Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc và bản chất của nhận thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.5 KB, 11 trang )

A.

MỞ ĐẦU

Chủ nghĩa duy tâm chủ quan, duy tâm khách quan, chủ nghĩa hoài nghi và chủ
nghĩa duy vật đều có những quan điểm về nhận thức nói chung và nguồn gốc, bản
chất của nhận thức nói riêng. Theo đó, các chủ nghĩa khi đưa ra quan điểm về nguồn
gốc và bản chất của nhận thức sẽ dựa trên những căn cứ nhất định. Đối với chủ nghĩa
duy vật biện chứng sẽ dựa trên việc kế thừa những yếu tố hợp lý, phát triển một cách
sáng tạo và được minh chứng bởi những thành tựu khoa học-kỹ thuật, của thực tiễn
xã hội. Để làm rõ hơn vấn đề này, nhóm xin đi vào tìm hiểu đề tài: Quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc và bản chất của nhận thức. Trong quá
trình làm bài, do kiến thức còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiết sót, rất
mong nhận được sự đóng góp của thầy, cô. Nhóm xin chân thành cảm ơn!
B.
1.

NỘI DUNG

Khái niệm nhận thức
Khi bàn tới khái niệm nhận thức sẽ có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề
này. Theo đó, có thể đưa ra một số quan điểm của các chủ nghĩa như sau:
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: nhận thức là nhận thức cảm giác con người; Chủ
nghĩa duy tâm khách quan: nhận thức là sự hồi tưởng của linh hồn bất tử về thế giới
các ý niệm mà nó từng được chiêm ngưỡng nhưng đã bị lãng quên hoặc nhận thức là
tự ý thức về mình của ý niệm tuyệt đối; Chủ nghĩa hoài nghi: nhận thức là trạng thái
hoài nghi về sự vật và biến sự nghi ngờ, tính xác thực của tri thức thành 1 nguyên tắc
nhận thức. Chủ nghĩa duy vật: nhận thức là quá trình phản ảnh thế giới vật chất vào
đầu óc con người và cho rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới. Tuy
nhiên, chủ nghĩa duy vật trước Mác chưa thấy được quá trình biện chứng của nhận
thức và chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.


Trong bài làm của nhóm với đề tài: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về nguồn gốc và bản chất của nhận thức. Vì vậy, nhóm sẽ dựa trên quan điểm
của chủ nghĩa duy vật về nhận thức để làm cơ sở cho vấn đề nguồn gốc và bản chất
của nhận thức.

2.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc của nhận thức
Nguồn gốc hình thành nhận thức xuất phát từ nguồn gốc từ nhiên và và nguồn
gốc xã hội:

2.1.

Nguồn gốc tự nhiên
1


a, Bộ óc con người
Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của
nhận thức, song do khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải thích đúng
nguồn gốc và bản chất của nhận thức. Dựa trên những thành tựu khoa học tự nhiên và
nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng nhận
thức là một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là
thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ
quan vật chất của nhận thức, nhận thức là chức năng của bộ óc người. Hoạt động
nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc
người. Nhận thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ óc người, do đó khi bộ óc bị tổn
thương thì hoạt động nhận thức sẽ diễn ra không bình thường hoặc bị rối loạn. Vì
vậy, không thể tách rời nhận thức ra khỏi hoạt động của bộ óc, nhận thức không thể
diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.

Bộ óc của con người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài về mặt
sinh vật –xã hội sau khi vượn biến thành người. Bộ óc người là một tổ chức vật chất
sống đặc biệt, có cấu trúc tinh vi và phức tạp, bao gồm khoảng 14 – 15 tỷ tế bào thần
kinh, các tế bào này có liên quan với nhau và với các giác quan, tạo thành vô số mối
liên hệ thu nhận, điều khiển hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài
qua các phản xạ khhông điều kiện và có điều kiện. Trong bộ óc người, quá trình ý
thức không đồng nhất và cũng không tách rời, độc lập hay song song với quá trình
sinh lý. Đây chính là hai mặt của một quá trình – quá trình sinh lý thần kinh trong bộ
óc người mang nội dung nhận thức, cũng giống như tín hiệu vật chất mang nội dung
thông tin.
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – kỹ thuật hiện đại đã tạo ra
những máy móc thay thế cho một phần lao động trí óc của con người. Chẳng hạn các
máy tính điện tử, rô bốt tinh khôn, trí tuệ nhân tạo, song điều đó không có nghĩa là
máy móc cũng có nhận thức như con người. Máy móc dù có tinh khôn đến đâu chăng
nữa, cũng không thể thay thế được cho hoạt động trí tuệ của con người. Máy móc là
một kết cấu kỹ thuật do con người tạo ra, còn con người là một thực thể xã hội, máy
móc không thể sáng tạo ra hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như con
người. Do đó, chỉ có con người với bộ óc của mình mới có nhận thức theo đúng nghĩa
của từ đó.
2


b. Thế giới vật chất
Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh ra và
không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang
biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, là nguyên nhân, là kết quả của nhau.
Thế giới vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác
động lên các giác quan của con người, là cơ sở quan trọng cho quá trình nhận thức
thế giới của con người.
c.


Thuộc tính phản ánh của vật chất(sự tương tác của thế giới vật chất và bộ
óc con người)

Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất, thuộc tính
này được biểu hiện ra trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất
với nhau. Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của hệ thống vật chất này ở hệ thống
vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh
phụ thuộc vào cả hai vật – vật tác động và vật nhận tác động. Đồng thời, quá trình
phản ánh bao hàm quá trình thông tin, nói cách khác, vật nhận tác động bao giờ cũng
mang thông tin của vật tác động. Đây là điều hết sức quan trọng để làm sáng tỏ nguồn
gốc tự nhiên của nhận thức.
Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trong giới tự nhiên vô sinh, chỉ có những phản ánh vật
lý, hóa học, những phản ánh này có tính chất thụ động, chưa có sự định hướng, lựa
chọn. Trong giới tự nhiên hữu sinh, sự phản ánh đã phát triển lên một trình độ cao
hơn là phàn ánh sinh học. Phản ánh sinh học trong các cơ thể sống đã có sự định
hướng, lựa chọn, nhờ đó các sinh vật thích nghi với môi trường để duy trì sự tồn tại
của mình. Phản ánh sinh học được thực hiện thông qua các hình thức như sự kích
thích trong cơ thể do sự tác động của môi trường ở thực vật, các phản xạ ở động vật
có hệ thần kinh và tâm lý động vật cấp cao có bộ óc. Tâm lý động vật là trình độ cao
nhất của sự phản ánh ở động vật, tuy nhiên tâm lý động vật chưa phải là nhận thức,
nó mới là sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và
do quy luật sinh học chi phối. Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện
thực, nhận thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với
sự xuất hiện của con người. nhận thức là nhận thức của con người, nằm trong con
3


người, không thể tách rời con người. Nhận thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật

chất – thuộc tính phản ánh phát triển thành. Nhận thức ra đời là kết quả phát triển lâu
dài của thuộc tính phản ánh của vật chất, nội dung của nó là thông tin về thế giới bên
ngoài vào trong bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan phản ánh, song chỉ riêng có bộ
óc thôi thì chưa thể có ý thức. không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các
giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động nhận thức không thể xảy ra.
Như vậy, bộ óc con người, thế giới vật chất và sự tương tác của thế giới vật
chất và bộ óc con người là nguồn gốc tự nhiên của nhận thức.
2.2.

Nguồn gốc xã hội.
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng,
không thể thiếu được nhưng chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của nhận
thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. nhận thức ra đời cùng với quá trình hình
thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội, và ngay từ đầu
đã mang tính chất xã hội.
a, Lao động.
Loài vật tồn tại nhờ vào những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên dưới dạng trực
tiếp, còn loài người thì khác hẳn. Những vật phẩm cần thiết cho sự sống thường
không có sẵn trong tự nhiên, con người phải tạo ra những vật phẩm ấy. Chính thông
qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người mới có thể
phản ánh được thế giới khách quan, mới có nhận thức về thế giới đó.
Quá trình hình thành nhận thức không phải là quá trình con người thu nhận thụ
động, nhờ có lao động mà con người tác động vào các đối tượng hiện thực, bắt chúng
phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình
thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác động vào bộ óc con
người. Nhận thức được hình thành không phải chủ yếu là do tác động thuần túy tự
nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc người, mà chủ yếu là do hoạt động của con
người cải tạo thế giới khách quan, làm biến đổi thế giới đó. Quá trình hình thành nhận
thức là kết quả hoạt động chủ động của con người. Như vậy không phải bỗng nhiên
thế giới khách quan tác động vào bộ óc của con người để con người có nhận thức, trái

lại, con người có nhận thức chính vì con người chủ động tác động vào thế giới thông
qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới, con người chỉ có nhận thức do tác động
vào thế giới. Nói cách khác, nhận thức chỉ được hình thành qua hoạt động thực tiễn
4


của con người. Nhờ tác động vào thế giới mà con người khám phá ra những bí mật
của thế giới, ngày càng làm phong phú và sâu sắc nhận thức của mình về thế giới.
b, Ngôn ngữ.
Trong quá trình lao động, ở con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm,
trao đổi tư tưởng cho nhau, chính nhu cầu đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ. Ph.
Ăngghen viết “Đem con người so sánh với các loài vật, người ta sẽ thấy rõ rằng ngôn
ngữ bắt nguồn từ trong lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách giải thích
duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ”.
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành, nó là hệ
thống tín hiệu vật chất mang nội dung nhận thức. Không có hệ thống tín hiệu này thì
nhận thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ, theo C.Mác là cái vỏ vật
chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người
không thể có nhận thức. Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao
tiếp, đồng thời là công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ con người mới có thể khái quát
hóa, trừu tượng hóa, mới có thể suy nghĩ, tách khỏi sự vật cảm tính. Mặt khác, nếu ở
động vật, kinh nghiệm sống được trao đổi qua di truyền bản năng thì ở loài người chủ
yếu qua kỹ thuật và ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết của người này
được truyền cho người kia, thế hệ này cho thế hệ khác. nhận thức không phải là hiện
tượng thuần túy cá nhân mà là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó không có
phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì nhận thức không thể hình thành và
phát triển được.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của nhận thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Nhận thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các

quan hệ xã hội. Nhận thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
Cùng với sự tiến hóa của loài người, bộ óc con người dần phát triển hoàn thiện
tạo thành cơ sở vật chất của nhận thức, có chức năng thu nhận sự phản ánh sự tác
động của thế giới khách quan qua các giác quan. Bên cạnh đó, do nhu cầu sinh tồn,
con người sử dụng công cụ, phương tiện tác động vào thế giới hiện thực, bắt chúng
phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình
thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác động vào bộ óc con
người, đồng thời quá trình lao động lại làm nảy sinh nhu cầu hình thành ngôn ngữ,
5


qua đó con người có thể suy nghĩ, khái quát hóa, trừu tượng hóa các sự vật, hiện
tượng. Tổng hợp của tất cả các yếu tố trên chính là nguồn gốc hình thành của nhận
thức – quá trình phản ánh hiện thực khách quan tạo thành tri thức trong bộ óc con
người.
3.

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất của nhận thức
Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã tạo ra một cuộc cách mạng

trong lý luận nhận thức, bằng sự kế thừa có chọn lọc các yếu tố hợp lý đồng thời phát
triển một cách sáng tạo và minh chứng bởi những thành tựu khoa học, chủ nghĩa duy
vật biện chứng đã khẳng định “Về bản chất, nhận thức là quá trình phản ánh tích
cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực
tiễn”. Từ quan điểm này ta có thể thấy bản chất của nhận thức theo quan điểm của
chủ nghĩa duy vật được thể hiện qua bốn nguyên tắc:
Thứ nhất, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức
của con người.
V.I. Lênin đã định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực
tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng

ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Qua định
nghĩa này, Lênin khẳng định vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và
không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay
chưa nhận thức được.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định thế giới vật chất tồn tại khách
quan có trước và độc lập với ý thức của con người. Thuộc tính cơ bản nhất của vật
chất là “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Thực tại khách quan đem lại cho con
người trong cảm giác “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Điều đó khẳng định
“thực tại khách quan” (vât chất) là cái có trước và cảm giác (ý thức) là cái có sau.
Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh; hay thực tại khách quan được biểu hiện thông
qua các dạng cụ thể bằng cảm giác (ý thức) con người có thể nhận thức được và thực
tại khách quan chính là nguồn gốc nội dung của cảm giác.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng khẳng định ý thức của con người là sản
phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người thông qua
6


hoạt động thực tiễn, nên bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất. Sự phát triển của khoa học đã minh
chứng cụ thể cho quan điểm thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức
của con người, dù cho con người có nhận thức được hay không nhận thức được. Vũ
trụ, trái đất, động vật, thực vật tồn tại phát triển theo quy luật tự nhiên khách quan
trong thời gian lâu dài, bền bỉ. Mỗi loại vật chất có quy luật tiến hóa riêng của nó. Ví
dụ: vũ trụ được hình thành từ một vụ nổ lớn (thuyết Big Bang) cách đây khoảng 13,7
tỷ năm hay động vật tiến hóa từ bậc thấp đến bậc cao: từ tảo đơn bào phát triển thành
tảo đa bào, từ tảo tiến hóa lên động vật lưỡng cư, động vật lưỡng cư phát triển thành
động vật thân mềm, động vật giáp xác, động vật có xương sống và tiến hóa thành con
người. Quá trình tiến hóa đó kéo dài hàng triệu năm, từ khi con người chưa xuất hiện.

Nghĩa là khi chưa có ý thức của con người, thế giới đã tồn tại, phát triển khách quan
theo cách riêng của nó, hoàn toàn không bị lệ thuộc vào cảm giác của con người.
Thứ hai, Thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người. Coi
nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, là hoạt
động tìm hiểu khách thể của chủ thể. Không có cái gì là không thể nhận thức được
mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được nhưng sẽ nhận thức được.
Theo Ăng-ghen, “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học
hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”. Việc giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học. Vấn
đề cơ bản của triết học gồm hai mặt: Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: Giữa vật chất và ý
thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Mặt thứ hai trả lời
câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Mặt này còn
được gọi là mặt nhận thức.
Trong định nghĩa vật chất, Lênin đã khẳng định vật chất là cái “ được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”. Lênin muốn nhấn mạnh rằng bằng những
phương thức nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh…) con người có thể
nhận thức được thế giới vật chất. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng con người
có khả năng nhận thức được thế giới. Tuy nhiên, do mặt thứ nhất quy định, nên sự
nhận thức đó là sự phản ánh thế giới vật chất vào đầu óc con người. Chủ nghĩa duy
vật biện chứng cũng cho rằng: Dứt khoát là không có và không thể có đối tượng nào
7


mà con người không thể biết được, chỉ có những cái hiện nay con người chưa biết,
nhưng trong tương lai với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, con người sẽ biết
được.
Thứ ba, Khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự
giác và sáng tạo. Qúa trình phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ
biết ít đến biết nhiều, đi từ hiện tượng đến bản chất và từ bản chất kém sâu sắc đến
bản chất sâu sắc hơn. Nhận thức là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều giai đoạn,

trình độ, vòng, khâu khác nhau. Trong Bút ký triết học Lênin đã khắc họa một cách
cô đọng bản chất của nhận thức, ông cho rằng con đường biện chứng là quá trình
biện chứng đi từ trực quan sinh động đên tư duy trừu tượng và tư duy trừu tượng đến
thực tiễn. Theo quan điểm đó thì nhận thức là quá trình biện chứng diễn ra qua hai
giai đoạn nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) và nhận thức lý tính (Tư duy trừu
tượng). Giai đoạn nhận thức cảm tính là giai đoạn con người sử dụng các giác quan
như thính giác, vị giác, xúc giác…để cảm nhận trực tiếp vào các sự vật nhằm nắm
bắt các sự vật ấy. Nhận thức cảm tính bao gồm ba hình thức cảm giác, tri giác và biểu
tượng. Trong đó: Cảm giác: Là hình thức đầu tiên của sự phản ánh hiện thực khách
quan và là nguồn gốc của tri thức. Lê-nin đã viết ‘Cảm giác là hình ảnh chủ quan của
thế giới khác quan”. Tri giác: Là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó
đang trực tiếp tác động đến các giác quan. Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm
giác, là sự tổng hợp của nhiều cảm giác nhăm đưa lại cho chủ thể nhận thức sự hiểu
biết tương đối đầy đủ hơn về đối tượng phản ánh. Biểu tượng: Là hình thức phản ánh
cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính, là hình ảnh có tính đặc
trưng và tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại trong bộ óc con người về sự vật khi sự vật
đó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan
Như vậy nhận thức cảm tính cung cấp những hiểu biết ban đầu về đối tượng
nhận thức,nhưng những hiểu biết đó mới chỉ dừng lại ở những nét bên ngoài của của
đối tượng, ta chưa thể phân biệt được cái bản chất và không bản chất, đâu là tất yếu
với ngẫu nhiên, đâu là cái bên trong với cái bên ngoài, để giải quyết những vấn đề đó
nhận thức sẽ phải vượt lên một trình độ mới đó là nhận thức lý tính (tư duy trừu
tượng). Nhận thức lý tính là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng và khái quát
những thuộc tính những đặ điểm bản chất của đối tượng. Đây là phàn nhận thức thực
8


hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất có tính quy lậu của
sự vật hiện tượng. Nhận thức lý tính thể hiện với ba hình thức: Khái niệm: là hình
thức cơ bản của nhận thức lý tính phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật, là kết

quả của sự khái quát tổng hợp, biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay
một lớp sự vật; Phán đoán: Là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm với nhau
để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng;
Suy lý: Là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức
mới bằng phán đoán mới.
Như vậy nhiệm vụ của nhận thức lý tính là cải biến những tri thức cảm tính và
cho ra kết quả là sáng tạo nên các khái niệm, phạm trù, quy luật, nguyên lý…Tựu
chung lại nhận thức lý tính mang lại cho chủ thể nhận thức những hình ảnh về bản
chất của đối tượng nhận thức.
Thư tư, Coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động
lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Sở dĩ như vậy bởi
thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức, thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ,
cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Con người có nhu
cầu tất yếu khách quan là giải thíc và cải tạo thế giới nên con người phải tác động
trực tiếp vào các sự vật hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động
đó làm cho các sự vật hiện tượng bộc lộ những thuộc tính những mối liên hệ khác
nhau giữa chúng, đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt
được bản chất, các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Nếu thoát ly khỏi
thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì chủ thể nhận thức không thể có được những tri
thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới.
Bên cạnh đó thực tiễn còn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức vì nhờ có
hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng được hoàn thiện năng
lực tư duy logic không ngừng được củng cố phát triển; các phương tiện nhận thức
ngày càng hiện đại, có tác dụng nối dài các giác quan của con người trong việc nhận
thức thế giới. Thực tiễn còn đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý, là thước
đo giá trị những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận thức đồng thời thực tiễn
không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
C.Mác đã viết “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý

9



khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực
tiễn. Chính trong thực tiễn con người phải chứng minh chân lý”.
Nhận xét về quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc và
bản chất của nhận thức
Về nguồn gốc của nhận thức:
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã có cái nhìn toàn diện và đầy
đủ về nguồn của nhận thức khi xem xét trên cả hai phương diện là nguồn gốc tự nhiên
và nguồn gốc xã hội. Đồng thời, quan điểm đó cũng đã chỉ rõ yêu tố nào là quan
trọng nhất trong quá trình hình thành nên nhận thức đó là: lao động, là thực tiễn xã
hội. Xuất phát từ nguồn gốc hình thành để làm cơ sở cho việc tìm hiểu bản chất của
nhận thức.
Về bản chất của nhận thức:
Vấn đề nhận thức đã được đề cập ở một số trào lưu triết học trước Mác. Mác
đã nhận xét “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước tới nay kể
cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbac là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được
nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không nhận thức là
hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn; không được nhận thức về mặt chủ
quan”. Như vậy các trào lưu triêt học trước Mác đều quan niệm sai lầm hoặc phiến
diện về nhận thức, các vấn đề lý luận nhận thức chưa được giải quyết triệt để đúng
đắn một cách khoa học, đặc biệt là về vấn đề bản chất của nhận thức, chưa thấy được
quá trình biện chứng của nhận thức và chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời tạo ra được một cuộc
cách mạng trong lý luận nhận thức, giải quyết toàn diện vấn đề lý luận nhận thức
cũng như nhìn nhận rõ bản chất của quá trình biện chứng và vai trò thực tiễn đối với
nhận thức của con người.
C. KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận nêu trên, nhóm đã phần nào hiểu được về nguồn gốc và bản
chất của nhận thức trên nhiều quan điểm khác nhau, quan trọng là quan điểm của chủ

nghĩ duy vật biện chứng khi phân tích, lập luận nguồn gốc và bản chất của nhận thức.
Theo đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc họa rõ nét và toàn diện về nguồn gốc
và bản chất của nhận thức, hệ thống quan điểm đó được minh chứng bởi những thành
tựu khoa học và thực tiễn. Đồng thời với việc tìm hiểu nguồn gốc, lý giải bản chất
của nhận thức sẽ là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề của khoa học
khác.
4.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình triết học Mác- Lênin, Hội đồng TW chỉ đạo biên soạn giáo

trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb.CTQG, năm 1999;
2.
Giáo trình Triết học Mác – Lênin ( Dùng trong các trường đại học, cao
đẳng, tái bản lần thứ ba có sửa chữa, bổ sung), Bộ giáo dục và đào tạo;
3.
Giáo trình triết học (Dùng trong đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ các
ngành khoa học xã hội và nhân văn không chuyê ngành Triết học, Bộ giáo dục
và đào tạo, Nxb.Đại học sư phạm, Hà Nội 2014.

11




×