Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Vận dụng kỹ thuật webquest vào dạy hóa học vô cơ chương “oxi – lưu huỳnh” và chương “cacbon – silic

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
KHOA KHOA HỌC TỰ NHIÊN

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đề tài: “Vận dụng kỹ thuật WebQuest vào dạy
hóa học vô cơ chương “Oxi – Lưu Huỳnh” và
chương “Cacbon – Silic”
GVHD

: ThS. Phạm Thu Oanh

Sinh viên thực hiện

: Vũ Thị Bình
Phạm Thị Thanh

Lớp

: ĐHSP Hóa K13

MỤC LỤC


DANH MỤC VIẾT TẮT
ICT (Information and Communication Technology): Công nghệ thông tin và truyền thông
SGK: Sách giáo khoa
GV: Giáo viên
HS: Học sinh
SV : Sinh viên
CD: Compact dics (đĩa quan được sử dụng để lưu trữ dữ liệu số)
HTML: Hypertext Markup Language (Ngôn ngữ liên kết siêu văn bản)


TP: Thành phố
CNTT

: Công nghệ thông tin

CTCT

: Công thức cấu tạo

ĐHSP

: Đại học Sư phạm

HTTH

: Hệ thống tuần hoàn

PPDH

: Phương pháp dạy học

THCS

: Trung học cơ sở

THPT

: Trung học phổ thông

TN


: Thực nghiệm

ULR

: Universal Resource Locator (tham chiếu nguồn tài nguyên)


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1: Cấu trúc chung của một Webquest.....................................................................
Hình 1.2: Quy trình thiết kế trang Web..............................................................................


HẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, khi mà quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
đang diễn ra mạnh mẽ, muốn chiếm lĩnh tri thức đòi hỏi con người phải tự chủ, sáng tạo
và tư duy khoa học. Trước tình hình đó đã đặt ra cho nền giáo dục nước ta phải có những
đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ, vươn tới ngang tầm với sự phát triển chung trên
thế giới và trong khu vực. Trong đó, đổi mới phương pháp dạy học là yếu tố quan trọng,
cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu trên.
Phát triển giáo dục là chìa khóa, là đòn bẩy để tạo nên sự phát triển nhanh chóng và
bền vững của đất nước trong thời gian sắp tới và lâu dài về sau. Quan điểm này đã được
thể hiện rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VIII): “Thực sự coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Trong những năm
qua, giáo dục nước ta đã có nhiều đổi mới về nội dung cũng như phương pháp dạy học
và đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến việc đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tăng cường vai trò chủ thể của học sinh. Phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo
chiếm lĩnh tri thức, trong đó việc giúp các em có khả năng tự chiếm lĩnh tri thức là một
trong những phương pháp cần thiết. Vì dù giáo viên truyền đạt kiến thức có nhiều đến

đâu cũng không thể hết được kho tàng kiến thức đồ sộ của nhân loại.
Thực tế hiện nay, phương pháp này đã được áp dụng một phần nào đó trong dạy
học. Tuy nhiên việc hướng dẫn đó chỉ mang tính lý thuyết và khả năng vận dụng của học
sinh chưa cao đặc biệt là trong việc vận dụng Internet trong quá trình tự học của học
sinh.
Phương pháp tự học (tự nghiên cứu) là phương pháp, trong đó học sinh tự làm việc
cá nhân với tư liệu, tài liệu tham khảo để thu nhận các thông tin cần thiết. Các tài liệu
học tập này có thể do giáo viên cung cấp, chỉ dẫn, trong nhiều trường hợp cần thiết kèm
theo các yêu cầu làm việc cụ thể.


-

Ưu điểm của tự học là:

+ Học sinh là chủ thể nhận thức, kiến thức lĩnh hội được trở nên chắc chắn.
+ Rèn luyện được kĩ năng làm việc với sách, tài liệu, kĩ năng tự đọc, kĩ năng nghiên cứu.
+ Hình thành các thói quen đọc sách, các phẩm chất đặc biệt như tính độc lập, tính chủ
động, tính khoa học, tính phê phán, tính ham hiểu biết...
+ Học sinh có điều kiện mở rộng kiến thức ngoài chương trình, không chỉ giới hạn bởi
giáo trình hay bài giảng của giáo viên...
- Nhược điểm của tự học là:

+ Cần phải có quỹ thời gian rộng.
+ Tốc độ dạy học chậm.
+ Học sinh khi phải làm việc với các tài liệu mới, khó, phức tạp, hoặc không có tính sư
phạm dễ nản, buông xuôi.
+ Khó áp dụng đối với học sinh chưa được rèn luyện nhiều kĩ năng làm việc với sách hay
kĩ năng tự học.
+ Để phương pháp này có hiệu quả cần phải có tài liệu đầy đủ, rõ ràng và có sự hướng

dẫn của giáo viên lưu ý học sinh vào các nội dung trọng điểm, cơ bản của tài liệu.
Do đó, việc nghiên cứu đưa ra một giải pháp khắc phục và nhằm giúp các em có
thể vận dụng việc tự học ở trên mạng Internet là rất thiết thực nhằm đổi mới phương
pháp dạy học từng môn học theo đúng yêu cầu đặt ra.
Trong chương trình hóa học phổ thông, có một số kiến thức, khái niệm, hiện tượng
khá trừu tượng học sinh gặp nhiều khó khăn khi phải tìm hiểu bản chất của hiện tượng
đó. Việc dạy học gặp phải nhiều khó khăn do học sinh khó có thể hình dung hiện tượng.
Tuy nhiên, với những ưu thế về khả năng đồ họa, mô phỏng mà các phương tiện dạy học
hiện đại đem lại sẽ hỗ trợ và khắc phục những khó khăn trên. Qua các bài giảng dưới
dạng Web, giáo viên có thể phát huy tác dụng tất cả các giác quan của học sinh trong quá
trình truyền thụ kiến thức, làm cho học sinh nhận biết được các quan hệ giữa các hiện
tượng, tái hiện những khái niệm, quy luật... làm cơ sở cho việc áp dụng kiến thức đã học
vào thực tế sản xuất và đời sống.
Các website phục vụ cho công tác giáo dục xuất hiện ngày càng nhiều. Vì vậy, theo
dự đoán của các chuyên gia công nghệ thông tin Việt Nam, trong một vài năm tới, bất kì


tổ chức nào, đoàn thể nào không có Website hoặc các hình thức đưa thông tin đến rộng rãi
công chúng bằng các phương tiện ICT (Information and Communication Technology), thì
tổ chức, đoàn thể đó sẽ trở nên lạc hậu.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài: “Vận dụng kỹ thuật
WebQuest vào dạy học hóa học vô cơ THPT”.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về kỹ thuật WebQuest.
- Trình bày được ứng dụng của kỹ thuật WebQuest trong dạy học Hóa học.
- Vận dụng trong dạy học hóa học vô cơ THPT.

3. Giả thuyết khoa học
Nếu thiết kế và sử dụng được WebQuest trong dạy học hóa học trong chương “Nhóm


Oxi” (Hóa học lớp 10 nâng cao) và chương “Cacbon – Silic” (Hóa học lớp 11 nâng cao)
thì sẽ phát huy được tính tích cực, độc lập và chủ động trong hoạt động nhận thức của học sinh,
từ đó sẽ nâng cao chất lượng của quá trình dạy học.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được những yêu cầu trên, đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
-

Nghiên cứu cơ sở lý luận của kỹ thuật WebQuest và việc ứng dụng WebQuest
trong dạy học hóa học.

-

Thiết kế WebQuest để dạy học hóa học vô cơ THPT.

-

Sử dụng WebQuest để dạy học hóa học vô cơ THPT.

-

Thực nghiệm sư phạm.

5. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Việc thiết kế WebQuest phục vụ cho PPDH Webquest trong
chương “Nhóm Oxi” (Hóa học lớp 10 nâng cao) và chương “Cacbon – Silic” (Hóa
học lớp 11 cơ bản)
- Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Thiết kế WebQuest phục vụ cho PPDH webquest
nhằm nâng cao hiệu quả dạy học tích cực cho HS THPT với nội dung nằm trong
chương “Nhóm Oxi” (Hóa học lớp 10 nâng cao) và chương “Cacbon – Silic” (Hóa

học lớp 11 cơ bản)
6. Phương pháp nghiên cứu


- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
+ Nghiên cứu các tài liệu về tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học
hóa học ở trường phổ thông.
+ Nghiên cứu SGK và các tài liệu về phương pháp giảng dạy hóa học cần cho việc xây
dựng tiến trình dạy học.
+ Tham khảo các tài liệu về ngôn ngữ và các công cụ đơn giản hỗ trợ cho việc thiết kế
WebQuest.
-

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.

+ Sử dụng các ngôn ngữ và công cụ hỗ trợ đơn giản để thiết kế WebQuest dạy học hóa
học được cụ thể hóa trong dạy học phần hóa học vô cơ.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
+ Tiến hành thực nghiệm đối chứng ở trường phổ thông để đánh giá hiệu quả của tiến
trình dạy học và các giải pháp sư phạm đã đề ra.
+ Ứng dụng toán học thống kê để xử lý số liệu và trình bày kết quả thực nghiệm sư phạm.


PHẦN NỘI DUNG
Chương I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG KĨ THUẬT WEBQUEST
VÀO DẠY HỌC HÓA HỌC
1.1.

Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Năm 1995 Bernie Dodge ở trường đại học San Diego State University (Mỹ) đã xây


dựng Webquest trong dạy học. Phương pháp này được tiếp tục phát triển bởi Tom March
(Úc) và Heinz Moser (Thụy Sĩ).
Bernie Dodge nhận thấy rằng Internet ngày càng phổ biến và việc thu thập, xử lý
thông tin trên mạng là một kỹ năng cần thiết trong nghiên cứu, học tập cũng như trong
hầu hết các ngành nghề. Tuy nhiên, việc truy cập thông tin một cách tự do trên mạng để
đáp ứng yêu cầu trong dạy học của HS có những hạn chế như mất nhiều thời gian để tìm
kiếm thông tin có chất lượng, HS dễ bị chệch hướng khỏi đề tài do lượng thông tin quá
nhiều... Để khắc phục nhược điểm, ông đã đề ra phương pháp webquest và ý tưởng về
WebQuest. Đồng hành cùng với ông là Tom March - cũng là giảng viên tại trường đại học
San Diego State. Cả hai ông cùng nhau tạo ra những WebQuest và cùng tiến hành thực
nghiệm với các sinh viên (SV), cải tiến phương pháp, khắc phục những nhược điểm. Kể
từ khi ra đời, WebQuest đã nhanh chóng trở thành một làn sóng phát triển mạnh mẽ trên
khắp thế giới, đặc biệt Brazil, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Australia, Hà Lan, Mỹ là những
nước rất quan tâm và phát triển mạnh phương pháp này. Bernie Dodge cũng đã tạo một
trang web riêng (WebQuest.org) nhằm giới thiệu phương pháp webquest và cho phép mọi
người tạo ra các WebQuest miễn phí tại đây.
Sau đó, Tom March nhận thấy rằng, việc GV xây dựng một WebQuest chất lượng
tốn rất nhiều thời gian và công sức trong khi việc dạy học phải đảm bảo sự liên tục. Thấu
hiểu điều trên, ông đã lập ra một trang web gọi là “BestWebQuest.com”, tập hợp tất cả
những WebQuest trên thế giới và ông phân ra theo lĩnh vực, GV có thể vào đây chia sẻ và
sử dụng các WebQuest như là một nguồn tài nguyên chung. Các WebQuest đã được ông


cùng các cộng sự kiểm tra về mặt nội dung để đảm bảo HS sẽ phát triển được các mức tư
duy theo thang phân loại của Bloom.
Một đại diện khác của WebQuest nữa mà nếu không nhắc đến ông có lẽ là một thiếu
sót lớn, đó chính là Heinz Moser (Thụy Sĩ). Ông là một giáo sư về giáo dục truyền thông
tại Đại học Zurich và là giáo sư danh dự của ngành giáo dục và nghiên cứu tại Đại học
Kassel. Bernie Dodge và Tom March sáng tạo ra phương pháp webquest nhưng các ông

chỉ dừng lại việc xây dựng các WebQuest cho từng bài riêng biệt, một chủ đề riêng mang
tính lịch sử hoặc tính thời sự. Đến Heinz Moser, ông đã đưa ra thêm một ý tưởng nữa vào
năm 2000, đó chính là việc áp dụng WebQuest cho nhiều bài trong cùng một chương,
nhiều chương liên tiếp theo cách học xoắn ốc nhằm phát triển tri thức một cách vừa củng
cố vừa liên tục. Cuốn sách “Abenteuer Internet: Lernen mit WebQuests” có nội dung gồm
những hiểu biết và khái niệm về WebQuest do Heinz Moser biên soạn được tiếp nhận
nồng nhiệt tại Đức.
Riêng ở Việt Nam, khái niệm WebQuest cũng theo trào lưu du nhập vào nước ta từ
khoảng 2007. Có một số GV và một vài khóa luận đề cập đến phương pháp webquest.
Điển hình như các thầy cô trong nhóm thành viên của VVOB Việt Nam đã đưa vào trang
web của mình một chuyên mục giới thiệu về WebQuest. Các chị Trần Thị Tuyết Nhung,
Phạm Thị Nhạn lớp CH K20 - SPKT trường đại học Sư Phạm Hà Nội cũng thiết kế riêng
một trang web (music.easyvn.com) giới thiệu khá đầy đủ và có kèm ví dụ về WebQuest.
Ngoài ra còn có một vài khóa luận cũng nghiên cứu về WebQuest:
- Vận dụng kỹ thuật WebQuest vào dạy học chương “Động lực học chất điểm” vật
lý 10 THPT, khóa luận tốt nghiệp (khuyết danh).
- Nguyễn Thị Thu Chi (2007), Sử dụng WebQuest trong dạy học Lịch sử lớp 11 ở
trường THPT”, khóa luận tốt nghiệp, trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà
Nội.
Đặc biệt, có một số giảng viên đại học đã áp dụng phương pháp webquest vào dạy
học trên đối tượng SV và thu được những kết quả nhất định. Kết quả các nghiên cứu đã
cho thấy rằng phương pháp này ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của nhà giáo
dục. Tuy nhiên, nó vẫn còn mới mẻ và chưa có sự phát triển rộng rãi ở Việt Nam. Các tác
giả trên đều giới thiệu về phương pháp WebQuest, nêu được những ưu điểm của phương


này cũng như cách thức và công cụ để tạo nên một WebQuest nhưng chưa tác giả nào tạo
được một WebQuest một cách hoàn chỉnh, hoặc có tác giả đã tạo được nhưng lại chỉ lưu
hành nội bộ. Và một điều đặc biệt là các tác giả tạo WebQuest từ các phần mềm
Microsoft Word, PowerPoint hay trên công cụ xây dựng web: Microsoft Frontpage. Nếu

dùng Word, PowerPoint thì không mô tả hết tinh thần của WebQuest, còn dùng Frontpage
thì đòi hỏi người thiết kế phải biết ngôn ngữ HTLM, rất khó khăn và tương đối phức tạp.
Nếu tìm trên mạng một WebQuest thì rất nhiều nhưng một WebQuest bằng tiếng Việt
hoàn chỉnh thì hầu như không có, nhất là trong lĩnh vực hóa học.
1.2.

Tổng quan về việc ứng dụng ICT trong dạy học hóa học ở trường THPT

1.2.1. Thực trạng về việc ứng dụng ICT trong giáo dục ở Việt Nam

Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) là một “tập hợp đa dạng các công cụ và
tài nguyên công nghệ được sử dụng để giao tiếp, tạo ra, phổ biến, lưu giữ và quản lý
thông tin” [30].Các công nghệ này bao gồm phần cứng và mạng máy tính, các phần mềm
cần thiết, Internet, công nghệ truyền thông (đài và vô tuyến) và điện thoại. Thuật ngữ ICT
ra đời vào năm 1997, trong một báo cáo của Dennis Stevenson gửi chính phủ Anh và
được lan truyền rộng rãi trong các tài liệu mới của chương trình giảng dạy của quốc gia
Anh vào năm 2000.
Riêng CNTT - đặc biệt là Internet, bắt đầu được sử dụng ở Hoa Kỳ vào năm 1995 và
sau đó được phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới. Ngày nay, thật khó có thể hình dung
được thế giới của chúng ta sẽ như thế nào nếu như không có các ứng dụng CNTT. Nhiều
chương trình đào tạo ở các trường đại học và phổ thông của các nước có nền giáo dục tiên
tiến từ lâu đã sử dụng những chức năng của công nghệ vào trong giảng dạy. Đổi mới
PPDH bằng CNTT cũng là một chủ đề lớn được UNESCO đưa ra thành chương trình của
thế kỷ XXI và dự đoán sẽ có sự thay đổi nền giáo dục một cách căn bản vào đầu thế kỷ
XXI do ảnh hưởng của CNTT.
Ở nước ta, năm học 2008 – 2009 là năm học đầu tiên triển khai thực hiện Chỉ thị số
55/2008/CT - BGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo về tăng
cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2008 –
2012. Năm học 2008 – 2009 được chọn là “Năm học đẩy mạnh ứng dụng CNTT, đổi mới



quản lý tài chính và xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực”, Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã nêu rõ:
- Tổ chức tốt việc dạy học Tin học ở các cấp học, bậc học, ngành học nhằm phổ cập
Tin học trong nhà trường.
- Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong Giáo dục và Đào tạo ở các cấp học, bậc học, theo
hướng sử dụng CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho đổi mới phương pháp giảng
dạy, học tập ở các môn học.
Qua tham khảo các tài liệu [3],[28], tính đến năm 2009, đã có 20% GV trung học,
30% trường THPT, 25% trường THCS ứng dụng CNTT. Trong đó, từ 2–5% số bài giảng
được sử dụng phần mềm dạy học và có ứng dụng CNTT. Ứng dụng CNTT trong giảng
dạy, không chỉ phát triển mạnh ở các thành phố lớn mà còn phát triển ở nhiều xã vùng
sâu, vùng xa, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn đã góp phần đẩy nhanh tiến trình công bằng
trong giáo dục. Với sự trợ giúp của CNTT, việc dạy và học đã mang lại hiệu quả thiết
thực, nhất là các môn xã hội cho những vùng ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn thông tin.
Hiện nay các trường phổ thông điều trang bị phòng máy, phòng đa năng, nối mạng
Internet và Tin học được giảng dạy chính thức. Một số trường còn trang bị thêm thiết bị
ghi âm, chụp hình, quay phim (Sound Recorder, Camera, Camcorder), máy quét hình
(Scanner), và một số thiết bị khác, tạo cơ sở hạ tầng CNTT cho GV sử dụng vào quá trình
dạy học của mình.
Công nghệ phần mềm phát triển mạnh, đặc biệt là các phần mềm mã nguồn mở phục
vụ cho giáo dục cũng đạt được những thành tựu đáng kể: Phần mềm văn phòng
(OpenOffice.org), thư viện số (Emilda, phpmylibrary, Koha, OpenBiblio), quản lý mạng
lớp học (Mythware, i–Talc của Intel),… ngoài ra còn có hệ thống quản lý E-learning
(Moodle, Dokeos) và các phần mền đóng gói, tiện ích khác.
Qua tìm hiểu, việc ứng dụng CNTT vào dạy học ở nước ta trong những năm vừa qua
đã có những ưu điểm và hạn chế nhất định.
Ưu điểm
- Môi trường đa phương tiện kết hợp những hình ảnh đoạn phim, ảnh chụp trên máy
quay… với âm thanh, văn bản, biểu đồ… được trình bày qua máy tính theo giáo án vạch

sẵn nhằm đạt hiệu quả tối đa qua một quá trình học đa giác quan.


- Các phần mềm và công cụ có thể mô phỏng nhiều quá trình, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội con người mà không thể hoặc không nên để xảy ra trong điều kiện nhà
trường.
- Công nghệ tri thức nối tiếp trí thông minh của con người, thực hiện những công việc
mang tính trí tuệ cao của các chuyên gia lành nghề trên những lĩnh vực khác nhau .
- Những ngân hàng dữ liệu khổng lồ và đa dạng được kết nối với nhau và với người sử
dụng qua những mạng máy tính kể cả Internet… có thể được khai thác để tạo.
nên những điều kiện cực kì thuận lợi và nhiều khi không thể thiếu để HS học tập trong
hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực và sáng tạo, được thực hiện độc lập hoặc
trong giao lưu.
- Những thí nghiệm, tài liệu được cung cấp bằng nhiều kênh: kênh hình, kênh chữ, âm
thanh sống động làm cho HS dễ thấy, dễ tiếp thu và bằng suy luận có lý, HS có thể có
những dự đoán về các tính chất, những quy luật mới. Đây là một công dụng lớn của ICT
trong quá trình đổi mới PPDH.
Có thể khẳng định rằng, môi trường ICT chắc chắn sẽ có tác động tích cực tới sự
phát triển trí tuệ của HS và điều này làm nảy sinh những lý thuyết học tập mới.
Hạn chế
Theo nhận định của một số chuyên gia, việc đưa ICT ứng dụng vào lĩnh vực giáo
dục và đào tạo bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, những gì đã đạt
được vẫn còn hết sức khiêm tốn. Khó khăn, vướng mắc và những thách thức vẫn còn ở
phía trước bởi những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn.
- Tuy máy tính điện tử mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc dạy học nhưng trong một
mức độ nào đó, công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ trợ GV hoàn toàn trong các bài
giảng của họ. Nó chỉ thực sự hiệu quả đối với một số bài giảng chứ không phải toàn bộ
chương trình do nhiều nguyên nhân, mà cụ thể là, với những bài học có nội dung ngắn,
không nhiều kiến thức mới, thì việc dạy theo phương pháp truyền thống sẽ thuận lợi hơn
cho HS, vì GV sẽ ghi tất cả nội dung bài học đó đủ trên một mặt bảng và như vậy sẽ dễ

dàng củng cố bài học từ đầu đến cuối mà không cần phải lật lại từng “slide” như khi dạy
trên máy tính điện tử. Những mạch kiến thức “vận dụng” đòi hỏi GV phải kết hợp với
phấn trắng bảng đen và các PPDH truyền thống mới rèn luyện được kỹ năng cho HS.


- Bên cạnh đó, kiến thức, kỹ năng về CNTT ở một số GV vẫn còn hạn chế, chưa đủ
vượt
ngưỡng để đam mê và sáng tạo, thậm chí còn né tránh. Mặt khác, PPDH cũ vẫn còn như
một lối mòn khó thay đổi, sự uy quyền, áp đặt vẫn chưa thể xoá được trong một thời gian
tới. Việc dạy học tương tác giữa người - máy, dạy theo nhóm, dạy phương pháp tư duy
sáng tạo cho HS, cũng như dạy HS cách biết, cách làm, cách chung sống và cách tự khẳng
định mình vẫn còn mới mẻ đối với GV và đòi hỏi GV phải kết hợp hài hòa các PPDH
đồng thời phát huy ưu điểm của PPDH này làm hạn chế những nhược điểm của PPDH
truyền thống. Điều đó làm cho CNTT, dù đã được đưa vào quá trình dạy học, vẫn chưa
thể phát huy trọn vẹn tính tích cực và hiệu quả của nó.
- Việc sử dụng CNTT để đổi mới PPDH chưa được nghiên cứu kỹ, dẫn đến việc ứng
dụng nó không đúng chỗ, không đúng lúc, nhiều khi lạm dụng nó.
- Việc đánh giá một tiết dạy có ứng dụng CNTT còn lúng túng, chưa xác định hướng
ứng dụng CNTT trong dạy học. Chính sách, cơ chế quản lý còn nhiều bất cập, chưa tạo
được sự đồng bộ trong thực hiện. Các phương tiện, thiết bị phục vụ cho việc đổi mới
PPDH sử dụng CNTT (phương tiện chiếu projector,…) còn thiếu, chưa đồng bộ và chưa
hướng dẫn sử dụng nên khó triển khai rộng khắp, hiệu quả.
- Việc kết nối, sử dụng Internet chưa được thực hiện triệt để và có chiều sâu; sử dụng
không thường xuyên do thiếu kinh phí, do tốc độ đường truyền chậm. Công tác đào tạo,
công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng đội ngũ GV chỉ
mới dừng lại ở việc xoá mù tin học nên GV chưa đủ kiến thức, mất nhiều thời gian và
công sức để sử dụng CNTT trong lớp học một cách có hiệu quả.
1.2.2. Các hình thức ứng dụng ICT trong dạy học

Hiện nay trên thế giới, người ta phân biệt rõ ràng hai hình thức ứng dụng ICT trong

dạy và học, đó là Computer Base Training (CBT: dạy dựa vào máy tính) và E-learning
(học dựa vào máy tính).[3]
- CBT: là hình thức GV sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các trang thiết bị như
máy chiếu, các thiết bị đa phương tiện để hỗ trợ truyền tải kiến thức đến HS, kết hợp với
phát huy những thế mạnh của các phần mềm máy tính như hình ảnh, âm thanh, các tư liệu
phim ảnh, sự tương tác giữa người và máy.


- E-learning là hình thức HS sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà GV soạn
sẵn, hoặc xem những đoạn phim về tiết dạy của các GV hay trao đổi trực tuyến với GV
thông qua mạng Internet.
Điểm khác biệt giữa E-learning và CBT là E-learning lấy người học làm trung tâm,
người học tự làm chủ quá trình học tập của mình. Còn CBT là hình thức hỗ trợ cho GV,
lấy người dạy làm trung tâm và cơ bản vẫn dựa trên mô hình lớp học cũ. Ở nước ta hiện
nay, ứng dụng CNTT vào đổi mới PPDH đã được nghiên cứu và thử nghiệm, trong đó có
một số mô hình được đánh giá là thành công như “Teaching and Learning with computer”
của công ty IBM và “Teaching to the Future” của công ty Intel.
Căn cứ vào tình hình thực tiễn và những thành tựu nêu trên, có thể nhận định rằng
ngành giáo dục phổ thông nước ta chỉ đang phát triển ở hình thức CBT. Vì vậy, phương
hướng phấn đấu và phát triển tiếp theo sẽ là tích hợp ICT vào quá trình dạy học. Đồng
thời đổi mới dần PPDH và xây dựng một mô hình giáo dục hiện đại mới phù hợp hơn,
trong đó việc phát triển và đẩy mạnh sử dụng E-learning trong giáo dục là mục tiêu cần
đạt được. Tuy nhiên, việc học theo E-learning (học thông qua mạng Internet) lại còn quá
mới mẻ so với HS THPT và không giúp HS hiểu được cặn kẽ vấn đề. Phương pháp
webquest chính là sự kết hợp cả hai cách ứng dụng ICT trên, vừa giúp HS tự tiếp cận kiến
thức thông qua mạng Internet và trang WebQuest, vừa giúp HS hiểu sâu sắc vấn đề khi
GV tổng kết, giải quyết những vấn đề HS hiểu lệch hoặc chưa hiểu tới ngay tại buổi báo
cáo của HS.
1.3.


Tổng quan về phương pháp webquest và trang WebQuest

1.3.1. Giới thiệu về trang WebQuest
Cùng với việc ra đời và phổ biến của internet, ngày nay việc thu thập và xử lý
thông tin trên mạng là một kỹ năng cần thiết trong nghiên cứu và học tập cũng như trong
lao động nghề nghiệp. Việc ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng internet trong dạy
học ngày càng trở nên quan trọng. Tuy nhiên, việc học sinh truy cập thông tin một cách
tự do trên mạng internet trong dạy học có những nhược điểm chủ yếu là:
-

Việc tìm kiếm thường kéo dài vì lượng thông tin trên mạng lớn, dễ bị chệch
hướng khỏi bản thân đề tài.

-

Nhiều tài liệu được tìm ra với nội dung chuyên môn không chính xác, có thể dẫn


đến “nhiễu thông tin”.
-

Chi phí quá lớn cho việc đánh giá và xử lý thông tin trong dạy học.

-

Việc tiếp thu kiến thức qua truy cập thông tin trên mạng có thể chỉ mang tính thụ
động mà thiếu sự đánh giá, phê phán của người học.
Để khắc phục những nhược điểm trên người ta đã phát triển phương pháp

WebQuest.

1.3.2. Khái niệm phương pháp WebQuest
Ngày nay WebQuest được sử dụng rộng rãi trên thế giới, trong giáo dục phổ thông
cũng như đại học. Có rất nhiều định nghĩa về WebQuest tuy nhiên giới hạn lại có thể
hiểu WebQuest là một trang Web trợ giúp học tập, trong đó các nội dung học tập được
đưa ra dưới dạng câu hỏi đồng thời cung cấp nguồn tài liệu tham khảo (chủ yếu từ
internet) để học sinh có thể sử dụng trả lời các câu hỏi đó.
Theo nghĩa hẹp, WebQuest được hiểu như một phương pháp dạy học (WebQuest Method); theo nghĩa rộng, WebQuest được hiểu như một mô hình, một quan điểm về dạy
học có sử dụng mạng internet.
WebQuest cũng là bản thân đơn vị nội dung dạy học được xây dựng để sử dụng
phương pháp này và là trang WebQuest được đưa lên mạng. Khi gọi WebQuest là một
phương pháp dạy học, cần hiểu đó là một phương pháp phức hợp, trong đó có thể sử
dụng những phương pháp cụ thể khác nhau. Với tư cách là một phương pháp dạy học, có
thể định nghĩa WebQuest như sau:
WebQuest là một phương pháp dạy học mới, được xây dựng trên cơ sở phương tiện
dạy học mới là công nghệ thông tin và Internet. Trong tiếng Việt chưa có cách dịch hoặc
dùng thuật ngữ thống nhất cho khái niệm này. Trong tiếng Anh, Web ở đây nghĩa là
mạng, Quest nghĩa là tìm kiếm, khám phá. Dựa trên thuật ngữ và bản chất của khái niệm
có thể gọi WebQuest là phương pháp “khám phá trên mạng”. WebQuest là một dạng đặc
biệt của dạy học sử dụng truy cập mạng Internet.
WebQuest là một phương pháp dạy học, trong đó học sinh tự lực thực hiện trong
nhóm một nhiệm vụ về một chủ đề phức hợp, gắn với tình huống thực tiễn. Những thông
tin cơ bản về chủ đề được truy cập từ những trang liên kết (Internet links) do giáo viên
chọn lọc từ trước. Việc học tập theo định hướng nghiên cứu và khám phá, kết quả học


tập được học sinh trình bày và đánh giá.
WebQuest có thể chia thành các WebQuest lớn và các WebQuest nhỏ:
- WebQuest lớn: xử lý một vần đề phức tạp trong một thời gian dài (ví dụ cho đến
một tháng), có thể coi như một dự án dạy học.
- WebQuest nhỏ: trong một vài tiết học (ví dụ 2 đến 4 tiết), học sinh xử lý một đề

tài chuyên môn bằng cách tìm kiếm thông tin và xử lý chúng cho bài trình bày,
tức là các thông tin chưa được sắp xếp sẽ được lập cấu trúc theo các tiêu chí và kết
hợp vào kiến thức đã có trước của các em.
WebQuest có thể được sử dụng ở tất cả các loại hình trường học. Điều kiện cơ bản
là học sinh phải có kỹ năng đọc cơ bản và có thể tiếp thu, xử lý các thông tin dạng văn
bản. Bên cạnh đó, học sinh cũng phải có những kiến thức cơ bản trong thao tác với máy
tính và Internet.
WebQuest có thể sử dụng cho mọi môn học. Ngoài ra, WebQuest rất thích hợp cho
việc dạy liên môn.
1.3.3. Đặc điểm của việc học tập với phương pháp webquest

Dạy học với phương pháp webquest có những đặc điểm riêng khác với các
phương pháp khác:
Chủ đề dạy học: chủ đề phải gắn với tình huống thực tiễn và mang tính phức
hợp, có thể là những tình huống lịch sử mang tính điển hình, hoặc những tình huống có
tính thời sự. Những tính huống này có thể được xem xét dưới nhiều phương diện khác
nhau và có thể có nhiều quan điểm để giải quyết.
Định hướng hứng thú HS: Nội dung của chủ đề và PPDH phải định hướng vào
hứng thú, tích cực hoá động cơ học tập của HS.
Tính tự lực cao của người học: Quá trình học tập là quá trình tự điều khiển, HS
cần tự lực hoàn thành nhiệm vụ được giao, tự điều khiển và tham gia vào quá trình kiểm
tra, đánh giá. HS sẽ chủ động tiếp cận và lĩnh hội kiến thức, tự giác hơn trong học tập,
GV chỉ đóng vai trò là người tư vấn, hướng dẫn.
Quá trình học tập là quá trình tích cực và kiến tạo: Khác với việc truy cập
mạng thông thường nhằm thu thập thông tin, trong phương pháp webquest HS cần lấy và
xử lý thông tin thông qua trang WebQuest nhằm giải quyết nhiệm vụ đề ra (tích cực). HS


cần có quan điểm riêng dựa trên cơ sở lập luận để trả lời câu hỏi hoặc giải quyết vấn đề
(kiến tạo).

Quá trình học tập mang tính xã hội và tương tác: Hình thức làm việc trong
webquest chủ yếu là làm việc nhóm, do đó việc học tập mang tính xã hội và tương tác.
HS có thể rèn luyện tính cộng đồng, biết trình bày quan điểm và lắng nghe phản hồi
cũng như nhận xét quan điểm của bạn bè và của chính mình.
Quá trình học tập định hướng nghiên cứu và khám phá: Để giải quyết vấn đề
đặt ra HS cần áp dụng các phương pháp làm việc theo kiểu nghiên cứu và khám phá.
Những hoạt động điển hình của HS trong phương pháp webquest là

tổng kết,

đánh giá, hệ thống hóa, trình bày trong sự trao đổi với những HS khác. HS cần thực hiện
và từ đó phát triển những khả năng tư duy như: so sánh, phân loại, suy luận, kết luận,
phân tích sai lầm, chứng minh…
1.3.4. Các dạng nhiệm vụ trong WebQuest

Có nhiều dạng nhiệm vụ trong WebQuest, nhưng Bernie Dodge phân biệt những
loại nhiệm vụ sau:
Tái hiện thông tin các thông tin (bài tập tường thuật): HS tìm kiếm những
thông tin, xử lý thông tin đó để trả lời các câu hỏi riêng rẽ và phải chứng tỏ được rằng
HS hiểu những thông tin đó. Kết quả tìm kiếm thông tin sẽ được trình bày theo cách đa
phương tiện (ví dụ bằng chương trình PowerPoint) hoặc thông qua các áp phích, các bài
viết ngắn,… (tùy theo yêu cầu của GV). Nếu chỉ là cắt dán mà không xử lý các thông
tin đã tìm được như tóm tắt, hệ thống hóa thì không phải phương pháp webquest.
Tổng hợp thông tin: HS có nhiệm vụ lấy thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và
sau đó xử lý, liên kết, tổng hợp chúng trong một sản phẩm chung.
Giải điều bí ấn: Việc đưa vào một điều bí ẩn là phương pháp làm cho người học
quan tâm, hứng thú hơn với đề tài. Vấn đề là thiết kế một bí ẩn mà HS không thể tìm
thấy lời giải của nó trên Internet, để giải nó HS sẽ phải thu thập thông tin từ những
nguồn khác nhau, lập ra các mối liên kết và rút ra kết luận.
Bài tập báo chí: HS được giao nhiệm vụ với tư cách nhà báo tiến hành lập báo

cáo về những hiện tượng hoặc những cuộc tranh luận hiện tại cùng với những bối cảnh
nền và tác động của chúng. Để thực hiện nhiệm vụ này họ phải thu thập thông tin và xử


lý chúng thành một bản tin, một bài phóng sự, một bài bình luận hoặc một dạng bài viết
báo kiểu khác.
Lập kế hoạch và thiết kế (nhiệm vụ thiết kế): HS phải tạo ra một sản phẩm
hoặc phác thảo kế hoạch cho một dự định. Những mục đích và hướng dẫn chỉ đạo sẽ
được miêu tả trong đề bài.
Lập ra các sản phẩm sáng tạo (bài tập sáng tạo): Nhiệm vụ của người học là
chuyển đổi những thông tin đã xử lý thành một sản phẩm sáng tạo, ví dụ một bức tranh,
một tiết mục kịch, một tác phẩm châm biếm, một tấm áp phích, một trò chơi, một nhật
ký mô phỏng hoặc một bài hát…
Lập đề xuất thống nhất (nhiệm vụ tạo lập sự đồng thuận): Những đề tài nhất
định sẽ được thảo luận theo cách tranh luận. Mọi người sẽ ủng hộ các quan điểm khác
nhau trên cơ sở các hệ thống giá trị khác nhau, các hình dung khác nhau về những điều
kiện và hiện tượng nhất định, dẫn đến sự phát triển một đề xuất chung cho một nhóm
thính giả cụ thể (có thực hoặc mô phỏng).
Thuyết phục những người khác (bài tập thuyết phục): Người học phải tìm
kiếm những thông tin hỗ trợ cho quan điểm lựa chọn, phát triển những ví dụ có sức
thuyết phục về quan điểm tương ứng. Ví dụ bài trình bày trước một ủy ban, bài thuyết
trình trong phiên xử tại tòa án (mô phỏng), viết các bức thư, các bài bình luận hoặc các
công bố báo chí, lập một áp phích hoặc một đoạn phim, trong khi đó vấn đề sẽ luôn
luôn là thuyết phục những người được đề cập.
Tự biết mình (bài tập tự biết mình): Những bài tập kiểu này đòi hỏi người học
xử lý những câu hỏi liên quan đến bản thân cá nhân mình mà các câu hỏi đó không có
những câu trả lời nhanh chóng. HS có thể suy ra từ việc xem xét các mục tiêu cá nhân,
những mong muốn về nghề nghiệp và các triển vọng của cuộc sống, các vấn đề tranh
cãi về đạo lý và đạo đức, các quan điểm về các đổi mới kỹ thuật, về văn hoá và nghệ
thuật.

Phân tích các nội dung chuyên môn (bài tập phân tích): Người học phải xử lý
cụ thể hơn với một hoặc nhiều nội dung chuyên môn, để tìm ra những điểm tương đồng
và các khác biệt cũng như các tác động của chúng.
Đề ra quyết định (bài tập quyết định): Để có thể đưa ra quyết định, phải có


thông tin về nội dung cụ thể và phát triển các tiêu chuẩn làm cơ sở cho sự quyết định.
Các tiêu chuẩn làm cơ sở cho sự quyết định có thể được cho trước, hoặc người học phải
phát triển các tiêu chuẩn của chính mình.
Điều tra và nghiên cứu (bài tập khoa học): HS tiến hành một nhiệm vụ nghiên
cứu thông qua điều tra hay các phương pháp nghiên cứu khác. Ở kiểu bài tập này, cần
tìm ra một nhiệm vụ với mức độ khó khăn phù hợp.
1.3.5. Cấu trúc của một WebQuest
Một WebQuest thường gồm các phần: giới thiệu (Introduction), nhiệm vụ (Task),
tiến trình (Process), đánh giá (Evaluation), kết luận (Conclusion).

1. Giới thiệu

6. Kết luận

2. Nhiệm vụ

Cấu trúc của một
Webquest

5. Đánh giá

3. Tiến trình

4. Nguồn tư liệu


Hình 1.1: Cấu trúc chung của một Webquest
1.3.5.1.

Giới thiệu (Introduction)

Phần này viết cho người đọc là các em học sinh. Viết một đoạn ngắn ở đây giới
thiệu cho học sinh về bài học, về các nhiệm vụ.


Nếu trong phần nhiệm vụ có yêu cầu các em phân vai hoặc theo một kịch bản nào
đó thì phần giới thiệu là nơi chúng ta dàn dựng sân khấu.
Nếu không muốn dẫn nhập theo cách kích thích trí tưởng tượng như vậy, có thể nói
tổng quan về bài học, cách tổ chức hoặc phân công thực hiện.
Trong phần này, nên đưa ra một vấn đề chủ đạo, gợi ý, hướng dẫn. Về sau toàn
bộ WebQuest xoay quanh vấn đề này.
1.3.5.2.

Nhiệm vụ (Task)

Mô tả ngắn gọn, rõ ràng các kết quả mà học sinh phải đạt được:
- Vấn đề đưa ra phải được giải quyết.
- Sản phẩm phải được thiết kế hoàn tất.
- Các nhiệm vụ phức tạp phải nghiên cứu.
- Các ý kiến, nhận xét của cá nhân học sinh.
- Các bảng tổng kết.
- Các kết quả mang tính sáng tạo.
- Các nhiệm vụ yêu cầu học sinh phải biết xử lý và diễn đạt lại thông tin.
- Liệt kê tên các phần mềm sử dụng (nếu bắt buộc), không liệt kê các bước thực hiện
(sẽ nêu ở trong phần tiến trình).

Có nhiều dạng nhiệm vụ trong WebQuest. Dodge phân biệt những loại nhiệm vụ
sau:
Dạng nhiệm vụ

Tái hiện thông tin (bài
tập tường thuật)

Tổng hợp thông tin (bài
tập biên soạn)

Giải thích
Học sinh tìm kiếm những thông tin, và xử lý để trả lời
các câu hỏi riêng rẽ và chứng tỏ rằng họ hiểu những
thông tin đó. Kết quả tìm kiếm thông tin sẽ được trình
bày theo cách đa phương tiện (ví dụ bằng chương trình
PowerPoint) hoặc thông qua các áp phích, các bài viết
ngắn, ... Nếu chỉ là “cắt dán thông tin” không xử lý các
thông tin đã tìm được như tóm tắt, hệ thống hóa thì
không phải WebQuest.
Học sinh có nhiệm vụ lấy thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau và liên kết, tổng hợp chúng trong một sản
phẩm chung. Kết quả có thể được công bố trong
internet, nhưng cũng có thể là một sản phẩm không
phải thuộc dạng kỹ thuật số. Các thông tin được tập hợp
phải được xử lý.
Việc đưa vào một điều bí ẩn có thể là phương pháp


Giải điều bí ấn


Bài tập báo chí

Kế hoạch và thiết kế
(nhiệm vụ thiết kế)
Lập ra các sản phẩm sáng
tạo (bài tập sáng tạo)

Lập đề xuất thống nhất
(nhiệm vụ tạo lập sự đồng
thuận)

Thuyết phục những người
khác (bài tập thuyết phục)

Tự biết mình (bài tập tự
biết mình)

thích hợp làm cho người học quan tâm đến đề tài.
Trong khi đó vấn đề sẽ là thiết kế một bí ẩn mà người ta
không thể tìm thấy lời giải của nó trên internet, để giải
nó sẽ phải thu thập thông tin từ những nguồn khác
nhau, lập ra các mối liên kết và rút ra các kết luận.
Học sinh được giao nhiệm vụ, với tư cách nhà báo tiến
hành lập báo cáo về những hiện tượng hoặc những
cuộc tranh luận hiện tại cùng với những bối cảnh nền
và tác động của chúng. Để thực hiện nhiệm vụ này họ
phải thu thập thông tin và xử lý chúng thành một bản
tin, một bài phóng sự, một bài bình luận hoặc một dạng
bài viết báo kiểu khác.
Học sinh phải tạo ra một sản phẩm hoặc phác thảo kế

hoạch cho một dự định. Những mục đích và hướng dẫn
chỉ đạo sẽ được miêu tả trong đề bài.
Nhiệm vụ của người học là chuyển đổi những thông tin
đã xử lý thành một sản phẩm sáng tạo, ví dụ một bức
tranh, một tiết mục kịch, một tác phẩm châm biếm, một
tấm áp phích, một trò chơi, một nhật ký mô phỏng hoặc
một bài hát.
Những đề tài nhất định sẽ được thảo luận theo cách
tranh luận. Mọi người sẽ ủng hộ các quan điểm khác
nhau trên cơ sở các hệ thống giá trị khác nhau, các hình
dung khác nhau về những điều kiện và hiện tượng nhất
định, dẫn đến sự phát triển một đề xuất chung cho một
nhóm thính giả cụ thể (có thực hoặc mô phỏng).
Người học phải tìm kiếm những thông tin hỗ trợ cho
quan điểm lựa chọn, phát triển những ví dụ có sức
thuyết phục về quan điểm tương ứng. Ví dụ bài trình
bày trước một ủy ban, bài thuyết trình trong phiên xử tại
tòa án (mô phỏng), viết các bức thư, các bài bình luận
hoặc các công bố báo chí, lập một áp phích hoặc một
đoạn phim video, trong khi đó vấn đề sẽ luôn luôn là
thuyết phục những người được đề cập.
Các bài tập kiểu này đòi hỏi người học xử lý những câu
hỏi liên quan đến bản thân cá nhân mình mà đối với
chúng không có những câu trả lời nhanh chóng. Các bài
tập loại này có thể suy ra từ việc xem xét các mục tiêu cá
nhân, những mong muốn về nghề nghiệp và các triển
vọng của cuộc sống, các vấn đề tranh cãi về đạo lý và
đạo đức, các quan điểm về các đổi mới kỹ thuật, về văn
hoá và nghệ thuật.



Phân tích các nội dung
chuyên môn (bài tập phân
tích)

Đề ra quyết định (bài tập
quyết định)

Điều tra và nghiên cứu
(bài tập khoa học)

1.3.5.3.

Người học phải xử lý cụ thể hơn với một hoặc
nhiều nội dung chuyên môn, để tìm ra những điểm
tương đồng và các khác biệt cũng như các tác động của
chúng.
Để có thể đưa ra quyết định, phải có thông tin về nội
dung cụ thể và phát triển các tiêu chuẩn làm cơ sở cho
sự quyết định.
Các tiêu chuẩn làm cơ sở cho sự quyết định có thể được
cho trước, hoặc người học phải phát triển các tiêu chuẩn
của chính mình.
Học sinh tiến hành một nhiệm vụ nghiên cứu thông
qua điều tra hay các phương pháp nghiên cứu khác. Ở
kiểu bài tập này cần tìm ra một nhiệm vụ với mức độ
khó khăn phù hợp.
Khi giải bài tập cần lưu ý các bước sau :
- Lập ra các giả thiết
- Kiểm tra các giả thiết dựa trên các dữ liệu từ

những nguồn lựa chọn.

Tiến trình (Process)

Nêu các bước cần thực hiện để hoàn thành nhiệm vụ ở trên.
Phần này viết dành cho học sinh đọc. Tuy nhiên nên viết rõ ràng, chi tiết phần này
để giáo viên khác có thể đọc, theo dõi được tiến trình của bài học và vận dụng vào bài
giảng của mình.
Ví dụ:
1. Trước tiên, các em chia thành từng nhóm 3 người
2. Sau đó, mỗi em chọn lấy một phần của mình
3. Kế tiếp, ....
Các liên kết đến trang web nên liệt kê ở đây theo trình tự thực hiện để học sinh truy
cập (không nên tách thành một danh sách riêng).
Nếu chia nhóm thì các liên kết được liệt kê theo tiến trình của từng nhóm.
Ở phần này, chúng ta hướng dẫn cách tổ chức, sắp xếp lại các thông tin do các em
tìm được: bảng tổng kết, đồ thị...
Hoặc nếu cần, đưa ra danh sách các câu hỏi hướng dẫn các em phân tích thông tin,
hoặc viết thu hoạch cho bài học.
1.3.5.4.

Đánh giá (Evaluation)


Cho các em học sinh biết rõ về cách đánh giá tiến trình học tập của các em. Đánh
giá theo nhóm hoặc cá nhân.
1.3.5.5.

Kết luận (Conclusion)


Viết tóm tắt vài câu về những gì học sinh sẽ đạt được sau khi hoàn thành bài học này.
Nếu cần, đưa ra các câu hỏi, bài tập mở rộng.
Nên có lời cám ơn đến tác giả các trang web hoặc những nguồn tài liệu liên quan khác
như sách, băng, tranh ảnh... mà chúng ta sử dụng trong bài giảng của mình.
Có thể tóm tắt cấu trúc của một WebQuest theo bảng sau:
Các bước

Mô tả

GV giới thiệu về chủ đề. Thông thường, một WebQuest
bắt đầu với việc đặt ra tình huống có vấn đề thực sự đối với
Nhập đề
người học, tạo động cơ cho người học sao cho họ tự muốn quan
tâm đến đề tài và muốn tìm ra một giải pháp cho vấn đề.
Học sinh được giao các nhiệm vụ cụ thể. Cần có sự thảo
luận với học sinh để học sinh hiểu nhiệm vụ, xác định được
mục tiêu riêng, cũng như có những bổ sung, điều chỉnh cần
Xác định nhiệm vụ
thiết. Tính phức tạp của nhiệm vụ phụ thuộc vào đề tài và trước
tiên là vào nhóm đối tượng. Thông thường, các nhiệm vụ sẽ
được xử lý trong các nhóm.
GV hướng dẫn nguồn thông tin để xử lý nhiệm vụ, chủ
Hướng dẫn
yếu là những trang trong mạng internet đã được GV lựa chọn
nguồn thông tin
và liên kết, ngoài ra còn có những chỉ dẫn về các tài liệu khác.
HS thực hiện nhiệm vụ trong nhóm. GV đóng vai trò tư
vấn.
Trong trang WebQuest có những chỉ dẫn, cung cấp cho
Thực hiện

người học những trợ giúp hành động, những hỗ trợ cụ thể để giải
quyết nhiệm vụ.
Học sinh trình bày các kết quả của nhóm trước lớp, sử
Trình bày
dụng PowerPoint hoặc tài liệu văn bản, có thể đưa lên mạng.
Đánh giá kết quả, tài liệu, phương pháp và hành vi học tập
trong WebQuest. Có thể sử dụng các biên bản đã ghi trong quá
trình thực hiện để hỗ trợ, sử dụng đàm thoại, phiếu điều tra.
Học sinh cần được tạo cơ hội suy nghĩ và đánh giá một
Đánh giá
cách có phê phán. Việc đánh giá tiếp theo do GV thực hiện.


1.4.

Thiết kế WebQuest
1.TẠO KHUNG TRANG WEBQUEST
2. CHỌN CHỦ ĐỀ

4. TÌM NGUỒN TÀI LIỆU

3. XÁC ĐỊNH MỤC ĐÍCH

7. THIẾT KẾ ĐÁNH GIÁ

5. XÁC ĐỊNH NHIỆM VỤ

6. THIẾT KẾ TIẾN TRÌNH

8. TRÌNH BÀY TRANG WEB


9. THỰC NGHIỆM

10. ĐÁNH GIÁ SỬA CHỮA
Hình 1.2: Quy trình thiết kế trang Web
1.4.1. Tạo khung trang WebQuest.

Tạo trang web và cấu trúc chung của một WebQuest. Có thể dùng nhiều công cụ
như: Microsoft Word, Excel, PowerPoint, Microsoft Frontpage, Microsoft Publisher, các
công cụ tạo website miễn phí, các dịch vụ tạo website…
1.4.2. Chọn chủ đề
Chủ đề cần phải có mối liên kết rõ ràng với những nội dung được xác định trong
chương trình dạy học. Chủ đề có thể là một vấn đề quan trọng trong xã hội, đòi hỏi học
sinh phải tỏ rõ quan điểm. Quan điểm đó không thể được thể hiện bằng những câu trả lời
như “đúng” hoặc “sai” một cách đơn giản mà cần phải lập luận quan điểm trên cơ sở


hiểu biết về chủ đề. Những câu hỏi sau đây cần trả lời khi quyết định chủ đề:
- Chủ đề có phù hợp với chương trình đào tạo không?
- Học sinh có hứng thú với chủ đề không?
- Chủ đề có gắn với tình huống, vấn đề thực tiễn không?
- Chủ đề có đủ lớn để tìm được tài liệu trên Internet không?
Sau khi quyết định chọn chủ đề, cần mô tả chủ đề để giới thiệu với học sinh. Đề tài
cần được giới thiệu ngắn gọn, dễ hiểu để học sinh có thể làm quen với một đề tài khó.
1.4.3. Xác định mục đích

- Cần xác định một cách rõ ràng những mục tiêu, yêu cầu đạt được trong việc thực
hiện WebQuest.
- Các yêu cầu cần phù hợp với học sinh và có thể đạt được.
1.4.4. Tìm nguồn tài liệu học tập


Giáo viên tìm các trang web có liên quan đến chủ đề, lựa chọn những trang thích
hợp để đưa vào liên kết trong WebQuest. Đối với từng nhóm bài tập riêng rẽ cần phải
tìm hiểu, đánh giá và hệ thống hóa các nguồn đã lựa chọn thành dạng các địa chỉ Internet
(URL). Giai đoạn này thường đòi hỏi nhiều công sức. Bằng cách đó, người học sẽ được
cung cấp các nguồn trực tuyến để áp dụng vào việc xử lý và giải quyết vấn đề. Những
nguồn thông tin này được kết hợp trong tài liệu WebQuest hoặc có sẵn ở dạng các siêu
liên kết tới các trang web bên ngoài.
Ngoài các trang web, các nguồn thông tin tiếp theo có thể là các thông tin chuyên
môn được cung cấp qua Email, CD hoặc các ngân hàng dữ liệu kỹ thuật số (ví dụ từ điển
trực tuyến trong dạy học ngoại ngữ). Điều quan trọng là phải nêu rõ nguồn tin đối với
từng nội dung công việc và trước đó các nguồn tin này phải được giáo viên kiểm tra về
chất lượng để đảm bảo tài liệu đó là đáng tin cậy.
1.4.5.

Xác định nhiệm vụ
Để đạt được mục đích của hoạt động học tập, học sinh cần phải giải quyết một
nhiệm vụ hoặc một vấn đề có ý nghĩa và vừa sức. Vấn đề hoặc nhiệm vụ phải cụ thể hóa
đề tài đã được giới thiệu. Nhiệm vụ học tập cho các nhóm là thành phần trung tâm của
WebQuest. Nhiệm vụ định hướng cho hoạt động của học sinh, cần tránh những nhiệm
vụ theo kiểu ôn tập, tái hiện thuần túy.


×