Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Quan niệm của ăng ghen về phân kỳ lịch sử triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.52 KB, 13 trang )

A. MỞ ĐẦU
Lịch sử hình thành, phát triển triết học trải qua nhiều thời kỳ với nhiều
trường phái khác nhau. Những trường phái này phản ánh trình độ phát triển về
kinh tế - xã hội, chính trị và tri thức khoa học tự nhiên của con người ở các
thời kỳ. Việc phân kỳ lịch sử triết học nhằm phân chia lịch sử triết học ra
thành những giai đoạn, chặng đường phát triển cụ thể khác nhau, trên cơ sở đó
các nhà nghiên cứu đi sâu nghiên cứu lịch sử triết học một cách khoa học. Cho
đến nay, có rất nhiều cách thức phân kỳ lịch sử triết học khác nhau. Trong đó,
Ăng ghen - một trong những nhà triết học lớn của thế giới cũng có đưa ra quan
niệm của mình về phân kỳ lịch sử triết học một cách cụ thể tại tác phẩm
Chống Đuy-rinh năm 1818. Vì vậy, việc nghiên cứu quan niệm của Ăng ghen
về phân kỳ lịch sử triết học là nội dung quan trọng không thể thiếu khi nghiên
cứu về sự hình thành và phát triển của các tư tưởng triết học trong lịch sử. Đó
cũng là lý do nhóm chúng tôi chọn đề bài nghiên cứu : “Quan niệm của Ăng
ghen về phân kỳ lịch sử triết học.”
B. NỘI DUNG
I. Khái lược về lịch sử triết học
1. Lịch sử triết học
Lịch sử triết học là lịch sử hình thành, phát triển tư tưởng triết học qua
các giai đoạn phát triển của xã hội; là lịch sử đấu tranh giữa các trường phái
triết học, mà điển hình là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa
duy tâm; giữa phương pháp biện chứng với phương pháp siêu hình; là lịch sử
gạt bỏ và kế thừa lẫn nhau của các tư tưởng triết học qua các giai đoạn lịch sử,
cũng như giữa các dân tộc và các vùng với nhau.
Từ nhu cầu nghiên cứu lịch sử triết học đã ra đời bộ môn khoa học lịch
sử triết học. Đối tượng của khoa học lịch sử triết học là nghiên cứu làm rõ lịch
1


sử hình thành, phát triển và nội dung tư tưởng của các học thuyết triết học
dưới các biểu hiện cụ thể của nó trong từng giai đoạn lịch sử, làm rõ cuộc đấu


tranh giữa hai trường phái triết học (chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm),
giữa hai phương pháp triết học (phương pháp biện chứng và phương pháp siêu
hình).
Là một ngành khoa học, nhiệm vụ của lịch sử triết học là tìm ra bản chất
của các học thuyết triết học và xác định vị trí cuả nó trong từng nước, từng
giai đoạn nói riêng và của thế giới nói chung để từ đó thấy được mối liên hệ
giữa các khuynh hướng biểu hiện khác nhau của các học thuyết, các trường
phái, các phương pháp triết học trong quá trình phát triển của chúng; thấy
được sự đan xen lẫn nhau, thâm nhập vào nhau, kế thừa lẫn nhau và loại bỏ
lẫn nhau giữa các trào lưu triết học; thấy được sự gắn bó chặt chẽ giữa các
trường phái triết học với toàn bộ hoạt động thực tiễn của con người, với lợi ích
và mục đích của những lực lượng xã hội nhất định; phải đánh giá khách quan
những đóng góp tích cực, những hạn chế của các học thuyết và phương pháp
triết học trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Như vậy, lịch sử triết học với tư cách là khoa học nghiên cứu quá trình
hình thành và phát triển triết học trong lịch sử phải phát hiện ra những quy
luật hình thành, phát triển của các học thuyết, trường phái triết học và xác định
vai trò của chúng đối với sự phát triển của tư duy lý luận nói riêng và đối với
đời sống xã hội nói chung.
2. Phân kỳ lịch sử triết học
Phân kỳ lịch sử triết học là cơ sở để đi sâu nghiên cứu lịch sử triết học
một cách khoa học. Theo quan điểm Macxit, việc phân kỳ lịch sử triết học cần
dựa trên những căn cứ cơ bản sau:
2


Thứ nhất, triết học là một hình thái ý thức xã hội và là một bộ phận cấu
thành của kiến trúc thượng tầng, nó hình thành, phát triển gắn liền với sự hình
thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi
giai đoạn phát triển khác nhau của các hình thái kinh tế - xã hội sẽ hình thành

nên các học thuyết triết học khác nhau. Cho nên phân kỳ lịch sử triết học cần
phải dựa vào các giai đoạn phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái
kinh tế - xã hội. Đó là triết học xã hội nô lệ, triết học xã hội phong kiến, triết
học thời kỳquá độ từ xã hội phong kiến lên xã hội tư bản (thời kỳ phục hưng
và cận đại), triết học trong xã hội tư bản...
Thứ hai, sự phát triển của triết học luôn luôn gắn liền với sự phát triển
của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa
học, nhất là khoa học tự nhiên, triết học đều có bước phát triển mới. Vì vậy,
phân kỳ lịch sử triết học còn phải gắn liền với các giai đoạn phát triển của
khoa học tự nhiên. Như triết học thời kỳ khoa học tự nhiên mới bắt đầu hình
thành thời kỳ cổ đại, triết học thời kỳ khoa học tự nhiên đi sâu vào khoa học
thực nghiệm thế kỷ XVII - XVIII, triết học thời kỳ khoa học tự nhiên đi sâu
vào khái quát những quy luật chung của tự nhiên cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX, triết học trong thời kỳ khoa học tự nhiên bắt đầu vào nghiên cứu thế giới
vi mô cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, triết học trong thời kỳ cách mạng khoa
học và công nghệ hiện nay.
Thứ ba, do nhiều yếu tố tác động khác nhau, lịch sử triết học còn có
những bước ngoặt mang tính cách mạng trong quá trình phát triển. Điều đó
đòi hỏi phân kỳ lịch sử triết học cần phải tính đến những bước ngoặt trong sự
phát triển của triết học. Chẳng hạn, triết học cổ điển Đức vào cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX đã nâng phép biện chứng lên thành một hệ thống lý

3


luận có tính khái quát cao. Đặc biệt phải nói đến sự ra đời của triết học Mác đã
tạo ra một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học.
Thứ tư, sự phát triển của triết học không thể tách rời những điều kiện cụ
thể về tự nhiên, về kinh tế - xã hội, về văn hóa... của từng vùng, từng dân tộc.
Những điều kiện cụ thể đó tạo nên những nét độc đáo riêng về tư tưởng triết

học của từng vùng, từng dân tộc. Vì vậy, phân kỳ lịch sử triết học còn phải
gắn liền với từng vùng, từng dân tộc. Chẳng hạn phân ra triết học phương
Đông và triết học phương Tây, trên cơ sở đó lại chia ra triết học ở các nước
khác nhau và các thời kỳ khác nhau.
Như vậy, phân kỳ lịch sử triết học dựa trên nhiều căn cứ khác nhau cho
nên có nhiều cách phân kỳ khác nhau. Mỗi cách phân kỳ thỏa mãn được tiêu
chí này lại hạn chế về tiêu chí kia. Để khắc phục điều đó, thông thường trong
phân kỳ lịch sử triết học phải kết hợp nhiều tiêu chí. Sau đây là hai cách phân
kỳ phổ biến nhất:
Cách thứ nhất là sự kết hợp nét đặc thù của từng vùng với các thời kỳ
phát triển khác nhau của triết học gắn liền với các hình thái kinh tế - xã hội và
với những bước ngoặt trong sự phát triển của triết học, lịch sử triết học được
phân kỳ như sau:
- Triết học phương Đông cổ - trung đại
- Triết học phương Tây cổ , trung - cận và hiện đại
- Triết học Mác - Lênin
Cách thứ hai là dựa vào học thuyết hình thái kinh tế xã hội là cơ sở quan
trọng cho phân kỳ lịch sử triết học; Đặc điểm của các vùng, các dân tộc sản
sinh ra Triết học; Tính độc lập tương đối của triết học; Bản chất của các học
thuyết triết học tạo ra được những cột mốc lớn lao trong sự phát triển của triết
4


học. Dựa trên những định hướng này, việc phân kỳ được chia ra các giai đoạn
sau:
II.

Triết học cổ đại
Triết học trung đại
Triết học phục hưng

Triết học cận đại
Triết học cổ điển Đức
Triết học Mác – Lênin
Quan niệm của Ăng ghen về phân kỳ lịch sử triết học
1. Vài nét về tiểu sử Ph.Ăng ghen
Ph. Ăng-ghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820, trong một gia đình chủ

xưởng sợi. Lê-nin đã nhận xét, khi còn là học sinh trung học, Ăng-ghen đã
căm ghét sự chuyên quyền và độc đoán của bọn quan lại. Việc nghiên cứu triết
học trong thời gian ở Béc-Lin khi làm nghĩa vụ quân sự đã dẫn ông đi xa hơn.
Song chính thời gian gần 2 năm, từ mùa thu 1842, sống ở Anh, việc nghiên
cứu đời sống kinh tế và sự phát triển chính trị của nước Anh, nhất là việc trực
tiếp tham gia vào phong trào công nhân đã dẫn đến bước chuyển biến căn bản
trong thế giới quan của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
Cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen tham gia lãnh đạo Quốc tế cộng sản I.
Tháng 9-1870, Ph. Ăng-ghen đến Luân Đôn và được đưa vào tổng hội đồng
của quốc tế cộng sản I. Năm 1871, Ph. Ăng- ghen tham gia vào việc tổ chức
chiến dịch bảo vệ công xã Pari.
Một số tác phẩm nổi tiếng của Ăng-ghen là Nguồn gốc gia đình, Chế
độ tư hữu và Nhà nước (1884), Biện chứng tự nhiên, Vấn đề nông dân ở Pháp
và Đức (1894), đặc biệt là cuốn Chống Đuy-rinh (1818) góp phần to lớn cho
việc hoàn thiện lý luận cho chủ nghĩa C. Mác, đồng thời trong tác phẩm này
ông cũng đã trình bày quan niệm của mình về phân kỳ lịch sử triết học.
5


2. Quan niệm của Ăng ghen về phân kỳ lịch sử triết học
Ăng-ghen phân kỳ lịch sử triết học dựa trên lịch sử phát triển của phép
biện chứng. Lịch sử phát triển của phép biện chứng theo Ăng-ghen được chia
làm bốn thời kì như sau: Thời kỳ phép biện chứng tự phát thời cổ đại; thời kỳ

phép biện chứng thời Tây Âu thế kỷ XIV- XVIII; thời kỳ phép biện chứng duy
tâm cổ điển Đức và thời kỳ phép biện chứng khoa học (hay phép biện chứng
duy vật).
2.1.

Thời kỳ phép biện chứng tự phát thời cổ đại.

Những nhà triết học cổ Hy Lạp đều là những nhà biện chứng tự phát,
bẩm sinh và Ari-xtốt, Heraclit thời cổ đại đã nghiên cứu những hình thức căn
bản nhất của tư duy biện chứng.
Khi chúng ta dùng tư duy để xem xét giới tự nhiên, lịch sử loài người
hay hoạt động tinh thần của bản thân chúng ta thì trước nhất, chúng ta thấy
một bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên hệ và những sự tác
động qua lại, trong đó không có cái gì là đứng nguyên, không thay đổi, mà tất
cả đều vận động, biến đổi, phát sinh và mất đi.
Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đó đúng
là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được
Hêraclit trình bày một cách rõ ràng rằng: Mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại
không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi
vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong. Nhưng Ăng-ghen cho rằng cách
nhìn ấy dù cho nó có nắm đúng tính chất chung của toàn bộ bức tranh về các
hiện tượng, vẫn không đủ để giải thích những chi tiết hợp thành của bức tranh
toàn bộ và chừng nào chúng ta chưa hiểu hết được những chi tiết ấy thì chúng
ta chưa thể hiểu hết được bức tranh toàn bộ. Muốn nhận biết được những chi
tiết ấy, chúng ta buộc phải tách chúng ra khỏi mối liên hệ tự nhiên hay lịch sử
của chúng.
6


Trong thời kì cổ đại Hy Lạp, khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội chỉ

giữ một vai trò thứ yếu vì đối với họ, điều cần thiết trước hết là phải thu thập
được đầy đủ tài liệu. Ph. Ăng ghen đã đánh giá một cách đúng đắn giá trị triết
học của Heraclit và coi ông là đại biểu xuất sắc nhất của phép biện chứng Hy
Lạp cổ đại: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ nhưng
căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà Hy Lạp thời cổ và người đầu
tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Heraclit”
Phép biện chứng thời kì cổ đại đã thấy được các sự vật trong quá trình
sinh ra, hình thành, tiêu vong và mối liên hệ vô tận giữa các sự vật, hiện
tượng. Tuy nhiên, những tư tưởng đó dựa trên cơ sở trực quan, trực giác chứ
chưa có được những cơ sở khoa học vững chắc và quan trọng nhất là chưa đầy
đủ.
2.2.

Thời kỳ phép biện chứng thời Tây Âu thế kỷ XIV – XVIII

Phép biện chứng trong thời kỳ này phát triển trong thời kỳ thống trị của
tư duy siêu hình. Hai đại diện tiêu biểu của trường phái tư duy siêu hình này là
Bê-cơn và Lốc-cơ.
Đối với các nhà siêu hình học thì sự vật và những khái niệm đều là
những đối tượng nghiên cứu riêng biệt, cố định, cứng đờ, vĩnh viễn, phải được
xem xét cái này sau cái kia, cái này độc lập với cái kia. Sự vật hoặc là tồn tại,
hoặc là không tồn tại, một sự vật không thể vừa là bản thân nó vừa là một sự
vật khác. Cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau, nguyên
nhân kết quả cũng đối lập hẳn với nhau. Ăng-ghen nhận thấy phương pháp tư
duy siêu hình mới nghe thì có vẻ chấp nhận được do nó là kết quả của quá
trình nhận thức lành mạnh của con người nhưng nó sẽ gặp phải một ranh giới
mà nếu nó vượt quá thì sẽ trở thành phiến diện, hạn chế, trừu tượng và sa vào
những mâu thuẫn không thể giải quyết được vì nó chỉ nhìn thấy những sự vật
hiện tượng riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa chúng, chỉ
7



nhìn thấy sự tồn tại mà không nhìn thấy sự phát sinh tiêu vong của sự vật, chỉ
nhìn thấy trạng thái tĩnh mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy.
Tất cả những quá trình ấy và tất cả những phương pháp tư duy ấy không
nằm trong khuôn khổ của tư duy siêu hình. Trái lại, đối với phép biện chứng là
phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh
của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong
sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng thì những
quá trình kể đó chỉ chứng thực cho phương pháp nghiên cứu của bản thân nó
mà thôi. Giới tự nhiên là hòn đá thử vàng đối với phép biện chứng, và cần
phải nói rằng khoa học tự nhiên hiện đại đã cung cấp cho sự thử nghiệm ấy
những vật liệu hết sức phong phú và mỗi ngày một tăng thêm và do đó đã
chứng minh rằng trong tự nhiên, rút cục lại, mọi cái đều diễn ra một cách biện
chứng chứ không phải siêu hình.
Tóm lại, theo quan điểm của Ăng-ghen, tư duy siêu hình là kết quả của
quá trình nhận thức lành mạnh của con người nên xét về mặt bản chất, phương
pháp tư duy ấy không hoàn toàn sai lầm mà nó có một ranh giới nhất định mà
nếu vượt quá ranh giới đó thì tư duy siêu hình sẽ trở thành hạn chế, phiến
diện. Tư duy siêu hình chỉ xem xét mọi sự vật, hiện tượng đứng yên mà không
vận động, không tác động qua lại lẫn nhau và ông đã chỉ ra được những điểm
hạn chế cơ bản của phương pháp tư duy này.
2.3.

Thời kỳ phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức

Trong thời kỳ triết học cổ điển Đức, phép biện chứng đã có một bước
tiến rõ rệt, các nhà khoa học đã nhìn nhận sự vật, hiện tượng có phát sinh và
tiêu vong, có vận động biến đổi, có tác động qua lại lẫn nhau. Đại diện nổi bật
nhất của phép biện chứng thời kỳ này là Hê-ghen. Tuy nhiên, phép biện chứng

của các nhà khoa học thời kỳ này vẫn còn nặng về duy tâm và bảo thủ.
8


Can-tơ đã mở đầu sự nghiệp khoa học của ông bằng việc biến thái
dương hệ vĩnh viễn và bất biến của Niu- tơn: Đó là quá trình xuất hiện mặt
trời và tất cả mọi hành tinh từ khối tinh vân đang xoay chuyển. Từ đó, ông đã
rút ra được cái kết luận là sự nảy sinh của thái dương hệ cũng giả định sự tiêu
vong tất yếu của nó trong tương lai. Ông cho rằng chỉ khi nhận thức ở trình độ
lý tính thì mới có mâu thuẫn mà chưa thấy được rằng mâu thuẫn là vốn có
trong hiện thực khách quan. Mâu thuẫn chưa phải là mâu thuẫn biện chứng
giữa chính đề và phản đề, chưa có sự thống nhất và chuyển hóa lẫn nhau. Nửa
thế kỷ sau, quan điểm đó của ông được La-pla-xơ chứng minh bằng toán học,
rồi một nửa thế kỷ sau nữa, kính quang phổ đã chứng minh rằng trong không
gian của vũ trụ có những đám khí đỏ rực giống như thế, ở những mức độ
ngưng tụ khác nhau.
Nền triết học của Đức đã đạt tới đỉnh cao của nó trong hệ thống của Hêghen, trong đó lần đầu tiên và đây là công lao to lớn của ông – toàn bộ thế giới
tự nhiên, lịch sử và tinh thần được trình bày như là một quá trình, nghĩa là
luôn luôn vận động, biến đổi, biến hóa và phát triển, và ông đã cố vạch ra mối
liên hệ nội tại của sự vận động và phát triển ấy. Ông là người đầu tiên trình
bày toàn bộ giới tự nhiên, xã hội và tư duy một cách biện chứng.
Mặc dù Hê-ghen là một khối óc bách khoa nhất của thời đại bấy giờ,
song dù sao ông vẫn bị hạn chế, một là bởi những giới hạn không thể tránh
được của những tri thức của bản thân ông và hai là bởi những tri thức và
nhưng quan niệm của thời đại ông, những tri thức và những quan niệm này
cũng bị hạn chế hệt như vậy, tính cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Ngoài ra còn có
thêm một điều thứ ba nữa, Hê-ghen là một nhà duy tâm, nghĩa là đối với ông
thì những tư tưởng trong đầu óc của chúng ta không phải là những phản ánh ít
nhiều trừu tượng của những sự vật và quá trình hiện thực, mà ngược lại,
những sự vật và sự phát triển của chúng, thể hiện ở chỗ “Sự vận động của xã

9


hội là sự vận động của tư duy” đối với Hê ghen, chỉ là những phản ánh thể
hiện cái “ý niệm” nào đó tồn tại ở một nơi nào đó ngay trước khi có thế giới (ý
niệm tuyệt đối).
Như vậy, tất cả đều bị đặt lộn ngược và mối liên hệ hiện thực của các
hiện tượng của thế giới đều hoàn toàn bị đảo ngược. Và mặc dù Hê-ghen đã
nắm được một cách đúng đắn và thiên tài một số mối liên hệ riêng biệt giữa
các hiện tượng nhưng vì những nguyên nhân nói trên nên nhiều cái ngay cả
trong các chi tiết của hệ thống Hê ghen cũng không tránh khỏi tính chất gò ép,
giả tạo, hư cấu, bị xuyên tạc.
Tóm lại, triết học thời kỳ này đã có một sự phát triển vượt bậc, từ lối tư
duy mọi sự vật hiện tượng tách biệt nhau và đứng yên của thời kỳ trước, Ăngghen đã chỉ ra trong thời kỳ cổ điển Đức, các nhà khoa học đã xem xét đến sự
tác động, sự vận động của các sự vật hiện tượng. Tuy nhiên, lối tư duy của các
nhà khoa học, đặc biệt là Hê-ghen là lối tư duy ngược với lối biện chứng
thông thường dẫn đến sự bảo thủ và duy ý chí.
2.4.

Thời kỳ phép biện chứng khoa học

Phép biện chứng duy vật đã thống nhất phép biện chứng với chủ nghĩa
duy vật. Đó là một hệ thống phát triển cao nhất, kết hợp được cả ba phương
pháp của các nhà khoa học từ trước đến nay, thống nhất chặt chẽ giữa tính
khoa học với tính cách mạng. Hai người đi tiên phong cho phép biện chứng
duy vật của thời kỳ này chính là C.Mác và Ăng-ghen.
Sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của C. Mác và Ăngghen là một quá trình đầy khó khăn, phức tạp dựa trên những tiền đề về kinh
tế - xã hội, tiền đề về lý luận và tiền đề về khoa học tự nhiên.
+ Tiền đề kinh tế - xã hội: Đầu thế kỉ XIX, phương thức tư bản chủ
nghĩa phát triển mạnh mẽ làm bộc lộ những mâu thuẫn bên trong của nó, biểu

hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Phép
10


biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện đó đã cung cấp thực tiễn cho Mác và
Ăng ghen để đúc kết và kiểm nghiệm lí luận về phép biện chứng.
+ Tiền đề lý luận: Triết học Mác ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển
các giá trị trong các tư tưởng triết học tiến bộ của nhân loại, đặc biệt phép biện
chứng của Hê-ghen và chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc là một trong những
tiền đề lý luận trực tiếp của triết học Mác.
+ Tiền đề về khoa học tự nhiên: Những phát minh lớn của khoa học tự
nhiên làm bộc lộ tính hạn chế, chật hẹp và bất lực của phương pháp tư duy
siêu hình trong việc nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa
học để phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật.
Trong số các thành tựu khoa học tự nhiên, có ba phát minh lớn của khoa học
tự nhiên thời kỳ này là: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của
Maye năm 1845, học thuyết về tế bào (cuối những năm 30 của thế kỷ XIX),
thuyết tiến hóa của Đác-uyn năm 1949.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên đòi hỏi phải khái quát về
mặt triết học để chỉ ra những mối liên hệ giữa các quá trình diễn ra trong tự
nhiên. Điều này dẫn tới tất yếu sự thay thế thế giới duy tâm và phương pháp
siêu hình bằng phép biện chứng duy vật.
Theo Ăng-ghen thì ngược lại với quan niệm về tự nhiên thịnh hành ở
người Pháp thế kỷ XVIII cũng như ở Hê-ghen, coi tự nhiên như là một chỉnh
thể không thay đổi, vận động trong những vòng tuần hoàn chật hẹp, với những
thiên thể vĩnh cửu như Niu-tơn đã dạy, với những loại sinh vật hữu cơ không
thay đổi như Lê Nin đã dạy,- ngược lại với quan niệm về tự nhiên ấy, chủ
nghĩa duy vật hiện đại tổng hợp những thành tựu mới nhất của khoa học tự
nhiên, mà theo đó thì giới tự nhiên cũng có lịch sử của bản thân nó trong thời
gian, những thiên thể cũng nảy sinh và diệt vong giống như tất cả những loài

hữu cơ sống trên những thiên thể ấy trong những điều kiện thuận lợi, và những
11


vòng tuần hoàn, trong chừng mực chúng nói chung có thể diễn ra, cũng có
những quy mô vô cùng lớn hơn. Trong hai trường hợp ấy, chủ nghĩa duy vật
hiện đại về bản chất là biện chứng, và nó không cần đến bất cứ một triết
học nào đứng trên các khoa học khác. Một khi người ta đặt ra trước mỗi
khoa học cái yêu cầu là phải làm sáng tỏ vị trí của nó trong mối liên hệ
chung giữa các sự vật và những kiến thức về những sự vật ấy thì bất kỳ một
khoa học đặc biệt nào về mối liên hệ chung ấy cũng đều trở nên thừa. Và
khi đó trong toàn bộ môn triết học trước kia, chỉ còn lại có học thuyết về tư
duy và những quy luật của tư duy - tức là logic hình thức và phép biện
chứng - là còn tồn tại được một cách độc lập. Mọi cái khác đều thuộc vào
một khoa học cụ thể về tự nhiên và về lịch sử.
Sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của triết học của Mác –
Ăng ghen vừa là kết quả khái quát kinh nghiệm đấu tranh cách mạng và kế
thừa có tính phê phán di sản của lí luận của loài người, vừa là khách quan
nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các thành tựu khoa học. Các tiến bộ khoa học
kỹ thuật của thời đại đã chứng minh tính đúng đắn của phép biện chứng duy
vật Mácxit và người đưa nó lên thành đỉnh cao của phép biện chứng.
C. KẾT LUẬN
Phân kỳ lịch sử triết học là cơ sở để đi sâu nghiên cứu lịch sử triết học
một cách khoa học. Tìm hiểu những quan niệm của Ăng ghen về phân kỳ lịch
sử triết học giúp cung cấp cho chúng ta cái nhìn toàn diện, sâu sắc và đầy đủ
hơn khi học tập, là điều kiện cần thiết nến muốn nghiên cứu một cách khoa
học về sự hình thành và phát triển của các tư tưởng triết học trong lịch sử nhân
loại loài người.

12



D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học ( dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không chuyên ngành Triết học);
2. Bộ Giáo dục và đào tạo- C.Mác và Ph. Ăng-ghen toàn tập 20 -Nxb
Chính trị quốc gia-1994;
3. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.

13



×