Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Giải pháp quản trị rủi ro tín dụng tại trung tâm kinh doanh ngân hàng TMCP sài gòn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.86 KB, 120 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Tín dụng là một hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
và tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho các ngân hàng trong giai đoạn hiện
nay. Song hoạt động này chứa đựng rủi ro rất cao, gây ra hậu quả
nặng nề khơng chỉ đối với bản thân ngân hàng mà cịn đối với cả
doanh nghiệp và nền kinh tế. vì vậy, tăng cường quản trị rủi ro tín
dụng tại các ngân hàng thương mại thực sự cần thiết đối với sự tồn
tại và phát triển của các ngân hàng.
Tình hình kinh tế thế giới đang diễn biến phức tạp, kinh tế
Thế giới biến động phức tạp đã ảnh hưởng sâu sắc tới tồn bộ nền
kinh tế Việt Nam. Đứng trước tình hình đó, địi hỏi các ngân hàng
thương mại Việt Nam trong đó có Ngân hàng TMCP Sài Gịn - Hà
Nội càng phải nâng cao hiệu quả công tác quản trị rủi ro tín dụng,
hạn chế đến mức thấp nhất có thể những nguy cơ tiềm ẩn gây nên
rủi ro.
Bên cạnh đó, trước những thời cơ và thách thức của tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của
các ngân hàng thương mại trong nước với các ngân hàng thương
mại nước ngoài, mà cụ thể là nâng cao chất lượng tín dụng, giảm
thiểu rủi ro đã trở nên cấp thiết. Mặt khác hoạt động tín dụng cũng
tiềm ẩn nhiều rủi ro, bởi vậy các ngân hàng muốn tồn tại, phát triển
thì cần phải có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác quản trị rủi ro tín dụng thích hợp.


2

Xuất phát từ thực tiễn đó, việc nghiên cứu hiệu quả quản trị


rủi ro tín dụng và tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
quản trị rủi ro tín dụng là hết sức cần thiết. Là một cán bộ ngân
hàng công tác tại Trung tâm kinh doanh Ngân hàng TMCP Sài Gòn
- Hà Nội, một học viên cao học Tài chính - Ngân hàng tơi đã mạnh
dạn lựa chọn đề tài: “Giải pháp quản trị rủi ro tín dụng tại Trung
tâm kinh doanh Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội” để hoàn
thành luận văn thạc sỹ kinh tế của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
- Nghiên cứu những vấn đề lý thuyết cơ bản về rủi ro tín dụng
và quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản trị rủi ro tín dụng của
Trung tâm kinh doanh Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp nhằm quản trị rủi ro tín dụng tại Trung
tâm kinh doanh Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: Nghiên cứu rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín
dụng của ngân hàng thương mại.
- Phạm vi: Nghiên cứu quản trị rủi ro tín dụng tại Trung tâm
kinh doanh Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội từ năm 2009 2013
4. Phương pháp nghiên cứu.
Các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện luận
văn là phương pháp phỏng vấn, điều tra nghiên cứu, thống kê, phân
tích, tổng hợp và so sánh.


3

5. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng
của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Trung tâm
kinh doanh Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội
Chương 3: Giải pháp quản trị rủi ro tín dụng tại Trung tâm
kinh doanh Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội


4

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN
DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.
1.1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một trung gian tài chính có
chức năng dẫn vốn từ nơi có khả năng cung ứng vốn đến những nơi
có nhu cầu về vốn nhằm tạo điều kiện cho đầu tư, phát triển kinh tế.
Đây là hình thức tài chính gián tiếp chiếm 2/3 tổng lưu chuyển vốn
trên thị trường tài chính.
Theo luật các tổ chức tín dụng (TCTD) số 47/2010/QH12 ngày
16/6/2010, NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định
của pháp luật nhằm mục tiêu lợi nhuận. Ngày nay, có rất nhiều tổ
chức hoạt động trên một hoặc một số khía cạnh của NHTM. Kết quả
của một số cuộc điều tra về dịch vụ ngân hàng đã cho thấy, NHTM
đang trải qua những thay đổi mạnh mẽ trong chức năng và hình thức.
Như vậy, xét một cách chung nhất có thể thấy NHTM là một

doanh nghiệp đặc biệt hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ,
tín dụng với sự thay đổi khơng ngừng về nội dung và hình thức.
1.1.1.2 Các chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại thực hiện các chứng năng cơ bản sau đây:
+ Chức năng làm thủ quỹ cho xã hội: thực hiện chức năng này,
ngân hàng thương mại nhận tiền gửi của công chúng và các tổ chức,


5

giữ tiền cho khách hàng và đáp ứng nhu cầu rút tiền và chi tiền cho
họ.
+ Chức năng trung gian thanh tốn: Ngân hàng làm trung gian
thanh tốn khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng
như trích từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh tốn tiền mau hàng
hóa, dịc vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu
từ bán hàng và thu khác theo lệnh của họ.
+ Chức năng làm trung gian tín dụng: Thơng qua việc huy động
các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng hình
thành nên quỹ cho vay rồi đem cho vay đối với nền kinh tế. Với chức
năng này ngân hàng vừa dóng vai trị là người đi vay, vừa đóng vai
trò là người cho vay.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
Với sự phát triển của kinh tế, khoa học công nghệ hiện đại, sự
gia tăng cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng, hoạt động của ngân
hàng thương mại ngày càng đa dạng. Sau đây là những hoạt động cơ
bản của ngân hàng thương mại:
1.1.2.1 Huy động vốn.
Để đảm bảo đủ vốn thực hiện các hoạt động kinh doanh, ngồi
vốn tự có (thường chỉ chiếm dưới 10% tổng nguồn vốn của ngân

hàng thương mại), ngân hàng thương mại phải huy động vốn. Một
trong những nguồn vốn huy động quan trọng của ngân hàng là các
khoản tiền gửi của khách hàng.
Nguồn huy động vốn tiếp theo là ngân hàng thương mại có thể
vay vốn từ ngân hàng Trung ương, các ngân hàng và trung gian tài
chính khác hoặc phát hành các chứng từ có giá để vay từ cơng chúng.
1.1.2.2 Tín dụng.
Đây là hoạt động cung ứng vốn của ngân hàng trực tiếp cho các
nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trên cơ sở thỏa mãn các điều kiện vay


6

vốn của ngân hàng. Tín dụng là hoạt động truyền thống của ngân
hàng thương mại và đến nay vẫn được coi là nghiệp vụ sinh lời chủ
yếu của ngân hàng. Hoạt động này sẽ được trình bày chi tiết ở phần
tiếp theo.
1.1.2.3 Đầu tư.
Bên cạnh việc sử dụng vốn để cho vay, ngân hàng thương mại
còn sử dụng vốn để đầu tư vào trái khốn, góp vốn, mua cổ phần…
hoạt động này góp phần nâng cao khả năng thanh tốn cho ngân
hàng, làm đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhằm
phân tán rủi ro và mang lại lợi nhuận không nhỏ cho ngân hàng.
1.1.2.4 Các dịch vụ khác.
Các dịch vụ truyền thống mà ngân hàng thương mại thực hiện
là dịch vụ thanh toán, kinh doanh ngoại hối, cho thuê tủ két. Ngày
nay, các ngân hàng thương mại cung cấp thêm nhiều dịch vụ mới
như: Tư vấn tài chính, mơi giới đầu tư chứng khốn, bảo lãnh phát
hành chứng khoán, bán các dịch vụ bảo hiểm, cung cấp các kế hoạch
hưu trí, quản lý tiền mặt…

Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam, ngân hàng
thương mại của Việt Nam được thực hiện các dịch vụ sau: Thanh
toán, kinh doanh ngoại hối và vàng, ủy thác và đại lý trong các lĩnh
vực liên quan đến ngân hàng, cung ứng dịch vụ tư vấn tài chính tiền
tệ cho khách hàng, được lập công ty bảo hiểm để kinh doanh bảo
hiểm.
Hình thức và phương thức cung cấp dịch vụ ngân hàng cũng
đang phát triển rất mạnh mẽ. Bên cạnh hình thức giao dịch trực tiếp
truyền thống trước đây, ngày nay ngân hàng đang sử dụng các hình
thức giao dịch qua điện thoại, internet, thanh tốn và cấp tín dụng qua
thẻ điện tử thơng minh…
1.1.3. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.


7

Tín dụng ngân hàng nói chung được hiểu là một giao dịch về tài
sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay là ngân hàng và bên đi
vay, trong đó ngân hàng chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách
nhiệm hồn trả vơ điều kiện gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tín dụng ngân hàng
được hiểu là một giao dịch về tài sản giữa ngân hàng và khách hàng
(bên đi vay) trong đó ngân hàng chuyển giao một số tiền nhất định
cho khách hàng sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa
thuận, khách hàng có trách nhiệm hồn trả vơ điều kiện gốc và lãi cho
ngân hàng khi đến hạn.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của các ngân hàng
thương mại. dư nợ tín dụng thường chiếm trên 50% tổng tài sản của
ngân hàng thương mại và thu nhập từ tín dụng thường chiếm từ 50%

- 70% tổng thu nhập của ngân hàng thương mại. Bên cạnh việc mang
lại thu nhập chính cho ngân hàng thì rủi ro trong kinh doanh ngân
hàng cũng có xu hướng tập trung vào danh mục tín dụng. Chính vì
vậy mà hoạt động tín dụng luôn là mối quan tâm lớn nhất của các
ngân hàng thương mại cũng như thanh tra ngân hàng.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại có các đặc trưng
sau:
- Tài sản trong quan hệ tín dụng ngân hàng là tiền.
- Xuất phát từ ngun tắc hồn trả, vì vậy ngân hàng khi chuyển
giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cở sở để tin rằng người
đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín
dụng, là lý do mà ngân hàng phải thực hiện phân tích kỹ lưỡng trước
khi quyết định cho vay.
- Giá trị hồn trả thơng thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay,
hay nói các khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài phần


8

vốn gốc.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ
sở cam kết hồn trả vơ điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn
bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước…thực
chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay cam kết hồn trả vơ điều kiện
cho ngân hàng khi đến hạn thanh tốn.
1.1.4. Phân loại tín dụng
1.1.4.1. Căn cứ theo mục đích cho vay.
Căn cứ vào mục đích cho vay, hoạt động tín dụng có thể chia
thành:
- Tín dụng cơng nghiệp và thương mại: Là loại hình cho vay

đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và
dịch vụ.
- Tín dụng nơng nghiệp: Là loại hình cho vay để trang trải các
chi phí sản xuất trong lĩnh vực nơng nghiệp.
- Tín dụng tiêu dùng: Là loại hình cho vay để đáp ứng các nhu
cầu tiêu dùng cá nhân.
1.1.4.2. Căn cứ theo thời hạn cho vay.
Căn cứ vào thời hạn cho vay, hoạt động tín dụng có thể chia
thành:
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn đến 12
tháng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của doanh nghiệp và nhu
cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ trên
12 tháng đến 5 năm (có thể khác nhau ở mỗi nước). Tín dụng trung
hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến
hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây
dựng các dự án mới có quy mơ nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh…
- Tín dụng dài hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ trên 5


9

năm, có thể kéo dài đến 20-30 năm hoặc thậm chí lâu hơn. Tín dụng
dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng
nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các
xi nghiệp mới...
1.1.4.3. Căn cứ theo khách hàng vay vốn.
Căn cứ theo khách hàng vay vốn, hoạt động tín dụng có thể
chia thành:
- Tín dụng đối với cá nhân: Là loại hình cho vay để bù đắp nhu

cầu tiêu dùng cá nhân. Thời hạn cho vay có thể là ngắn hạn, trung
hạn hoặc dài hạn tùy theo mục đích sử dụng vốn vay và nguồn trả nợ
của cá nhân.
- Tín dụng đối với tổ chức/doanh nghiệp: Là loại hình cho vay
để phục nhu cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Thời hạn cho vay có thể là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn tùy vào
nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
1.1.4.4. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng, hoạt động tín
dụng có thể chia thành:
- Tín dụng khơng có bảo đảm: Là loại cho vay khơng có tài sản
thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay
chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Loại hình cho vay này
thường chỉ được áp dụng đối với một số khách hàng tốt nhất và đã có
quan hệ tín dụng lâu năm với ngân hàng.
- Tín dụng có bảo đảm: Là loại hình cho vay mà ngân hàng yêu
cầu khách hàng phải có bảo đảm như thế chấp cầm cố tài sản hoặc
phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Loại hình cho vay này thường
áp dụng đối với các khách hàng khơng có uy tín cao đối với ngân
hàng. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn
thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.


10

1.1.4.5. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả.
Căn cứ vào phương pháp hồn trả của khách hàng, hoạt động
tín dụng có thể chia thành:
- Tín dụng có thời hạn: Là loại cho vay có thỏa thuận thời hạn
trả nợ cụ thể theo hợp đồng, bao gồm: Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả

nợ, cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ.
- Tín dụng khơng có thời hạn cụ thể: Đối với loại cho vay này
ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ
lúc nào nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này có
thể thảo thuận trong hợp đồng.
1.1.4.6. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng.
Căn cứ vào xuất xứ tín dụng, hoạt động tín dụng có thể chia
thành:
- Tín dụng trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có
nhu cầu vốn đồng thời người đi vay trực tiếp hồn trả nợ vay cho
ngân hàng.
- Tín dụng gián tiếp: Là loại hình cho vay được thực hiện thông
qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và cịn
trong thời hạn thanh tốn. Các ngân hàng thương mại thường cho vay
gián tiếp theo các loại sau: Chiết khấu thương phiếu, mua các phiếu
bán hàng, bao thanh toán (mua các khoản phải thu).
1.1.5. Vai trị của tín dụng.
1.1.5.1 Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì q trình sản xuất liên
tục đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
Thừa, thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra ở các doanh
nghiệp, việc phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hịa vốn trong
toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên
tục.


11

Ngồi ra tín dụng cịn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là
động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu
cầu vốn cho đầu tư phát triển.

Thơng qua hoạt động tín dụng giúp các doanh nghiệp sử dụng
nguồn lao động và nguyên liệu hợp lý thúc đẩy quá trình tăng trưởng
kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội.
1.1.5.2 Thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Hoạt động của các ngân hàng là tập trung vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi mà vốn này nằm phân tán khắp mọi nơi, trong tay các doanh
nghiệp, các cơ quan Nhà Nước và cá nhân, trên cơ sở đó cho vay các
đơn vị kinh tế, những người có nhu cầu về vốn và từ đó thúc đẩy nền
kinh tế phát triển.
1.1.5.3 Tín dụng là cơng cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém
phát triển và ngành mũi nhọn.
Trong điều kiện nước ta, Nhà Nước tập trung tín dụng để tài trợ
cho các ngành kinh tế mũi nhọn, mà phát triển các ngành này sẽ tạo
cơ sở lôi cuốn các ngành kinh tế khác phát triển như sản xuất hàng
xuất khẩu, khai thác dầu khí…
1.1.5.4 Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán
kinh tế của các doanh nghiệp.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn
trả và có lợi tức. Nhờ vậy mà hoạt động tín dụng đã kích thích sử
dụng vốn và sử dụng có hiệu quả.
Khi sử dụng vốn vay ngân hàng, doanh nghiệp phải tơn trọng
hợp đồng tín dụng, tức phải hồn trả nợ gốc và lãi đúng hạn, tôn
trọng các điều kiện khác đã ghi trong hợp đồng tín dụng, bằng các tác
động như vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm đến việc nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay của vốn
tạo điều kiện nâng cao doanh lợi cho doanh nghiệp.


12


1.1.5.5 Tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với các doanh
nghiệp nước ngoài.
Trong điều kiện ngày nay, phát triển kinh tế của một quốc gia
gắn liền với kinh tế thế giới, tín dụng ngân hàng đã trở thành một
trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau.
Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói
riêng, tín dụng đóng vai trị quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu
hàng hoá, đồng thời nhờ nguồn tín dụng bên ngồi để cơng nghiệp
hố và hiện đại hố nền kinh tế.
1.1.6. Rủi ro tín dụng.
1.1.6.1 Khái niệm rủi ro tín dụng.
Rủi ro là vấn đề không được mong đợi trong tất cả các lĩnh vực
trong đời sống xã hội. Rủi ro có thể được hiểu một cách khái quát đó
là khả năng xảy ra các biến cố không lường trước, khi xảy ra sẽ làm
cho kết quả thực tế khác kết quả kỳ vọng theo kế hoạch. Rủi ro luôn
xuất hiện bất ngờ và đe dọa sự sống còn của doanh nghiệp, tuy nhiên
muốn có lợi nhuận thì phải chấp nhận nó, khơng được né tránh nó. Vì
vậy, để tồn tại và phát triển, để đứng vững trong cạnh tranh các doanh
nghiệp phải đương đầu với rủi ro có thể xảy ra bằng cách tiên liệu
phán đốn các rủi ro có thể xảy ra để tìm biện pháp phịng ngừa, hạn
chế nhằm giảm thiểu thiệt hại do rủi ro gây ra
Rủi ro tín dụng là một trong những loại rủi ro phổ biến nhất
trong hoạt động ngân hàng thương mại thị trường tài chính. rủi ro tín
dụng cũng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây hậu quả
nặng nề nhất đối với hoạt động của ngân hàng vì các khoản cho vay
thường chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3
nguồn thu của ngân hàng. hoạt động tín dụng tạo ra phần lớn nguồn
thu cho ngân hàng song cũng mang lại những thiệt hại nặng nề, có
khi dẫn đến phá sản ngân hàng. Rủi ro tín dụng là rủi ro phức tạp



13

nhất, quản lý và phịng ngừa khó khăn nhất. Nó địi hỏi ngân hàng
phải có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có thể hạn chế, ngăn
ngừa bớt rủi ro, giảm tối thiểu những thiệt hại có thể xảy ra.
Rủi ro tín dụng cũng đã được rất nhiều nhà khoa học nghiên
cứu và cũng đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau:
- Rủi ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng
không trả được nợ hoặc sự giảm sút chất lượng tín dụng của những
khoản vay.
- Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không
thu được đầy đủ gốc và lãi của khoản vay hoặc là việc thanh tốn nợ
gốc và lãi khơng đúng kỳ hạn.
- Rủi ro tín dụng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay
không thể chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời gian đã ấn
định trong hợp đồng tín dụng. Đây là thuộc tính vốn có của hoạt động
ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị trì hỗn, hoặc tồi tệ
hơn là khơng hồn trả được tồn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với
dòng chu chuyển tiền tệ, và gây ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản
của ngân hàng.
Nếu coi tín dụng là việc "tin tưởng" mà đưa cho khách hàng sử
dụng giá trị hiện tại với mong muốn nhận được giá trị tương lai trong
1 thời gian nhất định thì rủi ro tín dụng chính là khả năng mong muốn
đó khơng được đáp ứng hay nói một cách khác đó là khả năng xảy ra
sự khác biệt không mong muốn giữa kết quả thực tế và kết quả kỳ
vọng theo kế hoạch - đúng hạn nhận được đầy đủ gốc và lãi.
Với mục tiêu là đúng hạn theo hợp đồng tín dụng nhận được
đầy đủ gốc và lãi như đã nêu ở trên, thì rủi ro tín dụng có thể được
hiểu là những tổn thất tiềm năng có thể xảy ra do các bên đối tác

trong hợp đồng tín dụng khơng có khả năng hoặc khơng có đủ năng
lực thực hiện nghĩa vụ của họ một cách đầy đủ hoặc đúng hạn theo


14

cam kết.
Như vậy rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không trả, hoặc
không trả đầy đủ, hoặc không trả đúng hạn gốc và lãi cho ngân hàng.
Nói một cách khác rủi ro tín dụng là rủi ro mà bên vay trong một giao
dịch không thực hiện được theo thời hạn và điều kiện của hợp đồng
làm cho người cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính.
Như trên đã phân tích, rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động
quan trọng nhất của ngân hàng thương mại - hoạt động tín dụng. Các
khoản cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có
của ngân hàng thương mại, mang lại phần lớn thu nhập cho ngân
hàng, song cũng tiềm ẩn rủi ro lớn, có khi dẫn đến phá sản ngân hàng.
Trước khi cho vay, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người
vay sao cho độ an tồn là cao nhất. Nhìn chung ngân hàng chỉ quyết
định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ khơng xảy ra. Tuy nhiên
khơng phải bao giờ ngân hàng cũng dự tính chính xác các vấn đề sẽ
xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi
do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa nhiều cán bộ tín dụng ngân hàng
khơng có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy
trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là khơng
thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro
tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phịng, hạn chế,
chứ không thể loại trừ.
1.1.6.2 Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại.

a. Chỉ tiêu định tính.
Chúng ta có thể chia chỉ tiêu định tính thành các nhóm sau:
* Nhóm 1: Các chỉ tiêu liên quan tới mối quan hệ với ngân hàng, cụ
thể:


15

Mức độ vay thường xuyên gia tăng, chậm thanh toán các khoản
nợ gốc và lãi, thường xuyên yêu cầu ngân hàng cơ cấu nợ, yêu cầu
các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
Xu hướng của các tài khoản của khách hàng: Khó khăn trong
thanh tốn lương, giảm sút số dư tài khoản tiền gửi, thường xuyên
yêu cầu hỗ trợ vốn lưu động, gia tăng khoản nợ thương mại, …
Khách hàng thường xuyên sử dụng các khoản tài trợ ngắn hạn
cho các hoạt động dài hạn, chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt
nhất, đồng thời là dấu hiệu về việc vốn điều lệ của khách hàng đang
có xu hướng giảm sút, …
* Nhóm 2: Các dữ liệu sử lý thơng tin về tài chính kế tốn.
Biểu hiện đầu tiên là việc khách hàng cố tình giả mạo các số
liệu kế toán nhằm làm đẹp cho các báo cáo tài chính trình ngân hàng,
làm gia tăng giá trị thực của các tài sản khác. Hoặc trì hỗn việc trình
các chứng từ tài chính liên quan theo yêu cầu của ngân hàng. Bên
cạnh đó cịn có các dấu hiệu phi tài chính khác như sự suy giảm uy
tín, đạo đức của các bộ phận trong bộ máy của khách hàng.
*Nhóm 3: Các chỉ tiêu liên quan đến quản lý khách hàng.
Thể hiện đầu tiên là việc thay đổi thường xuyên chính sách
quản lý khách hàng, thay đổi cán bộ quản lý một cách bất hợp lý, các
chi phí phát sinh trong q trình quản lý khơng chính xác, các cán bộ
có trình độ yếu kém khơng theo kịp sự phát triển của khách hàng, …

chính từ những thay đổi và sự bất hợp lý trong quản lý khách hàng là
một dấu hiệu khá rõ ràng trong việc làm phát sinh các rủi ro tín dụng
trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
* Nhóm 4: Các chỉ tiêu về ưu tiên trong kinh doanh.
Do ngân hàng quá chú trọng về các hợp đồng lớn mà bỏ qua
các bước cần thiết trong thẩm định hay xem xét kỹ lưỡng trong q
trình ký hợp đồng tín dụng, hoặc rút ngắn thời gian thẩm định một


16

cách quá bất cẩn, …đây chính là mối đe doạ lớn nhất thể hiện khả
năng rủi ro tín dụng rất cao của ngân hàng.
* Nhóm 5: Các chỉ tiêu kỹ thuật và thương mại
Biểu hiện cụ thể như : Sự thay đổi lãi suất, tỷ giá, thị hiếu trên
thị trường, sự bất ổn định trên thị trường trong thời gian gần đây, việc
Việt Nam gia nhập vào tổ chức WTO làm tăng tính cạnh tranh, xuất
hiện nhiều đối thủ lớn,… hoặc có thể thấy sự ảnh hưởng rõ rệt từ
những thay đổi chính sách của Nhà Nước mà đặc biệt là chính sách
thuế, sự khơng ổn định trong hệ thống pháp luật cũng dẫn đến rủi ro
cho cả khách hàng và cho cả ngân hàng thương mại.
b. Chỉ tiêu định lượng.
* Tỷ lệ nợ quá hạn.
Nợ quá hạn được hiểu là các khoản nợ mà người vay khơng có
khả năng thanh toán đầy đủ và đúng hạn như hợp đồng tín dụng. Khi
đáo hạn món nợ này sẽ được chuyển sang nợ quá hạn.
* Tỷ lệ nợ xấu.
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 24/4/2005 của Thống
đốc NHNN “ v/v ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phịng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng

của TCTD” đã đánh giá chính xác hơn chất lượng tín dụng của các
TCTD qua chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ càng cao thì chất lượng tín dụng
càng kém và ngược lại. Nếu tỷ lệ nợ xấu nhỏ hơn 5% thì chấp nhận
được và tỷ lệ này càng nhỏ hơn 5% càng tốt.
Theo quyết định 493 thì dư nợ trong ngân hàng thương mại
được chia làm 5 nhóm và chỉ có nhóm nợ 3,4 và 5 được đưa vào nợ
xấu.
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn:


17

Các khoản nợ trong hạn, có khả năng thu hồi đủ cả gốc và lãi
đúng thời hạn. Các khoản nợ của khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi
theo kỳ hạn đã được cơ cấu lại tối thiểu trong vòng 1 năm đối với các
khoản nợ trung và dài hạn, 3 tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và
các kỳ hạn tiếp theo được đánh giá là có khả nâng trả đầy đủ nợ gốc,
lãi đúng hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại thì phân loại vào nợ
nhóm 1.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý:
Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại
thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn trả nợ đã cơ cấu lại được đánh
giá là có khả năng trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn.
Các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày; các khoản nợ
cơ cấu lại có thời hạn trả nợ quá hạn dưói 90 ngày theo thời hạn đã cơ
cấu lại
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ.
Nợ qúa hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại

thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày.
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn:
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; các khoản nợ chờ xử lý;
các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo
thời hạn đã cơ cấu lại.
Cơng thức tính:
tổng dư nợ nhóm 3,4 và
Tỷ lệ nợ xấu =
5
x 100%
tổng dư nợ
* Tỷ lệ nợ mất vốn.
Đây là tỷ lệ của nhưng khoản nợ có khả năng mất vốn vì vậy để
đảm bảo cho hoạt động ngân hàng thì cần phải trích lập quĩ dự phịng


18

tín dụng cho những khoản vay thuộc nhóm này và phải luôn chú ý để
tỷ lệ này ở mức thấp nhất có thể để tránh rrtd. cơng thức tính:
dư nợ mất vốn
x 100%
tổng dư nợ
* Tỷ lệ trích lập dự phịng RRTD.
Dự phịng rủi ro tín dụng là khoản tiền đã trích lập để dự phịng
cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng hoặc đối tác của
ngân hàng thương mại không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Tỷ lệ
này càng cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng không tốt
và rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải càng cao. Cơng thức:
tỷ lệ DPRR đã trích lập dự phịng rr đã trích lập

x 100%
=
tổng dư nợ
NHTM thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng
0,75% tổng giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 qui định tại
điều 6 hoặc điều 7 quyết định 493 để đảm bảo an tồn trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng.
* Tỷ lệ bù đắp rủi ro.
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng thì các trường hợp
sau được sử dụng quỹ dự phòng để xử lý RRTD:
- Khách hàng vay là tổ chức, doanh nghiệp bị giải thể, phá sản
theo qui định của pháp luật, cá nhân bị chết hoặc mất tích.
- Các khoản nợ thuộc nhóm 5 được qui định tại điều 6 và điều 7
quyết định 493.
cơng thức tính:
Dự phòng rr đã bù
Tỷ lệ bù đắp rủi ro = đắp
x 100%
tổng dư nợ
1.1.6.3. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng.
Tỷ lệ nợ mất vốn =


19

a. Nguyên nhân khách quan.
Các cán bộ tín dụng ngân hàng phải được đặt vào một tình
trạng phân tích người vay tương lai theo các điều kiện hiện tại và q
khứ: Phân tích các kỹ năng quản lý, tình hình sản xuất kinh doanh và

tình hình tài chính, q khứ của việc hồn trả nợ, uy tín, mức độ cạnh
tranh trên thị trường và thị phần...những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro
tín dụng. Tuy nhiên tình huống ở tương lai là một điều chưa được
biết, tương lai có thể mang đến các khó khăn bất ngờ, điều này sẽ dẫn
đến những khả năng có thể xảy ra rủi ro tín dụng trong tương lai.
Sự tác động của mơi trường bên ngồi thường khó dự đốn,
vượt q tầm kiểm sốt gây ra những thiện hại lớn cho người vay và
ngân hàng, bao gồm các loại sau:
- Sự thay đổi chính sách của chính phủ ảnh hưởng đến tình hình
tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng.
Hoạt động của ngân hàng và khách hàng đều chịu tác động của
môi trường kinh tế - xã hội. chính sách kinh tế vĩ mô ổn định sẽ giúp
cho hoạt động của khách hàng ít bị biến động, do vậy mà việc dự báo
về tình hình tài chính, kinh doanh của khách hàng cũng thuận lợi hơn.
Ngược lại, chính sách kinh tế vĩ mơ khơng ổn định thì ngân hàng rất
khó có thể phân tích, dự báo chính xác hoạt động kinh doanh, tài
chính của khách hàng trong tương lai cũng như khó có thể lường
trước được những rủi ro khách hàng phải đối mặt, do vậy mà ngân
hàng không thể đánh giá đúng khả năng trả năng trả nợ của khách
hàng trong tương lai, khi đó chất lượng tín dụng của ngân hàng
khơng đạt u cầu.
Chính sách của Chính Phủ ảnh hưởng tới hoạt động của các
doanh nghiệp, qua đó tác động đến hoạt động của ngân hàng trên các
phương diện sau:
Chính sách thuế: Chính sách thuế ảnh hưởng trực tiếp đến chi


20

phí của doanh nghiệp. Khi chính phủ có những thay đổi về chính sách

thuế, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị tác động và có thể
ảnh hưởng đến nguồn thu của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến
nguồn trả nợ ngân hàng.
Chính sách xuất- nhập khẩu vật tư thiết bị: Khi có bất kỳ sự
thay đổi nào về chính sách xuất nhập khẩu vật tư thiết bị sẽ ảnh
hưởng tức thời và trực tiếp đến chi phí và doanh thu của doanh
nghiệp, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất
kinh doanh và làm giảm doanh thu, từ đó gây khó khăn cho việc trả
nợ ngân hàng và vì vậy rủi ro tín dụng của ngân hàng tăng lên.
Chính sách chung về các yếu tố đầu vào: Chính sách này cũng
gây tác động trực tiếp đến chi phí của doanh nghiệp, có thể đẩy doanh
nghiệp vào khó khăn và dẫn đến mất khả năng trả nợ ngân hàng.
- Môi trường tự nhiên.
Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng tới
hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nơng
nghiệp, điều kiện tự nhiên là yếu tố khó dự đốn, nó thường xảy ra
bất ngờ với thiệt hại lớn nằm ngồi tầm kiểm sốt của con người. Vì
vậy khi có thiên tai, địch hoạ xảy ra khách hàng cùng ngân hàng sẽ có
nguy cơ tổn thất lớn, phương án kinh doanh khơng có nguồn thu…
điều đó đồng nghĩa với ngân hàng phải cùng chia sẻ rủi ro với khách
hàng của mình. Ảnh hưởng của mơi trường tự nhiên, đặc biệt là
những thảm hoạ tự nhiên là khó dự đốn, khó phịng ngừa và khi rủi
ro xảy ra thì ngân hàng và khách hàng phải gánh chịu tổn thất
- Môi trường kinh tế xã hội.
Môi trường kinh tế xã hội trong nước biến động chịu ảnh hưởng
của những biến động từ nền kinh tế thế giới, đó là nguyên nhân làm
phát sinh rủi ro trong hoạt động kinh doanh của nền kinh tế, từ đó ảnh
hưởng tới các lĩnh vực của nền kinh tế trong đó ngân hàng là ngành



21

chứa đựng nguy cơ rủi ro lớn nhất. Môi trường kinh tế có ảnh hưởng
rất lớn đến sức mạnh tài chính của người vay và thiệt hại hay thành
cơng của người vay. Trong giai đoạn kinh tế phát triển, người vay
hoạt động hiệu quả nhưng trong giai đoạn khủng hoảng khả năng trả
nợ của người vay sẽ bị giảm sút. Thơng thường, các khoản cho vay
khó được thu hồi trong trường hợp khủng hoảng kinh tế xảy ra.
Bên cạnh đó hoạt động kinh doanh tín dụng phụ thuộc rất nhiều
vào thói quen, truyền thống, tập quán của người dân. Những yếu tố
đó nhiều khi gây khó khăn và hạn chế việc mở rộng hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
Những tác động của mơi trường bên ngồi tới người vay làm
cho họ bị tổn thất tài chính dẫn đến việc khơng thực hiện được đầy đủ
hoặc đúng hạn cam kết trả nợ gốc và lãi đối với ngân hàng thậm chí
là mất khả năng thanh toán đi đến phá sản hoặc giải thể.
b. Ngun nhân từ phía khách hàng vay vốn.
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh
doanh, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng,
chây ì,… là các nguyên nhân gây rủi ro tín dụng.
* Khách hàng vay vốn khơng có khả năng trả nợ ngân hàng.
- Khách hàng yếu kém trong quản lý, đặc biệt là quản lý tài
chính: Trường hợp người vay có trình độ yếu kém về quản lý, khơng
tính tốn kỹ lưỡng hoặc khơng có khả năng tính tốn kỹ lưỡng những
bất trắc có thể xảy ra, khơng có khả năng thích ứng và khắc phục khó
khăn trong kinh doanh sẽ dẫn tới vốn vay khơng được sử dụng hiệu
quả. Ngồi ra, việc yếu kém trong quản lý tài chính có thể dẫn tới
trường hợp dù dự án hay quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả
song nguồn trả nợ ngân hàng sẽ khơng được đảm bảo. Như vậy
doanh nghiệp khơng có khả năng hoàn trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng

hạn cho ngân hàng


22

- Khách hàng gặp rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh:
Khi người vay gặp những rủi ro từ thị trường (ví dụ nhu cầu về loại
sản phẩm của doanh nghiệp bất ngờ giảm sút do một số thông tin bất
lợi), từ bạn hàng (ví dụ doanh nghiệp bị bạn hàng chiếm dụng vốn và
khơng hồn trả đúng thời hạn quy định) hoặc từ những rủi ro không
dự kiến được tác động đến nguồn thu của doanh nghiệp và khả năng
trả nợ ngân hàng.
* Khách hàng chủ định lừa đảo ngân hàng.
Trường hợp này người vay kinh doanh có lãi song vẫn không
trả nợ cho ngân hàng đúng hạn hoặc khơng muốn trả nợ ngân hàng.
Họ chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu
càng tốt.
Rủi ro đạo đức là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo
ra sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức phát sinh do các
hành động có tác động đến hiệu quả nhưng lại khơng dễ dàng quan
sát được và vì thế những người thực hiện các hành động này có thể
chọn theo đuổi những lợi ích cá nhân của mình trên cơ sở gây tổn hại
cho người khác. Rủi ro đạo đức trong lĩnh vực tài chính xảy ra sau
khi cấp tín dụng, những người được cấp tín dụng ln có xu hướng
muốn thực hiện các đầu tư rủi ro hơn những người cho vay mong đợi,
vì chủ đầu tư sẽ có được những khoản lợi nhuận rất lớn nếu dự án
thành cơng, trong khi những người cấp tín dụng chỉ nhận được một
khoản lợi ích cố định. Ngược lại, nếu dự án thất bại thì bên cho vay
sẽ bị mất một phần hoặc tồn bộ vốn do khơng được hồn trả đầy đủ.
c. Nguyên nhân từ bản thân ngân hàng.

* Quan điểm của lãnh đạo điều hành.
Ban lãnh đạo ngân hàng thường đề ra mức rủi ro tối đa có thể
chấp nhận được trong mỗi thời kỳ (khẩu vị rủi ro). Do rủi ro càng cao
thì lợi nhuận kỳ vọng càng lớn, nên có một số ngân hàng chấp nhận


23

cho vay những dự án mạo hiểm để thu về lợi nhuận cao. Nếu ngân
hàng thương mại có quan điểm đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên nhất
thì cơ chế quản lý sẽ khuyến khích và tạo điều kiện để bộ phận có
liên quan tìm kiếm, quyết định những khoản cho vay, đầu tư có thu
nhập kỳ vọng cao nhưng tiềm ẩn rủi ro lớn; đồng thời các quy định về
kiểm tra, kiểm soát, đặc biệt là tiêu chuẩn để xem xét, đánh giá khi
quyết định cho vay cũng sẽ thấp hơn trong khi tiêu chí về khả năng
sinh lời rất được coi trọng. Trường hợp ngược lại nếu quan điểm kinh
doanh lấy an tồn làm chính thì các quy định về cơ chế quản lý tài
sản trong việc thẩm định, xem xét trước khi ra quyết định cho vay,
đầu tư sẽ chặt chẽ hơn, cụ thể hơn, các tiêu chuẩn để phục vụ cho
việc ra quyết định, việc kiểm tra, giám sát cũng được đặt ở mức cao
hơn. các ngân hàng thương mại phải biết lựa sức mình để xác định lợi
nhuận hợp lý.
* Sự yếu kém về công nghệ của ngân hàng.
Ngày nay trình độ cơng nghệ là yếu tố quan trọng trong tổ chức
kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là đối với quản trị rủi ro tín dụng. Vì
trình độ cơng nghệ càng cao càng trợ giúp cho ngân hàng sàng lọc
những khách hàng, ngành nghề đang có mức độ rủi ro cao cũng như
các cơ sở dữ liệu thông tin về từng khách hàng. Ở các nước phát
triển, công nghệ ngân hàng cũng rất phát triển, đặc biệt là trong điều
kiện có sự hỗ trợ hết sức hiệu quả của công nghệ thông tin như ngày

nay. Công nghệ ngân hàng thể hiện ở mức độ tập trung thơng tin, ở
khả năng phân tích, xử lý thơng tin, từ đó rút các kết luận, nhận định
phục vụ cho quản trị ngân hàng như các nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng, tình hình phân bổ tài sản, mức độ tập trung rủi ro.... cơng nghệ
của ngân hàng cịn thể hiện khả năng chi phối, kiểm soát đối với hoạt
động của các bộ phận tác nghiệp. Ở mỗi trình độ cơng nghệ khác
nhau đều phải địi hỏi một cơ chế quản lý khác nhau.


24

* Trình độ của cán bộ ngân hàng.
Chất lượng cán bộ tín dụng đóng vai trị then chốt trong việc
sàng lọc được các khách hàng tốt, dự án tốt. Cán bộ tín dụng phải tiếp
xúc với nhiều khách hàng ở nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau,
nhiều vùng, lãnh thổ, thậm chí nhiều quốc gia khác nhau, để đánh giá
tốt khách hàng họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng
kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Cán bộ tín dụng phải có
khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến khách hàng vay. Như vậy,
cán bộ tín dụng phải được đào tạo và tự đào tạo kỹ lưỡng và tồn
diện. Khi cán bộ tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ
trình độ để hiểu kỹ lưỡng rủi ro tín dụng ln rình rập họ. Nguyên
nhân rủi ro từ sự yếu kém của đội ngũ nhân viên ngân hàng có thể từ
việc:
Khơng phân tích đầy đủ khả năng quản lý kinh doanh của
doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp vai trò của người lãnh đạo rất
quan trọng, sự thành bại trong hoạt động phụ thuộc rất nhiều vào định
hướng và ra quyết định của người lãnh đạo doanh nghiệp đó. Nếu cho
vay mà khơng đánh giá đúng khả năng của người quản lý sẽ dễ dẫn
đến tổn thất.

Phân tích báo cáo tài chính khơng chính xác, khơng biết đánh
giá món vay có hiệu quả thật hay sẽ có nhiều rủi ro. Với doanh
nghiệp nào đó đang trong tình trạng suy thối mà nhân viên ngân
hàng yếu kém trong việc đánh giá phân tích cho vay thì món vay đó
sẽ khó thu hồi được.
Kiến thức về mặt kinh tế xã hội luật pháp của nhân viên ngân
hàng hạn chế, không nắm vững được quy chế thể lệ tín dụng cũng
dẫn đến rủi ro. Khi người đi vay không lường hết rủi ro mà nhân viên
ngân hàng cũng không hiểu biết để tư vấn cho khách hàng thì khi
doanh nghiệp bị thua lỗ sẽ khơng thể trả nợ ngân hàng.


25

Việc định kỳ hạn trả nợ khơng chính xác, sau khi cho vay ngân
hàng thiếu sự giám sát theo dõi để người vay sử dụng vốn sai mục
đích, khơng có biện pháp xử lý kịp thời cũng dẫn đến rủi ro tín dụng.
* Đạo đức của cán bộ tín dụng.
Với các khoản vay càng nhiều rủi ro và không đảm bảo những
điều kiện tín dụng đặt ra, khách hàng vay thường bỏ ra những khoản
“hoa hồng” rất lớn để có thể vay được tiền. Điều này dẫn tới tình
trạng một số cán bộ tín dụng cố ý làm sai quy trình tín dụng hay bỏ
sót một vài bước trong quy trình để nhằm nhận được những khoản
"hoa hồng" từ khách hàng. Bởi vậy, chất lượng cán bộ tín dụng bao
gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp khơng đảm bảo cũng sẽ dẫn
đến rủi ro tín dụng.
* Yếu kém trong việc phối hợp tác nghiệp.
Rủi ro tín dụng có thể xuất phát từ tất cả các khâu của quá trình
cấp tín dụng của ngân hàng thương mại bao gồm: Trong giai đoạn
trước khi cho vay, trong giai đoạn giải ngân và trong giai đoạn quản

lý khoản vay của khách hàng.
Ở giai đoạn trước khi cho vay việc không chấp hành nghiêm túc
chế độ tín dụng, điều kiện cho vay; xem xét, đánh giá khách hàng,
khoản vay không kỹ, không tốt sẽ dẫn đến khả năng xảy ra rủi ro tín
dụng trong tương lai.
Ở giai đoạn giải ngân và giai đoạn quản lý khoản vay: Giải
ngân không tuân thủ theo điều kiện; yếu kém trong kiểm sốt, theo
dõi (khơng kiểm sốt mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng, việc
kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của
khách hàng bị bng lỏng, việc kiểm sốt, theo dõi danh mục khoản
vay không được thực thi một cách có hiệu quả) sẽ dẫn đến khả năng
xảy ra rủi ro tín dụng trong tương lai.
1.1.6.4. Hậu quả của rủi ro tín dụng.


×