa có những thuận lợi vừa có những khó khăn phức tạp.
- Đặc trưng quá độ đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta:
+ Bỏ qua việc xác lập QHSX thống trị và KT3 TBCN
+ Kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học
và công nghệ để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
+ Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, với nhiều thành phần kinh tế cùng phát triển,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
Văn kiện Đại hội Đảng IX viết: “Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc” (tr. 84 – 85).
Văn kiện đại hội Đảng XI: “Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối” (tr. 73).
(Cương lĩnh 1991 mới xác định: phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng XHCN).
Tính tất yếu quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta
- Phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử và xu thế thời đại.
-> Xét trên bình diện lịch sử toàn nhân loại là sự phát triển tuần tự từ thấp đến cao, nhưng mỗi
quốc gia dân tộc cụ thể có thể bỏ qua một hay một vài HTKT – XH để đi lên HTKT – XH cao hơn
- > Thời đại ngày nay là thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH
- Phù hợp với nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, bảo đảm tốt nhất cho độc lập dân

tộc và phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam hiện nay -> Vấn đề này đã được Đảng ta xác định
trong Chính cương và sách lược vắn tắt năm 1930 (Cách mạng VN là cách mạng tư sản dân quyền và
thổ địa cách mạng tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa)
25


×