Tải bản đầy đủ (.pdf) (187 trang)

HOT full tài liệu luyện thi đại học môn ngữ văn của moon vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (22.69 MB, 187 trang )

KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH (tiết 1)

MỞ: Việt Nam, dải đất mảnh mai gầy guộc nằm bên bờ biển Đông suốt lịch sử 4000 năm luôn
phải gồng mình lên để sớm chắn bão giông chiều ngăn nắng lửa; gần hai ngàn năm phải chống ngoại
bang xâm lược, đô hộ, đồng hoá; độc lập, tự do cho dân tộc, chủ quyền quốc gia đã trở thành lẽ sống
còn truyền từ đời này sang đời khác. Hơn 1000 năm trước, khi quân xâm lược Tống (Trung Quốc)
kéo sang giày xéo bờ cõi, chúng ta đã tuyên bố "Sông núi nước Nam vua Nam ở ". Hơn năm trăm
năm sau, sau thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ nhà Minh, trong bài Cáo
bình Ngô, chúng ta lại một lần nữa tuyên bố nền độc lập trong không khí hào sảng: "Như nước Đại
Việt ta ... hùng cứ một phương ". Vẫn với một tinh thần ấy và hơn cả như thế, Tuyên ngôn độc lập
của Bác đã trở thành đỉnh mốc đánh dấu bước phát triển lớn nhất trong lịch sử phát triển quốc gia
dân tộc.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh ra đời của bản tuyên ngôn
- Ngày 19/8/45 chính quyền về tay nhân dân.
- Ngày 26/8 tại Hàng Ngang – Hà Nội người soạn thảo bản tuyên ngôn độc lập.
- Ngày 2/9/45 tại quảng trường Ba Đình, người thay mặt chính phủ đọc bản tuyên ngôn độc lập khai
sinh ra nước VNDCCH.
2.2. Đối tượng và mục đích sáng tác của bản tuyên ngôn
MO O N.VN

. Đối tượng:
+ Tuyên ngôn độc lập huớng tới không chỉ đồng bào trong cả nuớc.
+ Nhân dân trên thế giới, trước hết là nhân dân tiến bộ ở Pháp và Mỹ.
+ Đặc biệt là các lực lượng thù địch và cơ hội quốc tế đang mang dã tâm một lần nữa nô dịch đất
nước ta.
Mục đích:


+ Khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam.
+ Bao hàm một cuộc tranh luận ngầm nhằm bác bỏ luận điệu xảo trá của kẻ thù truớc dư luận thế
giới.
Lời văn:
- Ngày 19 tháng 8 năm 1945, chính quyền ở Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26 tháng 8 năm 1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48, phố Hàng
Ngang, Người biên soạn bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2.9.1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà
Nội, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn
Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào: “Hôm nay sáng mồng 2 tháng 9/ Thủ đô hoa vàng nắng Ba
Đình/ Muôn triệu tim chờ, chim cũng nín/ Bỗng vang lên tiếng hát ân tình/ Hồ Chí Minh, Hồ Chí
Minh/ Người đứng trên đài, lặng phút giây/ Trông đàn con đó, vẫy hai tay/ Cao cao vầng trán, ngời
đôi mắt/ Độc lập bây giờ mới thấy đây”. Cả đất nước ngây ngất trong niềm hạnh phúc được sống

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
trong kỉ nguyên mới, chấm dứt bao năm sống trong nô lệ tủi nhục dưới ách thống trị của thực dân
phong kiến.
- Tuyên ngôn độc lập được viết trong một hoàn cảnh đặc biệt khác thường: đất nước đã giành đuợc
độc lập nhưng bọn đế quốc thực dân - đặc biệt là thực dân Pháp đang lăm le quay trở lại nhằm nô
dịch đất nước ta một lần nữa. Nấp sau quân Đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật: tiến vào từ
phía Bắc là quân đội Tưởng Giới Thạch, sau lưng là đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là quân đội
Anh, sau lưng là quân viễn chinh Pháp. Chúng nhân danh phe Đồng minh với chiêu bài: lấy lại mảnh
đất bảo hộ đã bị bọn Phát xít Nhật chiếm đóng trong chiến tranh. Chúng ta phải chống thực dân Pháp
- một thành viên chủ chốt của phe Đồng minh nhưng lại nhất thiết không thể chống Đồng minh. Đây
là một vấn đề trọng yếu và cũng vô cùng tinh tế, đòi hỏi sự khôn khéo, sáng suốt và bản lĩnh của người lãnh đạo.
2.5. Bố cục
- Đoạn 1: Từ đầu đến “đó là lẽ phải không ai có thể chối cãi được” cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn.
- Đoạn 2: Tiếp đó đến “Dân tộc đó phải được độc lập”- Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khẳng

định thực tế lịch sử là nhân dân ta kiên trì đấu tranh và nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước
VNDCCH.
- Đoạn 3: Còn lại: Lời tuyên ngôn và những tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn
- Bác dẫn hai bản tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ (1776); Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền của cách mạng Pháp (1791) -> Hai bản tuyên ngôn được cả thế giới thừa nhận nội dung
phù hợp với mơ ước và quyền lợi của con người. Đó là chân lí không ai có thể chối cãi. Việc trích
dẫn ấy có giá trị sâu sắc. Bác tỏ ra trân trọng những danh ngôn bất hủ để chặn đứng âm mưu trở lại
xâm lược nước ta của thực dân Pháp.
- Người trích dẫn lời bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ: “Tất cả mọi người…hạnh phúc”. Bác rất
linh hoạt khi kết hợp với ý kiến của mình “suy rộng ra câu ấy có nghĩa là” từ khẳng định quyền
con người, Bác đã chuyển nhanh sang quyền của các dân tộc “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
ra bình đẳng, daâ tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”
- Người trích dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp: “Người ta sinh
ra….quyền lợi”. Người khẳng định: “ đó là lẽ phải không ai có thể chối cãi được”. Bác xoáy sâu vào
quyền bình đẳng mọi mặt của con người. Con người hiểu theo nghĩa không phân biệt chủng tộc,
màu da, tổ quốc. Con người nhân loại . Vậy có lí do gì Pháp xâm lược Việt Nam?
- Bác dẫn lời cha ông họ. Ông cha họ đã từng khẳng định, từng tuyên ngôn hùng hồn đanh thép. Có
lẽ nào chúng lại vô tình đi ngược lại và phản bội lời lẽ của ông cha chúng? Đây chính là phương
pháp luận của Bác, là nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông” khôn khéo và tế nhị.
MO O N.VN

Lời văn: Phần mở đầu bản tuyên ngôn có giá trị nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, tiêu biểu
cho phong cách chính luận HCM. Tác giả đã khẳng định độc lập dân tộc trên cơ sở những lí lẽ không
thể chối cãi.
- Ngay từ những dòng đầu tiên, Hồ Chí Minh nêu lên những chân lý vĩnh cửu về quyền tự do của
dân tộc, quyền sống của mỗi con người đã được thừa nhận qua nhiều thời kỳ lịch sử ở ngay chính
những quốc gia mà bấy giờ chính quyền của họ đang đi ngược lại nguyên tắc đó.
Bác đã dẫn lời hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và của Pháp, chứa đựng những tư tưởng lớn, đã

được thừa nhận của nhân loại, để làm cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn của VN. Cách lập luận của
tác giả vừa khôn khéo vừa kiên quyết
- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
+ Cách lập luận ấy khôn khéo bởi vì:
@ Thu hút sự chú ý của dư luận. Dẫn Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ, Tuyên ngôn Nhân quyền
và dân quyền của cách mạng Pháp chính là biểu hiện của sự mở ra, hoà vào đời sống cộng đồng thế
giới của dân tộc. Chỉ mới đây thôi, dân tộc còn nô lệ, đất nước còn chưa có tên riêng (mang tên xứ
An Nam thuộc Pháp), xã hội còn là xã hội phong kiến thuộc địa cũ kĩ, tù đọng. Hôm nay chúng ta đã
là nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đứng giữa nhân loại trên thế giới. Những nội dung, khí phách
như thế đã cất lên, vang động khắp hoàn cầu.
@ Gợi lại cho người Mĩ và người Pháp nhớ lại những hoàn cảnh tương tự như Việt Nam. Cách đó
200 năm, người Mĩ cũng bị áp bức, bị làm nhục như Việt Nam, cũng bị những người Âu châu sang
khai thác. Câu nói nổi tiếng của thủ tướng Anh Uy-liêm: “Hễ Mĩ làm ra dù một sợi len, một miếng
sắt móng ngựa là bản chức sẽ cho lĩnh sang đóng đầy xứ ngay lập tức”. 1775, dưới sự lãnh đạo của
người anh hùng Oa sinh tơn, lãnh đạo nhân dân nổi dậy chống đế quốc Anh đã thống trị họ từ đầu thế
kỉ XVII. 4-7-1776, họ tuyên bố Độc lạp và thành lập Liên bang Bắc Mĩ Hoa kì (quen gọi là nước
Mĩ). 15 năm sau bản tuyên ngôn của Mĩ là tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp không
chịu được cảnh phải cõng trên lưng, đội trên đầu quyền lực tối cao của chế độ quân chủ, trong đó luật
pháp là do ý thích của nhà vua đặt ra. Như vậy mấy trăm năm trước người Pháp lật đổ chế độ quân
chủ, người Mĩ đánh đuổi thực dân, mấy trăm năm sau, người Việt cùng một lúc đánh đổ cả chế độ
phong kiến và chế độ thực dân, cùng chung khát vọng độc lập tự do như người Mĩ người Pháp... Vừa
nhắc nhớ, vừa có ý đặt ngang hàng cuộc cách mạng tháng Tám của ta với hai cuộc cách mạng của
Pháp và Mỹ. Quả thật hai cuộc cách mạng nói trên mở ra một giai đoạn mới trong sự phát triển của
lịch sử xã hội loài người thì cuộc cách mạng tháng Tám của ta cũng mở ra một kỷ nguyên mới. Đó là
kỷ nguyên dành độc lập dân tộc ở các nuớc thuộc địa, là kỷ nguyên sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
Với những trích dẫn hai câu nổi tiếng trong bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, Hồ Chí Minh muốn
khẳng định chân lí lịch sử và niềm tự hào dân tộc, khẳng định tầm vóc thời đại của cuộc Cách

mạng tháng Tám.
MO O N.VN

@ Người đã thể hiện sự tôn trọng những danh ngôn bất hủ đã được cả thế giới thừa nhận, những
chân lý dù đó là của Mỹ hay của Pháp. Ở đây không hề có sự lầm lẫn giữa nhân dân Mỹ, dân tộc
Pháp với bọn xâm lược Mỹ, Pháp.
@ Từ quyền bình đẳng và tự do của con người mà tác giả suy rộng ra về quyền bình đẳng tự do của
các dân tộc trên thế giới. Đây là một cách vân dụng khéo léo và đầy sáng tạo nhưng vẫn đảm bảo
tính chặt chẽ trong lập luận. Tư tưởng về ''Quyền của các dân tộc '' là một đóng góp lớn của TNĐL:
''cống hiến nổi tiếng của cụ HCM vào kho tàng tinh hoa tư tưởng nhân loại. Bởi vì tư tưởng này là sự
nâng cao giá trị, tầm vóc nhân bản của tư tưởng, của nguyên tắc về quyền của con người '' (Giáo sư
Singô Sibita). Nghĩa là con người phải biết vươn tới quyền lợi của cộng đồng. Mặt khác, tư tưởng
nguyên tắc ''Quyền của các dân tộc '' còn là cơ sở để nhân loại thấy rằng giai cấp tư sản trong khi nêu
cao nhân quyền, dân quyền lại mở rộng quyền xâm phạm tàn bạo, bóc lột dã man các dân tộc khác.
Đó là vô nhân đạo và phi nghĩa. Thế là từ phạm trù nhân quyền - nền móng tư tưởng của cách mạng
tư sản - Bác đã chuyển sang phạm trù chống thực dân - nền móng của phong trào giải phóng dân tộc,
phong trào rồi sẽ trở thành một trong ba dòng thác cách mạng trên thế giới. Chỉ trong một câu văn
ngắn gọn, ta vẫn nhận ra một Hồ Chí Minh như nguời giương cao bó đuốc sáng ngời của tư tưởng
giải phóng dân tộc.
@ Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn vừa nhằm đề cao những giá trị hiển nhiên của tư tưởng nhân
đạo và văn minh của nhân loại, vừa tạo tiền đề cho lập luận sẽ nêu ở mệnh đề tiếp theo.

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
+ Khôn khéo nhưng vẫn kiên quyết: Bác đã dùng lời lẽ bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp để phủ nhận
chính âm mưu xâm lược của hai cường quốc này. Qua thủ pháp nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”,
dường như tác giả đã ngầm cảnh cáo nếu Pháp xâm lược Việt Nam thì chính họ đã phản bội lại
truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ đã đúc kết thành chân lý ghi trong bản tuyên ngôn. Họ sẽ vấy bẩn

lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái mà cha ông họ từng giương cao.
Kết tiết 1: Tuyên ngôn độc lập là đỉnh cao của văn học yêu nước, đỉnh cao của văn chính luận.
Trong cả cuộc đời làm văn viết văn của Bác thì hai lần nguời cảm thấy sung sướng và sảng khoái
nhất khi đặt bút viết đó là lần viết “Bản án chế độ thực dân Pháp” để lại bản cáo trạng đanh thép kết
tội chúng” và lần viết Tuyên ngôn độc lập để tuyên bố cáo chung chế độ thực dân ấy. Tác phẩm đã
xây dựng được một kết cấu chặt chẽ, lí lẽ hùng hồn, lập luận đanh thép, lời văn hàm súc, trong sáng.
Nếu người Mĩ tự hào vì có bản tuyên ngôn độc lập 1776, người Pháp có Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền 1791 thì dân tộc Việt Nam có quyền kiêu hãnh vì có Tuyên ngôn độc lập, tác phẩm kết
tinh tâm hồn, ý chí, khát vọng của con người Việt Nam.
- Chỉ bằng đoạn văn ngắn mở đầu, TNĐL đã đưa ra căn cứ, lí lẽ xác đáng cho lập luận. Quá trình dẫn
dắt tới căn cứ, lập luận này hết sức chính xác, chặt chẽ, thể hiện độ nhạy bén chính trị, sự sắc sảo trí
tuệ cao độ. Với đoạn mở đầu, tác giả đã tạo cơ sở lý luận vững chắc để triển khai lập luận ở phần
sau.
- Chúng ta đã từng biết đến chất trí tuệ sắc sảo của Nguyễn Ái Quốc qua truyện Những trò lố hay Va
ren và Phan Bội Châu hiện đại bằng tiếng Pháp, chất cổ điển hài hòa với tinh thần hiện đại của HCM
qua Nhật kí trong tù bằng chữ Hán, thì đến với Tuyên ngôn độc lập, ta còn biết đến một áng văn
chính luận mẫu mực giàu tính luận chiến của nhà Cách mạng HCM. Đây cũng là tác phẩm mà HCM
cảm thấy hài lòng nhất trong cuộc đời viết văn, làm báo dày dạn kinh nghiệm của mình.
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH (tiết 2)

2. Bác vạch tội cũng là tranh luận ngầm với thực dân Pháp.
- Bác hạ từ “ thế mà”, hai từ ấy như đảo ngược lại hoàn toàn, phủ nhận hoàn toàn thái độ của thực
dân Pháp. Nghĩa là chúng đã phản bội lại lời lẽ của cha ông chúng.

- Từ đây bản tuyên ngôn đã đưa ra những chứng cứ sự thật. Thực chất, Bác đã ngầm tranh luận với
Pháp và công bố trước dư luận.
+ Chúng kể công ''bảo hộ '' Việt Nam nhưng thực chất là chúng đã dâng Đông dương hai lần
cho Nhật .
+ Chúng kể công ''khai hoá'' Việt Nam nhưng thực chất là chúng bóc lột, áp bức đẩy dân tộc ta
tới nguy cơ diệt chủng trong nạn đói 1945 .
+ Chúng nhân danh Đồng minh trở lại Việt Nam >< thực chất chúng phản bội Đồng minh, đầu
hàng Nhật, khủng bố Việt minh là lực lượng đứng trong phe Đồng minh đánh Nhật .
+ Chúng nêu lên những ràng buộc về mặt pháp lí của Việt Nam với Pháp bởi những hiệp ước
này khác thì bản tuyên ngôn khẳng định từ 1940, Việt Nam là thuộc địa của Nhật và Việt minh đã
giành lại chủ quyền cho dân tộc mình từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Như thế mọi ràng
buộc có tính pháp lí trên đã bị huỷ bỏ .
-> Lời lẽ của Bác cụ thể, dẫn chứng rõ ràng, văn viết có hình ảnh (tắm các cuộc khởi nghĩa của ta
trong các biển máu), tác động mạnh mẽ tới người đọc, người nghe.
- Bác tuyên bố thoát li hẳn mọi quan hệ thực dân với Pháp.
+ Xoá bỏ mọi hiệp ước mà Pháp đã kí ở VN.
+ Khai sinh ra nước VNDCCH.
+ Thể hiện quyết tâm chống mọi âm mưu của thực dân Pháp.
+ Bày tỏ niềm tin với Đồng minh.
Lời văn:
MO O N.VN

Lòng yêu nước, nguyện vọng độc lập dân tộc của nhân dân ta đuợc khẳng định chắc chắn trên cơ sở
thực tiễn. Tác phẩm là cuộc tranh luận ngầm về chủ nhân đích thực của đất nước Việt Nam, phủ
nhận quyền của Pháp, khẳng định quyền tự do của Việt Nam.
Nghệ thuật lập luận trong cuộc “tranh luận ngầm” nhằm bác bỏ những luận địệu xảo trá của thực
dân, đế quốc đã được thể hiện sáng rõ:
a) Bản Tuyên ngôn đã dựng lên bản cáo trạng đanh thép về tội ác của thực dân Pháp.
+ Nếu Pháp nêu chiêu bài có công khai hoá đối với Việt Nam, Việt Nam vốn là thuộc địa của Pháp
thì bản Tuyên ngôn vạch rõ: Pháp chính là kẻ xâm lược, gây bao tội ác, và đã bán đứng Vn cho Nhật.

Bản Tuyên ngôn tố cáo một cách toàn diện tội ác này về chính trị, kinh tế.
Về chính trị: Chúng tuyệt đối không cho dân tộc ta chút quyền tự do dân chủ nào, chúng chia nuớc ta
thành ba kỳ với ba chế độ khác nhau. Mục đích là chia rẽ tình đoàn kết dân tộc, ngăn cản sự nghiệp
thống nhất đất nuớc của nhân dân ta. Chúng đàn áp những nguời yêu nuớc thương nòi, tắm các cuộc
khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng thực hiện chính sách ngu dân, lập nhà tù nhiều hơn truờng học. Chúng đầu độc nhân dân ta bằng ruợu cồn và thuốc phiện để ta suy kiệt giống nòi.
Về kinh tế: Chúng cuớp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu, bóc lột sức lao động, chúng thực
hiện chính sách thuế hà khắc, vô nhân đạo khiến mọi tầng lớp nhân dân không ngóc đầu lên đuợc.
Tội ác lớn nhất của thực dân Pháp và phát xít Nhật là đã gây ra thảm hoạ nạn đói năm 1945 khiến
hai triệu nguời chết đói. (Thơ Tố Hữu: Con đói lả ôm chân mẹ khóc/ Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi/

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
Kiếp người cơm vãi cơm rơi/ biết đâu nẻo đất phương trời mà đi. Hay “Nửa đêm thuế thúc trống
dồn/ Sân đình máu chảy đường thôn lính đầy)
+ Để phủ nhận chiêu bài của Pháp rêu rao rằng Pháp có công đứng về phe Đồng minh chống phát xít
bảo vệ Việt Nam, tác giả đã tố cáo tội ác của Pháp là đã đầu hàng Nhật một cách nhục nhã, bán rẻ
nuớc ta cho Nhật Bản. Tuyên ngôn chỉ rõ: chỉ trong vòng 5 năm mà đã hai lần Pháp quỳ gối mở cửa
nuớc ta rước Nhật. Tố cáo hành động này của Pháp, một lần nữa bản tuyên ngôn đã phủ nhận quyền
của Pháp đối với Việt Nam.
- Trong phần thứ hai của Tuyên ngôn độc lập, đoạn tố cáo tội ác về chính trị và về kinh tế của thực
dân Pháp trong hơn 80 năm đô hộ Việt Nam đuợc viết ngắn gọn, cô đúc, trong khi đoạn văn nói về
việc Pháp bán nuớc ta cho Nhật, về việc ta giành lại nuớc từ tay Nhật lại được viết khá tỉ mỉ, kỹ
càng. Vì sao vậy ?
- Vì vào lúc ấy, trước công luận trong nước ta và trên thế giới, tội ác của bọn thực dân ở thuộc địa đã
là một thực tế quá hiển nhiên. Trong khuôn khổ một bản Tuyên ngôn - một loại hình văn bản rất cần
sức mạnh của sự nén dồn, cô đúc, những tội ác này hoàn toàn có thể nêu dưới dạng những lời kết án
gọn gàng, đanh thép.
- Nhưng những điều Bác nói đến trong đoạn văn sau lại khác. Bác Hồ đã sáng suốt lường trước được

rằng, sẽ không ít nguời vô tình hoặc hữu ý cho rằng chúng ta giành độc lập từ tay thực dân Pháp.
Thiếu một chút sáng suốt, một chút khôn khéo ở đây, ta dễ có thể bị quy là chống lại một thành viên
chủ chốt của đồng minh, chống lại những điều ước cho những nước thắng trận có quyền thu lại
những mảnh đất cũ của mình.
- Một điều có tầm quan trọng sống còn đối với nền độc lập của đất nước như thế, không thể nào coi
nhẹ. Nên dù là Tuyên ngôn, Bác Hồ vẫn phải dụng công phân giải, bằng hàng loạt câu văn chia thành
các vế phân biệt với nhau, với sự nhấn rất mạnh trong ngữ điệu. Ví như:
“Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” đuợc ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nuớc ta
hai lần cho Nhật”.
MO O N.VN

“Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nuớc ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa
của Pháp nữa”.
“Sự thật là dân ta đã lấy lại nuớc Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.
Đó là những câu văn mang ý nghĩa sinh tử trong một bản tuyên ngôn.
- Về nghệ thuật: Đoạn văn tố cáo tội ác thực dân Pháp là một điển hình mẫu mực về văn chương
chính luận. Những dẫn chứng đưa ra đều có sự chọn lọc. Đặc biệt lời văn vừa súc tích vừa truyền
cảm. Bác không viết “chúng đàn áp các cuộc khởi nghĩa của ta một cách dã man” mà viết: “chúng
tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu”. Hành động đàn áp đã được diễn đạt bằng hình tuợng
“tắm”. Mức độ dã man đã được hình tượng hoá thành “bể máu”. Cách diễn đạt hình tượng này vừa
lột trần đuợc bộ mặt quỷ sứ khát máu nguời của bọn thực dân, vừa diễn tả được nỗi đau thê thảm của
nhân dân ta, những nguời dân vô tội đang quằn quại trong “vòng tử địa” (Đuờng Kách mệnh). Đúng
là tư tưởng chính trị đã đuợc thể hiện bằng một câu văn miêu tả tuyệt vời có sức lay động mạnh mẽ
cả nhận thức và tình cảm của người đọc.
3. Bản tuyên ngôn thể hiện quyết tâm lớn.
- Khép lại bản tuyên ngôn Bác trịnh trọng tuyên bố:
“ Nước VN có quyền …ấy”đoạn văn ngắn, lời gọn và ý sâu.
- Độc lập dân tộc còn đuợc khẳng định trên cơ sở thực tiễn về phía Việt Nam. Ở đây, Tuyên ngôn đã
khẳng định “Việt Nam có quyền và thực tế đã là một nước giành được tự do độc lập”.
+ Thực tế Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập bởi vì chính nhân dân Việt Nam chứ không phải

ai đã đứng về phe đồng minh chống phát xít: “Một dân tộc đã gan góc chống ách đô hộ của thực dân
Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít Nhật suốt mấy
năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải đuợc độc lập”. Trong một đoạn văn ngắn hai
lần xuất hiện từ gan góc, bốn lần dùng từ dân tộc. Hai đoạn văn của bản Tuyên ngôn lặp lại như hai
- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
nhát dao chém xuống mỗi lúc một mạnh hơn. Nguời đòi quyền cho dân tộc nên 20 lần nhắc tới chữ
quyền trong những câu văn hào hùng đanh thép.
+ Không những khẳng định quyền mà bản Tuyên ngôn còn khẳng định thực tế Việt Nam đã giành được độc lập. Cách lập luận của tác giả ở đây cũng thật chặt chẽ, sắc sảo. Bác chỉ rõ Việt Nam không
còn là thuộc địa của Pháp vì Pháp đã bán rẻ Việt Nam cho Nhật. Nước ta cũng không còn là thuộc
địa của Nhật vì sau khi Nhật đầu hàng đồng minh thì nhân dân ta đã giành lại nước từ tay Nhật. Hơn
nữa Việt Nam đã có Chính phủ lâm thời đại diện chân chính cho nhân dân Việt Nam. Để khẳng định
sự thật này, Nguời viết Tuyên ngôn độc lập láy đi láy lại hai lần chữ “sự thật”. “Sự thật là, sự thật
là” và cuối cùng thì “Nuớc Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước
tự do độc lập”. Đây là những điệp khúc tiếp nối nhau tăng thêm âm huởng hùng biện của bản tuyên
ngôn.
+ Một câu hỏi đặt ra đối với dư luận quốc tế lúc bấy giờ là “dân tộc VN có khả năng làm chủ vận
mệnh của mình hay không? HCM đã đưa ra những lí lẽ sắc bén để khẳng định: Nếu TD Pháp phản
bội đồng mình, dâng Đông Dương hai lần cho Nhật thì thì dân tộc VN đã anh dũng chống Nhật,
giành lại độc lập. Nếu thực dân Pháp tàn bạo, vô nhân đạo trong hành động thẳng tay khủng bố Việt
Minh, giết tù chính trị trước khi bỏ chạy, thì nhân dân VN vẫn giữ thái độ khoan hồng, nhân đạo.
Một dân tộc bất khuất, kiên cường và nhân nghĩa như thế hoàn toàn xứng đáng và đầy đủ khả năng
để có thể bảo vệ quyền tự quyết của mình.
+ Người khẳng định: “ Nước VN có quyền”, “và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Bác vừa
khẳng định vừa tuyên bố công khai. Mấy tiếng “có quyền”, và “sự thật” mạnh mẽ rắn chắc như chân
lí.
+ Người bày tỏ quyết tâm: “Toàn thể dân tộc VN quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Bác vừa thể hiện quyết tâm lớn lại vừa như kêu gọi

đồng bào cả nước đồng lòng, chung sức để giữ gìn độc lập, tự do đã giành được.
- Vị trí của những câu kết
“Chúng tôi tin rằng các nuớc Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các
Hội nghị Têhêrăng và Cựu kim sơn, quyết không thể công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
MO O N.VN

Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng
về phe Đồng minh chống Phát xít mấy năm, dân tộc đó phải đuợc tự do! Dân tộc đó phải đuợc độc
lập!”
- Những câu văn được diễn đạt giống như định luật, định lí với đầy đủ giả thiết và kết luận. Một
cách đặt câu như thế giúp rất nhiều cho câu văn và cho sự lập luận trở nên đanh thép, hùng hồn,
không thể nào bác bỏ.

- Nếu cần phải tìm trong bản Tuyên ngôn này một câu văn chứa đựng đầy đủ hơn cả nội dung của
toàn tác phẩm thì cần phải chọn câu: “Nước Việt Nam có quyền huởng tự do và độc lập, và sự thật
đã thành một nước tự độc lập”.
- Như vậy, phần kết thúc bản tuyên ngôn, tác giả tiếp tục khẳng định lòng yêu nước, nguyện vọng
độc lập dân tộc của nhân dân ta vừa trên cơ sở công lý vừa trên cơ sở thực tiễn. Về mặt công lý, nếu
họ đã công nhận quyền độc lập dân tộc tự quyết tại hai hội nghị: Tê hê răng (1943) và Cựu Kim Sơn
(1945) thì họ nhất định sẽ phải công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Nhân dân ta sẽ phát
huy truyền thống yêu nước bất khuất để giữ vững quyền tự do độc lập ấy: “Toàn thể dân tộc Việt
Nam… quyền tự do độc lập ấy”.
- Bản Tuyên ngôn đã kết thúc bằng câu văn khẳng định lòng yêu nước giống như một lời thề quyết
tử cho tổ quốc quyết sinh. Đặt trong quá trình phát triển của văn học Việt Nam, Tuyên ngôn độc lập
là đỉnh cao của văn học yêu nước. Từ “Nam quốc sơn hà”, “Bình ngô đại cáo” đến Tuyên ngôn độc
lập là những chặng đường khác nhau của cùng một chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.

- hotline: 04.32.99.98.98



KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH (tiết 3)

III. Kết luận
1. Giá trị của bản tuyên ngôn
- Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử, chính trị hết sức quan trọng và có ý nghĩa vô cùng to
lớn:
+ Văn kiện ấy đã trang trọng tuyên ngôn về nền độc lập của tổ quốc Việt Nam sau ngót trăm năm
phải sống dưới xiềng xích thực dân.
+ Văn kiện ấy còn tuyên bố sự cáo chung của chế độ quân chủ đã tồn tại mấy mươi thế kỉ.
+ Văn kiện ấy còn là phát súng mở màn cho phong trào đấu tranh giải phóng ở các nước thuộc địa
trên toàn thế giới.
- Tuyên ngôn Độc lập là một bài văn chính luận mẫu mực: văn phong khúc chiết, ngắn gọn, lập luận
chặt chẽ đanh thép, lời lẽ hùng hồn và đầy sức thuyết phục.
2. Nghệ thuật
- Là áng văn chính luận mẫu mực.
- Lập luận chặt chẽ thống nhất trong toàn bài.
- Cách sử dụng từ ngữ phù hợp, văn giàu hình ảnh, khắc sâu ấn tượng, kết hợp cảm xúc…
2.1. Bản Tuyên ngôn độc lập có kết cấu chặt chẽ lập luận đanh thép
Tác phẩm gồm 3 phần có mối quan hệ hữu cơ bổ sung cho nhau:
+ Phần 1 nêu cơ sở pháp lý, đặt cơ sở lý luận:
+ Phần 2 soi sáng chứng minh bằng thực tiễn:
+ Phần cuối rút ra kết luận.
Các phần lại liên hệ với nhau bằng những liên từ, những cụm quan hệ từ chặt chẽ như những mắt
xích.
- Phần thứ nhất - phần nêu chân lí – đã nêu được nguyên lí làm cơ sở cho bản tuyên ngôn, đó là
“quyền được hưởng độc lập, tự do, bình đẳng, hạnh phúc” của mọi dân tộc trên thế giới”, kết thúc ở
câu: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi đuợc”.
MO O N.VN


+ Kết thúc phần đầu chuyển sang phần hai, tác giả sử dụng liên từ “Thế mà” như để báo truớc những
hành động Pháp đuợc dẫn ra tiếp theo sẽ trái hẳn lẽ phải và nhân đạo, chứng tỏ rằng chúng đã phản
bội chính ngay những điều đuợc nêu lên trong các bản Tuyên ngôn của chúng
+ Kết thúc phần II chuyển sang phần 3 tác giả sử dụng cụm liên từ “bởi thế cho nên” như để khẳng
định hai phần trên là nguyên nhân còn phần cuối là kết quả. Đã coi quyền tự do, bình đẳng giữa các
dân tộc là lẽ phải không thể chối cãi, đã coi việc chúng ta giành lại được đất nuớc từ tay Nhật chứ
không phải từ tay Pháp là thực tế không thể nào bác bỏ, thì việc chúng ta thoát li hẳn các mối quan
hệ thực dân với Pháp để trở thành một nước tự do độc lập phải là một sự đương nhiên, chính đại
quang minh như trời đất, sáng tỏ như nhật nguyệt. Rõ ràng, Tuyên ngôn độc lập là một chỉnh thể
thống nhất, với các yếu tố quan hệ hết sức chặt chẽ với nhau. Cách lập luận của tác giả là dùng lời lẽ
của đối phuơng để bác bỏ đối phương và luôn có sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
2.2. Giọng văn thay đổi linh hoạt phù hợp với đối tuợng và nội dung
- Nói với công luận quốc tế thì giọng văn uyên bác, thể hiện một trí tuệ sắc sảo, dẫn những lời tuyên
ngôn nổi tiếng làm cơ sở cho lập luận.
- Viết với đồng bào cả nước thì lời văn tình cảm thiết tha. Về điều này Chế Lan Viên đã nhận xét thật
chính xác: “Vì nói với đồng bào lời văn của bản Tuyên ngôn xiết bao xúc động…sau 13 chữ “quyền”
là 14 câu, câu nào cũng có chữ “chúng” mở đầu nặng như búa tạ: “Chúng tuyệt đối không cho”,
“chúng thi hành những luật pháp dã man”, “chúng cuớp không ruộng đất” và mỗi chữ chúng ấy

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
nhuư xiết xuống chữ “ta” làm xúc động lòng ngời: “chúng cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta,
tuyệt đối không cho nhân dân ta chút quyền tự do dân chủ nào”.
- Khi khẳng định độc lập, tự do thì lời văn trang trọng thiêng liêng. “Chúng tôi trịnh trọng tuyên bố”
- Khi tố cáo tội ác kẻ thù thì giọng văn bi thiết.
- Khi nêu cao truyền thống yêu nuớc thì giọng văn hào hùng sảng khoái.
2.3. Ngôn ngữ vừa chính xác vừa gợi cảm, truyền cảm. Vì là văn kiện chính trị nên mỗi chữ mỗi

lời cần phải chính xác tuyệt đối. Vì là tác phẩm văn học nên mỗi chữ mỗi lời lại có sức mạnh gợi
cảm truyền cảm lớn lao.
- Khi tác giả viết: “chúng tuyệt đối không cho dân ta chút quyền tự do dân chủ nào” thì hai chữ
“tuyệt đối” vừa nhấn mạnh vừa làm chính xác thêm ý văn. Chỉ bằng chín chữ : “Pháp chạy, Nhật
hàng, Vua Bảo Đại thoái vị” mà câu văn đã khái quát đuợc những sự kiên chính trị, những biến cố
quan trọng nhất của lịch sử lúc bấy giờ. Những sự kiện này đặt liên tiếp cạnh nhau trong câu văn
ngắn gọn đem đến sự cảm nhận về sự thất bại thảm hại, nhanh chóng của kẻ thù và khí thế thần tốc
của cách mạng tháng Tám.
Những tư tuởng chính trị đuợc diễn đạt bằng những hình tượng vừa gợi cảm vừa truyền cảm: tác giả
không viết: Pháp đầu hàng Nhật một cách nhục nhã mà viết “thực dân Pháp quỳ gối mở cửa nước
ta ruớc Nhật”. Câu văn hình tuợng đã diễn tả được thái độ hèn nhát và tự ti nô lệ của Pháp trước
Nhật.
ĐỀ LUYỆN TẬP
ĐỀ 1:
- "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc". Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu nói
ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách
mạng Pháp năm 1791 cũng nói" Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất
nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”
- "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng
về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được
độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trịnh trọng
tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập.

Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do độc lập ấy".
a, Hai đoạn trích trên thuộc tác phẩm nào? Vị trí của đoạn trích trong tác phẩm? Tác giả nào?
Tác phẩm được soạn thảo năm nào và được công bố ở đâu?
b, Hãy phân tích ngắn gọn nội dung, ý nghĩa và văn phong hai đoạn trích trên.
Gợi ý:
I. Hai đoạn trích trên trong tác phẩm “Tuyên ngôn Độc lập”
- Đoạn trích thứ nhất là phần mở đầu tuyên ngôn, đoạn trích thứ hai là đoạn kết.
- Tác giả: Hồ Chí Minh.
- Tác phẩm được soạn thảo vào năm 1945, ở căn gác số 48, phố Hàng Ngang, Hà Nội.
- Ngày 02/09/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ
lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng
bào.
II. Nội dung, ý nghĩa
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
1. Nội dung
- Khẳng định quyền con người (nhân quyền và dân quyền), quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự
do mưu cầu hạnh phúc.
- Quyền dân tộc, bình đẳng, quyền sống, quyền được sung sướng, quyền tự do, độc lập. Mở rộng
quyền con người thành quyền dân tộc, đây là sáng tạo, là cống hiến của Hồ Chí Minh.
- Với những trích dẫn hai câu nổi tiếng trong bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, Hồ Chí Minh muốn
khẳng định chân lí lịch sử và niềm tự hào dân tộc, khẳng định tầm vóc thời đại của cuộc Cách mạng
tháng Tám.
- Khẳng định tinh thần đấu tranh anh dũng, gan góc và quyền được hưởng tự do, độc lập của dân tộc
Việt Nam.

2. Ý nghĩa: Vạch trần dã tâm của thực dân Pháp chà đạp lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái của Cách
mạng Pháp. Đề cao tư tưởng nhân đạo và tính pháp lí của văn kiện lịch sử, tranh thủ sự ủng hộ của
các nước phe đồng minh, của nhân dân thế giới.
III. Văn phong
- Đây là một văn bản chính luận thể hiện phong cách chính luận của Hồ Chí Minh. Đặc điểm
của văn chính luận là lập luận chặt chẽ, lý lẽ đanh thép và những bằng chứng không ai chối cãi được.
- Lý lẽ của bản Tuyên ngôn sắc bén, lí luận chặt chẽ, hùng hồn, có sức thuyết phục. Tác giả
xây dựng luận chứng phát triển lí lẽ trên cơ sở những lẽ phải, những tư tưởng về nhân quyền, dân
quyền, quyền tự quyết của dân tộc.
ĐỀ 3: Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố rằng:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do,
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Dựa vào những hiểu biết về tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập, anh (chị) hay phân tích đoạn
văn trên để làm sáng tỏ những tư tưởng lớn của người.
Gợi ý:
1. Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vĩ đại, đồng thời là một tác phẩm văn học bất hủ của
dân tộc ta. Nó kết tinh những quyền lợi cơ bản, những nguyện vọng tha thiết của dân tộc Việt Nam
và khí phách hào hùng của nhân dân ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức tuyên bố trước quốc dân, trước thế giới sự thành lập nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, khẳng định quyền độc lập, tự do và ý trí bảo vệ nền độc lập, tự do của
dân tộc Việt Nam. Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Người đã trịnh trọng tuyên bố "Nước Việt
Nam (...) giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
2. " Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc
lập". - Tuyên ngôn khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam trên cơ sở pháp lý và thực
tế.
Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng nên chúng có quyền trở lại
Đông Dương. Nhưng Đông Dương đã không còn là thuộc địa của Pháp. Bản tuyên ngôn đã nêu rõ:
"Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa
của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập

nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Sự thật là nhân dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp".
- Từ sự thật trên, Tuyên ngôn tiếp tục khẳng định về mặt pháp lí: "chúng tôi, Lâm thời Chính
phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân tộc Việt Nam, tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực
dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc
quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.
- Vậy là Việt Nam "Sự thật đã thành một nước tự do, độc lập".
3. Tuyên ngôn khẳng định quyết tâm của dân tộc Việt Nam bảo vệ độc lập, tự do bằng mọi giá, bằng
tất cả tinh thần và lực lược, tính mạng và của cải của toàn dân tộc Việt Nam.
4. Tư tưởng lớn nổi bật lên ở đây: Việt Nam có quyền hưởng độc lập, tự do và sự thật đã trở thành
một nước tự do, độc lập. Vì vậy cả dân tộc quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
2- Tuyên ngôn độc lập - sự tiếp tục truyền thống và sự phát triển ở thời hiện đại
Chỉ ra sự tiếp nối giữa thơ Thần, Bình Ngô Đại Cáo và Tuyên ngôn độc lập ?
Với đất nước ta, một quốc gia dân tộc có lịch sử 4000 năm nhưng gần hai ngàn năm phải chống
ngoại bang xâm lược, đô hộ, đồng hoá để bảo vệ độc lập dân tộc chủ quyền quốc gia, đây không phải
là lần Tuyên ngôn độc lập thứ nhất.
Hơn 1000 năm trước, khi quân xâm lược Tống (Trung Quốc) kéo sang giày xéo bờ cõi, dưới dạng
một bài thơ, vẫn quen gọi là thơ Thần, chúng ta đã tuyên bố "Sông núi nước Nam vua Nam ở ". Hơn
năm trăm năm trước, sau thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ nhà Minh, cùng
phong kiến Trung Quốc trong bài Cáo bình Ngô, chúng ta lại một lần nữa tuyên bố nền độc lập trong
không khí hào sảng: "Như nước Đại Việt ta ... hùng cứ một phương ".
Và bây giờ là Tuyên ngôn độc lập vẫn với một tinh thần như vậy. Độc lập, tự do cho dân tộc chủ
quyền quốc gia đã trở thành lẽ sống còn, trước hết và trên hết mọi lẽ truyền từ đời này sang đời khác
của dân tộc chúng ta.

- Tuy nhiên, nếu nhìn lại lịch sử so với thơ Thần và Bình Ngô Đại Cáo, ta thấy rất rõ điều này: Tuyên
ngôn độc lập là đỉnh mốc cao nhất đánh dấu bước phát triển lớn lao nhất của lịch sử phát triển quốc
gia dân tộc bởi mấy lẽ chính:
+ Thứ nhất: Tuyên ngôn độc lập không phải chỉ thuần tuý là tuyên ngôn về quyền độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia mà còn là một tuyên ngôn cách mạng, là lời tuyên bố xoá bỏ chế độ quân chủ
phong kiến mấy mươi thế kỷ lập nên chế độ dân chủ cộng hoà, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
thắng lợi, làm cuộc cách mạng, xã hội thành công; Từ đó khẳng định con đường đi mới của dân tộc.
Tuyên ngôn độc lập đã đồng thời tuyên bố hai sự nghiệp: bước kế tục truyền thống của cha ông;
bước đi vĩ đại của con cháu ở thời hiện đại. Mang cả hai nội dung, hoà âm của cả hai âm hưởng này
là điều mà các bản tuyên ngôn trước chưa kịp có được.
+ Thứ hai: Đây không còn là tuyên ngôn trong môi trường phương Đông, thực chất là "Môi trường
Trung Hoa" hạn hẹp ở thế tay đôi giữa ta với Trung Quốc như một thời đã qua. Tuyên ngôn độc lập
là sự hiện diện của dân tộc ta giữa thế giới rộng lớn, với những lời "tuyên bố trịnh trọng" trước toàn
thế giới. Dẫn Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ, Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách
mạng Pháp chính là biểu hiện của sự mở ra, hoà vào đời sống cộng đồng thế giới của dân tộc chúng
ta so với cái đời sống quẩn quanh trong các giáo lí, điển chương Nho giáo ngày hôm trước => Cho
nên, tầm thế giới tầm nhân loại của Tuyên ngôn độc lập cũng là điều mà các áng hùng văn xưa chưa
kịp có được. Vậy là chỉ mới đây, dân tộc còn nô lệ, đất nước còn chưa có tên riêng (nó mang tên xứ
An Nam thuộc Pháp), xã hội còn là xã hội phong kiến thuộc địa cũ kĩ, tù đọng. Hôm nay chúng ta đã
là nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đứng giữa nhân loại trên thế giới. Những nội dung, khí phách
như thế đã cất vang lên, vang động khắp hoàn cầu bằng Tuyên ngôn độc lập.
MO O N.VN

- Tuyên ngôn độc lập là kết quả của một quá trình vận động hoàn toàn mới của dân tộc. Từ Tuyên
ngôn độc lập, một âm hưởng mới, một kỷ nguyên mới của đất nước bắt đầu => Tạo nên vẻ đẹp của
bản hùng văn.
3- Tuyên ngôn độc lập toát lên vẻ đẹp của lập luận, diện mạo nội dung, tư tưởng chính trị,
pháp lí
- Tuyên ngôn độc lập là văn bản tuyên bố về quyền độc lập tự do thiêng liêng của dân tộc, về chủ
quyền quốc gia. Kết tinh trong nó quyền lợi và nguyện vọng tha thiết của dân tộc, đồng thời thể hiện

khí phách của dân tộc ấy được hun đúc trong cả một lịch sử hình thành, phát triển. Nó là những dự
kiến tương lai xán lạn khi một dân tộc, một nhân dân, đất nước đã làm chủ được vận mệnh của mình
và quyết tâm bảo vệ quyền lợi ấy trước bất cứ thế lực ngoại xâm đô hộ nào. Nội dung tư tưởng ấy đã
được thể hiện tài tình bằng những lý lẽ đanh thép, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng đầy sức thuyết phục .
Em có nhận xét gì về phần mở đầu?

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
- Mở đầu tuyên ngôn đưa ra một chân lý đã được ghi nhận qua thử thách của lịch sử tiến hoá
nhân loại .
a Phần một: Chân lý về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Từ
chân lý ấy dẫn tới một chân lý khác. Đó là chân lý về quyền của các dân tộc: ''Tất cả các dân tộc ...
tự do ''. Đã thừa nhận chân lý này ắt phải thừa nhận chân lý kia bởi chân lý sau là hệ quả tất yếu của
chân lý thứ nhất, và phủ nhận những gì vi phạm nó .
=> Như vậy bằng sự dẫn dắt, mở rộng tất yếu từ "quyền con người" đến "quyền dân tộc", TNĐL đã
xác lập được căn cứ vững chắc, đã nêu lên một lẽ phải ''không ai chối cãi được'' để khẳng định quyền
độc lập tự do của dân tộc ta. Nêu lên căn cứ để lên án mọi âm mưu, hành động xâm phạm đến chủ
quyền ấy .
- Về góc độ tư tưởng : Tư tưởng về ''Quyền của các dân tộc '' là một đóng góp lớn của TNĐL: ''cống
hiến nổi tiếng của cụ HCM vào kho tàng tinh hoa tư tưởng nhân loại. Bởi vì tư tưởng này là sự nâng
cao giá trị, tầm vóc nhân bản của tư tưởng, của nguyên tắc về quyền của con người ''(Giáo sư Singô
Sibita). Nghĩa là con người phải biết vươn tới quyền lợi của cộng đồng. Mặt khác, tư tưởng nguyên
tắc ''Quyền của các dân tộc '' còn là cơ sở để nhân loại thấy rằng giai cấp tư sản trong khi nêu cao
nhân quyền, dân quyền lại mở rộng quyền xâm phạm tàn bạo, bóc lột dã man các dân tộc khác. Đó là
vô nhân đạo và phi nghĩa.
- Cả hai mặt đạo lý và pháp lý đều hết sức sáng tỏ trong nguyên tắc về “quyền dân tộc '' mà tuyên
ngôn độc lập xây dựng làm căn cứ lập luận của mình .
- Trong bối cảnh lịch sử của nước ta, việc xác lập căn cứ lập luận này còn thể hiện một sự sắc sảo và

khôn khéo. Thời bấy giờ, những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa tư bản còn có ma lực thuyết phục,
quyến rũ lí trí, tình cảm của con người. Hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ đang ảnh
hưởng rộng rãi. Thế giới còn chưa biết nhiều đến Luận cương dân tộc của Lê Nin, tư tưởng nhân văn
của cách mạng XHCN tháng Mười vì những tư tưởng này bị bao bọc bởi lớp sương mù của tư tưởng
tư sản. Trích dẫn tư tưởng về quyền con người trong hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp lập tức tạo
được sự công nhận tối đa, sự thông suốt. Trong tranh luận, để bác bỏ luận điệu của một đối thủ nào
đó không gì thú vị và đích đáng hơn là dùng chính lí lẽ của đối thủ ấy. Dẫn các lẽ phải do chính họ
đã phải đổ máu xương, trí não mới có được cũng là cách lấy ''gậy ông đập lưng ông ''. Như để cho
thiên hạ thấy rằng: nếu chúng lăm le xâm lược nước ta là chúng đã phản bội truyền thống tổ tiên.
Điều mà những người có lương tâm, phẩm cách không bao giờ làm .
MO O N.VN

=> Chỉ bằng đoạn văn ngắn mở đầu, TNĐL đã đưa ra căn cứ, lí lẽ xác đáng cho lập luận. Quá trình
dẫn dắt tới căn cứ, lập luận này hết sức chính xác, chặt chẽ, thể hiện độ nhạy bén chính trị, sự sắc sảo
trí tuệ cao độ .
b. Phần hai
Tiếp theo, đối chiếu với nguyên lí rõ ràng trên, TNĐL đã đưa ra một thực tế: “ Thế mà hơn ... đồng
bào ta ''. Đưa như vậy là đưa dưới dạng một phản đề. Phản đề này cùng chính đề đã nêu có nghĩa là:
những lẽ phải không ai chối cãi được, những lẽ phải do chính nước Pháp và Mỹ đưa ra trong lịch sử
đấu tranh cho những tiến bộ của xã hội mình đã bị chà đạp, vi phạm trắng trợn. => Kết luận lên án,
phản đối sự vi phạm hành động chà đạp ấy tất yếu sẽ được dấy lên trong dư luận .
- Tuyên ngôn độc lập tạo ra mạch hệ thống xương cốt giữa chính đề, phản đề => thuyết phục về mặt
lý trí, là lí luận để chứng minh rằng quyền độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc ta là chân chính. Nó
là bức thành lí lẽ mà mọi luận điệu có dã tâm dù biện bác đến đâu cũng bị đánh đổ.
Quá trình diễn biến lịch sử được trình bày tập trung trong 5 năm từ mùa thu 1940 đến khi dân tộc ta
giành được độc lập bằng Cách mạng tháng Tám có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Cả một thực tế
lịch sử được trình bày từ hai góc độ:
Góc độ 1:

- hotline: 04.32.99.98.98



KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
+ Tổng hợp, tóm tắt tội ác của Pháp trong toàn bộ lịch sử đô hộ của chúng bằng những kết luận rút
ra từ thực trạng đô hộ ở hai mặt bao quát là chính trị và kinh tế .
Góc độ 2:
+

Phân tích sâu, cụ thể khoảng thời gian điển hình 5 năm .

=> Chính hai góc độ này đã giúp mọi người và thế giới nhận ra vấn đề của đất nước, dân tộc ta một
cách đúng đắn. Nó vạch rõ cả một lịch sử ''khai hoá, ''bảo hộ '' thực chất đã diễn ra như thế nào đối
với dân tộc ta. Nó vạch trần rằng thực dân Pháp không còn một chút quyền lợi, quyền lực nào đối với
Việt Nam vì nước ta không còn là thuộc địa Pháp nữa.
* HCM đã vạch trần luận điệu điêu trá của thực dân Pháp nhằm chuẩn bị chiếm lại Việt Nam.
+ Chúng kể công ''bảo hộ '' Việt Nam nhưng thực chất là chúng đã dâng Đông dương hai lần cho
Nhật .
+ Chúng kể công ''khai hoá'' Việt Nam nhưng thực chất là chúng bóc lột, áp bức đẩy dân tộc ta tới
nguy cơ diệt chủng trong nạn đói 1945 .
+ Chúng nhân danh Đồng minh trở lại Việt Nam >khủng bố Việt minh là lực lượng đứng trong phe Đồng minh đánh Nhật .
+ Chúng nêu lên những ràng buộc về mặt pháp lí của Việt Nam với Pháp bởi những hiệp ước này
khác thì bản tuyên ngôn khẳng định từ 1940, Việt Nam là thuộc địa của Nhật và Việt minh đã giành
lại chủ quyền cho dân tộc mình từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Như thế mọi ràng buộc có
tính pháp lí trên đã bị huỷ bỏ .
c Phần 3
Trên cơ sở pháp lí, đạo lí, thực tế này, TNĐL đã tuyên bố dõng dạc, hùng hồn, trịnh
trọng trước toàn thế giới xoá bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi của Pháp trên đất nước ta, thoát li hẳn quan
hệ với Pháp. Tuyên bố: ''Nước Việt Nam có quyền ... độc lập ''. Tất cả dẫn tới một chân lí ''Thế giới,
nhân loại đã công nhận quyền con người, đã công nhận quyền dân tộc bình đẳng, các nước Đồng

minh dù là tư bản đế quốc đã thông qua nguyên tắc này tại hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn mới
đây không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam ''. Mọi sự xâm phạm chủ quyền
ấy đều trái với nhân đạo và chính nghĩa là xâm phạm một dân tộc đã độc lập, là xâm lược một nhân
dân đất nước đứng trong hàng ngũ Đồng minh chống phát xít.
MO O N.VN

- TNĐL còn bộc lộ quyết tâm mạnh mẽ bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt
Nam. Thể hiện tinh thần và dũng khí dám hi sinh xả thân cho quyền lợi quốc gia, dân tộc ở thời điểm
lịch sử, ở kỷ nguyên mới đã bắt đầu mở ra => Nó thể hiện tư thế bản lĩnh của dân tộc. Đó là hai mặt
tạo thành chỉnh thể của TNĐL gồm lí lẽ (khẳng định chủ quyền quốc gia ) phủ định mọi mưu toan
hành động xâm phạm và mặt trữ tình (trong lập luận vững chắc). Những tuyên bố, những lí lẽ đều
chất chứa phong thái điềm tĩnh, mực thước và cao thượng hai mặt thống nhất ấy bao giờ cũng thống
nhất và phân định rõ ràng: Ta và chúng. Ta và nhân loại, thế giới => để vừa lập luận với ''mọi
người'', '' với công luận '' vừa khẳng định, thể hiện mình. Bởi thế TNĐL như có người đã nhận xét là
''một văn kiện chính trị pháp lí có giá trị thời đại và vượt ra khỏi Việt Nam, có giá trị thế giới, vượt
khỏi phạm vi thời gian, có giá trị lịch sử "(luật sư Ngô Bá Thành ).
4- TNĐL - vẻ đẹp của nghệ thuật văn chương chính luận
- Ngoài cái tài tình của lập luận, cái sắc sảo của trí tuệ, TNĐL còn có vẻ đẹp của tâm hồn; Tình cảm
tác giả hoà đồng trong từng nỗi đau hay khí phách hào hùng, đức hy sinh cao cả của dân tộc mà theo
đó ngôn từ tuôn chảy, tạo nên vẻ đẹp của nghệ thuật văn chương .
- Trong TNĐL có thể nhận ra hai cung bậc của giọng văn: Một cung bậc của giọng văn dứt khoát,
mạnh mẽ. Một cung bậc với một từ chuyển tiếp ''Thế mà ''đã trầm lắng hẳn xuống đưa người đọc trở
lại với hiện thực, dẫn người đọc đi vào cõi sâu xa của nỗi niềm. Sau khi đối chiếu chân lí đương
nhiên về quyền con người, quyền của các dân tộc nhìn lại thực trạng trải qua của dân tộc mình trong
- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
hơn 80 năm đô hộ, dường như người viết đã bị một xung động tình cảm lớn. Cảnh ngộ trầm luân của
dân tộc hiện ra trước mắt Bác. Bác viết tiếp phần này trong nỗi niềm xót xa thương cảm: ''Thế mà

hơn 80...''như một tiếng thở dài uất hận .
Kết cấu của ngôn từ cũng bộc lộ rõ cái tình của tác giả. Điểm lại lịch sử đất nước bị đô hộ như một
bản án đối với chế độ thực dân Pháp tóm tắt, các đoạn, câu được bố trí .
+ Đoạn về chính trị: là trật tự (dài - ngắn - dài)
+ Đoạn về kinh tế : là trật tự (ngắn - dài - ngắn )
=> Cả phần lên xuống phập phồng, thổn thức theo đau thương và căm giận .
+ Trong một câu cũng vậy, chúng đứng tách bạch và dứt khoát không kéo liền nhau vì yêu cầu rõ
ràng, nhấn mạnh từng ý từng điểm. Mỗi câu thường có hai vế. Vế một lên án đanh thép, vế hai nêu
hậu quả nỗi khổ nhục mà dân tộc ta phải gánh chịu giọng trầm lắng xót xa .
- Là luận văn chính trị nhưng lối diễn đạt của TNĐL rất giầu hình ảnh, góp phần tạo dựng hình hài
của những nội dung .
VD: Tội ác của thực dân Pháp: ''Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu ''. Miêu
tả kẻ thù, cái thảm hại của Pháp trước phát xít Nhật thì dùng những hình ảnh ''quì gối đầu hàng '',
"mở cửa nước ta rước Nhật”
- Ngôn từ chọn lọc, chính xác, phản ánh đúng nội dung ý nghĩa, bản chất sự việc, hiện tượng thể hiện
sâu sắc tư tưởng và tình cảm .
- Lời tuyên bố giản dị nhưng có sức thuyết phục cao. Trí tuệ sắc sảo nhưng đầy tâm huyết. Sức
thuyết phục cao xuất phát từ lý lẽ sự thật. Sức mạnh của chính nghĩa bao giờ cũng đồng thời là sức
mạnh của sự thật. Bởi vậy tác giả láy đi láy lại hai chữ ''sự thật'' ''sự thật là'' và cuối cùng thì: “Nước
Việt Nam...và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập ,,. Đấy là những điệp khúc nối tiếp nhau tăng
thêm âm hưởng hùng biện của bản Tuyên ngôn.
MO O N.VN

- TNĐL đã đáp ứng được tất cả yêu cầu mà lịch sử dân tộc và thời thế lúc bấy giờ đòi hỏi. Đáp ứng
bằng một nghệ thuật chính luận cao, với những lời lẽ dễ hiểu mộc mạc, lối diễn đạt bình dị, những lí
lẽ, lập luận vững chắc đanh thép .
+ Đáp ứng bằng những dẫn chứng tiêu biểu giầu tiếng nói tự thân .
+ Đáp ứng bằng phong cách ngôn ngữ kết hợp hài hoà giữa trữ tình và chính luận, châm biếm sắc
sảo giàu chất trí tuệ trên cái nền của một phong thái điềm tĩnh nhưng tha thiết mạnh mẽ, kiên quyết
nhưng khiêm nhường, đúng mực .

- TNĐL là bài thơ Thần, là Bình Ngô Đại Cáo của thời đại mới. Tuyên ngôn độc lập rửa cái nhục
ngàn năm, tiếp bước tiên tổ tiến vào tương lai .

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

TÂY TIẾN – QUANG DŨNG (tiết 1)

I/ Tìm hiểu chung
1/ Tác giả (1921- 1988)
- Sinh ra ở Hà Tây, sống chủ yếu và mất ở Hà Nội.
- Rất mực tài hoa: làm thơ vẽ tranh, viết văn, làm thơ, soạn nhạc… nhưng thành công nhất vẫn là thơ
ca.
- Tham gia kháng chiến, từng làm đại đội trưởng đoàn quân Tây Tiến .
- Tác phẩm tiêu biểu :
+ Truyện: “Mùa hoa gạo, rừng biển quê hương ”
+ Thơ: “Mây đầu ô …”, “Tuyển tập thơ văn Quang Dũng”.
Nhưng tên tuổi của Quang Dũng có lẽ đã gắn liền với bài thơ Tây Tiến. Bài thơ ra đời vào năm 1948
in trong tập “Mây đầu ô” là bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
2/ Hoàn cảnh sáng tác
- Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947, Quang Dũng làm đại đội trưởng .
Thành phần chủ yếu của đơn vị là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ
đội Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Cuối 1947, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang
Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác ở Phù Lưu Chanh, nhớ đơn vị cũ sáng tác bài thơ, ban đầu có
tên “Nhớ Tây Tiến”, sau đổi là “Tây Tiến”.
3/ Chủ đề :
Bài thơ thể hiện nỗi nhớ của tác giả về cuộc sống chiến đấu gian khổ hào hùng của nguời lính Tây
Tiến, qua đó ca ngợi phẩm chất anh hùng, tinh thần yêu nước, giàu lòng hi sinh của những người

chiến sĩ CM.
4/ Bố cục:
Đoạn 1: Bao trùm là nỗi nhớ Tây Tiến, hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội khác thường, và
hình tượng người lính với những chặng đường hành quân gian khổ sâu nặng nghĩa tình quân dân. Bút
pháp nghệ thuật lãng mạn với những nét vẽ chắc khỏe gân guốc dựng lên bức tranh thiên nhiên
hoành tráng. Sử dụng biện pháp đối lập tương phản.
Đoạn 2: Nỗi nhớ về những cảnh sinh hoạt của người lính với đêm liên hoan văn nghệ, vẻ đẹp của
sông nước Tây Bắc hiện thực mà huyền ảo. Tác giả sử dụng nghệ thuật hài hòa với những nét vẽ
mềm mại tinh tế, tạo nên bức tranh lụa mượt mà. Cảm xúc lãng mạn thể hiện qua việc hướng tới
những màu sắc có tính chất xứ lạ phương xa (man điệu, nhạc về Viên Chăn)...
Đoạn 3: Trực tiếp dựng tượng đài lãng mạn và bi tráng về hình tượng người lính (vẻ đẹp lãng mạn bi tráng thể hiện qua 4 nội dung). Bút pháp nghệ thuật lãng mạn: trên cơ sở hiện thực mà lãng mạn,
sử dụng nghệ thuật đối lập tương phản.
Đoạn cuối: Nhớ lời thề trước buổi lên đường thể hiện vẻ đẹp tư thế lên đường một đi không về dù ở
đâu tâm hồn cũng trở về với đoàn quân Tây Tiến.
II/ Đọc hiểu tác phẩm
1/ Hai dòng thơ đầu: nỗi nhớ Tây Tiến da diết trong tâm tưởng nhà thơ :
Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ mênh mang, da diết, hai câu thơ mang cảm xúc chủ đạo của toàn bài:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

-

Đối tượng của nỗi nhớ là con Sông Mã, con sông gắn liền với chặng đường hành quân của người
lính. Đối tượng nhớ thứ hai là nhớ Tây Tiến, nhớ đồng đội, nhớ bao gương mặt một thời chinh chiến.

Nỗi nhớ ấy được bật lên thành tiếng gọi tha thiết “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” gợi lên bao nỗi niềm
lâng lâng khó tả. Đối tượng thứ ba của nỗi nhớ đó là “nhớ về rừng núi” . Rừng núi là địa bàn hoạt
động của Tây Tiến với bao gian nguy, vất vả nhưng cũng thật trữ tình, lãng mạn. Nhưng nay, tất cả
đã “xa rồi”. “Xa rồi” nên mới nhớ da diết như thế. Điệp từ nhớ được nhắc lại hai lần như khắc sâu
thêm nỗi lòng của nhà thơ. Đặc biệt tình cảm ấy được Quang Dũng thể hiện bằng ba từ “Nhớ chơi
vơi”, cùng với cách hiệp vần “ơi” ở câu thơ trên làm nổi bật một nét nghĩa mới: “Chơi vơi” là trạng
thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là
một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời
gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi, bâng khuâng, sâu lắng làm cho con người
có cảm giác đứng ngồi không yên.
Câu cảm thán , cách gọi thân thương “ Tây Tiến ơi ”; điệp từ “ nhớ ”: nhấn mạnh nỗi nhớ
Cụm từ “ nhớ chơi vơi” : nỗi nhớ cồn cào, ám ảnh khôn nguôi…
2/ Sáu dòng thơ tiếp theo là nỗi nhớ về rừng núi Tây Bắc hiểm trở, hoang sơ, hùng vĩ, con
đường hành quân giữa núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ, hiểm trở lại vừa thơ mộng trữ tình được
cảm nhận bằng cảm hứng lãng mạn và tâm hồn lãng mạn hào hoa:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
a. Thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội, hiểm nguy nhưng không ngăn nổi bước chân người lính:
- Thiên nhiên khắc nghiệt: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến
độ “lấp” cả đoàn quân. Đoàn binh hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp. Chữ “mỏi”
làm hiện lên trước mắt ta hình ảnh của một đoàn quân rã rời.
- Dưới ngòi bút của Quang Dũng, con đường hành quân mở ra với biết bao nhiêu khó khăn gian khổ.
Đường đi toàn dốc cao, vực thẳm được diễn tả với nhiều từ láy tạo hình: “khúc khuỷu” (quanh co
khó đi), “thăm thẳm” (diễn tả độ cao, độ sâu), “heo hút” (xa cách cuộc sống con người). Câu thơ sử
dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” (bảy chữ mà đã có tới năm
chữ là thanh trắc) khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang cùng hành quân với

đoàn binh vậy. Có thể hình dung người lính Tây Tiến vừa leo lên được đỉnh dốc đã mệt mỏi lắm rồi
lại phải đổ xuống một con dốc khác và cứ thế cuộc hành quân kéo dài với dốc cao vực thẳm.
- Câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” sử dụng phép nhân hóa “súng ngửi trời” làm hiện lên
hình ảnh: núi cao heo hút, mây nổi thành cồn trên đỉnh núi, người lính đi trên đỉnh núi mà như đi trên
mây. Mũi súng đeo sau vai như chạm đến trời xanh “ngửi trời”. Thật là một hình ảnh ngạo nghễ có
chút gì rất hóm hỉnh đùa vui kiểu lính. Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước thiên nhiên dữ dội
người lính Tây Tiến không bị mờ đi mà nổi lên đầy thách thức.
- Thiên nhiên không còn là đối tượng để thưởng thức ngắm nhìn nữa mà là đối thủ: “Ngàn thước lên
cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không
dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống” như bị bẻ đôi,
diễn tả con dốc với chiều cao, sâu rợn ngợp: nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Cuộc
sống hành quân vất vả , hi sinh nhưng họ không hề nản chí.
+ Hàng loạt địa danh được dùng theo lối liệt kê: Sài Khao , Mường Lát , Pha Luông → gợi sự xa
xôi, hẻo lánh, hoang dã.
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
+ Âm ơi cùng thanh bằng cuối câu: gợi không khí mông lung như lạc vào chốn phiêu lưu mạo
hiểm.
+ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm: phác họa cảnh núi rừng hiểm trở, gập ghềnh .
Điệp từ “dốc” + thanh trắc + từ láy → diễn tả cuộc chuyển quân đầy nguy hiểm, vất vả, núi rừng
Tây Bắc hiểm trở, hoang vu…
→ Bút pháp tả thực, đầy chất thơ, giàu chất gợi hình, gợi chiều cao, chiều rộng, tô đậm sự gian khổ.
+ Vận dụng thủ pháp đối lập (núi cao, dốc thẳm, ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống …)
→ Tạo cảm giác rợn người .
+ Thanh điệu biến hóa linh hoạt + thanh trắc
→ Miêu tả cảnh hùng vĩ, nên thơ của Tây Bắc, tạo vẻ độc đáo riêng .

+ Từ ngữ rất Quang Dũng, rất lính “súng ngửi trời”
+ Dựng khung cảnh ma thiêng, nước độc: oai linh thác gầm thét, cọp trêu nguời…
+ Nhớ sự hi sinh của người lính Tây Tiến với cảm hứng bi tráng “bỏ quên đời”: xem cái chết nhẹ tựa
lông hồng.
 Bút pháp tả thực và lãng mạn đan xen mô tả sự khốc liệt, dữ dội nhưng rất đỗi thơ mộng, trữ tình .
b. Thiên nhiên Tây Bắc với những nét vẽ mơ mộng trữ tình
- Có cảnh đoàn quân đi qua bản Mường Lát vào ban đêm và phát hiện ra vẻ đẹp trữ tình “hoa về
trong đêm hơi”. “Hoa về” nghĩa là hoa nở. “Đêm hơi” là đêm sương. Hai hình ảnh ấy đặt cạnh nhau
tạo nên một không gian thơ mộng. Có thể hiểu người lính hành quân trong gian khổ nhưng tâm hồn
lúc nào cũng luôn lạc quan, yêu đời làm bạn với hoa rừng, sương núi.
- Có cảnh đoàn quân đi trong mưa vừa hùng vĩ lại rất nên thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu
thơ được dệt bởi những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người
lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Nhịp thơ cũng chậm lại, âm điệu nhẹ nhàng như phút
nghỉ chân hiếm hoi của người lính. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến
vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương. Tất cả nhạt nhòa
trong màn mưa rừng dày đặc. Bức tranh mang cái lãng mạn của núi rừng miền Tây, vừa có cái dữ dội
hiểm nguy nhưng lại có cái trữ tình đáng nhớ.
3. Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ miêu tả sự hi sinh gian khổ của người lính đồng thời tô đậm
thêm sự dữ dội của chốn đại ngàn:
- Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người, Quang Dũng không hề né tránh hiện thực: “Anh
bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Người lính Tây Tiến trong cuộc hành
quân gian khổ ấy đã có người ngã xuống vì kiệt sức. “Dãi dầu” là dầm mưa dãi nắng, vất vả khó
nhọc. “Không bước nữa” là kiệt sức. “Gục lên súng mũ” là ngã xuống. “Bỏ quên đời” là hi sinh, mất
mát. Nghệ thuật nói giảm nói tránh đã làm cho câu thơ giảm đi đau thương mà thay vào đó là sự bi
tráng, hào hùng. Người lính ra đi mà như đi vào giấc ngủ bởi họ đã khoác lên mình đôi cánh của lý
tưởng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
- Gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của
cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

“Chiều chiều” rồi “đêm đêm” (thời gian gợi sự hiểm nguy rình rập). Những âm thanh ấy, “thác gầm
thét”, “cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng
thiêng nước độc.
4. Hai dòng thơ cuối: Sau chặng đường dài hành quân mỏi mệt, các chiến sĩ có dịp dừng chân lại ở
một bản làng có tên gọi rất đỗi yêu thương – Mai Châu. Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha
thiết: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
- “Nhớ ôi!” từ cảm thán mang tình cảm dạt dào. Khung cảnh đậm đà tình quân dân. Sau một thời
gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh được đồng bào tiếp
đón bằng “cơm lên khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm lòng. Chính nơi đây, mọi khó
khăn gian khổ như bị đẩy lùi mà thay vào đó là niềm lạc quan và tình thơ đong đầy.
5. Nghệ thuật: Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp
hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật:
Sử dụng nhiều từ láy tạo hình, cách sử dụng thanh trắc, điệp từ, nhân hóa, đối lập…tất cả đã tạo nên
một đoạn thơ hay và giàu giá trị.

MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI

TÂY TIẾN – QUANG DŨNG (tiết 2)


2. Phân tích đoạn 2
(8 câu thơ tiếp: "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa... Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"):
Cảnh đêm liên hoan văn nghệ và cảnh sông nước miền Tây.
2.1. Bốn dòng thơ đầu: Cảnh đêm liên hoan văn nghệ
Nếu ở đoạn 1 là cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội khác thường thì đến đoạn 2 là một
bức tranh thiên nhiên Tây Bắc với vẻ đẹp mĩ lệ và thơ mộng. Những nét vẽ bạo khoẻ gân guốc để
vẽ nên một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hiện thực vừa huyền ảo, thực mà vẫn đậm chất lãng mạn:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa...
...Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ "
Khi đêm liên hoan văn nghệ bắt đầu thì tất cả bừng lên trong ánh sáng của lửa đuốc liên hoan.
Con người và cảnh vật như ngất ngây trong những điệu múa điệu xoè, trong âm thanh rạo rực của
tiếng khèn. Đêm liên hoan văn nghệ đẹp như hội hoa đăng.
- Bốn câu thơ viết về cảnh đêm liên hoan văn nghệ có hai cách hiểu: Có người cho rằng đây là
đêm liên hoan văn nghệ của bộ đội có đồng bào địa phương đến góp vui. Nhưng lại có người cho
rằng đây là những người lính Tây Tiến đóng giả hoá trang thành những cô gái để cùng múa vui trong
đêm liên hoan văn nghệ nhằm vợi bớt đi những gian khổ hi sinh của cuộc đời người lính. Dù hiểu
theo cách nào thì câu thơ vẫn ngời lên vẻ đẹp tâm hồn lạc quan cách mạng của người lính Tây Tiến.
Hai chữ "Kìa em" thể hiện tâm trạng ngạc nhiên, sung sướng vừa như ngắm nhìn vừa như thốt
lên lời trầm trồ sung sướng khi chợt nhận ra vẻ đẹp của những dáng hồng sơn cước, vẻ đẹp của
những thiếu nữ Tây Bắc vừa lộng lẫy, rực rỡ với xiêm áo, những màu sắc vừa dịu dàng kín đáo với
dáng điệu nàng e ấp. Đằng sau hai chữ "kìa em" ta như thấy cả những nụ cười, những ánh nhìn tinh
nghịch của những chàng lính trẻ hồn nhiên, yêu đời.
Tâm hồn lãng mạn của những chiến binh Tây Tiến thể hiện qua cảm hứng lãng mạn hướng về
những màu sắc có tính chất xứ lạ phương xa và những nhu cầu văn hoá tinh thần. Họ thật sự ngạc
nhiên, ngưỡng mộ trước những điệu múa của người dân tộc (man điệu). Họ thực sự thích thú trước
âm thanh tiếng khèn gửi về những miền đất xa xôi (nhạc về Viêng Chăn). Những người lính vốn
xuất thân từ học sinh, sinh viên đâu chỉ mang theo cuộc đời người lính những vũ khí, những súng
ống, gươm đao... mà còn mang cả những nhu cầu văn hoá tinh thần. Họ tổ chức những đêm liên hoan
văn nghệ. Họ ngất ngây trong âm thanh của tiếng khèn, họ biết thưởng thức những vũ điệu của người
dân tộc. Hình ảnh những cô gái Tây Bắc, nghệ thuật múa, nghệ thuật âm nhạc đã xây nên bao hồn

thơ ở những người lính Tây Tiến.
2.2. Bốn dòng thơ sau: Cảnh sông nước Tây Bắc mênh mang thơ mộng, huyền ảo
- Nếu cảnh đêm liên hoan văn nghệ đem đến cho người đọc cảm giác mê say, ngất ngây thì
cảnh sông nước Tây Bắc lại gợi lên vẻ đẹp mênh mang thơ mộng, huyền ảo:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
Thiên nhiên mang vẻ đẹp huyền ảo với không gian và thời gian. Thời gian là buổi chiều tĩnh
lặng đã lùi dần và khuất hẳn, cảnh Tây Bắc hoang sơ và huyền bí với
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
giờ chỉ còn lại một Tây Bắc với vẻ đẹp thơ mộng, không gian là cảnh sông nước với đôi bờ
sương giăng, đôi bờ phơ phất ngàn lau. Dòng sông như chảy từ thời tiền sử, như mang nỗi niềm cổ
tích của ngàn xưa.
Tác giả không miêu tả cụ thể, tỉ mỉ mà chỉ loáng thoáng vài nét gợi nhưng đã vẽ nên một bức
tranh lụa mượt mà. Tất cả đều thoáng nhẹ chiều sương, ngàn lau phơ phất mang cái hồn của cảnh
vật. Con thuyền độc mộc và con người cũng một dáng vẻ thanh thoát. Nét bút thoáng nhẹ này rất phù
hợp với cảnh thiên nhiên hư ảo, phù hợp với nỗi nhớ trong hoài niệm.
Nổi bật bên trên dòng sông như nỗi niềm cổ tích là hình ảnh những thiếu nữ Tây Bắc với vẻ
đẹp duyên dáng trên những con thuyền độc mộc. Họ đẹp như những bông hoa rừng trong chiều
sương. Hai chữ "đong đưa" chứ không phải đung đưa đã biến những bông hoa thành những sinh thể
có hồn.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa...

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Hoa cũng như người dường như đang làm duyên, soi mình trên sông nước chòng chành.
Những thiếu nữ Tây Bắc đẹp như những bông hoa rừng, cũng đã hoá tâm hồn với những người
lính trẻ giờ đã trở thành kỉ niệm, là hành trang tinh thần không thể thiếu để họ mang theo suốt cuộc
đời người lính. Đoạn thơ giầu chất nhạc, chất hoạ. Nhạc điệu cất lên từ âm thanh của tiếng khèn, từ
tâm trạng rạo rực của người lính. Hình ảnh được tạo dựng bởi những nét vẽ tài hoa có màu sắc của
xiêm áo có đường nét của những điệu múa điệu xoè, có hình ảnh, dáng người trên con thuyền độc
mộc. Tâm hồn lãng mạn của người lính Tây Tiến đã được xây dựng bằng chất nhạc chất hoạ và chất
thơ.
3. Phân tích đoạn 3: Hình tượng người lính
. Hình tượng người lính là hình tượng nổi bật của thơ ca, văn học hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và Mỹ. Viết về anh bộ đội cụ Hồ, các tác giả đều có chung một cảm xúc yêu mến tự hào. Tuy nhiên,
bên cạnh những vẻ đẹp chung, hình tượng người lính trong thơ ca còn có vẻ đẹp riêng. Nhớ về giai
đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, có hai kiểu hình tượng người lính được phản ánh trong
thơ ca. Có hình tượng người lính mang vẻ đẹp chân thực mộc mạc qua cảm hứng và bút pháp hiện
thực như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên, lại có hình tượng người lính mang vẻ
đẹp lãng mạn như hình tượng người lính trong TâyTiến của Quang Dũng.
- Khi dựng lên tượng đài người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã sử dụng bút pháp nghệ thuật lãng
mạn đem đến cho vẻ đẹp này một vẻ đẹp bi tráng.
Vẻ đẹp lãng mạn bi tráng của người lính được thể hiện qua dáng vẻ và tinh thần.
3.1. Những chiến sĩ Tây Tiến mang dáng vẻ oai phong lẫm liệt:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Viết về người lính Quang Dũng không né tránh những gian khổ hy sinh chỉ có điều hiện thực
không được miêu tả một cách trần trụi mà được nhìn qua cảm hứng lãng mạn. Cũng như nhiều tác
giả khác Quang Dũng cũng nói tới bệnh sốt rét hiểm nghèo từng hành hạ người lính từng gây nên tử
vong. Tuy nhiên các tác giả khác thường sử dụng bút pháp hiện thực còn Quang Dũng thì sử dụng
bút pháp lãng mạn. Bệnh sốt rét hiểm nghèo được gọi đúng tên của nó trong bài thơ Đồng chí của
Chính Hữu :
Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh.
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
Bài thơ của Tố Hữu thì trên gương mặt của anh vệ quốc quân vẫn còn lưu lại dấu vết của bệnh
sốt rét hiểm nghèo, chứng tích của căn bệnh quái ác vẫn còn in hằn trên má anh vệ quốc.
Giọt giọt mồ hôi rơi / Trên má anh vàng nghệ
Quang Dũng cũng nói về bệnh sốt rét, về gian khổ hy sinh của những chiến binh Tây Tiến nhưng
trên cơ sở lãng mạn hoá hiện thực. Sự thực là do bệnh sốt rét nên người lính không mọc tóc trở lại,
có cách hiểu khác không mọc tóc là không cho mọc tóc để thuận tiện trong đánh giáp lá cà, nhưng
qua cái nhìn lãng mạn thì mái đầu không tóc của anh “vệ trọc” đã gợi lên vẻ đẹp oai phong lạ
thường. Sự thực là do bệnh sốt rét lại thiếu ăn mất ngủ nên da dẻ người lính xanh xao nhưng qua cảm
hứng lãng mạn thì màu xanh ấy lại hoà lẫn với lá nguỵ trang với rừng đại ngàn. Qua cái nhìn lãng
mạn người lính hiện lên như mãnh hổ ngự trị giữa chốn rừng thiêng đúng là người lính ốm mà không
yếu, sức mạnh tinh thần của họ vẫn làm cho kẻ thù phải khiếp sợ.
3.2. Tâm hồn người lính cũng mang một vẻ đẹp lãng mạn
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Lính Tây Tiến phần đông xuất thân từ học sinh, sinh viên, có người lại ra đi từ Hà Nội - “Người
Tràng an” là người Thủ đô thanh lịch. Chính vì vậy mà trong cuộc sống kháng chiến gian khổ những
con người ra đi từ trường xưa phố cũ trong tâm hồn vẫn mang nhiều mộng và mơ. Họ mộng chiến
công truy kích giặc qua biên giới Việt - Lào “Mắt trừng” là để hướng về phía kẻ thù mài sắc tinh
thần cảnh giác, quyết tâm chiến đấu. Tâm hồn người lính không chỉ mang nhiều mộng mà còn nhiều
mơ. Họ mơ về một đôi mắt huyền, một mái tóc thề, một tà áo trắng, một dáng kiều thơm. Họ mơ về
Hà Nội “Dáng kiều thơm” là để tâm hồn về với người thương nơi Hà Thành hào hoa thanh lịch, chữ
“ thơm” trong câu thơ là đồng nghĩa với sắc nước hương trời.
Những người nông dân mặc áo lính trong bài thơ Đồng chí - của Chính Hữu, Nhớ - của Hồng
Nguyên, tâm hồn chân thành mộc mạc như ca dao tục ngữ họ có nhớ về kỷ niệm là nhớ về Giếng

nước gốc đa, gian nhà tranh gió lung lay, Nhớ về bạn thân cày Nhớ - Hồng Nguyên, còn lính Tây
Tiến của Quang Dũng lại thắp sáng tâm hồn mình bằng mộng và mơ.
Cách diễn đạt của tác giả có phần sách vở khi dùng hình ảnh dáng kiều thơm để nói về người
phụ nữ đẹp dễ thương, điều này lại có tác dụng phản ánh những người lính vốn xuất thân từ học
sinh, sinh viên, cách nói “Dáng kiều thơm" chứng tỏ tâm hồn họ thấm nhuần vẻ đẹp của những áng
Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Hoa Tiên mà đã một thời họ được học khi ngồi trên ghế nhà trường.
3.3. Vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng của người lính Tây Tiến còn được thể hiện qua tư thế lên
đường vì lý tưởng và sự hy sinh cao đẹp.
- Tư thế lên đường: Người lính lên đường chiến đấu hy sinh vì lý tưởng trong Tây Tiến với tư thế
chiến đấu coi cái chết nhẹ tựa lông hồng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Lại một lần nữa khi viết về người lính, về chiến tranh, Quang Dũng không né tránh những hy
sinh mất mát, cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ hoang nơi rừng sâu biên giới.
Những nấm mồ nơi rừng sâu không người hương khói, ít người qua lại gợi lên sự bùi ngùi thương
cảm xót xa. Tuy nhiên cứ mỗi khi chìm vào trong đau thương thì cảm xúc thơ của Quang Dũng được
nâng lên đôi cánh lý tưởng của cảm hứng lãng mạn.
Cái bi thương dường như được vợi đi bởi câu thơ xuất hiện nhiều từ Hán Việt mang sắc thái
trang trọng cổ kính “Biên cương mồ viễn xứ” đã biến những nấm mồ hoang nơi rừng sâu biên giới
thành những mồ chí tôn nghiêm vĩnh hằng.
Cái bi thương bị át đi bởi vẻ đẹp lý tưởng: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Hai chữ “chẳng tiếc” đặt giữa câu thơ nói lên thái độ thanh thản dứt khoát, hoàn toàn tự nguyện
của những con người quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Đời xanh gợi tuổi trẻ với bao hoa mộng, hy
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
vọng nhiều là thế đẹp là thế đáng yêu là thế mà sẵn sàng hiến dâng cho Tổ quốc, hỏi có sự hy sinh
nào cao đẹp hơn thế?

- Cái chết của người lính được bao phủ bởi hào quang của cảm hứng lãng mạn và bi tráng:
áo bào thay chiếu ... khúc độc hành
Nếu bằng cái nhìn hiện thực trần trụi đơn thuần thì cái chết của người lính gợi lên bao niềm
thương cảm xót xa khi các anh về nơi an nghỉ cuối cùng một manh chiếu che thi thể cũng không có,
vẫn có một cách hiểu khác về câu thơ áo bào thay chiếu (là có chiếu mà không có áo bào) nhưng qua
cái nhìn lãng mạn thì chiếc áo người lính bạc vì mưa nắng, rách vì bom đạn đã trở thành chiếc áo bào
sang trọng.
Người lính ra đi dẫu không có tiếng kèn đưa tiễn của đám quân nhạc thì đã có khúc độc hành của
dòng sông Mã, với chữ “gầm”, sông Mã đã gầm lên, tác giả đã trao cho con sông khúc nhạc hồn tử sĩ
vừa đau thương vừa uất hận. Dường như cả đất trời, cả quê hương đang nghiêng mình tiễn đưa người
lính về nơi an nghỉ cuối cùng.
Nghệ thuật nói giảm “Anh về đất" vừa làm vơi đi nỗi đau thương vừa vĩnh viễn hoá sự hy sinh
cao đẹp. Đối với người lính Tây Tiến chết chưa phải là hết, các anh về đất là về với Đất Mẹ hiền Tổ
quốc đang giơ tay âu yếm đón người con thân yêu trở về sau khi hoàn thành nghiã vụ lớn lao, “Các
anh về đất” là để hoá thân vào sông núi, để vĩnh viễn với núi sông này để:
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Cái chết của người lính có gợi lên sự bi thương nhưng không bi luỵ trái lại vẫn mang vẻ đẹp hào
hùng tráng lệ.
III/ Kết luận;
Thơ ca kháng chiến chống Pháp có nhiều bài hay viết về người lính, đó là các bài Đồng chí của
Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên, Viếng bạn của Hoàng Lộc, Lên Tây Bắc, Hoan hô chiến sĩ
Điện biên của Tố Hữu ...Với bài thơ Tây Tiến Quang Dũng đã góp vào viện bảo tàng bức tượng đài
người chiến sĩ với vẻ đẹp độc đáo - vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng.
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI


TÂY TIẾN – QUANG DŨNG (tiết 3)

IV. LUYỆN TẬP
ĐỀ 1.
Phân tích vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng qua hình tượng thiên nhiên và hình tượng người lính.
* Mở bài: Tây Tiến là bài thơ hay nổi tiếng của Quang Dũng, đồng thời là thành tựu nghệ
thuật xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Tác giả sáng tác bài thơ này sau khi đã xa đơn vị
Tây Tiến một thời gian nhưng những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến vẫn sống trong tâm khảm nhà
thơ. Vốn là người lính của binh đoàn Tây Tiến, sau đó chuyển công tác, một lần ngồi ở Phù Lưu
Chanh - một địa danh của Hà Đông cũ, nhớ lại kỉ niệm Tây Tiến, Quang Dũng xúc động viết bài thơ
này. Bài thơ có hai nét đặc sắc nổi bật là thể hiện qua hình tượng thiên nhiên Tây Bắc và hiện hình
tượng người lính Tây Tiến.
* Thân bài:
- Nhắc lại hoàn cảnh ra đời (Phần dưới) và kết cấu bài thơ:
- Trước hết, cần hiểu cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng là gỡ?
1. Lãng mạn Nói đến cảm hứng lãng mạn là nói đến một thế giới giàu cảm xúc, giàu trí tưởng
tượng trên cơ sở hiện thực mà lãng mạn hóa hiện thực. Ở đó, người ta hay hướng tới cái cao cả, phi
thường cái lí tưởng hơn là cái bình thường, bình dị đời thường. Để làm rõ cảm hứng lãng mạn, các
nhà thơ sử dụng rộng rãi thủ pháp nghệ thuật đối lập tương phản.
2. Bi tráng : tinh thần bi tráng là không né tránh cái đau thương dám nhìn thẳng vào hi sinh
mất mát. Bi thương nhưng không bi lụy, trái lại đem đến cho cái bi vẻ đẹp hào hùng tráng lệ . Với
Tây Tiến, cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng là nột đặc sắc chính làm nên vẻ đẹp và giá trị
của bài thơ. Điều đó thể hiện chủ yếu qua hình tượng thiên nhiên miền Tây và hiện hình tượng người
lính Tây Tiến.
3. Hình tượng thiên nhiên:
- Hùng vĩ dữ dội khác thường (phần phân tích đoạn đầu )
- Vẻ đẹp mĩ lệ thơ mộng (phần phân tích chủ yếu ở đoạn 2)
4. Hình tượng người lính : vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng .
- Dáng vẻ oai phong lẫm liệt khác thường: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc .

- Tâm hồn lãng mạn.
+ Những nhu cầu văn hóa tinh thần (đoạn nói về đêm liên hoan văn nghệ).
+ Tâm hồn nhiều mộng và mơ ( Mắt trừng gửi mộng qua biên giới ...)
- Tư thế lên đường vì lí tưởng :
+ Vẻ đẹp thanh thản trước những khó khăn gian khổ, sự hi sinh ( Anh bạn dãi dầu không bước
nữa ...
+ Vẻ đẹp lí tưởng cao đẹp coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.( Rải rác biên cương mồ viễn xứ...)
- Sự hi sinh cao đẹp: áo bào thay chiếu anh về đất...
5. Lý giải vì sao bài thơ có vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng
- Hoàn cảnh sáng tác gợi lên cảm hứng lãng mạn. Bài thơ được viết sau khi tác giả đã rời xa
đơn vị Tây Tiến một thời gian nhưng những kỉ niệm về đoàn quân Tây Tiến vẫn sống trong tâm
khảm của nhà thơ. Trước đây Quang Dũng đã từng làm đại đội trưởng đoàn quân Tây Tiến nhưng
sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một lần tại đại hội chiến sĩ thi đua toàn quân ở Phù Lưu chanh (một
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
địa danh cũ của tỉnh Hà Đông ) tác giả nhớ lại đơn vị Tây Tiến và cảm xúc viết bài thơ này. Bài thơ
ban đầu có tên: Nhớ Tây Tiến, sau đó tác giả bỏ đi từ Nhớ còn lại hai chữ Tây Tiến.
- Đối tượng cảm xúc thẩm mĩ gợi lên cảm hứng lãng mạn: Đối tượng cảm xúc thẩm mĩ là
những người lính Tây Tiến, có đặc điểm: Phần lớn xuất thân từ học sinh, sinh viên, những người ra
đi từ thành đo Hà Nội, cho nên mang vẻ đẹp hào hoa lãng mạn.
- Địa bàn chiến đấu của người lính Tây Tiến là núi rừng Tây Bắc cũng gợi lên cảm hứng lãng
mạn:. Thiên Tây Bắc vừa hùng vĩ dữ dội vừa mĩ lệ thơ mộng. Cuộc sống của những chiến binh Tây
Tiến đầy gian khổ, hi sinh, bệnh tật nhất là bệnh sốt rét rừng hiểm nghèo gây nhiều tử vong. Nhưng
những người lính Tây Tiến mang trong mình lí tưởng cao đẹp cho nên tư thế vẫn hiên ngang coi cái
chết nhẹ tựa lông hồng. Chính đối tượng là những người lính ấy đã gợi lên cảm hứng lãng mạn rất
phù hợp với hồn thơ lãng mạn và bút pháp lãng mạn của Quang Dũng.

- Hoàn cảnh lịch sử thời kỡ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp rực lửa anh hùng làm nền cho
cảm xúc lóng mạn và tinh thần bi tráng.
Đề 2: Bình giảng khổ thơ đầu trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng: "Sông Mã …nếp xôi".
Sự hùng vĩ dữ dội huyền bí của thiên nhiên Tây Bắc không chỉ được mở ra trong chiều không
gian mà còn được gợi lên theo chiều thời gian:
" Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Thời gian ở những thời điểm "chiều chiều, đêm đêm" vùng rừng núi đây là thời điểm chứa đầy
sự huyền bí, sự khủng khiếp đối với đời sống con người. Hai chữ Mường Hịch với dấu nặng đọc lên
nghe nặng trịch vừa gợi lên một địa danh xa xôi vừa như thấy có cả tiếng chân cọp đi trong đêm
khuya. Tuy nhiên động từ trêu lại đem đến sự cảm nhận huyền bí chỉ là thử thách đối với con người.
Tiếng thác gầm thét, tiếng cọp trêu người giữa đêm khuya cũng không hù doạ được người chiến sĩ
Tây Tiến. Những người chiến sĩ Tây Tiến dũng cảm yêu đời này với khí phách hiên ngang đã vượt
lên trên hoàn cảnh, chiến thắng hoàn cảnh.
Đoạn thơ khép lại cũng với nỗi nhớ Tây Tiến nhưng không phải là cảnh núi rừng hoang vu mà
cảnh sống sinh hoạt của con người:
" Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Câu thơ ghi lại một sự thực trên đường hành quân nhưng vẫn tràn đầy cảm hứng lãng mạn. Sau
những chặng đường hành quân vất vả người lính Tây Tiến dừng chân bên bản làng có vườn tược có
tình người, họ được sống trong tình thương yêu đùm bọc của nhân dân. Cơm nếp thơm mà cũng là sự
thơm thảo của tình người. Nhớ ôi không phải là sự lạ hoá về ngôn từ mà là sự tăng cường cho nỗi
nhớ. Câu thơ "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói" giàu tính tạo hình. Nó gợi hình ảnh những làn khói
đang bốc lên quanh những mái đầu dầu dãi như nghe thấy cả tiếng xuýt xoa cảm động của những
người lính.
*. Kết luận:
Đoạn thơ mở đầu là một trong những đoạn thơ hay đặc sắc của bài thơ Tây Tiến, phản ánh
được vẻ đẹp lãng mạn của hồn thơ Quang Dũng. Những câu thơ giàu chất hoạ và chất nhạc. Chất hoạ
gợi lên từ những đường nét hình ảnh, chất nhạc lại đằm thắm trong tâm hồn những người lính trẻ
phơi phới niềm yêu đời. Người xưa khi nói về nhưng câu thơ hay, đoạn thơ hay thường nói " Thi

trung hữu hoạ , "Thi duyên tình"( Trong thơ có duyên với tình cảm, thơ bộc lộ tình cảm), có thể dùng
những lời khen ấy để nói về đoạn thơ bình giảng nói riêng và bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng nói
chung.
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


KHÓA CHUYÊN ĐỀ LTĐH – Cô NGUYỄN THANH MAI
* Bài thơ Tây Tiến có phảng phất những nét buồn những nét đau thương nhưng đó là cái buồn
bi tráng chứ không bi luỵ. Vả lại tả cái bi để làm nổi cái tráng cũng là một cách vẽ mây để nảy ra
trăng trong hoạ trong thơ trong nghệ thuật nói chung.
Đề 3: * Phân tích vẻ đẹp của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến
1- để khắc hoạ hình tượng người lính tác giả đã gợi lên bối cảnh mang vẻ đẹp lãng mạn - Bối cảnh tự
nhiên: Hùng vĩ dữ dội (Bốn câu thơ như một bức tranh hoành tráng về Tây Tiến - Tây Bắc). Mỹ lệ
thơ mộng (ngắn gọn những câu thơ về cảnh sông nước).
2- Trên bối cảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp lãng mạn người lính xứng đáng với tầm vóc của họ,
mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng .
a- Dáng vẻ oai phong lẫm liệt khác thường.
b- Tâm hồn mang vẻ đẹp lãng mạn.
c- Tư thế lên đường vì lý tưởng coi cái chết nhẹ tựa lông hồng :
d- Cái chết mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng
 Kiến thức chung về nội dung yêu nước trong một tác phẩm văn học
Lòng yêu nước phản ánh trong văn học rất phong phú đa dạng, mỗi
thời đại mỗi tác giả bên cạnh nét chung vẫn có cách cảm nhận riêng, cách thể hiện riêng khi viết về
Đất nước. Nhìn chung lòng yêu nước được thể hiện qua những nội dung chính sau:
Yêu mến gắn bó với mảnh đất quê hương – là ý thức độc lập dân tộc quyền làm chủ Đất nước.
Niềm tự hào trước quyền thống dân tộc (Đất nước Nguyễn Đình Thi )
Truyền thống yêu nước bất khuất (Đất nước - Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm ).
Tuyền thống nhân đạo : Nhân ái , Nghĩa tình của người Việt Nam ( Việt Bắc- Đất nước của Nguyễn

khoa Điềm.
Niềm tự hào về Văn hoá dân tộc (Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hội tụ... Bên kia sông Đuống Hoàng Cầm ).
Lòng căm thù giặc, quyết tâm chiến đấu tiêu diệt kẻ thù, giải phóng độc lập Đất nước
Niềm hy vọng tin tưởng vào tương lai Đất nước (Rừng Xà Nu , Mảnh trăng cuối rừng )
Lưu ý : Lòng yêu nước có thể còn biểu hiện qua những nội dung khác
như tình yêu thiên nhiên Đất nước, sự gắn bó giữa người dân và Đất nước Đất nước của Nguyễn
Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm.
Một tác phẩm có thể bao hàm đầy đủ những nội dung trên nhưng đồng thời cũng có thể đi sâu vào
nội dung nào đó. Lòng yêu nước trong văn học Cách mạng ( Đất nước – Nguyễn Đình Thi, Việt Bắc
của Tố Hữu ).
=======================================
MO O N.VN

- hotline: 04.32.99.98.98


×