Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

khoá luận tốt nghiệp Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tiền gửi cá nhân tại ngân hàng TMCP dầu khí toàn cầu chi nhánh đông đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.4 KB, 66 trang )

i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khoá luận Tốt nghiệp này, trước tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc nhất đến quý Thầy, Cô trong khoa Tài chính-Ngân hàng, Trường Đại học Đại Nam
đã tận tình truyền đạt kiến thức trong suốt 4 năm em học tập tại trường. Với vốn kiến
thức mà em được tiếp thu trong quá trình học, sẽ không chỉ là nền tảng cho quá trình
nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quý báu để em bước vào đời một cách
vững chắc và tự tin.
Em chân thành cảm ơn thầy giáo-THs Đoàn Đức Minh, đã tận tình hướng dẫn
em trong suốt quá trình thực tập, viết khoá luận.
Em chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo của Ngân hàng Thương Mại cổ phần Dầu
khí Toàn cầu Chi nhánh Đông Đô đã cho phép và tạo điều kiện thuận lợi để em được
thực tập tại Ngân hàng. Em xin gửi lời cảm ơn đến chị Đỗ Thanh Hương, kiểm soát
viên tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Dầu khí Toàn cầu -Chi nhánh Đông Đô đã
giúp đỡ em trong quá trình thu thập tài liệu.
Cuối cùng em muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến ba mẹ và gia đình em, những
người bạn thân- những người luôn kịp thời động viên và giúp đỡ em vượt qua những
khó khăn trong cuộc sống.
Em kính chúc quý Thầy, Cô dồi dào sức khoẻ, thành công trong sự nghiệp
cao quý. Đồng kính chúc Anh, Chị trong Ngân hàng Thương mại cổ phần Dầu khí
Toàn cầu- Chi nhánh Đông Đô luôn dồi dào sức khoẻ,đạt được nhiều thành công
trong công việc.

Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Lục Mai Trang.


ii
KÍ HIỆU CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT


GP.Bank

Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu

NHTM

Ngân hàng thương mại

HTTC

Hệ thống tài chính

TCTD

Tổ chức tín dụng

DTBB

Dự trữ bắt buộc

TTCK

Thị trường chứng khoán

BĐS

Bất động sản

KBNN


Kho bạc nhà nước

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

TCKT

Tổ chức kinh tế

HĐQT

Hội đồng quản trị

USD

Đồng đô-la Mỹ

VND

Việt Nam đồng

KKH

Không kì hạn

KH

Khách hàng


NHTW

Ngân hàng trung ương

HSC

Hộ sở chính

GP.Bank Đông Đô

Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu- chi
nhánh Đông Đô


iii
MỤC LỤC
......................................................................iii
Bảng 2.8: Biểu lãi suất tiết kiệm phát tài...........................................................32
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................65


iv
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

......................................................................iii
Bảng 2.8: Biểu lãi suất tiết kiệm phát tài...........................................................32


1
LỜI MỞ ĐẦU

Vốn là điều kiện tiên quyết đối với sự tồn tại, hoạt động và phát triển của mọi tổ
chức trong nền kinh tế. Vốn luôn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của quá
trình hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Chúng ta cần khẳng định rằng
không thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung cũng như các mục
tiêu kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng nếu như không có vốn. Với chức năng
trung gian tài chính, ngay từ khi hình thành, ngân hàng đã có vai trò quan trọng trong
việc chu chuyển nguồn vốn từ các tổ chức cá nhân có vốn rảnh rỗi tới các đơn vị có
nhu cầu sử dụng vốn. Để đáp ứng nhu cầu thị trường, thì không những dựa vào vốn sở
hữu mà ngân hàng còn phải huy động thêm vốn từ bên ngoài. Vì vậy, các ngân hàng
thương mại rất chú trọng đến vấn đề huy động vốn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của
mình. Có thể nói huy động vốn là hoạt động cơ bản mang tính chất quyết định tới qui
mô hoạt động kinh doanh, tới uy tín thương hiệu và chiến lược phát triển mọi ngân
hàng.
Năm 2006, Việt Nam gia nhập tổ chức WTO, nền kinh tế thêm một bước
chuyển mình mới, kinh tế nước nhà ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn
cầu. Đứng trước sức ép về qui định tăng vốn điều lệ, sức ép cạnh tranh giữa các ngân
hàng trong nước và nước ngoài, hoạt động huy động vốn ngày càng sôi động và đầy
khó khăn hơn. Mặt khác trong một nền kinh tế hội nhập, ngân hàng nào có nhiều vốn,
ngân hàng đó sẽ chiếm lĩnh thị trường tạo ra nhiều lợi nhuận. Do vậy huy động vốn là
vấn đề trọng tâm của các ngân hàng thương mại. Làm thế nào để nâng cao hiệu quả
huy động nguồn vốn đang là một bài toán đặt ra đối với các ngân hàng hiện nay.
Là một sinh viên chuyên ngành tài chính ngân hàng, bằng những vốn kiến thức
đã được tiếp thu ở trường cộng với sự hiểu biết có hạn từ thực tế trong quá trình thực
tập tại NHTMCP Dầu khí Toàn Cầu, tôi đã chọn đề tài khóa luận của mình là “Một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tiền gửi cá nhân tại ngân hàng
TMCP Dầu khí Toàn Cầu - Chi nhánh Đông Đô”
+Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở xác định nội dung, vai trò của NHTM thông qua hoạt động huy động
vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế, dịch vụ, khoá luận nghiên cứu
thực trạng hoạt động của NHTMCP Dầu khí Toàn Cầu - Chi nhánh Đông Đô nói

chung và lĩnh vực huy động vốn nói riêng. Từ đó, đưa ra một số giải pháp, kiến nghị
nhằm mở rộng huy động vốn tại GP.Bank Đông Đô, đáp ứng vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh có hiệu quả trên địa bàn.
+Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


2
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là những lý luận cơ bản về vốn và sử dụng
vốn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng. Trong đó trọng tâm là nâng cao hiệu quả
công tác huy động vốn.
Phạm vị nghiên cứu là khảo sát hoạt động của NHTMCP Dầu khí Toàn Cầu Chi nhánh Đông Đô trong 2 năm từ 2009 đến 2010.
+Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với các học thuyết
kinh tế, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp…
+Kết cấu của bài khóa luận gồm:
Phần mở đầu.
Chương I: Lý luận cơ bản về công tác huy động vốn tại NHTM.
Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tiền gửi cá nhân tại ngân hàng TMCP
Dầu khí Toàn Cầu -Chi nhánh Đông Đô.
Chương III : Giải pháp nâng cao công tác huy động vốn tiền gửi cá nhân tại Ngân
hàng TMCP Dầu khí Toàn Cầu - Chi nhánh Đông Đô.
Kết luận.

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM


3
1.1Tổng quan về NHTM

1.1.1.Khái niệm
Ngân hàng được hình thành và phát triển trải qua một quá trình lâu dài với
nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu vào khoảng thế kỷ XV đến
thế kỷ XVIII, các ngân hàng còn hoạt động độc lập với nhau và thực hiện các chức
năng như nhau đó là trung gian tín dụng, trung gian thanh toán trong nền kinh tế và
phát hành giấy bạc ngân hàng.
Sang thế kỷ XVIII, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng và phát triển. Việc
các ngân hàng cùng thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng làm cho lưu
thông có nhiều loại giấy bạc ngân hàng khác nhau đã gây cản trở cho quá trình lưu
thông hàng hoá và phát triển kinh tế. Chính điều này đã dẫn đến sự phân hoá trong hệ
thống ngân hàng. Lúc này hệ thống ngân hàng được phân thành hai nhóm: thứ nhất là
nhóm ngân hàng được được phép phát hành tiền được gọi là ngân hàng phát hành, sau
chuyển thành NHTW. Thứ hai là các ngân hàng không được phép phát hành tiền, chỉ
làm trung gian tín dụng và trung gian thanh toán giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
Ngày nay, hệ thống ngân hàng của hầu hết các nước trên thế giới là ngân hàng
hai cấp trong đó có Việt Nam: NHTW là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà
nước trong lĩnh vực tiền tệ, là ngân hàng phát hành, ngân hàng của các ngân hàng và là
ngân hàng của chính phủ còn các NHTM thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ.
Do vậy ở mỗi quốc gia khác nhau, hình thành một khái niệm khác nhau về NHTM. Ở
Việt Nam, căn cứ theo luật các tổ chức tín dụng số 47/2010 - QH 12 "Ngân hàng
thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận."
1.1.2. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế đã đạt đến trình độ cao của kinh tế
hàng hoá, ngân hàng đóng vai trò quan trọng, nó là hệ thống thần kinh, hệ thống
tuần hoàn của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế chỉ có thể cất cánh, phát
triển với tốc độ cao nếu có một hệ thống ngân hàng vững mạnh. Ngân hàng và nền
kinh tế có mối quan hệ hữu cơ lẫn nhau. Do đó, vai trò của ngân hàng thương mại
được thể hiện ở một số mặt sau:
1.1.2.1. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế

Nền kinh tế phát triển càng cao, thì nhu cầu về vốn càng lớn. Vốn đóng vai trò
rất quan trọng trong việc đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như duy
trì chính hoạt động đó nhằm đảm bảo hiệu quả của doanh nghiệp.
Chịu trách nhiệm với nhiệm vụ này. Ngân hàng thương mại đã đứng ra huy
động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mọi tổ chức, cá nhân mọi thành phần kinh


4
tế.Thông qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn cho nền kinh
tế, đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ đó các doanh nghiệp sẽ
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, góp phần nâng cao hiệu
quả của cả nền kinh tế.
1.1.2.2. NHTM là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong quá trình vận động chịu tác động
của rất nhiều các quy luật kinh tế khách quan như quy luật cung, cầu, cạnh tranh. Các
doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế này cũng không thoát khỏi sự tác động
mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan đó. Muốn tồn tại các doanh nghiệp buộc
phải thỏa mãn các yêu cầu của thị trường về: phương diện giá cả, khối lượng, chất
lượng, mẫu mã, cải tiến máy móc, trang thiết bị, tìm tòi nghiên cứu, đầu tư... Tuy
nhiên tất cả những hoạt động này đều cần có phải có lượng vốn nhất định (thường
vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp). Giải quyết khó khăn này, doanh
nghiệp có thể tìm đến với Ngân hàng xin vay vốn. Vì vậy Ngân hàng chính là cầu nối
giữa doanh nghiệp và thị trường.
1.1.2.3.NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các Ngân hàng trong hệ
thống, các Ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trong
lưu thông. Hơn nữa, bằng việc cấp các khoản tín dụng cho nền kinh tế, Ngân hàng
thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp, phân chia vốn của thị
trường điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết vĩ mô đúng
theo phương châm" Nhà nước điều tiết Ngân hàng, Ngân hàng dẫn dắt thị trường".

1.1.2.4.NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Trên thế giới, trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia độc lập thường xuyên tiến
hành những mối quan hệ đa dạng và phức tạp trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã
hội, ngoại giao, văn hoá, khoa học- kỹ thuật, …trong đó quan hệ kinh tế thường chiếm
vị trí quan trọng. Áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế của mỗi quốc gia khi mở cửa hội
nhập phải có tiềm lực lớn mạnh và toàn diện về mọi mặt mà quan trọng nhất là tài
chính. Nhưng làm thế nào để có thể hoà nhập nền kinh tế của một quốc gia với phần
còn lại của thế giới ? Câu hỏi này sẽ được giải đáp thông qua vai trò của hệ thống
NHTM với hàng loạt các nghiệp vụ không ngừng được hoàn thiện và phát triển: thanh
toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, uỷ thác đầu tư, … Hệ thống NHTM trong nước đã
điều tiết tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế, đưa
nền tài chính trong nước bắt kịp với nền tài chính quốc tế.


5
1.1.3 Chức năng của NHTM
1.1.3.1 Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng làm chức năng trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán
theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán
tiền hàng hoá dịch vụ hoặc nhập tiền vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu
bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Mặt khác, việc thanh toán trực tiếp
bằng tiền mặt giữa các chủ thể trong nền kinh tế có nhiều hạn chế đó là rủi ro phải vận
chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn, đặc biệt là với khách hàng ở cách xa nhau đã tạo
nên nhu cầu thanh toán qua ngân hàng.
1.1.3.2. Chức năng làm trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng là khái niệm cơ bản và đặc trưng nhất của
NHTM và có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ngân hàng làm chức năng trung gian tín dụng khi nó là “cầu nối giữa người
thừa vốn và người thiếu vốn”. Nói cách khác, ngân hàng sau khi huy động được các
nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế sẽ hình thành nên quỹ cho vay của

ngân hàng và sẽ sử dụng nó để đáp ứng nhu cầu vay vốn của các chủ thể trong nền
kinh tế mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Với chức năng này ngân hàng đóng vai trò
vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Hay nói cách khác, nghiệp vụ tín dụng
ngân hàng của NHTM đi vay là để cho vay.
Chức năng trung gian tín dụng xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ
trong quá trình tái sản xuất xã hội. Sở dĩ không phải là một tổ chức nào khác trong nền
kinh tế mà lại là ngân hàng đứng ra thực hiện chức năng này vì ngân hàng là một tổ
chức chuyên kinh doanh tiền tệ, tín dụng, họ có đầy đủ kinh nghiệm và sự hiểu biết về
tình hình cung cầu tín dụng trong nền kinh tế do vậy họ có thể khắc phục được những
khiếm khuyết của thị trường tài chính đó là sự không khớp nhịp giữa cung cầu tín
dụng về thời hạn và số lượng tức là thông qua việc thu hút tiền gửi với một số lượng
lớn ngân hàng có thể giải quyết mối quan hệ giữa cung cầu tín dụng cả về khối
lượng vốn cho vay và thời gian cho vay.
1.1.3.3. Chức năng tạo tiền
Các ngân hàng có khả năng mở rộng tiền gửi không kỳ hạn từ một khoản tiền
gửi ban đầu, hoặc từ khoản tiền nhận được từ NHTW thông qua việc cấp tín dụng cho
các khách hàng là tổ chức phi ngân hàng. Bất kỳ ngân hàng nào được phép huy động
tiền gửi không kỳ hạn và cung cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng đều có khả
năng tạo tiền. Sự kết hợp giữa chức năng trung gian thanh toán và trung gian tín dụng
làm cho hệ thống NHTM có khả năng tạo tiền gửi thanh toán. Từ một khoản tiền gửi
ban đầu thông qua làm chức năng trung gian tín dụng ngân hàng sử dụng để cho vay,
số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ


6
trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một
bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ…
tức là ngân hàng đã tạo tiền. Còn ngược lại khi ngân hàng huy động được số vốn mà
chưa cho vay ngân hàng chưa hề tạo tiền. Sự tạo tiền của NHTM chỉ xảy ra khi mọi
hoạt động kinh doanh của NHTM thực hiện bằng chuyển khoản ghi nợ cho tài khoản

nay và ghi có cho tài khoản khác có liên quan.
Thực hiện chức năng tạo tiền, với việc cho vay không có sự xuất hiện của tiền
mặt, các NHTM đã giảm được khối lượng tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm được chi
phí, giúp điều tiết lượng tiền cung ứng phù hợp chính sách ổn định giá cả, tăng trưởng
kinh tế, giảm thất nghiệp, làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế đáp
ứng nhu cầu chi trả của xã hội.
1.1.4 Hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.4.1. Nghiệp vụ tài sản nợ
Tài sản nợ bao gồm những khoản nợ mà ngân hàng nợ thị trường và vốn của
ngân hàng. Các khoản nợ được thị trường biểu hiện thông qua những khoản vốn mà
dân chúng gửi vào NHTM hoặc NHTM đi vay các chủ thể trong nền kinh tế như các
cá nhân, các hộ gia đình, doanh nghiệp, nước ngoài, các trung gian tài chính khác,
NHTW…
a-Vốn tiền gửi
Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động huy động vốn của NHTM dưới dạng nhận
các khoản tiền gửi của DN vào ngân hàng để thanh toán nhằm mục đích an toàn hay
hưởng lãi. Đồng thời ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư
gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi. Bao gồm:
+ Tiền gửi thanh toán: Là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của TCKT và cá nhân
trong quá trình kinh doanh của mình gửi vào ngân hàng để chủ động thanh toán hoặc
sinh lời. Tuỳ theo tính chất nhàn rỗi của các nguồn vốn các tổ chức, cá nhân có thể gửi
không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn vào ngân hàng. Ngân hàng có thể sử nguồn vốn này vào
cho vay các thành phần kinh tế.
+ Tiền gửi tiết kiệm: Đây là hình thức huy động vốn truyền thống của NHTM.
Tiền gửi tiết kiệm là khoản để dành hoặc tạm thời nhàn rỗi của dân cư gửi vào ngân
hàng với mục đích hưởng lãi theo định kỳ hoặc tiết kiệm chi tiêu cho tương lai. Đây là
nguồn vốn quan trọng có tính chất ổn định cao và có qui mô lớn trong tổng nguồn vốn
huy động của NHTM. Khách hàng có thể gửi tiết kiệm không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn
tuỳ theo nhu cầu sử dụng.



7
b- Phát hành giấy tờ có giá
Nghiệp vụ này được thực hiện mang tính chất thời vụ, nó phát sinh khi có nhu
cầu về vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nhằm thu hút các khoản
vốn trung dài hạn để đầu tư để đầu tư vào nền kinh tế, do huy động có thời hạn nên
nguồn vốn này tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Bao gồm: kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi.
c-Vốn đi vay
Tuy nguồn tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất của NHTM nhưng sau khi đã
sử dụng hết vốn và tiền gửi mà ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của
khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách hàng… NHTM
có thể đi vay ở NHTW, ở các NHTM khác trên thị trường tiền tệ, vay ở các tổ chức
nước ngoài…Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ có thể chấp nhận được trong kết
cấu nguồn vốn của ngân hàng nhưng nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm
bảo cho ngân hàng hoạt động bình thường.
Ngoài ra khi có nhu cầu NHTM còn có thể đi vay từ các NHTM khác. Đây là
nguồn các NHTM vay mượn lẫn nhau và vay của các TCTD khác trên thị trường. Các
NHTM đang thiếu hụt dự trữ có thể vay mượn từ các NHTM và TCTD khác trên thị
trường để đảm bảo thanh khoản còn các ngân hàng đang có dự trữ vuợt yêu cầu do có
sự gia tăng bất ngờ về nguồn vốn huy động cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm
lãi suất cao hơn. Quá trình vay mượn diễn ra rất đơn giản ngân hàng vay chỉ cần liên
hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua NHTW. Có 2 loại vay từ NHTM
khác:
-Vay qua đêm.
-Vay có kỳ hạn.
Các khoản đi vay thường là với quy mô và thời hạn xác định trước do vậy
tạo thành nguồn vốn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi ngân hàng
không nhất thiết phải đi vay thường xuyên: ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết và hoàn
toàn chủ động về khối lượng vay cho phù hợp với nhu cầu sử dụng. Tuy nhiên, do

rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi
với cùng kỳ hạn. Hơn nữa việc đi vay thường xuyên cũng sẽ làm cho uy tín của
ngân hàng trên thị trường tiền tệ bị giảm sút gây ảnh hưởng tới hoạt động kinh
doanh cũng như khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
d- Vốn khác


8
Quá trình thực hiện các nghiệp vụ trung gian, NHTM cũng tạo được một khoản
vốn gọi là vốn trong thanh toán như: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản séc
bảo chi, séc định mức và các khoản tiền phong toả do ngân hàng chấp nhận hối phiếu
thanh toán…
Thông qua các nghiệp vụ đại lý, dịch vụ NHTM cũng thu hút được một
lượng vốn như trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho các tổ
chức tín dụng khác, nhận chuyển vốn cho khách hàng…Do phát tiền theo tiến độ
nên thường xuyên có một bộ phận vốn kết dư trên tài khoản ngân hàng có thể sử
dụng tạm thời nguồn vốn đó vào kinh doanh.
e-Vốn tự có
Vốn tự có là nhưng giá trị tiền tệ mà ngân hàng tạo lập được thuộc về sở hữu
của ngân hàng. Vốn tự có mang tính chất ổn định, nó thường chiếm một tỷ trọng nhỏ
trong tổng nguồn vốn của ngân hàng (dưới 10%), nhưng nó có một vị trí quan trọng
quyết định qui mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tiến hành kinh
doanh, huy động vốn và cho vay. Nó đóng vai trò là “ tấm đệm giúp chống đỡ rủi ro
phá sản”. Vốn tự có của ngân hàng góp phần thoả mãn các cơ quan quản lý ngân hàng
khi họ xem xét các điều kiện của ngân hàng trong việc thiết lập các chi nhánh, giới hạn
tín dụng, đầu tư và mua sắm tài sản cố định của ngân hàng. Vốn cung cấp năng lực tài
chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những
chương trình và trang thiết bị mới. Nguồn hình thành vốn tự có gồm hai nguồn chính
sau:
-Vốn tự có ban đầu là vốn mà NHTM phải có để đi vào hoạt động được quy

định trong những văn bản pháp quy. Đây là phần vốn mà ngân hàng thực có trong suốt
quá trình hoạt động của ngân hàng và thuộc quyền sở hữu của ngân hàng. Tuỳ theo
tính chất mỗi ngân hàng mà nguồn vốn hình thành ban đầu khác nhau. Chẳng hạn:
+ NHTM quốc doanh: vốn điều lệ do NSNN cấp.
+ NHTM cổ phần: vốn điều lệ do các cổ đông đóng góp.
+ NH liên doanh: vốn điều lệ do các bên tham gia liên doanh đóng góp.
+NH tư nhân: vốn điều lệ thuộc sở hữu tư nhân.
-Vốn tự có bổ sung trong quá trình hoạt động:
+ Vốn tự có bổ sung từ nguồn nội bộ: tỷ lệ bổ sung vào vốn tự có từ lợi nhuận tùy
thuộc vào quyết định của chủ ngân hàng về tích luỹ và tiêu dùng.
+ Vốn tự có bổ sung từ bên ngoài bằng cách phát hành cổ phiếu thường, cổ phiếu
ưu đãi, trái phiếu chuyển đổi.
+ Vốn tự có bổ sung từ các quỹ trích từ lợi nhuận của ngân hàng.


9

1.1.4.2.Nghiệp vụ tài sản có
Tài sản có phản ánh việc sử dụng vốn của NHTM hay những khoản mà thị
trường nợ NHTM. Đó là những khoản mà ngân hàng cho thị trường vay hay đầu tư
vào thị trường.
a-Nghiệp vụ ngân quỹ
Nghiệp vụ này phản ánh các khoản về dự trữ của ngân hàng bao gồm:
-Tiền mặt tại quỹ
-Tiền gửi ở ngân hàng khác
-Tiền gửi ở NHTW
Mặc dù dự trữ của ngân hàng không tạo nên lợi nhuận cho ngân hàng nhưng nó
đảm bảo an toàn trong thanh toán và các nghiệp vụ tài chính khác cho ngân hàng
(thực hiện quy định về DTBB do NHTW đề ra). Vì thế nó hạn chế rủi ro thanh khoản,
nâng cao uy tín cho ngân hàng tạo nền tảng vững chắc cho khả năng sinh lời của ngân

hàng.
b-Nghiệp vụ cho vay
Nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ cung ứng vốn của ngân hàng trực tiếp cho các
nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trên cơ sở thoả mãn các điều kiện vay vốn của ngân hàng.
Đây là nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động kinh doanh của NHTM, bởi một mặt thông
qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng cung ứng một lượng vốn lớn cho nền kinh tế để đáp
ứng yêu cầu sản xuất, tăng trưởng kinh tế; mặt khác là nghiệp vụ sinh lời lớn nhất của
các NHTM do đó các NHTM đã tìm kiếm mọi cách huy động nguồn vốn để cho vay.
Vì vậy quy mô của các khoản cho vay chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản có của
NHTM và cũng chứa đựng rủi ro rất cao cho nên các ngân hàng luôn xem xét kỹ lưỡng
tới từng món vay và từng đối tượng cho vay để đảm bảo an toàn cho khoản vay.
Nghiệp vụ cho vay của NHTM có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Thông thường, người ta thường phân loại theo tiêu thức thời gian gồm:
-

Cho vay ngắn hạn: là loại hình cho vay có thời hạn dưới 12 tháng.

-

Cho vay trung hạn: là loại hình cho vay có thời hạn từ 12 tháng đến 60

-

Cho vay dài hạn: là loại hình cho vay có thời hạn trên 60 tháng.

tháng.

c-Nghiệp vụ đầu tư



10
Nghiệp vụ đầu tư là nghiệp vụ sinh lời của NHTM ở nghiệp vụ này NHTM
đầu tư vào chứng khoán và góp vốn, mua cổ phần của các TCTD và các tổ chức kinh
tế với mục đích kiếm lời, phân tán rủi ro qua việc đa dạng hoá các hoạt động kinh
doanh. Đầu tư vào chứng khoán là hình thức phổ biến trong nghiệp vụ tài sản có của
các NHTM và các TCTD. Ngân hàng có thể đầu tư vào chứng khoán Chính phủ,
chứng khoán công ty để thu lợi tức đầu tư, do đó mang lại thu nhập cho ngân hàng.
Nghiệp vụ này cũng nâng cao khả năng thanh toán, bảo tồn ngân quỹ.
d-Những tài sản có khác
Đó là những hiện vật như nhà làm việc, máy tính và những trang thiết bị khác
do ngân hàng sở hữu.
1.1.4.3. Các hoạt động dịch vụ ngân hàng
Đây là các hoạt động kinh doanh ngoài tín dụng như: dịch vụ thanh toán, đại lý,
tư vấn, bảo lãnh, cho thuê tài sản…nhằm tạo ra các khoản thu nhập tăng thêm năng lực
tài chính cho các NHTM. Xu thế chung hiện nay các ngân hàng tập trung hoàn thiện
tốt hơn các dịch vụ của mình nhằm không ngừng tăng nhanh tỷ lệ thu dịch vụ trong
tổng thu nhập của ngân hàng. Đây là những nghiệp vụ thuộc tài sản có của NHTM.

1.2. Vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về nguồn vốn
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập thông qua việc huy động, đi
vay để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất vốn của NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong
quá trình sản xuất kinh doanh, phân phối, tiêu dùng, mà người chủ sở hữu gửi vào ngân hàng
với các mục đích khác nhau, họ chỉ có quyền sở hữu còn quyền sử dụng vốn tiền tệ họ
chuyển nhượng cho ngân hàng, để rồi ngân hàng phải trả cho họ một khoản thu nhập. Như
vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối vốn dưới hình thức tiền tệ, làm
tăng nhanh quả trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển.
Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến việc tồn tại và phát triển hoạt động kinh
doanh của NHTM.

1.2.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng
1.2.2.1. Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Vốn là điểm đầu tiên trong chu kì hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đối với bất kì
doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn. Ngân hàng cũng vậy,


11
vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình. Nói cách khác, ngân
hàng không có vốn thì không thể thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình.
Do đó, ngoài vốn ban đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều lệ theo luật định thì ngân hàng phải
thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
1.2.2.2. Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của NH
Vốn của ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng. Nếu
so với ngân hàng lớn thì ngân hàng nhỏ có khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn,
phạm vi và khối lượng cho vay của các ngân hàng này cũng nhỏ. Do khả năng vốn hạn hẹp
nên các ngân hàng nhỏ không phản ứng nhạy bén được với sự biến động của lãi suất, gây ảnh
hưởng đến khả năng thu hút vốn từ các tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Chính vì
vậy, càng khẳng định rõ tầm quan trọng của vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.2.2.3. Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên
thương trường
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt
động đòi hỏi các ngân hàng phải coi uy tín lớn trên thị trường là điều trọng yếu. Uy tín
đó phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng chi trả cho khách hàng của ngân
hàng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày
càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả nhằm vừa giữ chữ tín,
vừa nâng cao vị thế của ngân hàng đó trên thị trường.
1.2.2.4. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kĩ thuật hiện
đại của ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút vốn. Đồng thời,khả năng vốn lớn là điều
kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành

phần kinh tế xét cả mặt quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn
cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng.
Vốn của ngân hàng lớn sẽ giúp cho ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh
doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng các
hình thức đầu tư, kinh doanh dịch vụ cho thuê tài chính(leasing), mua bán
nợ(factoring) và các dịch vụ ngân hàng khác.
1.2.3. Các hình thức huy động vốn của NHTM
1.2.3.1. Huy động từ tài khoản tiền gửi
Tiền gửi của ngân hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi
một ngân hàng bắt đầu hoạt động nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để


12
giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của
các doanh nghiệp, tổ chức và dân cư. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh
và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và
thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau do đó cũng có nhiều loại tiền gửi khác
nhau.
* Tài khoản tiền gửi không kỳ hạn:
Tiền gửi không kỳ hạn là những giá trị tiền tệ mà khách hàng gửi vào ngân
hàng nhưng có thể rút ra bất cứ lúc nào và ngân hàng phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu này
của người gửi tiền. Đây là tiền của cá nhân, doanh nghiệp gửi vào ngân hàng với mục
đích chính là để hưởng dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Trong phạm vi số dư cho
phép các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp, cá nhân đều được ngân hàng thực hiện và
các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện
nhập vào tài khoản thanh toán theo yêu cầu. Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi
khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào. Do vậy nó là nguồn vốn biến động nhiều nhất
mà ngân hàng khó có thể dự đoán về quy mô tiền gửi không kỳ hạn ngân hàng có thể
huy động được, đồng thời kỳ hạn tiềm năng của loại loại tiền này cũng là ngắn nhất.
* Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn:

Tiền gửi có kỳ hạn là những giá trị tiền tệ mà khách hàng gửi vào ngân hàng
nhưng có thoả thuận thời gian rút tiền và khách hàng không được phép rút tiền trước
thời hạn. Mục đích chính của người gửi tiền là sinh lời và ngân hàng có thể chủ động
trong việc sử dụng nguồn vốn này vì tính thời hạn của nguồn vốn. Mức lãi suất cụ thể
phụ thuộc vào thời hạn gửi tiền và sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng trên cơ
sở xem xét mức độ an toàn của ngân hàng cũng như quan hệ cung cầu về vốn tại thời
điểm đó. Tuy nhiên, để tạo tính lỏng cho các loại tiền gửi có kỳ hạn mà từ đó mà hấp
dẫn khách hàng, ngân hàng có thể cho phép khách hàng rút tiền trước kỳ hạn, tuỳ theo
chính sách của mỗi ngân hàng mà có hình thức trả lãi phù hợp.
* Tiền gửi tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi của các tầng lớp dân cư trong xã hội với mục
đích tích luỹ và hưởng lãi. Tiền gửi tiết kiệm chia thành hai loại là tiết kiệm có kỳ hạn
và tiết kiệm không kỳ hạn.
-Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
Đây là khoản tiền nhàn rỗi mà người dân tạm thời gửi vào ngân hàng do không
có kế hoạch chi tiêu cụ thể nên họ có thể rút tiền vào bất cứ thời điểm nào. Tuy nó là
tiền gửi không kỳ hạn nhưng nó không phải là tiền gửi thanh toán nên người gửi tiền
không được hưởng các tiện ích thanh toán. Do vậy lãi suất của loại tiền gửi này thường
thấp.


13
-Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, người gửi tiết kiệm có kỳ hạn chỉ
được rút tiền khi đáo hạn. Mục đích gửi tiền của họ là an toàn và hưởng lãi vì khách
hàng đã xác định trước và có kế hoạch chi tiêu cụ thể đối với khoản tiền này. Khoản
tiền gửi có kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao bởi vì ngân hàng có thể chủ động sử
dụng nó cho hoạt động kinh doanh của mình đặc biệt là để cho vay trung dài hạn.
Là sản phẩm huy động truyền thống với các hình thức phong phú và kỳ hạn đa
dạng nên tiền gửi tiết kiệm rất phù hợp với dân cư, đáp ứng được nhu cầu người gửi,

khả năng huy động của ngân hàng từ nguồn vốn này là rất tiềm năng.
1.2.3.2. Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá
Các giấy tờ có giá là các công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn
trên thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định để sử dụng cho một mục đích nào
đó. Lãi suất của loại này phụ thuộc vào sự cấp thiết của việc huy động vốn nên thường
cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn thông thường.
-

Chứng chỉ tiền gửi (CDs):

CDs là công cụ vay nợ do NHTM bán cho người gửi tiền với lãi suất nhất định
và được lưu thông khi chưa đến hạn thanh toán. Người sở hữu CDs có thể được hoàn
trả hết toàn bộ số tiền gửi cộng với lãi hoặc có thể bán CDs trên thị trường thứ cấp.
CDs là công cụ mang lãi suất, lãi suất của nó được tính toán trên cơ sở 360 ngày và
được trả theo mệnh giá và thời hạn.
Lãi suất của CDs được tính dựa trên lãi suất của thị trường tiền tệ, tình trạng tài
chính của ngân hàng phát hành ra nó và thời hạn thanh toán CDs.
-

Trái phiếu:

Trái phiếu là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối
với người hữu, trong đó cam kết sẽ hoàn trả nợ kèm lãi trong một thời hạn nhất định.
Thông qua phát hành trái phiếu, ngân hàng có thể thu hút được nguồn vốn trung và dài
hạn để cho vay mở rộng sản xuất kinh doanh và đầu tư. Việc phát hành trái phiếu sẽ
thu hút được lượng tiền ổn định trong dài hạn do vậy phát hành trái phiếu chỉ được
thực hiện khi ngân hàng thực sự cần một lượng vốn lớn hoặc khi ngân hàng đã có kế
hoạch sử dụng vốn để cho vay trung dài hạn.
-


Kỳ phiếu:

Kỳ phiếu là chứng chỉ huy động vốn có mục đích, có thời hạn, có lãi suất tương
ứng với từng loại kỳ hạn hoặc phương thức trả lãi trước hoặc sau. Đây là giấy tờ có giá
ngắn hạn nghĩa là ngân hàng sẽ có được nguồn vốn chủ động với tính chất ổn định cao
nhưng chi phí mà ngân hàng bỏ ra cũng rất lớn. Do vậy ngân hàng phải có chính sách


14
huy động vốn linh hoạt để đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh trong ngắn
hạn cũng như trong dài hạn.
1.2.3.3. Huy động vốn qua các khoản đi vay
Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHTW, hoặc giữa các
NHTM với nhau trên thị trường liên ngân hàng, hay với các tổ chức tài chính khác.
* Vay NHTW:
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM.
Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu hụt dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán)
NHTM thường vay NHTW. Hình thức cho vay của NHTW chủ yếu là tái chiết khấu
các thương phiếu hoặc tái cấp vốn.
* Vay các TCTD khác:
Đây là nguồn các NHTM vay mượn lẫn nhau và vay của các TCTD khác trên
thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia
tăng bất ngờ về các khoản huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các
ngân hàng khác vay để tìm lãi suất cao hơn. Ngược lại các ngân hàng đang thiếu hụt
dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vốn vay
mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong
nhiều trường hợp nó có thể bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ NHNN.
Khoản vay có thể không cần đảm bảo hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của
KBNN.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của NHTM

Trong xu hướng quốc tế hoá hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp nói chung và
các tổ chức trung gian tài chính nói riêng phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình, mà yêu cầu quan trọng là năng lực tài chính. Để đánh giá năng lực tài
chính của NHTM có nhiều tiêu chí như: quy mô vốn điều lệ, quy mô tài sản có, tỷ lệ
nợ xấu, quy mô lợi nhuận, tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản. Do đó cho thấy việc nghiên
cứu các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề tạo vốn của NHTM là một việc làm hết sức cấp
thiết. Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề tạo vốn của mỗi ngân hàng bao gồm các nhân
tố khách quan và các nhân tố chủ quan.
1.2.4.1. Các nhân tố chủ quan
a- Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể.
Chiến lược kinh doanh được xây dựng dựa trên việc ngân hàng xác định vị trí hiện tại


15
của mình trong hệ thống, thấy được điểm mạnh, yếu, cơ hội, thách thức đồng thời dự
đoán được sự thay đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai. Thông qua chiến
lược kinh doanh ngân hàng có thể quyết định thu hẹp hay mở rộng việc huy động vốn,
có thể thay đổi tỷ lệ các loại nguồn, tăng hay giảm chi phí huy động. Nếu chiến lược
kinh doanh đúng đắn, các nguồn vốn được khai thác một cách tối đa thì hoạt động huy
đông vốn sẽ phát huy được hiệu quả.
Trong chiến lược kinh doanh của ngân hàng chiến lược khách hàng đóng vai trò
rất quan trọng. Nó tác động trực tiếp tới sự thành công trong công tác huy động vốn
của ngân hàng. Để có được thành công, trước tiên ngân hàng phải tìm hiểu động cơ,
thói quen, mong muốn của người gửi tiền, thậm chí từng đối tượng khách hàng thông
qua phân tích lợi ích của khách hàng. Trên cơ sở thông tin về khách hàng đưa ra chính
sách giá cả hợp lý, xây dựng chính sách trong phục vụ và giao tiếp tạo sự thoải mái
cho khách hàng giao dịch. Từ đó sẽ tạo thuận lợi cho công tác huy động vốn của ngân
hàng.
b- Chính sách về giá cả và lãi suất

Lãi suất là một công cụ quan trọng trong hoạt động huy động vốn của NHTM,
xây dựng một chính sách linh hoạt hợp lý là điều kiện giúp ngân hàng có được nguồn
vốn hợp lý về qui mô và cơ cấu. Chính sách đó phải đảm bảo cho ngân hàng một mặt
thu hút được nhiều vốn mặt khác vẫn phải đảm bảo cho ngân hàng kinh doanh có lãi.
c- Mạng lưới chi nhánh
Ngoài việc quan tâm đến lãi suất, dịch vụ tiện ích của ngân hàng, người gửi tiền
còn quan tâm đến vấn đề thuận tiện trong việc gửi tiền. Nhất là các khoản tiết kiệm
của dân cư thường là những khoản không lớn nên người dân rất ngại đi một quãng
đường xa đến vài cây số để gửi tiền chẳng thà để cất giữ ở nhà còn hơn. Vì vậy để huy
động được khoản tiền gửi của dân chúng thì nhất thiết ngân hàng phải mở rộng mạng
lưới chi nhánh và thực hiện tốt công tác tổ chức mạng lưới phục vụ.
d- Công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin giữ một vai trò không thể thiếu trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Hoạt động ngân hàng luôn gắn liền với công nghệ thông tin ở
hầu hết các nghiệp vụ từ việc nhận, nhập tiền gửi, hay thanh toán qua tài khoản khách
hàng đến việc cho vay, đầu tư trên thị trường tài chính. Hệ thống công nghệ thông tin
càng hiện đại thì càng hữu ích cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, giúp ngân
hàng tiết kiệm thời gian, chi phí trong việc tìm kiếm, quản lý thông tin về khách hàng,
thị trường cũng như toàn bộ ngân hàng. Đồng thời một hệ thống công nghệ và thông


16
tin tốt cũng giúp cho việc triển khai các kế hoạch chiến lược huy động vốn của ngân
hàng có hiệu quả tốt nhất, đồng thời sẽ gây được ấn tượng tốt đẹp với khách hàng.
e- Uy tín của ngân hàng
Trên cơ sở nghiên cứu sẵn có đã đạt được, mỗi ngân hàng sẽ tạo được một
hình ảnh riêng trong lòng khách hàng. Một ngân hàng lớn sẵn có uy tín có tiếng
tăm trong nhiều năm sẽ có lợi thế hơn trong việc huy động vốn. Sự tin tưởng của
khách hàng sẽ giúp cho ngân hàng có khả năng ổn định khối lượng vốn huy động
và tiết kiệm chi phí huy động. Thậm chí trong trường hợp lãi suất tiền gửi tại ngân

hàng thấp hơn đôi chút, những người có tiền vẫn lựa chọn một ngân hàng có uy tín
hơn để gửi mà không tìm những nơi có lãi suất hấp dẫn hơn để gửi, vì họ tin rằng ở
đây đồng vốn của mình được tuyệt đối an toàn.
Từ những vấn đề trình bày ở trên có thể thấy rằng các NHTM phải xây dựng
được một nền khách hàng bền vững bằng cách đưa ra được những dịch vụ đáp ứng tốt
nhất nhu cầu của khách hàng và đem lại tiện ích cho khách hàng. Do đó trên cơ sở
nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn các NHTM cần phải hạn
chế những tác động tiêu cực và lợi dụng những tác động tiêu cực của các nhân tố đó để
giúp ích cho công tác huy động vốn – tạo nguồn vốn hoạt động cho các NHTM.
f- Năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng
Trong hoạt động ngân hàng, chất lượng sản phẩm dịch vụ mà khách hàng cảm
nhận được chính là sự tổng hợp của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố quan
trọng thuộc về đội ngũ nhân viên ngân hàng. Nhân viên là người trực tiếp giao dịch
với KH, vì vậy thái độ và trình độ của họ quyết định phần lớn đến chất lượng dịch vụ
và hình ảnh của ngân hàng.
Các cán bộ nhân viên ngân hàng có năng lực sẽ phán đoán, xử lý chính xác các
tình huống sẽ làm cho các hoạt động huy động vốn thực hiện một cách tốt đẹp. Trình
độ của cán bộ ngân hàng cao sẽ làm cho các thao tác nghiệp vụ được thực hiện nhanh
chóng và hiệu quả. Thái độ trong tiếp xúc của nhân viên với khách hàng cũng rất quan
trọng. Nó có thể lôi kéo khách hàng làm tăng nguồn vốn huy động đồng thời cũng có
thể làm khách hàng rời bỏ gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng trong hoạt
động của ngân hàng, trước hết là trong khâu huy động vốn.
1.2.4.2. Các nhân tố khách quan
a- Môi trường chính trị pháp luật


17
Mọi hoạt động kinh doanh trong đó có hoạt động ngân hàng đều phải chịu sự
điều chỉnh của pháp luật. Bởi vì hoạt động của ngân hàng ảnh hưởng tới nhiều chủ thể
trong nền kinh tế như: nhà đầu tư, người gửi tiền, người vay tiền… Môi trường pháp lý

đem đến cho ngân hàng những cơ hội song cũng đặt ra nhiều thách thức mới. Đó là
luật các TCTD và hệ thống các quy định cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất, dự trữ,
hạn mức…Trong sự ràng buộc về pháp luật các yếu tố của nghiệp vụ huy động vốn
thay đổi làm ảnh hưởng tới quy mô hiệu quả và chính sách huy động vốn của ngân
hàng.
b-Môi trường kinh tế
Các nhân tố ảnh hưởng tới vấn đề tạo vốn gồm có: tốc độ tăng trưởng kinh tế,
tỷ lệ thất nghiệp, yếu tố lạm phát, sự biến động của tỷ giá hối đoái…Trong điều kiện
nền kinh tế phát triển hưng thịnh thu nhập dân cư cao và ổn định thì nguồn tiền vào ra
các ngân hàng cũng ổn định, số vốn huy động được cũng dồi dào, cơ hội đầu tư cũng
được mở rộng. Nếu nền kinh tế suy thoái thì khả năng khai thác vốn đưa vào nền kinh
tế bị hạn chế, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh lại công tác huy động
vốn.
c- Môi trường văn hoá xã hội
Đây cũng là nhân tố được các nhà kinh doanh ngân hàng quan tâm vì nó có khả
năng chi phối rất lớn đến hành vi tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng của khách
hàng. Đó là: phong tục tập quán, trình độ dân trí, lối sống của người dân… Chẳng hạn
như thói quen của người dân trong việc sử dụng tiền mặt, với tâm lý lo ngại trước sự
sụt giá của đồng tiền cũng như sự hiểu biết của người dân về các ngân hàng và hoạt
động của ngân hàng sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động huy động vốn của ngân
hàng.
Nếu như dân cư có sự hiểu biết về ngân hàng cũng như các hoạt động cung cấp
dịch vụ của ngân hàng và thấy được những tiện ích, lợi ích ngân hàng mang lại thì họ
sẽ gửi nhiều tiền vào ngân hàng hơn và như vậy công tác huy động vốn cũng thuận lợi
hơn.
Ở các nước phát triển dân chúng có thói quen gửi tiền vào ngân hàng và thực
hiện thanh toán qua ngân hàng, ngân hàng là một cái gì đó không thể thiếu trong cuộc
sống. Tuy nhiên với đại bộ phận các nước đang phát triển như nước ta, dân chúng
chưa có thói quen gửi tiền vào ngân hàng để sử dụng dịch vụ ngân hàng, họ có thói
quen cất trữ tiền mặt, vàng bạc và ngoại tệ nên nó là nhân tố ảnh hưởng mạnh tới công

tác huy động vốn của NHTM.
d- Tập tính thói quen của người tiêu dùng


18
Tập quán người tiêu dùng ảnh hưởng một phần tới hoạt động huy động vốn.
Nếu những vùng dân cư mà họ có thói quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dưới dạng cất trữ
là chính thì việc huy động gặp khá nhiều khó khăn. Còn những khu vực mà người dân
ưa sự ổn định, an toàn thì gửi tiền vào ngân hàng là hình thức đầu tư số một của họ.
Thói quen sử dụng tiền mặt cũng tác động tới việc sự dụng hình thức thanh toán
qua ngân hàng, từ đó tác động tới một lượng vốn huy động. Ở nhưng nơi người dân ưa
dùng tiền mặt, hệ thống thanh toán qua ngân hàng kém phát triển, người dân ít dùng tài
khoản của ngân hàng. Điều này hạn chế chức năng tạo tiền của NHTM, không phát
huy được tính hiệu quả của khoản giao dịch.
Mức thu nhập và chu kỳ chi tiêu của người dân cũng là yếu tố trực tiếp tác động
đến lượng tiền gửi vào ngân hàng. Nhìn chung thu nhập của người dân càng cao, nhu
cầu đầu tư và giao dịch của họ tăng lên tương đối so với nhu cầu tiêu dùng thì nhu cầu
mở tài khoản cũng như gửi tiền vào ngân hàng sẽ tăng. Chu kỳ chi tiêu ảnh hưởng tới
qui mô và tính ổn định của nguồn vốn huy động. Vào những dịp nghỉ lễ trong năm,
nguồn tiền tiết kiệm cũng như khoản tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm sút,
họ thường có nhu cầu rút ra để trả lương, thưởng, thanh toán hay chi tiêu hơn là gửi
vào ngân hàng. Do vậy hoạt động huy động vốn phụ thuộc từng giai đoạn thời điểm
khác nhau trong năm.

1.3. Các biện pháp mở rộng huy rộng vốn của NHTM
1.3.1. Biện pháp kinh tế
Biện pháp kinh tế là biện pháp dựa vào yếu tố mang tính vật chất mà ngân hàng
thông qua nó tác động đến nhu cầu và tâm lý của khách hàng gửi tiền vào ngân hàng
mình.
Để nâng cao hiệu quả huy động vốn, biện pháp kinh tế mà ngân hàng có thể áp

dụng đối với khách hàng là chính sách lãi suất huy động hấp dẫn, tổ chức khuyến mãi
tặng quà cho khách hàng gửi lớn, gửi nhiều, khách hàng truyền thống thông qua cơ chế
huy động.
1.3.2. Biện pháp kỹ thuật
Biên pháp kỹ thuật là những biện pháp mang tính kỹ thuật trong nghiệp vụ huy
động vốn nhằm tạo cho công tác huy động cũng như hoàn trả tiền gửi, thanh toán giao
dịch cho khách hàng một cách nhanh chóng thuận lợi và chính xác. Biện pháp kỹ thuật
trong mở rộng huy động vốn của ngân hàng sẽ bao gồm những giải pháp mang tính
chất công nghệ, tăng tiện ích phục vụ khách hàng và những giải pháp nâng cao trình
độ nghiệp vụ của nhân viên, trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào công tác huy động
vốn.


19
1.3.3. Biện pháp tâm lý
Tâm lý khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng ngoài việc được hưởng lãi suất
ngân hàng trả cao, phục vụ thanh toán kịp thời, còn là sự yên tâm và cảnh giác an toàn
cao. Vì vậy, đáp ứng được yêu cầu đó về mặt tâm lý đó của khách hàng, tức là tạo sự
uy tín và lòng tin đối với khách hàng là yếu tố thành công cho hoạt động huy động vốn
của ngân hàng. Ngày nay các NHTM luôn không ngừng hoàn thiện mình và nâng cao
uy tín trên thị trường để thu hút khách hàng. Việc ngân hàng tham gia bảo hiểm tiền
gửi đã phần nào đêm lại sự yên tâm cho khách hàng gửi tiền vào ngân hàng.
Ngoài yếu tố khách hàng thì chính sách khuyến khích nhân viên ngân hàng
đóng vai trò quan trọng. Bên cạnh việc không ngừng nâng cao tiền lương và thu nhập
cho cán bộ thì cần thiết phải chăm lo đời sống tinh thần cho nhân viên, đó là: Niềm vui
và sự thoải mái trong công việc, được kính trọng, được giao tiếp rộng rãi, khen thưởng
kịp thời, tạo điều kiện thăng tiến đóng góp xứng đáng vào sự phát triển chung của
ngân hàng.
Ngoài ra, việc quảng bá uy tín, tên tuổi của ngân hàng trên các phương tiện quảng
cáo, truyền thông cũng sẽ tạo ra hình ảnh đẹp của ngân hàng. Từ đó củng cố niềm tin và

tâm lý yên tâm của khách hàng khi họ gửi tiền vào ngân hàng.
Các biện pháp kinh tế, kỹ thuật nêu trên cũng có tác dụng tác động vào tâm lý
khách hàng và nhân viên ngân hàng, từ đó tạo ra xu hướng tốt hơn trong công tác huy
động vốn của ngân hàng.
Việc thực hiện đồng bộ các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và tâm lý có tác động
tích cực đến hoạt động kinh doanh ngân hàng và tất yếu có ảnh hưởng tích cực đến
hiệu quả công tác huy động vốn của các NHTM.


20

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TIỀN GỬI CÁ NHÂN
TẠI NHTMCP DẦU KHÍ TOÀN CẦU- CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ
2.1.Giới thiệu về ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn Cầu- Chi nhánh Đông Đô
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của GP.Bank
- Tên đầy đủ: Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu.
- Tên giao dịch quốc tế: GLOBAL PETRO COMMERRCIAL JOINT STOCK BANK.
- Tên viết tắt: GP Bank
- Địa chỉ trụ sở chính: 109 Trần Hưng Đạo - Hoàn Kiếm - Hà Nội
- Số điện thoại: 04.37 345 345
- Website:
- Vốn điều lệ: Ban đầu khi mới thành lập, vốn điều lệ là 1.000 tỷ VND và đến
30/11/2010 đã tăng lên 3.018 tỷ VND.
Ngân hàng TMCP Dầu Khí Toàn Cầu (GP.Bank), tiền thân là Ngân hàng
thương mại Nông thôn Ninh Bình, đã chính thức chuyển đổi mô hình hoạt động từ một
ngân hàng nông thôn sang ngân hàng đô thị từ 07/11/2005. Hiện GP.Bank đã xây dựng
được một đội ngũ hơn 1.000 cán bộ nhân viên và 10 chi nhánh,53 phòng giao dịch tại
các tỉnh/thành phố kinh tế trọng điểm: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Vũng
Tàu, Đà Nẵng, Ninh Bình, Gia Lai… Qua thời gian, GP.Bank đã khẳng định sự trưởng

thành và tạo những ấn tượng tốt đẹp về sự có mặt của mình tại thị trường tài chính –
tiền tệ Việt Nam.
Trong suốt quá trình phát triển, GP.Bank đã tích cực tham gia nhiều hoạt động
từ thiện xã hội lớn như việc ủng hộ 01 tỷ đồng vào Quỹ Tấm lòng vàng Báo Lao động,
tài trợ 550 triệu đồng cho chương trình “ Trái tim cho em” của Hội bảo trợ bệnh nhân
nghèo tỉnh Kiên Giang, tài trợ Quỹ vì người nghèo tỉnh Cao Bằng… GP.Bank đang nỗ
lực phấn đấu để trở thành một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam,
có tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất
nước.
Trong năm 2010, GP.Bank đã hoàn thành tăng vốn điều lệ từ 2.000 tỷ đồng lên
3.018 tỷ đồng. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần đầu số 055771 do Trọng tài


21
kinh tế Tỉnh Ninh Bình cấp ngày 25/11/1993 đã được thay thế bằng Giấy chứng nhận
ĐKKD số 0103012929 do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.Hà Nội cấp ngày 26/06/2006,
thay đổi lần thứ 8 ngày 3/12/2010 phấn đấu để trở thành một trong những ngân hàng
thương mại hàng đầu Việt Nam đúng như phương châm “không phải là đầu tiên nhưng
phải là tốt nhất”.
Tháng 10/2009 GP.Bank đã chính thức khai trương GP.Bank Đông Đô tại địa chỉ số
10A7 Trần Đại Nghĩa, Hai Bà Trưng, Hà Nội. Đây là phòng giao dịch trung tâm có
quy mô hoạt động tương đương chi nhánh cấp I.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của GP.Bank

*Các phòng giao dịch trực thuộc GP.Bank Đông Đô
- GP.Bank Lê Trọng Tấn - 54 Lê Trọng Tấn, Thanh Xuân, Hà Nội.
-GP.Bank Linh Đàm - Số 05 Khu đô thị Bắc Linh Đàm, Phường Đại Kim,
Quận Hoàng Mai, TP.Hà Nội.
- GP.Bank Giáp Bát - 43 Kim Đồng, Hoàng Mai, Hà Nội.
- GP.Bank Bạch Mai - 353 Bạch Mai, Hai Bà Trưng, Hà Nội.

- GP.Bank Trần Khát Chân - 356 Trần Khát Chân, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
- GP.Bank Lạc Trung - 69A Lạc Trung, Quận Hai Bà Trưng Hà Nội.
- GP.Bank Khương Trung - 165 Khương Trung (mới), Thanh Xuân, Hà Nội.


×