Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Tình hình thực tế công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm ở công ty xi măng quân đội lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.17 KB, 111 trang )

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một
trong những vấn đề trọng yếu của công tác hạch toán kế toán ở
doanh nghiệp sản xuất.
Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế dân chủ nhân dân Lào
phát triển theo cơ chế thi trường có sự quản lý của Nhà nước tất yếu
các doanh nghiệp sẽ phải cạnh tranh với nhau về chất lượng giá cả
và các yếu tố liên quan đến yêu cầu của người tiêu dùng.
Việc hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành luôn
luôn là vấn đề cơ bản lâu dài của các nhà quản lý, các nhà khoa học
trong và ngoài nước, để nhằm phát huy vai trò của các doanh nghiệp
thực hiện mục tiêu lấy thu bù chi và có lợi nhuận.
Trong giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước thì doanh
nghiệp sản xuất xi măng càng được chú trọng đầu tư mở rộng sản
xuất. Vì nó là doanh nghiệp sản xuất vật chất quan trọng cung cấp
vật liệu phục vụ cho việc xây dung các cơ sở hạ tầng của nền kinh tế
và xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân, hạn chế
được việc nhập khẩu Xi măng của nước ngoài, tạo nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước. Nghị quyết đại hội Đảng nhân dân cách mạng
Lào toàn quốc lần thứ VII đã chỉ ra “phát triển mạnh công nghiệp
vật liệu xây dựng, vừa xây dựng xí nghiệp lớn hiện đại, vừa phát
triển rộng rãi những xí nghiệp qui mô vừa và nhỏ ở các địa phương.
Tích cực phát triển xi măng, gạch ngói và các vật liệu khác. Tăng


nhanh vật liệu trang trí chống ẩm, cách nhiệt, tiến tới đảm bảo đủ
các vật liệu xây dựng”.
Để thực hiện mục tiêu chiến lược đã nêu nhằm quản lý có hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất xi
măng nói chung, nhà máy xi măng Quân đội nói riêng, cấp thiết


phải chú ý đến vấn đề hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm. Xem nó như một công cụ quan trọng để quản lý điều
hành và kiểm soát việc thực hiện mục tiêu đã định của đất nước nói
chung và nhà máy xi măng Quân đội nói riêng.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài làm sáng tỏ và hoàn thiện một cách có hệ thống những
lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm ở doanh nghiệp sản xuất, phân tích đánh giá thực trạng kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở nhà máy xi măng
Quân đội trên cơ sở để nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm phù hợp với doanh nghiệp sản xuất xi măng
trong điều kiện áp dụng hệ thống kế toán mới (hệ thống kế toán
doanh nghiệp – Ban hành theo quyết định số 12/99 ngày 29 tháng
11 năm 1990 của Bộ tài chính).
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm trong nhà máy xi măng Quân đội.
4. Phương pháp nghiên cứu


Kết hợp sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như phân tích, tổng hợp, so sánh để nghiên cứu các vấn đề cụ thể và
lý luận, chính sách Nhà nước và thực trạng ở doanh nghiệp sản xuất
xi măng trong mối quan hệ ràng buộc nhau.
5. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn đã hệ thống và phân tích một cách khoa học những
cơ sở lý luận về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm ở doanh nghiệp sản xuất xi măng.
- Nghiên cứu thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm tại nhà máy xi măng Quân đội.

- Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại nhà máy xi măng Quân đội.


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. Doanh nghiệp và nhiệm vụ của doanh nghiệp trong cơ chế
thị trường.
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, được thành lập nhằm
mục đích chủ yếu và thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh
để thu lợi nhuận tối đa. Doanh nghiệp tiến hành trực tiếp việc sản
xuất kinh doanh theo chế độ hạch toán kinh tế trên cơ sở pháp luật
và dưới sự quản lý của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp và đơn vị kinh tế
độc lập, hoàn toàn tự chủ về vốn, vật tư, kỹ thuật để sản xuất, kinh
doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh cũng như có trách nhiệm tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm của mình. Nhà nước với vai trò điều tiết vĩ mô nền
kinh tế không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp được bình đẳng trong kinh doanh, vừa hợp tác,
vừa cạnh tranh theo quy luật của nền kinh tế thị trường.
Do tính chất đa dạng của quan hệ cung cầu và đa dạng hoá
hình thức sở hữu mà trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều loại
doanh nghiệp khác nhau.
- Căn cứ vào những gì mà doanh nghiệp cung cấp cho xã hội
có thể phân ra làm hai loại doanh nghiệp.


+ Doanh nghiệp dịch vụ: du lịch, giặt là…

+ Doanh nghiệp liên quan đến sản xuất sản phẩm, hàng hoá
gồm các doanh nghiệp sản xuất thương mại.
Trong loại này có thể phân nhỏ theo lĩnh vực kinh doanh như
Công nghiêp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, thương mại, xuất
nhập khẩu…
- Căn cứ vào chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, các doanh
nghiệp được phân thành:
+ Doanh nghiệp tư nhân: doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài,
doanh nghiệp của các tiểu thủ trong nước, doanh nghiệp của những
người buôn bán, kinh doanh, dịch vụ…
+ Doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp: Công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty và xí nghiệp liên doanh, doanh nghiệp
tập thể.
- Doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước gọi chung là doanh
nghiệp Nhà nước.
Mặt khác trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại đồng thời các
loại hình doanh nghiệp là một tất yếu khách quan, mỗi doanh
nghiệp hình thành và hoạt động theo quy luật riêng, đề là yếu tố
tham gia điều tiết nền kinh tế thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế.
Ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào tại Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI đã khẳng định chuyển nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế
chỉ huy, vận hành theo cơ chế kế hoạch tập trung nền kinh tế thị
trường vân hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước


và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau hoàn toàn bình đẳng trước pháp luật, trong đó doanh
nghiệp Nhà nước phải được củng cố và tăng cường đảm bảo giữ
vững được vai trò chủ đạo, một công cụ quan trong trong điều hành

vĩ mô của Nhà nước, đủ sức hướng sự hoạt động của các thành phần
kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một doanh nghiệp khi bước vào hoạt động phải xây dựng
được mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp đều hướng vào mục tiêu
đã đề ra hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp cho ta thấy rõ:
Toàn bộ tài sản của doanh nghiệp tương đương với vốn chủ sở
hữu và nợ phải trả thể hiện bằng phương trình.
Hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp được thể hiện qua sơ đồ
sau.

Bảng sơ đồ 1


Chủ sở hữu

Chủ nợ

Tài sản của doanh nghiệp
2a
Đầu t vào hoạt động
sản xuất, kinh doanh
3a
Sản phẩm, dịch vụ
hàng hoá để bán
Chủ sở hữu

4a

Chủ nợ


Sản phẩm, dịch vụ
hàng hoá để bán

2a
Trong nn kinh t quc dõn, doanh nghip l nhng t bo
kinh t l ni trc tip to ra sn phm, thc hin cỏc dch v lu
thụng sn phm t ni sn phm n ni tiờu ding ỏp ng yờu
cu ca th trng vỡ vy doanh nghip cú nhng nhim v sau:
- Hot ng kinh doanh ỏp ng yờu cu th trng, thc hin
y cỏc cam kt ca nhng hp ng mua v bỏn.


- Chăm lo đời sống của người lao động trong doanh nghiệp
theo luật định, thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước, đủ kịp
thời.
- Bảo toàn và tăng trưởng vốn, mở rộng quy mô kinh doanh.
- Bảo vệ môi trường, bảo vệ sản xuất, an ninh quốc phòng và
an toàn trật tự xã hội.
- Chấp hành pháp luât, thực hiện chế độ hạch toán kế toán
thống kế thống nhất.
Để thực hiện những nhiệm vụ trên thì trước tiên doanh nghiệp
phải tập hợp được chi phí sản xuất cũng như tính giá thành sản
phẩm của mình, nhằm xác định được kết quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2. Vai trò, nhiệm vụ kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm.
1.2.1. Vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm.
Sự ra đời và phát triển của kế toán gắn liền với sự ra đời và
phát triển của nền sản xuất xã hội. Nền sản xuất xã hội càng phát

triển kế toán càng trở nên quan trọng và trở thành công cụ không thể
thou được trong quản lý kinh tế của Nhà nước và của doanh nghiệp.
Để điều hành và quản lý được toàn bộ hoạt động kinh doanh ở
doanh nghiệp một cách có hiệu quả cao nhất, các doanh nghiệp phải
nắm bắt được kịp thời, chính xác các thông tin kinh tế về các hoạt
động đó, bao gồm: “Chi phí đầu vào” và “Kết quả đầu ra”. Tất cả


những thông tin kinh tế liên quan đến quá trình hoạt động của doanh
nghiệp được kế toán với chức năng phản ánh (thông tin) và kiểm tra
(giám đốc) để thu nhận, xử lý và tổng kết môt cách kịp thời, chính
xác bằng hệ thống các phương pháp khoa học của mình. Trên cơ sở
đó cung cấp những thông tin chính xác, cần thiết cho việc ra quyết
định các phương án kinh doanh tối ưu của doanh nghiệp.
Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là
khâu trung tâm của toàn bộ công tác kế toán.
Do vậy, với vai trò của mình kế toán sẽ cung cấp đầy đủ toàn
bộ thông tin về chi phí sản xuất phát minh trong kỳ và kết quả tính
toán giá thành sản phẩm nhằm giúp cho chủ doanh nghiệp kịp thời
điều hành và quản lý các hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị.
Tổ chức kế toán đúng, kịp thời và chính xác chi phí sản xuất
và tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm có ý nghĩa rất lớn trong
công tác quản lý chi phí, giá thành, tổ chức kiểm tra tính hợp pháp,
hợp lệ của chi phí phát sinh ở doanh nghiệp nói chung, ở từng bộ
phận nói riêng, hợp lệ của chi phí phát sinh ở doanh nghiệp nói
chung, ở tổng bộ phận nói riêng, góp phần quản lý tài sản vật tư, lao
động, tiền vốn tiết kiệm có hiệu quả. Mặt khác tạo điều kiện và có
biện pháp phấn đầu hạ thấp giá thành sản phẩm nâng cao chất lượng
sản phẩm, đó là một trong những điều kiện quan trọng để thị trường
chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp

có điều kiện cạnh tranh với sản phẩm các doanh nghiệp khác.


1.2.2. Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm
Công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
mặc dù thuộc về kế toán quản trị, chủ yếu cung cấp thông tin phục
vụ cho công tác quản lý ở doanh nghiệp trong đó lại có ý nghĩa quan
trọng và chi phối đến chất lượg công tác kế toán khác, cũng như
chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý kế toán, tài chính, hình
thức thực hiện chính sách, chế độ kế toán, tài chính của doanh
nghiệp cho nên kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm có nhiệm vụ sau:
- Trước hết phải nhận thức rõ vai trò của công tác kế toán tập
hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm và mối quan hệ giữa
kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với các
bộ phận kế toán liên quan, trong đó kế toán các yếu tố chi phí là tiền
đề cho kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Từ đó mới có thể tiến hành tổ chức kế toán tốt và có hiệu quả được.
- Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp trình độ kế toán, trình độ quản lý, quy mô tổ chức quản lý
của doanh nghiệp để tổ chức lựa chọn xác định đúng đối tượng tập
hợp chi phí sản xuất, lựa cọn phương pháp với điều kiện cụ thể của
doanh nghiệp, cũng như phương pháp đánh giá sản phẩm đó thích
hợp.
- Căn cứ vào đặc điểm sản phẩm, quy tình công nghệ sản xuất
của doanh nghiệp để xác định đối tượng tính giá thành sản phẩm


cho phù hợp từ đó tổ chức áp dụng phương pháp tính giá thành sản

phẩm đáp ứng yêu cầu đơn giản, phù hợp với trình độ của doanh
nghiệp.
- Tổ chức sơ đồ luân chuyển chứng từ, tổ chức hạch toán ban
đầu và ghi số các chi phí và tính giá thành sản phẩm đảm bảo cho
việc lập báo cáo chi phí theo từng đối tượng báo cáo giá thành sản
phẩm đúng thời hạn.
- Thường xuyên kiểm tra công việc và số liệu tập hợp chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm đối chhiếu với các bộ phận kế
toán có liên quan kịp thời xử lý và chấn chỉnh những sai sót.
- Tổ chức lập báo cáo chi phí và báo cáo giá thành theo các
yêu cầu quản lý và yêu cầu thông tin của lãnh đoạ doanh nghiệp
cũng như của cơ quan cấp trên.
- Tổ chức phân tích báo cáo chi phí, phân tích giá thành sản
phẩm, đánh giá tình hình thực hiện định mức (dự đoán) chi phí, tình
hình thực hiện kế hoạch giá thành và hạ giá thành sản phẩm.
1.3. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
1.3.1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất
1.3.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất được hiểu một cách chung nhất là biểu hiện
bằng tiền của toàn bộ hao phí, hao phí lao động, lao động vât hoá và
các chi phí khác mà doanh nghiệp đã chi ra để sản xuất kinh doanh
trong một thời gian nhất định nhằm mục đích sinh lợi cho doanh
nghiệp.


Để tiến hành hoạt động sản xuất sinh doanh, các doanh nghiệp
phải có đầy đủ các yếu tố cơ bản đó là: Tư liệu lao động đối tượng
lao động, lao động và đời sống lao động. Sự tham gia của các yếu tố
sản xuất vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp có sự khác nhau
và nó hình thành các khoản chi phí tương ứng.

Các chi phí mà doanh nghiệp chỉ ra cấu thành nên giá trị của
sản phẩm, lao vụ, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội
giá trị sản phẩm, dịch vụ bao gồm 3 bộ phận là:
C + V + M = giá trị của sản phẩm, dịch vụ
C: là toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình
tạo ra sản phẩm, dịch vụ như: khấu hao tài sản cố định, chi phí
nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, năng lượng… bộ phận này được
gọi là hao phí lao động quá khứ.
V: Là chi phí về tiền lương, tiền công phải trả cho người lao
động tham gia quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm dịch vụ nó được
gọi là hao phí lao động sống cần thiết.
m: là giá trị mới do lao động sống tạo ra trong quá trình hoạt
động tạo ra gia trị sản phẩm, dịch vụ.
Ở góc độ doanh nghiệp, để tạo ra sản phẩm, dịch vụ thì doanh
nghiệp phải bỏ ra 2 bộ phận chi phí là C và V đó là chi phí sản xuất
mà doanh nghiệp phải bỏ ra để tạo ra sản phẩm, dịch vụ.
Như vậy trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá thì biểu hiện
bằng tiền của những hao phí lao động vật hoá và lao động sống cần


thiết của doanh nghiệp phải chỉ ra trong một thời gian để tiến hành
sản xuất, được gọi là chi phí sản xuất.
Ở doanh nghiệp cũng cần phải phân biệt giữa chi phí và chỉ
tiêu. Chi phí và chỉ tiêu của doanh nghiệp không hoàn toàn giống
nhau có trường hợp chi phí nhưng không phải là chỉ tiêu hoặc có
trường hợp chỉ tiêu nhưng không phải là chi phí.
Chỉ tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chỉ tiêu cho các
quá trình mua hàng, quá trình sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu cho quá
trình mua hàng làm tăng tài sản (nguyên vật liệu hàng hoá tài sản cố
định), của doanh nghiệp còn chỉ tiêu cho quá trình sản xuất kinh

doanh làm cho các khoản tiêu dùng cho quá trình sản xuất kinh
doanh tăng lên.
Chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ phần tài
sản hao mòn hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất trong kỳ và
số chi tiêu dùng cho quá trình sản xuất tính nhập hoặc phân bổ vào
chi phí trong kỳ, ngoài ra khoản chi phí phải trả (chi phí trích trước
không phải là chỉ tiêu trong kỳ nhưng được tính vào chi phí trong
việc phân biệt giữa chi phí và chỉ tiêu rất có ý nghĩa trong việc tìm
hiểu bản chất cũng như nội dung, phạm vi và phương pháp hạch
toán chi phí sản xuất).
Về bản chất chi phí sản xuất ở các loại hình doanh nghiệp hoạt
động ở các lĩnh vực khác nhau như doanh nghiệp hoạt động sản
xuất (công nghiệp, xây dựng cơ bản, nông nghiêp…) doanh nghiệp
(DN) hoạt động dịch vụ (dịch vụ, vận tải, bưu điện…) đều có chung


bản chất. Đồng thời ở các DN thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau như DN Nhà nước, DN cổ phần, DN tư nhân, DN liên
doanh… thì bản chất chi phí sản xuất của chúng cũng không có gì
khác nhau.
Thực chất chi phí sản xuất ở các DN là sự chuyển dịch vốn
của DN vào đối tượng tính giá nhất định, đó là vốn của DN bỏ vào
quá trình sản xuất (SX) kinh doanh.
1.3.1.2. Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh trong các DNSX bao gồm nhiều
loại, ví dụ: nội dung tính chất kinh tế cũng như mục tiêu, công dụng
khác nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh do đó công tác quản
lý cũng như công tác kế toán đối với các loại chi phí khác nhau. Để
đáp ứng yêu cầu quản lý, công tác kế toán phù hợp với từng loại chi
phí cần thiết phải tiến hành phân loại theo những tiêu thức thích

hợp.
1.3.1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh trong các DNSX bao gồm nhiều
loại, ví dụ: nội dung tính chất kinh tế cũng như mục tiêu, công dụng
khác nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh do đó công tác quản
lý cũng như công tác kế toán đối với các loại chi phí khác nhau. Để
đáp ứng yêu cầu quản lý, công tác kế toán phù hợp với từng loại chi
phí cần thiết phải tiến hành phân loại theo những tiêu thức thích
hợp.


1.3.1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất, kinh doanh theo nội
dung, tính chất kinh tế của chi phí.
Theo tiêu thức phân loại này, căn cứ vào tính chất, nội dung
kinh tế của các chi phí giống nhau xếp vào một yếu tố, không phân
biệt chi phí phát sinh trong lĩnh vực hoạt động nào, ở đâu.
Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của DN được chia thành
các yếu tố sau:
- Chi phí nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ chi phí về các loại
đối tượng lao động là nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu,
phụ ting thay thế, vật liệu thiết bị xây dựng cơ bản.
- Chi phí nhân công: là toàn bộ số tiền công và các khoản khác
phải trả cho người lao động trong doanh nghiệp.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ số phải trích
khấu hao trong tháng (trong kỳ) đối với tất cả các loại tài sản cố
định trong doanh nghiệp.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: là số tiền trả về của loại dịch vụ
mua ngoài phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh
nghiệp.
- Chi phí khác bằng tiền: là toàn bộ số chi phí phát sinh trong

quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh ngoài 4 yếu tố chi phí trên.
- Phân loại chi phí theo nội dung, tính chất kinh tế của chúng
có tác dụng cho biết kết cấu, tỷ trọng từng loại chi phí mà doanh
nghiệp đã chỉ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh để lập bản
thuyết minh báo cáo tài chính (phần chi phí sản xuất, kinh doanh để


lập bản thuyết minh báo cáo tài chính (phần chi phí sản xuất,
kinhdoanh theo yếu tố) phục vụ cho yêu cầu thông tin và quản trị
doanh nghiệp, để phân tích tình hình thực hiện dự án chi phí lập dự
án chi phí sản xuất kinh doanh chu kỳ sau.
1.3.1.2.2. Phân loại chi phí sản xuất, kinh doanh theo mục
đích, công dụng chi phí.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất
trong điều kiện nền kinh tế thị trường bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt
động khác nhau, do vậy căn cứ vào mục đích, công dụng của chi phí
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, toàn bộ chi phí sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành:
- Chi phí sản xuất chế tạo sản phẩm: là toàn bộ số chi phí liên
quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm cũng như các chi phí liên
quan đến hoạt động quản lý và phục vụ sản xuất trong pham vi các
phân xưởng, bộ phân, tổ đội sản xuất.
- Chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm lại được chia thành chi
phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
+ Chi phí trực tiếp là những chi phí có liên quan trực tiếp đến
việc sản xuất, chế tạo sản phẩm bao gồm chi phí nguyên vật liệu,
trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp.
+ Chi phí gián tiếp: Còn gọi là chi phí sản xuất chung là
những chi phí phục vụ, quản lý sản xuất kinh doanh phát sinh trong
quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm hoặc thực hiện các loại lao vụ

dịch vụ ở các phân xưởng, bộ phận, tổ đội sản xuất.


+ Chi phí bán hàng: là toàn bộ các chi phí liên quan đến việc
tiêu thụ, bán sản phẩm hàng hoá, lao vụ dịch vụ, các chi phí này
phát sinh ngoài quá trình sản xuất, chế toạ sản phẩm nên còn được
gọi là chi phí ngoài sản xuất.
+ Chi phí hoạt động khác: là toàn bộ số chi phí phát sinh trong
qúa trình tiến hành các hoạt động khác, ngoài hoạt động sản xuất
kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp bao gồm chi phí về hoạt động
tài chính và ác chi phí bất thường.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: là toàn bộ các chi phí phục vụ
và quản lý chung các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp như các chi phí về quản lý kinh doanh, quản lý hành chính
và các chi phí khác.
Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo mục đích, công
dụng của chi phí có tác dụng xác định số chi phí đã chỉ ra cho từng
lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc tính giá
thành sản phẩm và xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
từng lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc tính
giá thành sản phẩm và xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh từng lĩnh vực hoạt động.
Theo cách phân loại này, các chi phí sản xuất, chế tạo sản
phẩm sẽ là những chi phí cấu thành trong giá của sản phẩm theo các
khoản mục giá thành quy định đó là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.


Ngoài 2 cách phân loại chủ yếu trên, phục vụ trực tiếp cho
công nhân quản lý và công tác kế toán, chi phí sản xuất kinh doanh

còn có thể được phân loại theo các tiêu thức khác như: căn cứ vào
mối quan hệ giữa chi phí sản xuất kinh doanh với khối lượng sản
phẩm, lao vụ hoàn thành, chia thành chi phí cố định và chi phí biến
đổi.
Căn cứ vào phương pháp hạch toán, phí hợp chi phí, chia
thành chi phí hạch toán trực tiếp và chi phí gián tiếp.
1.3.2. Giá thành sản phẩm
1.3.2.1. Bản chất của giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là chi phí SX tính cho sản phẩm, dịch vụ
do DN tiến hành SX đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm được tính toán xác định theo từng loại sản
phẩm, dịch vụ cụ thể hoàn thành (theo từng đối tượng tính giá) và
chỉ tính cho những sản phẩm đã hoàn thành toàn bộ quy định sản
xuất, tức là thành phẩm hoặc hoàn thành một số giai đoạn công
nghệ sản xuất nhất định tức là nửa thành phẩm.
1.3.2.2. Các loại giá thành
* Xét về mặt hạch toán và theo phạm vi phát sinh của chi phí
thì giá thành sản phẩm, dịch vụ có hai loại là giá thành sản xuất thực
tế sản phẩm, dịch vụ (giá thành công xưởng thực tế) và giá thành
sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ (giá thành toàn bộ của sản phẩm, dịch
vụ).


Giá thành sản phẩm thực tế sản phẩm là toàn bộ hao phí của
các yếu tố dùng tạo ra sản phẩm, dịch vụ trong đó bao gồm: chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản
xuất chung tính cho sản phẩm, dịch vụ hoàn thành, giá thành sản
phẩm được tính:
Giá thành
sản xuất

thực tế
của sản
phẩm

=

Chi phí

Chi phí

Chi phí

sản phẩm

phát

sản phẩm

dở dang

+

sinh

-

dở dang

đầu kỳ


trong

cuối kỳ

(DDK)

kỳ (C)

(DCK)

(ZTT)
Giá thành sản phẩm dịch vụ tiêu thụ hay gọi là giá thành toàn
bộ, là chi phí thực tế của số sản phẩm dịch vụ đã tiêu thụ của DN,
nó bao gồm giá thành sản xuất thực tế sản phẩm dịch vụ đã tiêu thụ
và chi phí bán hàng, chi phí quản lý DN của số sản phẩm dịch vụ
đó.
Giá thành
Giá thành
Chi phí quản lý
của sản
sản xuất
Chi phí
doanh nghiệp
phẩm
= thực tế
+
bán
- phân bổ cho sản
dịch vụ
của sản

hàng
phẩm dịch vụ đã
tiêu thụ
phẩm
tiêu thụ
Tuỳ theo từng loại hình DN hoạt động ở các lĩnh vực khác
nhau nên quá trình sản xuất và quá trình tiêu thụ (bán hàng) diễn ra
đồng thời (như thường đối với các hoạt động dịch vụ du lịch, vận


tải, bưu điện …) thì giá thành sản xuất thực tế và giá thành tiêu thụ
được xác định đồng thời.
Ý nghĩa của giá thành thực tế được sử dụng khi nhập, xuất kho
thành phẩm còn giá thành sản phẩm tiêu thụ được sử dụng để tính
toán, xác định kết quả bán hàng (kết quả kinh doanh) của DN.
* Về mặt quản lý giá thành thì giá thành sản xuất còn có thể
chia thành giá thành kế hoạch, giá thành định mức, giá thành thực tế
sản phẩm.
- Giá thành kế hoạch: Việc tính toán, xác định giá thành kế
hoạch sản phẩm được tiến hành trước khi tiến hành quá trình sản
xuất chế tạo sản phẩm, do bộ phận kế hoạch thực hiện giá thành kế
hoạch sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và
được mục tiêu phấn đấu của DN, là cơ sở để phân tích, đánh giá tình
hình thực hiện kế hoạch giá thành kế hoạch hạ giá thành của Doanh
nghiệp.
- Giá thành định mức cũng giống như giá thành kế hoạch, việc
tính giá thành định mức cũng có thể thực hiện trước khi sản xuất,
chế tạo sản phẩm dựa vào các định mức, dự toán chi phí hiện hành.
Giá thành định mức được xem là thước đo chính xác để xác định kết
quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, tiền vốn trong DN, để đánh giá

các biện pháp mà DN đã áp dụng trong quá trình sản xuất kinh
doanh nhằm nâng cao hiệu quả chi phí.
- Giá thành thực tế: Khác với 2 loại giá thành trên giá thành
thực tế của sản phẩm, lao vụ chỉ được xác định khi quá trình sản


xuất, chế tạo sản phẩm đã hoàn thành và được dựa trên cơ sở số liệu
chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh tập hợp được trong đầu kỳ.
Giá thành thực tế sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản
ánh kết quả phấn đấu của DN trong việc tổ choc và sử dụng các giải
pháp kinh tế, tổ choc kỹ thuật để thực hiện quá trình sản xuất sản
phẩm là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của DN có ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của DN.
1.4. Đối tượng kế toán chi phí sản xuất và đối tượng tính
giá thành
1.4.1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
Đối tượng tập hợp chi phí là phạm vi giới hạn để tập hợp các
chi phí SX phát sinh trong kỳ.
Việc lựa chọn đối tượng tập hợp chi phí sản xuất ở từng DN
có sự khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào đặc điểm, tình hình tổ chức
kinh doanh, yêu cầu trình độ quản lý cũng như quy trình công nghệ
SX sản phẩm của DN.
Khi xác định đối tượng tập hợp chi phí SX trước hết phải căn
cứ vào mục đích sử dụng của chi phí sau đó căn cứ vào địa điểm
phát sinh chi phí. Ví dụ đối với DN sản xuất khi tập hợp chi phí cần
xác định chi phí đó cho hoạt động SX sản phẩm hay hoạt động đầu
tư, hoạt động tài chính hay chi phí quản lý DN. Trong đó chi phí SX
sản phẩm cần phải xác định chi phí tập hợp cụ thể (chi phí SX sản
phẩm A. B).



Hoặc đối với DN hoạt động dịch vụ như kinh doanh du lịch
nếu DN tiến hành nhiều loại hoạt động kinh doanh như hoạt động
hướng dẫn du lịch, kinh doanh vận chuyển, kinh doanh buồng ngũ,
… thì đối tượng tập hợp chi phí có thể xác định là từng hoạt động
kinh doanh. Trong trường hựop từng hoạt động kinh doanh đó có
nhiều chủng loại sản phẩm, thì tuỳ theo yêu cầu quản lý và trình độ
quản lý hạch toán có thể xác định đối tượng tập hợp chi phí theo
từng loại sản phẩm (hàng ăn uống, dịch vụ khác… buồng ngủ loại I,
loại II…).
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí đúng và phù hợp với
đặc điểm hoạt động và yêu cầu quản lý của DN có ý nghĩa rất lớn
trong việc tổ chức kế toán tập hợp chi phí SX, từ việc tổ chức hạch
toán ban đầu đến tổ chức tổng hợp số liệu, ghi chép trên tài khoản,
sổ chi tiết.
1.4.2. Đối tượng tính giá thành sản phẩm
Đối tượng tính giá thành là loại sản phẩm, dịch vụ, lao vụ nhất
định đòi hỏi phải tính được giá thành và giá thành đơn vị.
Khi tính giá thành sản phẩm, dịch vụ trước hết phải xác định
đối tượng tính giá thành phải căn cứ vào đặc điểm, tình hình hoạt
động sản xuất kinh doanh, loại sản phẩm dịch vụ của DN SX và
thực hiện để xác định đối tượng tính giá thành cho phù hợp với thực
tế của DN.
Nếu DN SX sản phẩm có tính chất đơn chiếc như đóng tầu,
sửa chữa ôtô,… thì đối tượng tính giá thành là từng sản phẩm, dịch


vụ hoàn thành. Nếu SX, chế tạo hàng loạt sản phẩm như chế tạo ôtô,
xe máy, tivi… vận tải hàng hoá, vận tải hành khách… kinh doanh
buồng ngủ, hàng ăn uống, trong hoạt động du lịch thì đối tượng tính

giá thành là từng loại sản phẩm hoặc hoạt động dịch vụ đã hoàn
thành.
Mặt khác khi xác định đối tượng tính giá thành còn phải căn
cứ vào quy trình công ngh SX của DN. Nếu quy trình sản xuất đơn
giản thì đối tượng tính giá thành là loại sản phẩm hoàn thành ở cuối
quy trình công nghệ nếu quy trình SX phức tạp theo kiểu liên tục thì
đối tượng tính giá thành có thể chia thành phẩm từng giai đoạn và
thành phẩm giai đoạn cuối cùng. Nếu quy trình phức tạp kiểu song
song thì đối tượng tính giá thành là từng chi tiết, bộ phận sản phẩm
hoàn thành và sản phẩm cuối cùng đã hoàn chỉnh.
Đơn vị tính giá thành của từng laọi sản phẩm dịch vụ phải là
đơn vị tính đã được xã hội thừa nhận và phù hợp với đơn vị tính
trong kế hoạch SX kinh doanh. Nếu đơn vịtính giá thành là từng
đơn vị sản phẩm, giá thành một sản phẩm, giá thành của một tấn/km
vận chuyển giá thành của một sản phẩm, giá thành của một
phòng/ngày đêm (kinh doanh buồng ngủ).
Xác định đối tượng tính giá thành đúng và phù hợp với điều
kiện, đặc điểm của DN giúp cho kế toán tổ chức mở sổ kế toán, các
bảng tính giá và tính giá thành sản phẩm theo từng đối tượng cần
quản lý và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm
có hiệu quả đáp ứng yêu cầu quản lý nội bộ DN.


Đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng giá thành giống nhau ở
bản chất chung. Chúng đều là phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí
và cùng phục vụ cho công tác quản lý, phân tích và kiểm tra chi phí
giá thành.
1.4.3. Sự khác nhau giữa chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là 2 mặt biểu hiện của

quá trình sản xuất, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau giống nhau về
chất vì đều là những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá
mà doanh nghiệp đã chỉ ra trong quá trình SX, chế tạo sản phẩm.
Tuy vậy giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm lại không
giống nhau về lượng sự khác nhau đó thể hiện ở các điểm sau:
Chi phí SX luôn gắn lion với một thời kỳ nhất định, còn giá
thành sản phẩm gắn liền với một loại sản phẩm, công việc, lao vụ
nhất định.
Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm một phần chi phí thực
tế đã phát sinh ở các kỳ sau (chi phí phải trả) giá thành sản phẩm
chứa đựng cả một phần chi phí của kỳ trước, chuyển sang chi phí
phát sinh này và số chi phí cuối kỳ.
1.5. Phương pháp tập hợp chi phí và phương pháp tính giá
thành sản phẩm
1.5.1. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
Tuỳ theo từng loại chi phí SX, kế toán vận dụng các phương
pháp tập hợp và phân bổ chi phí thích hợp.


1.5.1.1. Phương pháp tập hợp chi phí cơ bản trực tiếp
Chi phí cơ bản là những chi phí SX thuộc các yếu tố cơ bản
của SX, có mối quan hệ trực tiếp đến sản phẩm SX trong kỳ chi phí
cơ bản ở các DN bao gồm:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp dùng vào SX.
- Chi phí nhân công trực tiếp dùng vào SX (trong đó bao gồm
cả trích bảo hiểm xã hội của công nhân sản xuất).
Đối với chi phí cơ bản có liên quan trực tiếp đến từng đối
tượng tập hợp chi phí (từng loại sản phẩm, từng hoạt động dịch vụ,
…) thì tập hợp trực tiếp cho đối tượng tập hợp chi phí đó, gọi là
phương pháp tập hợp trực tiếp.

Những chi phí cơ bản liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp
chi phí (ví dụ nguyên vật liệu xuất dùng để sản xuất nhiều loại sản
phẩm, nhiều hoạt động, dịch vụ,…) thì vận dụng phương pháp tập
hợp gián tiếp khi chi phí phát sinh kế toán tập hợp theo khoản mục
chi phí sau đó phân bổ cho từng đối tượng tập hợp chi phí theo tiêu
thức phù hợp. Thông thường trên thực tế người ta có thể tiến hành
phân bổ ngay chi phí phát sinh cho từng đối tượng hoặc cuối thàng
phân bổ tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể. Như nguyên vật liệu xuất
dùng SX 2 loại sản phẩm A và B, ta có thể đưa vào định mức tiêu
hao nguyên vật liệu tính cho từng loại sản phẩm A, B để phân bổ
nguyên vật liệu thực tế xuất dùng cho từng loại sản phẩm hoặc tiền
lương của công nhân thực hiện nhiều hoạt động ở DN du lịch chẳng
hạn như hoạt động buồng, bàn, … nếu tập hợp chi phí sản xuất theo


×