Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Vai trò của lý thuyết trong nghiên cứu nghệ thuật ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157 KB, 13 trang )

VAI TRÒ CỦA LÝ THUYẾT
TRONG NGHIÊN CỨU NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM
Bùi Thị Thanh Mai

Ở phương Tây những đúc kết lý giải về nghệ thuật đã xuất hiện từ thời cổ đại, tích
hợp theo thời gian và trở thành hệ thống lý thuyết quan trọng về nghệ thuật. Ở
phương Đông, Lục pháp luận của Trung Hoa hay Sadanga của Ấn Độ cũng là
những đúc kết quan trọng về nghệ thuật. Cho đến nay, xét về việc xây dựng và
nghiên cứu lý thuyết, phương Tây đã đạt được những thành tựu xuất sắc. Các giai
đoạn trong lịch sử nghệ thuật nhân loại được tổng kết, lý giải, đồng thời những nhà
nghiên cứu không ngừng tìm tòi xây dựng các lý thuyết mới. Sự tiếp xúc giao lưu
với phương Tây thông qua văn hóa Pháp đầu thế kỷ XX đã đưa hệ thống lý thuyết
của phương Tây thâm nhập vào Việt Nam, tác động đến hệ tư tưởng, tạo sự phát
triển đột biến trong sáng tác văn học nghệ thuật và nghiên cứu học thuật. Lý thuyết
đóng vai trò nền tảng cho các công trình nghiên cứu ở mọi lĩnh vực, nhưng nghiên
cứu về lý thuyết và vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu nghệ thuật vẫn chưa được
quan tâm nhiều. Xuất phát từ thực tiễn nghiên cứu nghệ thuật ở Việt Nam, bài viết
này có mục đích tìm hiểu các vấn đề: lý thuyết và vai trò của lý thuyết trong nghiên
cứu khoa học, vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu nghệ thuật ở Việt Nam, đại học
với nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển lý thuyết.
Lý thuyết và vai trò của lý thuyết trong nghiên cứu khoa học
Trước hết, ta cần xác định khái niệm “lý thuyết” và những thuật ngữ liên quan đến
“lý thuyết” như “lý luận”, “lý thuyết gia”, “mang tính lý thuyết”… Về xuất xứ, từ
lý thuyết xuất phát từ khái niệm “theoria” trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là nhìn,
chiêm niệm, xem, hoặc suy xét. Trong tiếng Anh, từ “lý thuyết” xuất hiện vào
khoảng cuối thế kỷ XVI. Nội hàm của khái niệm này được bàn luận trong văn bản
của Norris vào năm 1710: “Nghiên cứu kiến thức, chiêm ngưỡng sự thật của chính
nó, đó là cái mà ta gọi là lý thuyết” 1. Chúng ta ngày nay theo bản năng phản ứng lại
với từ “sự thật” nhưng rõ ràng Norris đã sử dụng từ “sự thật" để biểu thị về sự hiểu
biết bản chất của đối tượng được ngắm nhìn, được suy xét. Nói cách khác, đó là
toàn bộ công việc tìm kiếm cho sự hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên và


xã hội, thưởng ngoạn cách này hay cách khác bản chất của đối tượng hoặc hiện
tượng và tìm cách giải thích bản chất hoặc thuộc tính của nó. Như vậy, bất kỳ sự
truy tìm để giải thích bản chất của một sự vật vì bản thân nó, nhằm để biết bản chất
là gì, đó chính là lý thuyết. Đây là một trong những cách nhìn và diễn giải về lý
thuyết: sự suy xét một đối tượng được thực hiện bởi mục đích hiểu biết bản chất
của nó. Tiếp theo, một ý nghĩa khác của lý thuyết có phần phức tạp hơn khi giải
thích bởi nó phát triển trong việc xây dựng các quy tắc tri thức, biểu thị hệ thống ý
1


tưởng để giải thích các sự kiện hay hiện tượng. Lý thuyết theo nghĩa này bao gồm
tập hợp các mệnh đề hoặc thiết lập mệnh đề bằng sự quan sát hay thực nghiệm.
Năm 1819, Playfair khi nghiên cứu về triết học tự nhiên đã nhận xét rằng, “lý
thuyết thường không là gì nhưng là phương pháp để thấu hiểu một số sự kiện nhất
định dưới một biểu thức”2. Đó là khởi điểm của khái niệm và những giải thích bước
đầu về lý thuyết. Trải qua thời gian, lý thuyết được định nghĩa theo nhiều cách khác
nhau, do đấy diễn giải nội hàm ý nghĩa của khái niệm này khá phong phú.
Theo Từ điển Tiếng Việt3 của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên từ “lý
thuyết” là danh từ với ba cách giải nghĩa như sau: thứ nhất, theo nghĩa cũ và ít dùng
“lý thuyết” như “lý luận”; thứ hai, lý thuyết là kiến thức về lý luận (nói khái quát),
trái ngược với thực hành; thứ ba, lý thuyết là công trình xây dựng có hệ thống của
trí tuệ, có tính chất giả thuyết, tổng hợp nhằm giải thích một loại hiện tượng nào
đó. Liên quan đến khái niệm “lý thuyết” có khái niệm “lý luận”. Về mặt từ loại,
danh từ “lý luận” được giải nghĩa là hệ thống những tư tưởng được khái quát từ
kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn, những kiến thức khái quát và
hệ thống tổng quát; động từ “lý luận” có nghĩa là nói lý luận, giải thích bằng lý luận
(hàm ý chê). Còn Từ điển và Danh từ Triết học 4 của Trần Văn Hiến Minh xuất bản
năm 1966 thì định nghĩa: lý luận là “Nghị luận căn cứ vào lý trí, vào thuyết lý”; lý
luận gia là “nhà chuyên môn về luận lý học”; lý thuyết là “Học để biết, chứ không
để áp dụng vào hành động, gọi là cái học lý thuyết; và lý thuyết học “Theo kiểu

phân loại của Aristote, toán, vật lý và thần học, đều là lý thuyết học (đối lập với
thực tế học và thi phú học), trong đó con người triệt để sử dụng trí khôn của mình”.
Trong tiếng Anh, từ “theory” được dịch sang tiếng Việt là lý thuyết. Theo từ điển
WordWeb5 danh từ “theory” có 3 nghĩa: 1. Một lời giải thích đã được chứng minh
về khía cạnh nào đó của thế giới tự nhiên; một hệ thống tổ chức kiến thức được áp
dụng trong nhiều hoàn cảnh để giải thích hiện tượng; 2. Một cái nhìn sâu sắc vào
thế giới tự nhiên, một khái niệm chưa được xác nhận nhưng nếu đúng sẽ giải thích
các sự kiện nhất định hoặc các hiện tượng; 3. Một niềm tin có thể hướng dẫn hành
vi. Liên quan đến thuật ngữ “theory” có các thuật ngữ “theoretician” và “theorist”
có nghĩa là nhà lý thuyết hay lý thuyết gia, động từ “theorise” hay “theorize” là tạo
ra lý thuyết, người xây dựng, hình thành nên lý thuyết hay người chuyên về lý
thuyết của một bộ môn cụ thể. Ngoài ra, theorize còn có nghĩa là nói lý luận. Tính
từ “theoritical” hay “theoritic” có nghĩa là mang tính lý thuyết. Từ điển Oxford
Wordfinder6 có hai cách giải nghĩa về khái niệm “lý thuyết”: 1. hệ thống các ý
tưởng giải thích sự vật; 2. học thuyết (doctrine). Còn Từ điển Larousse 7 định nghĩa
lý thuyết là tập hợp các định lý và định luật được sắp xếp một cách hệ thống, được
kiểm chứng bằng thực nghiệm. Đại từ điển Anh-Hoa 8 của Trịnh Dị Lý chuyển ngữ
thuật ngữ “theory” trong tiếng Anh thành lý luận, học lý, luận thuyết, học thuyết.
Nhận xét về việc sử dụng khái niệm “lý thuyết” trong bối cảnh Việt Nam, tác giả
Vũ Cao Đàm cho rằng: “Căn cứ vào thực tế nghiên cứu ở nước ta, có thể hiểu khái
niệm lý thuyết như theory trong tiếng Anh hiện đại và có ý nghĩa nằm giữa hai khái
2


niệm lý luận và học thuyết trong tiếng Hán hiện đại”9. Nhìn chung, tuy cách giải
thích có khác nhau song lý thuyết được hiểu là hệ thống kiến thức, tri thức khoa
học, các khái niệm, phạm trù và quy luật về bản chất sự vật và mối liên hệ cơ bản
giữa các sự vật trong thế giới hiện thực.
Lý thuyết là nền tảng cho các công trình nghiên cứu ở mọi lĩnh vực. Bởi lẽ, lý
thuyết là kinh nghiệm, kiến thức, tri thức, trí tuệ của các thế hệ tích lũy lại, cung

cấp cho người nghiên cứu cơ sở kiến thức để lập luận và kiến giải các vấn đề
nghiên cứu. Bất kỳ một bộ môn khoa học nào nếu đã gọi là khoa học bao giờ cũng
có một hệ thống lý thuyết. Mỗi lý thuyết đóng góp một cách nhìn và giá trị riêng.
Những người nghiên cứu lý thuyết có thể ví như những nghệ sĩ phiêu lưu khai phá
những vùng đất tri thức mới và lịch sử nghiên cứu khoa học cho thấy, khi một lý
thuyết mới xuất hiện thường kèm theo nó là sự ra đời những khái niệm, thuật ngữ
mới. Đó là sự tất yếu của quá trình phát triển hệ thống lý thuyết.
Khi ta bắt đầu đặt câu hỏi tại sao và đi tìm câu trả lời về một vấn đề nào đấy chính
là bắt đầu công việc nghiên cứu. Để thực hiện nghiên cứu khoa học, công việc đầu
tiên mỗi nhà nghiên cứu cần phải tiến hành đó là thao tác xác định khái niệm, lý
thuyết; xây dựng hoặc vận dụng các cơ sở lý luận, tức luận cứ lý thuyết cho nghiên
cứu của mình. Như Jean François Lyotard trong quá trình tìm hiểu và lý giải những
biến đổi của xã hội tạo nên một tâm thức mới về phương diện triết học sau chiến
tranh thế giới thứ hai bộc lộ rõ qua các loại hình nghệ thuật cùng với sự phê bình
nghệ thuật và mỹ học đã soạn cuốn “Hoàn cảnh hậu hiện đại” 10. Việc đưa ra khái
niệm “hậu hiện đại” cùng những luận bàn kiến giải của Jean François Lyotard đã
khiến tên tuổi ông lừng danh trong các cuộc nghị luận triết học về hậu hiện đại.
Công trình mô tả sự chuyển biến từ hiện đại sang hậu hiện đại, lý giải và cắt nghĩa
về sự xuất hiện cũng như đặc điểm của hoàn cảnh hậu hiện đại. Tiếp theo, năm
1982 Jean François Lyotard khi tìm kiếm “Trả lời câu hỏi: Hậu-hiện đại” đã nghiên
cứu xác định khái niệm hậu hiện đại. Theo Bùi Văn Nam Sơn, “Bài viết này đặc
biệt lý thú: Lyotard chính thức trả lời những sự phê phán và ngộ nhận đối với “hậuhiện đại” như là trào lưu phản-hiện đại và tân bảo thủ, đồng thời giãi bày rõ ba
bước “trưởng thành” của tâm thức hậu-hiện đại: từ quan niệm mới về nghệ thuật và
mỹ học tiến lên triết học hậu-hiện đại.”11
Trong lĩnh vực nghệ thuật, lý thuyết chính là hệ thống kiến thức được khái quát từ
thực tiễn sáng tác nghệ thuật. Trước hết, lý thuyết là những nghiên cứu về nghệ
thuật, đúc kết thành các vấn đề lý thuyết mang tính phổ quát. Tiếp theo, lý thuyết
nghệ thuật là những nghiên cứu vận dụng các lý thuyết để xem xét nghệ thuật dựa
trên giả thuyết được xây dựng trên cơ sở của lý thuyết đó và tập trung vào vấn đề
mà người nghiên cứu cho là quan trọng. Ở trường hợp thứ nhất, chẳng hạn như

Charlotte Cotton khi viết cuốn “The photograph as contemporary art” 12 (Ảnh chụp
với tư cách là nghệ thuật đương đại) đã phân loại nhiếp ảnh thành nhiều dạng khác
nhau như nhiếp ảnh tư liệu; nhiếp ảnh kể chuyện; nhiếp ảnh vô cảm; nhiếp ảnh đồ
3


vật; nhiếp ảnh về cuộc sống riêng tư; nhiếp ảnh về khoảnh khắc lịch sử; nhiếp ảnh
phục chế và cải biến lại. Chương cuối xem xét lý do tại sao rất nhiều nghệ sĩ trong
thời đại kỹ thuật số vượt qua các ranh giới định nghĩa về nhiếp ảnh truyền thống, sử
dụng công nghệ để đạt được các hiệu quả thị giác khác nhau. Cuốn sách của
Charlotte Cotton không chỉ là một giới thiệu tuyệt vời về thế giới của nhiếp ảnh
đương đại mà những vấn đề nghiên cứu được thiết lập trong mỗi chương trở thành
cơ sở để hiểu được các xu hướng sáng tác chính của nhiếp ảnh đương đại. Ở trường
hợp thứ hai, chẳng hạn công trình “What is Contemporary art?” 13 (Nghệ thuật
đương đại là gì?) của sử gia và nhà lý luận nghệ thuật Terry Smith. Trong đó, ông
đã lý giải thuật ngữ “Contemporary Art” và vị trí của nó trong lịch sử nghệ thuật.
Cuốn sách bao gồm sáu phần14: 1, Viện Bảo tàng: Hiện đại/ Đương đại; 2, Quang
cảnh: Kiến trúc/ Điêu khắc; 3, Thị trường: Toàn cầu/ Địa phương; 4, Ngược dòng:
Nam/ Bắc; 5, Tính đương đại: Thời gian/ Địa điểm; 6, Một giả thuyết lịch sử nghệ
thuật. Trước khi kiến giải các vấn đề, Terry Smith đã dẫn luận về khái niệm
“Contemporary Art” (Nghệ thuật đương đại). Tuy có thể có những ý kiến khác
nhau xung quanh công trình này, song trong ngữ cảnh bàn về xây dựng lý thuyết và
vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu nghệ thuật, ta có thể thấy phương pháp nghiên
cứu của Terry Smith như sau: xây dựng khái niệm, sau đó kiến giải các giả thuyết
khoa học trên cơ sở của lý thuyết đã được xây dựng.
Như vậy, vai trò của lý thuyết trong nghiên cứu khoa học là cung cấp các khái
niệm, khung lý thuyết để kiến giải câu hỏi nghiên cứu, tường minh các vấn đề
nghiên cứu. Lý thuyết được sử dụng để làm chỗ dựa, là bệ đỡ để chứng minh các
giả thuyết khoa học. Trong nghiên cứu nghệ thuật, có thể ví việc sử dụng hệ thống
lý thuyết như việc sử dụng những ống kính khác nhau để diễn giải vấn đề, hiện

tượng trong trường của lý thuyết đó.
Vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu nghệ thuật ở Việt Nam
Xét về mặt lịch sử, từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khoa nghiên cứu mỹ thuật
xuất hiện ở Việt Nam cùng với sự tiếp xúc văn hóa phương Tây thông qua văn hóa
Pháp. Viện Viễn Đông Bác cổ (École française d’Extreme-Orient, viết tắt là EFEO)
thành lập năm 1900 và năm 1902 trụ sở của EFEO được đặt ở Hà Nội với nhiệm vụ
khai quật khảo cổ, sưu tầm các bản thảo viết tay, bảo tồn các công trình, nghiên cứu
về dân tộc học, ngôn ngữ và lịch sử các nước châu Á. Trên cơ sở ấy, bắt đầu xuất
hiện những nghiên cứu chuyên ngành ở các lĩnh vực như khảo cổ học, sử học, ngôn
ngữ, tôn giáo, mỹ thuật. Giai đoạn này cũng đánh dấu bước đầu nghiên cứu học
thuật, sự ra đời và mở rộng các trường đại học ở Việt Nam. Các học giả người Pháp
là những người đầu tiên sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học phương Tây để
nghiên cứu về nghệ thuật truyền thống ở Đông Dương như Gustave Dumoutier, L.
Cadiere, Henri Parmentier, Victor Golubev, Louise Bezacier...

4


Từ những năm 1880, Gustave Dumoutier (1850-1904), thành viên tương lai của Ủy
ban cổ vật, đã đóng vai trò chủ chốt trong việc công nhận các di tích ở Hà Nội.
Được giao nhiệm vụ chuẩn bị kiểm kê và mô tả các di tích lịch sử ở Bắc Kỳ,
Gustave Dumoutier mở đầu bằng việc nghiên cứu các ngôi chùa ở Hà Nội. Năm
1887, ông công bố nghiên cứu của mình trong công trình “Les Pagodes de Hanoi”
(Các chùa Hà Nội). Năm 1891, Gustave Dumoutier tiếp tục công bố cuốn “Les
Symboles, Les Emblèmes et les Accessoire du culture chez les Annamites” (Những
biểu tượng, hình tượng và đồ thờ văn hóa của người An Nam). Ngoài ra, ông còn
nhiều công trình khảo cứu khác về ngôn ngữ văn học Việt Nam. L. Cadiere (18691955) vừa truyền đạo vừa đi sâu nghiên cứu văn hóa Việt Nam trên các lĩnh vực
ngôn ngữ học, sử học, dân tộc học, tôn giáo và mỹ thuật… Từ năm 1901, L.
Cadiere đã công bố những nghiên cứu khoa học trên tạp chí của trường Viễn Đông
Bác cổ Pháp (Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient). Công trình nghiên

cứu mỹ thuật quan trọng của L. Cardiere “L’Art à Hue” (Mỹ thuật Huế) là ấn phẩm
đặc biệt có vị trí quan trọng trong thư mục nghiên cứu mỹ thuật Huế, nằm trong tập
VI, ấn bản năm 1919 của tập san “Bulletin des Amis du Vieux Hue” (Những người
bạn cố đô Huế). Henri Parmentier (1871-1949), chuyên gia nghiên cứu về văn hóa
Chăm pa cổ là người đã đưa ra qui ước phân chia và phân loại đền tháp Mỹ Sơn,
đặt nền tảng cho việc nghiên cứu mỹ thuật Chăm pa. Victor Golubev (1878-1945),
nhà khoa học Pháp gốc Nga là nhà Đông phương học nổi tiếng có nhiều đóng góp
vào việc nghiên cứu văn hóa phương Đông và văn hóa Việt Nam. Năm 1925, ông
nghiên cứu và công bố bài viết về chạm khắc bãi đá cổ Sapa trên tạp chí EFEO
(École française d’Extrême-Orient) “Roches gravees dans la region de chap”
(Tonkim). Loius Bezacier, học giả người Pháp đã xuất bản những nghiên cứu về
nghệ thuật Việt Nam như “L’architecture religieuse au Tonkim” (Kiến trúc tôn giáo
ở Bắc Bộ), Cahiers de I’EFEO 14, p.19-25 (1938), “Les sépultures royales de la
dynastie des Lê postérieurs” (Lăng mộ hoàng gia thời Hậu Lê), BEFEO 44/1, p. 2142 (1951), “L’Art Vietnamien” (Nghệ thuật Việt Nam), Paris, éd, de l’Union
française, 236 p (1955), “Les bas-reliefs du temples Ninh Phuc à But Thap, Nord
Vietnam (Các phù điêu ở chùa Ninh Phúc, Bút Tháp, Bắc Việt Nam), Arts
asiatiques 11/1, p. 3-72 (1965)… Các phương pháp điền dã, thu thập thông tin,
quan sát, phân tích tài liệu, phân loại, thống kê, điều tra, phân tích di tích và hiện
vật… đã truyền vào Việt Nam qua những nghiên cứu khoa học của các học giả
người Pháp. Song, khoa chuyên đào tạo về lịch sử, lý luận và phê bình mỹ thuật thì
thành lập muộn hơn rất nhiều. Trường Mỹ thuật Đông Dương được thành lập năm
1925, tuy nhiên mục tiêu của nhà trường khi ấy chỉ chú trọng đào tạo họa sĩ, điêu
khắc gia và kiến trúc sư chứ chưa chú ý đến đào tạo người làm công tác nghiên cứu
mỹ thuật. Khoảng từ năm 1930, nghiên cứu, phê bình mỹ thuật bắt đầu được tiến
hành bởi một số nhà văn hoặc do một số họa sĩ thực hiện. Những tác giả như
Nguyễn Đỗ Cung, Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Tô Tử (Tô Ngọc Vân), Nhất
Linh, Nguyễn Văn Tỵ, Sĩ Ngọc… là những người tự học, tự đào tạo về nghiên cứu,
5



phê bình mỹ thuật. Đến năm 1962, Viện Mỹ thuật - Mỹ nghệ ra đời với nhiệm vụ
chuyên trách công tác nghiên cứu mỹ thuật Việt Nam. Hoạt động của Viện tập
trung vào việc xây dựng Bảo tàng Mỹ thuật và đến năm 1968, tập san mỹ thuật đầu
tiên về nghiên cứu lý luận phê bình ra đời. Năm 1978, khoa Lý luận và lịch sử mỹ
thuật được thành lập. Đến lúc ấy chúng ta mới có đầy đủ một bộ khung, cơ cấu về
đào tạo và nghiên cứu mỹ thuật bao gồm: khoa Lý luận và lịch sử mỹ thuật có chức
năng đào tạo người làm công tác lý luận, lịch sử, phê bình mỹ thuật và Viện Mỹ
thuật có chức năng nghiên cứu mỹ thuật.
Những năm 1930 đến 1945, hệ thống lý thuyết văn học nghệ thuật của phương Tây
chủ yếu là của Pháp được giới thiệu, vận dụng ở Việt Nam. Sự kiện này mở ra tư
duy lý thuyết ở một nền văn học nghệ thuật vốn không có thành tựu và truyền
thống về lý thuyết. Do hoàn cảnh lịch sử, giai đoạn 1945 đến 1975 văn học nghệ
thuật miền Nam tiếp cận với chủ nghĩa hiện đại phương Tây. Trong khi đó, học
thuyết macxit được giới thiệu và chiếm vị trí độc tôn trong nghiên cứu văn học
nghệ thuật ở miền Bắc. Sau khi đất nước thống nhất, lý thuyết nghệ thuật hiện thực
xã hội chủ nghĩa chiếm vị trí quan trọng trong nghiên cứu và sáng tác văn học nghệ
thuật ở cả hai miền. Nhận xét về nghiên cứu lý thuyết văn học nghệ thuật ở Việt
Nam khi ấy, PGS. TS Phan Trọng Thưởng cho rằng: “Nhưng chính trong thời kỳ
này, do sự độc tôn của lý thuyết nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa, các lý
thuyết ngoài hệ thống, trong đó bao gồm cả Âu - Mỹ hiện đại đã không có được
chỗ đứng cần thiết trong đời sống tư tưởng học thuật của Việt Nam cũng như một
số nước khác trong khu vực. Trong một thời kỳ dài, Việt Nam tiếp xúc với các hệ
thống lý thuyết phương Tây với thái độ kỳ thị và quan điểm phiến diện.” 15 Công
cuộc đổi mới bắt đầu từ năm 1986 đã mở ra cơ hội giao lưu, hội nhập quốc tế trên
mọi lĩnh vực. Sáng tác nghệ thuật đã có những biến chuyển quan trọng, nghệ thuật
tạo hình vượt ra ngoài ranh giới giữa các loại hình, loại thể, xuất hiện những nghệ
thuật như Performance, Installation, Video Art, Sound Art, Multimedia Art… Thực
tế đó đặt ra yêu cầu về nghiên cứu lý thuyết nghệ thuật phương Tây để có thể lý
giải các vấn đề đặt ra trong sáng tác và nghiên cứu nghệ thuật ở Việt Nam. Về
phương diện nay, có thể thấy lý luận phê bình văn học đi đầu trong việc nhận thức

và vận dụng các lý thuyết phương Tây hiện đại để nghiên cứu các hiện tượng văn
học. Ở lĩnh vực mỹ thuật, tuy đã có một số ít tác giả bước đầu đã vận dụng các lý
thuyết phương Tây trong nghiên cứu phê bình nghệ thuật hiện đại và đương đại
Việt Nam, nhưng chúng ta vẫn chưa có nhiều những nghiên cứu chuyên sâu về lý
thuyết cũng như sử dụng lý thuyết làm cơ sở lý luận cho các công trình nghiên cứu
khoa học về nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Dù các đề tài nghiên cứu khoa học, luận
văn, luận án về nghệ thuật tạo hình đều trình bày theo các qui định của một đề tài
nghiên cứu khoa học, song thực tế cho thấy đa phần mục tình hình nghiên cứu đề
tài thiên về giới thiệu tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ở trong nước, rất ít
công trình diễn giải về tình hình nghiên cứu ngoài nước. Điều này phản ánh trình
độ ngoại ngữ trong tiếp nhận, hệ thống các công trình liên quan đến đề tài ở ngoài
6


nước. Từ đó dẫn đến, phần viết cơ sở lý luận, trình bày khái niệm, các lý thuyết vận
dụng trong đề tài chưa có tính thuyết phục cao. Nếu hiểu rõ tầm quan trọng của
việc xây dựng khung lý thuyết trong chứng minh các giả thuyết khoa học hay nói
cách khác là xây dựng luận cứ lý thuyết làm chỗ dựa cho công trình nghiên cứu, ta
sẽ thấy việc thiếu hụt kiến thức lý thuyết sẽ ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng
nghiên cứu khoa học.
Tình trạng thiếu tư liệu, đặc biệt là các tư liệu lý thuyết là những khó khăn đối với
các nhà nghiên cứu, giảng viên và sinh viên nghệ thuật. Sách dịch chưa nhiều, sách
viết bằng tiếng Anh, Pháp hay Đức thì trình độ ngoại ngữ của nhiều nhà nghiên cứu
không đủ để tiếp cận và tra cứu văn bản gốc. Một cản trở không nhỏ cho việc phổ
biến giới thiệu các lý thuyết kinh điển của phương Tây ở Việt Nam là do công việc
dịch thuật chưa phát triển và mang tính hệ thống. Trường hợp những lý thuyết đã
được giới thiệu ở Việt Nam, thì việc vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu nghệ
thuật vẫn còn nhiều điều đáng bàn. Chẳng hạn, những quy chuẩn phê bình, phép
tắc, những hướng đi chính của phê bình mỹ thuật trên thế giới đã được Nguyễn
Phúc trình bày trong công trình “Lược sử phê bình mỹ thuật ở các nước phương

Tây”16 từ cuối những năm tám mươi. Tuy nhiên, cho đến những năm 1990, phê
bình lý luận và nghiên cứu học thuật về mỹ thuật nói chung vẫn ít tính lý thuyết,
mang đậm màu sắc riêng của Việt Nam. Ngoài nguyên nhân khách quan, còn phải
kể đến những nguyên nhân chủ quan. Năm 1995, Thái Bá Vân trong “Tiếp xúc với
nghệ thuật”17 đã giới thiệu về mô hình nghiên cứu và giảng dạy sử mỹ thuật ở
phương Tây. Theo ông, sử học nghệ thuật có quy phạm, có trật tự, và sự xoay vần
độc lập trong chính nó, có nghĩa nó là một hệ thống. Từ luận điểm này, ông đã
phân tích và nhận xét về những điều nằm ngoài hệ thống của khoa Lý luận và lịch
sử mỹ thuật. Đó là, chương trình giảng dạy thiếu một giáo trình rất căn bản: Sử học
của lịch sử mỹ thuật. Bên cạnh đó, Thái Bá Vân cũng nêu nhận xét về sự xa rời sử
sách và thời sự nước ngoài dẫn đến chỗ thiếu hụt học vấn, không theo kịp được thế
giới trong nghiên cứu mỹ thuật. Điều đó cho thấy, trước hết mỗi cá nhân cần nhận
thức được nhu cầu của tư duy lý thuyết và vai trò quan trọng của lý thuyết. Ở đây
cũng cần thấy rằng, việc nghiên cứu và vận dụng lý thuyết đòi hỏi trình độ ngoại
ngữ để có thể tra cứu các từ điển, sách công cụ, sách chuyên khảo, tài liệu bằng các
tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga, Trung... Sở dĩ, Nguyễn Phúc, Thái Bá Vân, hay
Nguyễn Quân và một số nhà nghiên cứu khác có thể luận bàn về lý thuyết, hoặc
vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu vì các tác giả đều có ngoại ngữ để có thể đọc
trực tiếp văn bản viết về lý thuyết nghệ thuật của thế giới.
Đại học với nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển lý thuyết
Sáng tác nghệ thuật tạo hình ở Việt Nam đã có những biến chuyển thay đổi về thẩm
mỹ, về hình thức chất liệu, về quan niệm và thưởng thức nghệ thuật. Trong bối
cảnh toàn cầu hóa, những thay đổi và phát triển nghệ thuật là xu thế tất yếu để hội
nhập với thế giới. Không thể bàn về vấn đề nữ quyền (Feminism) trong sáng tác
7


nghệ thuật của các nghệ sĩ Việt Nam khi nhà nghiên cứu không biết gì về lịch sử và
những luận điểm căn bản của Lý luận nữ quyền, hay các tác giả sáng tác tiêu biểu
về nữ quyền. Không thể bàn về vấn đề Chủ nghĩa hậu thực dân (Postcolonialism)

trong nghệ thuật khi nhà nghiên cứu không nắm rõ khái niệm hay những lý thuyết
cơ bản về Chủ nghĩa hậu thực dân. Không thể bàn về nghệ thuật đương đại Việt
Nam khi nhà nghiên cứu còn chưa hiểu rõ khái niệm và lý thuyết nghệ thuật đương
đại (Contemporary Art)… Để thúc đẩy nghiên cứu khoa học và góp phần vào sự
phát triển chung của văn hóa nghệ thuật Việt Nam, việc nghiên cứu hệ thống lý
thuyết nghệ thuật phương Tây là điều cần sớm thực hiện. Đại học với nhiệm vụ đào
tạo và cung cấp tri thức cho xã hội có vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu,
phát triển lý thuyết và vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu học thuật ở Việt Nam.
Năm 2010, nhân kỷ niệm sự kiện trọng đại có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực
giáo dục đại học: Đại học Humboldt tròn hai trăm năm tuổi Nhà xuất bản Tri Thức
đã xuất bản cuốn Festschift-Kỷ yếu Đại học Humboldt 200 năm (1810-2010) Kinh
nghiệm thế giới và Việt Nam 18. Công trình tập hợp bài viết của những nhà khoa học
Việt Nam và thế giới về giáo dục đại học, bao gồm sáu phần với các nội dung: giới
thiệu tổng quát về nguồn gốc đại học, những kinh nghiệm giáo dục đại học của
Humboldt, giáo dục đại học Hoa Kỳ, Canada, Australia, Nhật Bản, Trung Quốc…
Bài viết của một số tác giả như Nguyễn Xuân Xanh, Trương Văn Tân chỉ ra tình
trạng giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học của Việt Nam lạc hậu rất nhiều so
với khu vực và thế giới, và một trong nhiều nguyên nhân tạo nên sự yếu kém của
giáo dục Việt Nam, đó là sự trì trệ trong nghiên cứu khoa học. Khi người thầy trong
vòng mười hay hai mươi năm vẫn giảng đi giảng lại một bài giảng tất yếu sẽ dẫn
đến sự lạc hậu trong giáo dục. Theo TS. Nguyễn Xuân Xanh, “Giáo dục đại học
Việt Nam cho đến nay là giáo dục có lẽ chưa có nền tảng triết lý, ý thức lịch sử sâu
xa, và còn xa với sứ mạng và những giá trị nhân văn, khai minh mà đại học đem lại
cho xã hội trong công cuộc phát triển đất nước.”, và “Nghiên cứu, học thuật chưa
phải là đầu tàu của đại học.” 19 Trong khi đó, từ cách đây hai trăm năm Đại học
Humboldt ở Đức nơi được coi là nguồn gốc của đại học, bà mẹ của các trường đại
học hiện đại đã là một môi trường nghiên cứu và giảng dạy để truy tìm khoa học
thuần túy. Công trình nghiên cứu nói trên cho thấy, một trong những mục tiêu quan
trọng của đại học là mối quan tâm học thuật, nghiên cứu khoa học với mong muốn
đạt đến nhận thức và tri thức. Như Hiến chương Đại học Brock 20 của Canada năm

1964, đã khẳng định: Đối tượng và mục đích của Đại học là sự phát triển học thuật,
truyền bá tri thức, sự phát triển tri thức, xã hội, đạo đức và vật chất của các thành
viên của nó và sự cải thiện xã hội.
Hiện nay, sách giới thiệu lý thuyết, nghiên cứu lý thuyết nghệ thuật bằng tiếng Anh
có khá nhiều. Những công trình như “Art in Theory 1648-1815: An Anthology of
Changing Ideas”21 (Lý thuyết nghệ thuật 1648-1815: Hợp tuyển những ý tưởng về
sự thay đổi), “Art in Theory 1815-1900: An Anthology of Changing Ideas” 22 (Lý
8


thuyết nghệ thuật 1815-1900: Hợp tuyển những ý tưởng về sự thay đổi), “Art in
Theory 1900-1990: An Anthology of Changing Ideas” 23 (Lý thuyết nghệ thuật
1900-1990: Hợp tuyển những ý tưởng về sự thay đổi), “Art in Theory 1900-2000:
An Anthology of Changing Ideas”24 (Lý thuyết nghệ thuật 1900-2000: Hợp tuyển
những ý tưởng về sự thay đổi)… là những tuyển tập hàng đầu các văn bản lý thuyết
nghệ thuật trong cộng đồng sử dụng tiếng Anh, cung cấp các lý thuyết cơ bản, các
bài phê bình cần thiết cho bất kỳ thư viện trường đại học hay các cá nhân nghiên
cứu về văn học nghệ thuật. Cuốn “Art in Theory 1648-1815” trình bày nghiên cứu
toàn diện và hệ thống các tài liệu lý thuyết nghệ thuật kể từ khi Viện Hàn lâm Pháp
được thành lập cho đến kết thúc chiến tranh Napoleon25. Cuốn “Art in Theory
1900-2000” tuyển tập các bài viết, văn bản của các triết gia, nhà phê bình, chính trị
gia, nhà văn về lý thuyết và nghệ thuật thế kỷ XX. Trong đó, nêu bật những đóng
góp quan trọng của lý thuyết nghệ thuật, các kết quả nghiên cứu mới kể từ 1900,
đồng thời bổ sung các vấn đề về lý thuyết nghệ thuật giai đoạn 1648-1815 và lý
thuyết nghệ thuật giai đoạn 1815-1900, tổng hợp đầy đủ các lý thuyết cơ bản cho
sự phát triển nghệ thuật trong thời kỳ hiện đại. Cũng cần kể đến công trình “Art
Theory: An Historical Introduction”26 (Lý thuyết nghệ thuật: Một đề dẫn lịch sử)
của Robert Williams xuất bản năm 2004 trình bày lịch sử chung của lý thuyết từ
thời cổ đại đến hậu hiện đại. Cuốn sách không chỉ cung cấp lịch sử về lý thuyết mỹ
học mà còn là nghiên cứu điều tra về các nghệ sĩ, nhà phê bình, sử gia đã áp dụng

lý thuyết để định hình lại ý nghĩa của nghệ thuật theo cách riêng. Bên cạnh đó, còn
nhiều công trình lý thuyết nghệ thuật quan trọng khác như: “Theories of Modern
Art: A Source Book by Artists and Critics” 27 (Các lý thuyết nghệ thuật hiện đại:
một cuốn sách được thực hiện bởi nghệ sĩ và nhà phê bình); “Theories and
Documents of Contemporary Art: A Source Book of Artists’ Writing” 28 (Các lý
thuyết và tư liệu về nghệ thuật đương đại: Một cuốn sách về các văn bản của nghệ
sĩ); “Theory of Art: From Winckelmann to Baudelaire” 29 (Lý thuyết nghệ thuật: Từ
Winckelmann đến Baudelaire); “Methods and Theories of Art History” 30 (Các
phương pháp và lý thuyết về lịch sử nghệ thuật); “The End of Art Theory: Criticism
and Post-Modernity (Communication and Culture)” 31 (Sự kết thúc lý thuyết nghệ
thuật: Phê bình và Hậu-Hiện đại; Truyền thông và Văn hóa)… Ngoài ra, còn rất
nhiều các sách trình bày về lý thuyết và thực hành các loại hình nghệ thuật đương
đại như: “Video Art”32 (Nghệ thuật Video), “Performance Art: From Futurism to
the Present”33 (Nghệ thuật trình diễn: Từ Vị lai đến ngày nay), “Internet Art” 34
(Nghệ thuật Internet), “Digital Art”35 (Nghệ thuật kỹ thuật số)…
Bản chất của ngôi trường đại học phải là môi trường kích thích sự nghiên cứu và
sáng tạo. Đại học, do đấy, có vai trò quan trọng trong việc giới thiệu lý thuyết,
nghiên cứu lý thuyết, và vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu học thuật. Các trường
nghệ thuật bậc đại học nói chung và Đại học Mỹ thuật Việt Nam nói riêng cần có
chiến lược cho các giai đoạn phát triển với mục tiêu về xây dựng giáo trình, nghiên
cứu khoa học, hệ thống tài liệu tham khảo, đặc biệt cần chú ý giới thiệu các lý
9


thuyết và trang bị phương pháp nghiên cứu khoa học cho sinh viên. Mỗi giảng viên
phải là người nắm chắc các lý thuyết và biết vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu
nghệ thuật Việt Nam. Với vai trò là ngôi trường hàng đầu về mỹ thuật ở Việt Nam,
trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam có sứ mạng quan trọng trong việc xây dựng và
phát triển nghiên cứu học thuật. Trong đó, khoa Lý luận và lịch sử mỹ thuật giữ vai
trò quan trọng vì đây là khoa có chức năng trang bị kiến thức lịch sử và lý luận

nghệ thuật cho sinh viên toàn trường, đồng thời có nhiệm vụ đào tạo, xây dựng đội
ngũ nghiên cứu mỹ thuật, góp phần vào sự phát triển chung của nền văn học nghệ
thuật Việt Nam.
Kinh nghiệm nhìn từ thế giới cho thấy nếu có chiến lược và chính sách đúng đắn,
nghiên cứu khoa học sẽ đạt được thành tựu mang tính đột phá. Cuộc dịch thuật vĩ
đại những tác phẩm kinh điển của Hy Lạp và Ả Rập trong thế kỷ XI và XII đã làm
cho đại học châu Âu phát triển nhanh chóng. Các tác phẩm của Aristote và bình
luận của Averroes, cơ sở hình học của Euclid, công trình quang học của Alhazen,
đại số học của al- Khwarizmi, nghiên cứu y khoa của Galen và Hyppocrate… đã
trở thành tâm điểm của chương trình giảng dạy đại học của châu Âu trong nhiều thế
kỷ, đặt nền móng cho sự phát triển khoa học. Như TS. Nguyễn Xuân Xanh nhận
định, “Các hạt giống văn minh Hy Lạp - Ả Rập được gieo xuống mảnh đất châu Âu
làm chuyển biến đại học và bộ mặt của châu lục này. Nếu không có nền văn minh
đó đến kịp thời, thì không biết đại học châu Âu sẽ dạy những gì sau một thời gian,
và có còn là đại học nữa không?” 36 Giới nghiên cứu khoa học của Việt Nam cũng
có thể tham khảo trải nghiệm quí báu từ những tiến bộ vượt bậc trong nghiên cứu
cơ bản và ứng dụng của học giới châu Á như Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc...
Chẳng hạn, Trung Quốc đã quan tâm đến công việc dịch thuật những sách giáo
khoa kinh điển, đồng thời phổ biến rộng rãi một số tạp chí quan trọng có phiên bản
tiếng Hoa…; hoặc như trường hợp Hàn Quốc nhờ có những chính sách khoa học kỹ
thuật mang tầm nhìn chiến lược trong đào tạo các nhà khoa học mà quốc gia này đã
hội nhập vào cộng đồng nghiên cứu quốc tế với tư cách một thành viên trẻ đầy
năng động.
Thay lời kết
Lý thuyết mang ý nghĩa dẫn luận chỉ đường, khai mở cho sáng tác cũng như nghiên
cứu khoa học. Thế kỷ XVI, danh họa Leonard da Vinci phát biểu về tầm quan trọng
của lý thuyết: “Người yêu thực hành mà không có lý thuyết cũng giống như những
thủy thủ lái tàu không có bánh lái và la bàn sẽ không biết nơi anh ta có thể đến” 37.
Đề cao vai trò của lý thuyết không có nghĩa là ta tuyệt đối hóa vai trò của lý thuyết.
Đặc biệt, trong nghiên cứu khi vận dụng phải chú ý đến hoàn cảnh cụ thể ra đời của

mỗi lý thuyết. Thành quả nghiên cứu lý thuyết của thế giới là tài sản quí giá, là trí
tuệ của nhân loại kết tinh. Để có thể làm nên những kỳ tích trong nghiên cứu khoa
học nói chung và nghiên cứu nghệ thuật nói riêng ở Việt Nam, trường đại học cần
là nơi đi đầu trong việc giới thiệu hệ thống các lý thuyết, nghiên cứu lý thuyết và
10


vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, chúng ta rất cần có
chiến lược về dịch thuật và giới thiệu các công trình lý thuyết kinh điển. Thế giới
và khu vực đang tiến xa trên con đường học thuật. Nghiên cứu nghệ thuật ở Việt
Nam cần kế thừa các lý thuyết của thế giới nhưng phải tìm cách đi phù hợp với
hoàn cảnh của mình. Cơ hội mở ra cho Việt Nam trong xu hướng giao lưu và hội
nhập quốc tế, song câu hỏi đặt ra là: ngành nghiên cứu nghệ thuật ở Việt Nam cần
làm gì để góp phần vào sự phát triển văn hóa nghệ thuật của dân tộc?
B.T.M
Chú thích:
1. Nguyên văn tiếng Anh: “speculative knowledge contemplates Truth for itself, and accordingly
stops and rest in contemplation of it, which is what we commonly call theory”. Trích dẫn theo
Terry Eastwood (1994), What is archival theory and why is it important, tr. 123.
2. Nguyên văn tiếng Anh: “a theory is often nothing else but a contrivance for comprehending a
certain number of facts under one expression”. Trích dẫn theo Terry Eastwood (1994), What is
archival theory and why is it important, tr. 123.
3. Hoàng Phê (chủ biên) 1997, Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, In lần thứ năm, Nhà Xuất
bản Đà Nẵng, Hà Nội .
4. Trần Văn Hiến Minh (1966), Từ điển và danh từ triết học, Tủ sách Ra khơi. Sài Gòn, tr. 140.
5. Princeton University 2006. WordWeb. “Theory: 1. A well-substantiated explanation of some
aspect of the natural world; an organized system of accepted knowledge that applies in a variety of
circumstances to explain a specific set of phenomena; 2. A tentative insight into the natural world;
a concept that is not yet verified but that if true would explain certain facts or phenomena; 3. A
belief that can guide behavior”

6. Sara Tulloch (Edite4): Wordfinder, Oxford University Press, Oxford, New York, Toronto, 1994.
7. Trích dẫn theo Vũ Cao Đàm (1999), Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 69.
8. Trích dẫn theo Vũ Cao Đàm (1999), Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 69.
9. Vũ Cao Đàm (1999), Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 69.
10. Jean-Fran çois Lyotard, Hoàn cảnh hậu hiện đại, Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính
và giới thiệu, Nhà Xuất bản Tri thức, 2008, tr.8.
11. Jean-Fran çois Lyotard, Hoàn cảnh hậu hiện đại, Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính
và giới thiệu, Nhà Xuất bản Tri thức, 2008, tr.16.
12. Charrlotte Cotton (2009), The photograph as contemporary art, second edition, Thames &
Hudson world of art.
13. Terry Smith (2009), What is Contemporary Art?, University of Chicago Press. Chicago and
London.
14. Nguyên văn tiếng Anh: “1, Museums: Modern/Contemporary; 2, Spectacles:
Architecture/Sculpture; 3, Markets: Global/Local; 4, Countercurrents: South/North; 5,
Contemporaneity: Times/Places; 6, An Art Historical Hypothesis”. Terry Smith (2009), What is
Contemporary Art?, University of Chicago Press. Chicago and London.
15. PGS. TS Phan Trọng Thưởng, Báo cáo đề dẫn Hội thảo quốc tế “Tiếp cận văn học các nước châu
Á bằng lý thuyết phương Tây hiện đại: Vận dụng - Tương thích - Thách thức và cơ hội” ngày 14
và 15 tháng 3 năm 2011 tại Hà Nội. Đây là Hội thảo Quốc tế lần thứ 2 được phối hợp tổ chức giữa
Viện Văn học và Viện Harvard-Yenching.
16. Nguyễn Phúc (1988), Lược sử phê bình mỹ thuật ở các nước phương Tây, Nhà Xuất bản thành
phố Hồ Chí Minh.
17. Xem Thái Bá Vân (1995), Tiếp xúc với nghệ thuật, Viện Mỹ thuật, tr. 74.

11


18. Chủ biên Ngô Bảo Châu, Pierre Darriulat, Cao Huy Thuần, Hoàng Tụy, Nguyễn Xuân Xanh,
Phạm Xuân Yêm (2011), Frestschrift-Kỷ yếu Đại học Humboldt 200 năm (1810-2010) Kinh
nghiệm thế giới và Việt Nam. Nhà Xuất bản Tri Thức.

19. Nguyễn Xuân Xanh “Lời nói đầu Kỷ yếu Humboldt 200 năm hay là tìm lại nguồn gốc của đại
học”. Chủ biên Ngô Bảo Châu, Pierre Darriulat, Cao Huy Thuần, Hoàng Tụy, Nguyễn Xuân
Xanh, Phạm Xuân Yêm (2011), Frestschrift - Kỷ yếu Đại học Humboldt 200 năm (1810-2010)
Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam. Nhà Xuất bản Tri Thức, tr. 15.
20. Trích dẫn theo Nguyễn Xuân Xanh “Đại học Lịch sử một ý tưởng” trong Frestschrift - Kỷ yếu Đại
học Humboldt 200 năm (1810-2010) Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam. Chủ biên Ngô Bảo Châu,
Pierre Darriulat, Cao Huy Thuần, Hoàng Tụy, Nguyễn Xuân Xanh, Phạm Xuân Yêm (2011). Nhà
Xuất bản Tri Thức, tr. 41.
21. Charles Harrison, Dr Paul J Wood, Jason Gaiger biên soạn (1991), Art in Theory 1648-1815: An
Anthology of Changing Ideas, Publisher: Wiley-Blackwell.
22. Charles Harrison, Dr Paul J Wood, Jason Gaiger (1998), Art in Theory 1815-1900:An Anthology
of Changing Ideas, Publisher: Wiley-Blackwell.
23. Charles Harrison, Dr Paul Wood (1993), Art in Theory 1900-1990: An Anthology of Changing
Ideas, Publisher: Wiley-Blackwell.
24. Charles Harrison, Dr Paul Wood (2002), Art in Theory 1900-2000: An Anthology of Changing
Ideas, Publisher: Wiley-Blackwell.
25. Các cuộc chiến tranh của Napoleon được gọi tắt là chiến tranh Napoleon, là một loạt các cuộc
chiến tranh trong thời hoàng đế Napoleon Bonaparte trị vì nước Pháp.
26. Robert Williams (2004), Art in Theory: An Historical Introduction, Publisher: Wiley-Blackwell.
27. Herschel B. Chipp (1984), Theories of Modern Art: A Source Book by Artists and Critics,
Contributor: Peter Selz, Joshua C. Taylor. University of California Press.
28. Kristine Stiles, Peter Selz (1996), Theories and Documents of Contemporary Art: A Source Book
of Artists’ Writing. University of California Press.
29. Moshe Barasch (1990), Theory of Art: From Winckelmann to Baudelaire. NYU Press.
30. Anne D’Alleva (2009), Methods and Theories of Art History, Laurence King Publishers.
31. Victor Burgin (1986), The End of Art Theory: Criticism and Post-Modernity (Communication and
Culture)”, Palgrave Macmillan.
32. Michael Rush (2003), Video Art, Thames & Hudson.
33. Roselee Goldberg (2001), Performance Art: From Futurism to the Present, Thames & Hudson.
34. Rachen Greene (2004), Internet Art, Thames & Hudson.

35. Christiane Paul (2003), Digital Art, Thames & Hudson.
36. Nguyễn Xuân Xanh “Đại học Lịch sử một ý tưởng” trong Frestschrift - Kỷ yếu Đại học Humboldt
200 năm (1810-2010) Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam. Chủ biên Ngô Bảo Châu, Pierre
Darriulat, Cao Huy Thuần, Hoàng Tụy, Nguyễn Xuân Xanh, Phạm Xuân Yêm (2011). Nhà Xuất
bản Tri Thức, tr. 46.
37. Nguyên văn trong tiếng Anh: “He who loves practice without theory is like the sailor who boards
ship without a rudder and compass and never know where he may cast”. The Notebooks od
Leonardo da Vinci. Bản dịch tiếng Anh của Jean Pail Richter năm 1888.
Tài liệu tham khảo:
1. Charrlotte Cotton (2009), The photograph as contemporary art, second edition, Thames &
Hudson world of art.
2. Chủ biên Ngô Bảo Châu, Pierre Darriulat, Cao Huy Thuần, Hoàng Tụy, Nguyễn Xuân Xanh,
Phạm Xuân Yêm (2011), Frestschrift-Kỷ yếu Đại học Humboldt 200 năm (1810-2010) Kinh
nghiệm thế giới và Việt Nam. Nhà Xuất bản Tri Thức.
3. Vũ Cao Đàm (1999), Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

12


4. Charles Harrison, Dr Paul J Wood, Jason Gaiger biên soạn (1991), Art in Theory 1648-1815:
An Anthology of Changing Ideas, Publisher: Wiley-Blackwell.
5. Charles Harrison, Dr Paul Wood (2002), Art in Theory 1900-2000: An Anthology of Changing
Ideas, Publisher: Wiley-Blackwell.
6. Leonard da Vinci, The Notebooks od Leonardo da Vinci. Bản dịch tiếng Anh của Jean Pail
Richter năm 1888.
7. Jean-Fran çois Lyotard, Hoàn cảnh hậu hiện đại, Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu
đính và giới thiệu, Nhà Xuất bản Tri thức, 2008.
8. Trần Văn Hiến Minh (1966), Từ điển và danh từ triết học, Tủ sách Ra khơi. Sài Gòn.
9. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, In lần thứ năm, Nhà Xuất bản
Đà Nẵng, Hà Nội 1997.

10. Sara Tulloch (Edite4): Wordfinder, Oxford University Press, Oxford, New York, Toronto,
1994.
11. Terry Smith (2009), What is Contemporary Art?, University of Chicago Press. Chicago and
London.
12. PGS. TS Phan Trọng Thưởng, Báo cáo đề dẫn Hội thảo quốc tế “Tiếp cận văn học các nước
châu Á bằng lý thuyết phương Tây hiện đại: Vận dụng-Tương thích-Thách thức và cơ hội.” Ngày
14 và 15 tháng 3 năm 2011.
13. Nguyễn Phúc (1988), Lược sử phê bình mỹ thuật ở các nước phương Tây, Nhà Xuất bản thành
phố Hồ Chí Minh.
14. Princeton University (2006). World Web Dictionary.
15. Thái Bá Vân (1995), Tiếp xúc với nghệ thuật, Viện Mỹ thuật.

13



×