Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Đề cương kiểm toán tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.82 KB, 58 trang )

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH
1.1 KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH
1.1.1 Khái niệm
Kiểm toán báo cáo tài chính: là loại hình kiểm toán do kiểm toán viên hành nghề
và doanh nghiệp kiểm toán thực hiện để kiểm tra và xác nhận hoặc đưa ra ý kiến về
tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài chính của các
đơn vị được kiểm toán.
- Trung thực: Là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng sự thật nội
dung, bản chất và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
- Hợp lý: là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh trung thực, cần thiết và
phù hợp về không gian, thời gian và sự kiện được nhiều người thừa nhận.
- Báo cáo tài chính: Là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế
toán hiện hành (hoặc được chấp nhận) phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính chủ
yếu của đơn vị.
1.1.2 Đặc điểm của kiểm toán tài chính
Kiểm toán tài chính cũng mang những đặc điểm chung với toàn bộ hệ thống kiểm
toán đó là kiểm toán tài chính cũng có chức năng là xác minh và bày tỏ ý kiến, có đối
tượng là hoạt động cần được kiểm toán và có phương pháp kiểm toán là kiểm toán
chứng từ và ngoài chứng từ. Từ đó hoạt động kiểm toán phải được tổ chức khoa học
theo trình tự xác định và được thực hiện bởi các nhà chuyên môn am hiểu và vận dụng
có kinh nghiệm các phương pháp kiểm toán vào từng đối tượng cụ thể trên cơ sở pháp
lý xác định.
Tuy nhiên kiểm toán tài chính cũng mang những đặc điểm riêng ngay trong cái
chung đó. Cụ thể:
- Về chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến, kiểm toán tài chính hướng tới công
khai tài chính giữa các bên có lợi ích khác nhau và từ đó thu thập bằng chứng đầy đủ
và tin cậy được quán triệt trong suốt quá trình thực hiện chức năng chung của kiểm toán.
- Về đối tượng kiểm toán: kiểm toán tài chính có đối tượng trực tiếp là các bảng
khai tài chính với những thông tin tổng hợp phản ánh nhiều mối quan hệ kinh tế, pháp
lý cụ thể như hoạt động kinh doanh, tình hình thực hiện các văn bản pháp lý. Tuy
nhiên chúng không phải là đối tượng trực tiếp của kiểm toán tài chính. Do vậy, việc


xem xét các mặt, các yếu tố này trong thực trạng tài chính chi trên góc độ có liên quan
đến các thông tin trên bảng khai tài chính và được chọn lọc qua điều tra, đối chiếu,
phân tích thực tế tại khách thể kiểm toán.
- Về quan hệ giữa chủ thể với khách thể. Trong hầu hết các trường hợp, quan hệ
giữa chủ thể với khách thể kiểm toán mang đặc tính quan hệ ngoại kiểm với nội kiểm.
Do đó, việc xem xét và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ luôn là một trong những
khâu cơ bản trong quá trình kiểm toán.
- Về phương pháp kiểm toán: do đặc điểm của đối tượng và quan hệ chủ thể khách thể kiểm toán nói trên, kiểm toán tài chính thường sử dụng tổng hợp các phương
pháp kiểm toán cơ bản để hình thành các thủ tục kiểm toán nhằm tìm hiểu và đánh giá
tình hình hoạt động cùng hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ.
1


- Về trình tự kiểm toán: bảng khai tài chính mang tính tổng hợp, tính công khai,
tính thời điểm và do quan hệ nội kiểm – ngoại kiểm nên trình tự cụ thể trong mỗi bước
kiểm toán cơ bản đều được triển khai phù hợp với những đặc điểm của đối tượng, của
quan hệ chủ thể - khách thể kết hợp tổng quát với chi tiết hóa các phương pháp kiểm toán.
1.2 ĐỐI TƯỢNG KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH
Theo Chuẩn mực kiểm toán VN số 200: “Mục đích của kiểm toán báo cáo tài
chính là làm tăng độ tin cậy của người sử dụng đối với báo cáo tài chính, thông qua
việc kiểm toán viên đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính có được lập, trên các
khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được
áp dụng hay không.”
Mục đích của kiểm toán tài chính là xác định xem toàn bộ bảng khai tài chính có
được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ hiện hành hay không, có tuân thủ pháp luật
liên quan và có phản ánh trung thực, hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không.
Do đó bảng khai tài chính là đối tượng trực tiếp của kiểm toán tài chính.
Bảng khai tài chính bao gồm báo cáo tài chính và những bảng kê khai có tính pháp
lý khác như bảng dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước, bảng dự toán và quyết
toán các công trình xây dựng cơ bản, các bảng kê khai tài sản cá nhân, bảng kê khai tài

sản đặc biệt...trong đó báo cáo tài chính là bộ phận quan trọng nhất của bảng khai tài
chính
Theo Điểm 04 của Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 200 “Báo cáo tài chính là
hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành phản ánh các
thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn vị”
Về kết cấu báo cáo tài chính bao gồm: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bản thuyết minh báo cáo tài chính.
Trong mỗi báo cáo tài chính bao gồm nhiều khoản mục khác nhau và được lập tại một
thời điểm cụ thể (thường vào thời điểm kết thúc niên độ kế toán). Mỗi khoản mục cụ
thể lại mang trong mình nó nhiều mối quan hệ theo những hướng khác nhau:giữa
khoản mục này với khoản mục có liên quan khác, giữa số tiền ghi trên khoản mục với
số dư hoặc số phát sinh của các tài khoản tương ứng, giữa thông tin trên từng loại
khoản mục với các quy tắc xác lập chúng…Theo đó, đối tượng kiểm toán tài chính lại
được phân chia thành khoản mục và chu trình.
- Phân theo khoản mục là cách chia máy móc từng nhóm khoản mục hoặc nhóm các
khoản mục trong các bảng khai vào một phần hành. Ví dụ: khoản mục tiền, khoản mục
hàng tồn kho, khoản mục tài sản cố định, khoản mục lương và các khoản trích theo
lương…Cách chia này đơn giản vì nội dung kiểm toán và đối tượng kiểm toán là như
nhau nhưng hiệu quả không cao vì các chỉ tiêu trên báo cáo không hoàn toàn độc lập với
nhau.
- Phân theo chu trình là cách chia thông dụng hơn căn cứ vào mối quan hệ chặt
chẽ lẫn nhau giữa các khoản mục, các quá trình cấu thành yếu tố trong một chu trình
chung của hoạt động tài chính. Ví dụ các nghiệp vụ doanh thu, các khoản giảm trừ
doanh thu, các khoản thu tiền bán hàng và số dư các khoản phải thu có quan hệ với
2


nhau nên được xếp vào chu trình bán hàng và thu tiền. Tương tự, các nghiệm vụ tiền
lương và các khoản trích theo lương cùng các nghiệm vụ về nhân công đều nằm trong
chu trình lao động tiền lương…bản thân mỗi chu trình này đều chứa đựng nhiều mối

quan hệ qua lại lẫn nhau. Do vậy, cách phân theo chu trình thường có hiệu quả hơn do
thu gom được các đầu mối của các mối liên hệ (thể hiện những chỉ tiêu liên quan với
nhau trong cùng một nghiệp vụ được nghiên cứu trong mối quan hệ với nhau)
1.3. MỤC TIÊU CỦA KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH
1.3.1 Cơ sở dẫn liệu
Cơ sở dẫn liệu là một trong các khái niệm cơ bản của kiểm toán, việc nắm chắc
khái niệm CSDL sẽ giúp cho KTV xác định được chính xác mục tiêu kiểm toán tổng
quát các BCTC nói chung và mục tiêu kiểm toán từng bộ phận cấu thành của BCTC
nói chung. Nắm chắc được khái niệm cơ sở dẫn liệu cũng giúp KTV xác định được các
bằng chứng kiểm toán cần thiết phải thu thập để có thể đạt được các mục tiêu kiểm
toán đặt ra.
Trong CMKT số 500: “Cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính là căn cứ của các
khoản mục và thông tin trình bày trên báo cáo tài chính do Giám đốc (hoặc người
đứng đầu) đơn vị chịu trách nhiệm lập trên cơ sở các chuẩn mực và chế độ kế toán quy
định. Các căn cứ này phải được thực hiện rõ ràng hoặc có cơ sở đối với từng chỉ tiêu
trong báo cáo tài chính.”
Cơ sở dẫn liệu có tác dụng quan trọng đối với cả ba giai đoạn của quá trình kiểm
toán:
- Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán: việc hiểu rõ về cơ sở dẫn liệu sẽ giúp
kiểm toán viên xác định được khả năng các rủi ro và sai phạm có thể xảy ra trong báo
cáo tài chính của đơn vị nói chung cũng như các chỉ tiêu và bộ phận cấu thành trên báo
cáo nói riêng.
- Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán: cơ sở dẫn liệu sẽ giúp kiểm toán viên luôn
xác định được các thử nghiệm mình đang thực hiện, trên cơ sở đó có thể đưa ra các
quyết định có hiệu quả nhất cho các cuộc kiểm toán.
- Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán: cơ sở dẫn liệu là căn cứ để kiểm toán viên
xác định và đánh giá tính đầy đủ, thích hợp của các bằng chứng thu thập được với các
mục tiêu kiểm toán đã được thiết lập, từ đó đánh giá mức độ thỏa mãn về kiểm toán.
1.3.2 Mục tiêu kiểm toán chung và mục tiêu kiểm toán đặc thù
Theo CMKT số 200- Mục tiêu tổng thể của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm

toán khi thực hiện kiểm toán theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam thì mục tiêu tổng
quát của kiểm toán là:
Mục tiêu tổng thể của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán khi thực hiện
một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính là:
(a) Đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng liệu báo cáo tài chính, xét trên phương diện
tổng thể, có còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn hay không, từ đó giúp
kiểm toán viên đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính có được lập phù hợp với
khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng, trên các khía cạnh trọng
yếu hay không;
3


(b) Lập báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính và trao đổi thông tin theo quy định
của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, phù hợp với các phát hiện của kiểm toán viên.
Giữa CSDL và mục tiêu kiểm toán có quan hệ chặt chẽ với nhau cả về nội dung và
kết cấu. Mục tiêu của kiểm toán là đưa ra các nhận xét trung thực và hợp lý của CSDL
đã được trình bày
Cơ sở dẫn liệu

Sự hiện hữu

Phát sinh

Sự phân loại và
hạch toán

Mục tiêu chung
- Mục tiêu hiệu lực: hướng xác minh tính có thật một khoản tài
sản, nguồn vốn chủ sở hữu hay một khoản nợ phải trả được
phản ánh trên báo cáo tài chính của đơn vị tại thời điểm báo

cáo là phải thực tế tồn tại tại thời điểm đó.
Ví dụ: để xác minh tính có thật (hiện hữu) của tài sản cố định
hữu hình, hàng tồn kho, tiền mặt thì kiểm toán viên tiến hành
kiểm tra vật chất thông qua kiểm kê hay quan sát thực tế hay
thực hiện các thủ tục xác nhận (gửi thư xác nhận) với các bên
liên quan để kiểm tra các khoản công nợ là có thật
- Mục tiêu phát sinh (xảy ra): Một nghiệp vụ hay một sự kiện
đã ghi chép thì thực tế đã xảy ra và có liên quan đến báo cáo
tài chính trong thời kỳ xem xét
Ví dụ: Ngày 12/12 đơn vị được kiểm toán có ghi sổ nghiệp vụ
xuất quỹ tiền mặt để chuyển tiền vào ngân hàng số tiền 100
triệu đồng. Để xác nhận thực tế nghiệp vụ này có xảy ra kiểm
toán viên phải kiểm tra phiếu chi tiền mặt và giấy báo nợ của
ngân hàng có liên quan đến nghiệp vụ này.
- Mục tiêu trọn vẹn (tính đầy đủ): hướng xác minh toàn bộ tài
sản, các khoản nợ, các khoản doanh thu, chi phí, các nghiệp vụ
hay giao dịch đã xảy ra và có liên quan đến kỳ báo cáo phải
được ghi chép đầy đủ trong hệ thống sổ sách kế toán của đơn
vị và phải được báo cáo đầy dủ trong hệ thống BCTC
Ví dụ: kiểm tra các hóa đơn bán hàng và các chứng từ đi kèm
để xác định xem đơn vị có bỏ sót nghiệp vụ ghi nhận doanh
thu hay không.
- Mục tiêu phân loại (tính đúng đắn):hướng xem xét các khoản
mục tài sản công nợ, nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản chi phí,
doanh thu phải được phân loại một cách đúng đắn theo yêu
cầu của các chuẩn mực và chế độ kế toán.
Ví dụ: kiểm tra thời hạn vay trên các hợp đồng vay để xác định
xem đơn vị có hạch toán đúng các khoan vay ngắn hạn, vay
dài hạn, nợ ngắn hạn, nợ quá hạn hay không…
- Mục tiêu đúng kỳ: hướng xác minh các sự kiện và nghiệp vụ

kinh tế được phản ánh đúng kỳ mà chúng phát sinh và đủ điểu
kiện ghi nhận. Mục tiêu này được đặc biệt quan tâm trong quá
trình kiểm toán các khoản doanh thu và chi phí.
4


Ví dụ: tiến hành đối chiếu ngày tháng của các chứng từ chứng
minh cho sự phát sinh của các nghiệp vụ và ngày tháng ghi sổ
kế toán các nghiệp vụ của đơn vị. Thử nghiệm này có thể được
thực hiện cho các nghiệp vụ và sự kiện phát sinh vào cuối kỳ
kế toán và đầu kỳ kế toán tiếp theo nhằm đảm bảo các nghiệp
vụ được ghi chép đúng kỳ phát sinh
- Mục tiêu đánh giá: hướng xem xét việc đánh giá tài sản, công
nợ, vốn chủ sở hữu, thu nhập và chi phí của đơn vị có phù hợp
với các nguyên tắc kế toán và chế độ kế toán hiện hành và
được chấp nhận phổ biến hay không
Ví dụ: xem xét phương pháp tính giá hàng tồn kho tại doanh
nghiệp có nhất quán không? Đặc biệt là việc trích lập dự
Sự tính toán và
phòng giảm giá hàng tồn kho, các khoản đầu tư, nợ phải thu có
đánh giá
đúng theo chuẩn mực quy định hay không.
- Mục tiêu chính xác cơ học (tính toán): các sự kiện và nghiệp
vụ kinh tế phát sinh trong kỳ được kế toán đơn vị tính toán và
ghi chép đúng giá trị.
Ví dụ: kiểm tra lại việc tính toán lương và các khoản phải trả
theo lương, giá vốn hàng bán…
- Tài sản phản ánh trên bảng kế toán phải thuộc quyền sở hữu
(hoặc sử dụng lâu dài) của đơn vị, vốn và công nợ phải phản
Quyền và

ánh đúng nghĩa vụ tương ứng của đơn vị
nghĩa vụ
Ví dụ: tài sản thuê hoạt động đang được công ty hạch toán vào
tài sản của đơn vị -> tài sản thuê tài chính không thuộc quyền
sở hữu của đơn vị -> vi phạm quyền và nghĩa vụ.
- Các chỉ tiêu, bộ phận và khoản mục trên báo cáo tài chính
phải được xác định, trình bày và công bố theo đúng yêu cầu
Trình bày và
của các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành
công bố
Ví dụ: kiểm tra việc trình bày khoản mục vay ngắn hạn, vay
dài hạn trên bảng cân đối kế toán.
* Mục tiêu kiểm toán đặc thù
Để có thể đưa ra mục tiêu kiểm toán riêng biệt cho mỗi khoản mục, người ta cố
gắng đưa ra những mục tiêu kiểm toán đặc thù có thể áp dụng cho mọi khoản mục.
Các mục tiêu đặc thù này được hình thành trên cơ sở các mục tiêu chung. Vậy mục
tiêu đặc thù là việc kiểm toán viên xác minh độ tin cậy của các thông tin ở từng phân
hành kiểm toán cụ thể. Ví dụ về một số mục tiêu đặc thù được trình bày trong bảng 2.1.1
Bản chất, hình thức, đặc tính của đối tượng kiểm toán ở mỗi khách thể kiểm toán
là không giống nhau. Do vậy mục tiêu đặc thù cần hướng tới từng loại đối tượng kiểm
toán để có thể tập trung chú ý vào các trọng điểm xác minh. Chẳng hạn cùng mục tiêu
phân loại và trình bày nhưng với vay nợ thường chú ý vào ranh giới giữa vay nợ dài
hạn với vay nợ ngắn hạn, còn với tài sản thường tập trung chú ý vào ranh giới giữa
những tài sản, với những tài sản khó kiểm tra như giữa tiền mặt tại két với tiền mặt
5


đang chuyển, giữa tiền mặt tại kho bãi với tiền cho thuê, cho tạm vay cầm cố, thế
chấp…với doanh thu và chi phí, trọng tâm chú ý của phân loại và trình bày lại là ranh
giới giữa các loại thu, chi giữa nghiệp vụ thực tế đã xảy ra với nghiệp vụ có thể xảy ra

kể cả các nghiệp vụ kinh tế bất thường chưa xử lý cũng như các vụ kiện chưa giải
quyết xong, các tổn thất hay thu nhập bất thường chưa có quyết định xử lý theo
nguyên tắc thận trọng.
Tuy nhiên, việc xác định mục tiêu đặc thù còn tùy thuộc vào tình huống cụ thể và
phán đoán của kiểm toán viên. Vì vậy, cũng có thể không có mục tiêu đặc thù được áp
dụng phổ biến trong các trường hợp kiểm toán viên xét thấy mục tiêu đó không thích
hợp hoặc không quan trọng với khoản mục hay chu trình nào đó trong tình huống cụ
thể của cuộc kiểm toán.
Khoản
mục

Hàng
tồn
kho

Phải
thu
khách
hàng

Phải
trả
người
bán

Tiền

Hiện
hữu


Đánh giá

Đầy đủ

Đúng đắn

Đều được
phản ánh
đầy
đủ
trên
số
sách

Đảm bảo
được phân
loại

hạch toán
đúng

Các khoản phải Các
thu được tính khoản
Các
toàn chính xác phải thu
khoản
khách
phải thu
hàng đều
là có

được ghi
thật
sổ

Các khoản
phải thu
đều được
hạch toán
và phân
loại đúng
đắn

Các khoản phải Các
trả được tính khoản
Các
toàn chính xác phải trả
khoản
đều được
nợ là có
ghi sổ
thất

Các khoản Nghĩa vụ
phải
trả đang tồn
được hạch tại
toán

phân loại
đúng đắn


Đang có Tiền ngoại tệ
phải được tính
toán
đúng
nguyên tắc quy
định trong hạch
toán tiền

Số dư tài
khoản tiền
mặt phải
được ghi
sổ

chuyển sổ

HTK phải được
tính toán chính
Đang có
xác và phù hợp
thực tế
với chế độ kế
tồn kho
toán hiện hành
tai đơn
vị

Các
nghiệm

vụ
liên
quan tới
tiền được
ghi chép,
6

Quyền và
nghĩa vụ
Trong kỳ,
DN

quyền với
số
hàng
được ghi
nhận

Các khoản
phải thu có
người sở
hữu

Tiền thuộc
quyền sở
hữu
của
doanh
nghiệp


Trình bày
và công bố
Đươc trình
bày

công
bố
phù
hợp
với chuẩn
mực và chế
độ kế toán
hiện hành
Đươc trình
bày

công
bố
phù
hợp
với chuẩn
mực

CĐKT hiện
hành
Đươc trình
bày

công
bố

phù
hợp
với chuẩn
mực

CĐKT hiện
hành
Đươc trình
bày

công
bố
phù
hợp
với chuẩn
mực



TSCĐ

Doanh
thu

phản ánh
đầy đủ
Sự đánh giá Các
đúng đắn các nghiệp vụ
nghiệp
vụ TSCĐ

TSCĐ
đều được
ghi sổ

CĐKT hiện
hành
Các
TSCĐ
Đươc trình
nghiệp vụ thuộc
bày

tài sản cố quyền sở công
bố
định được hữu
của phù
hợp
Có thật
phân loại đơn vị
với chuẩn

hạch
mực

toán đúng
CĐKT hiện
đắn
hành
phản ánh đúng Các
Các

Các nghiệp Cuối
kỳ,
số tiền, đúng nghiệp vụ nghiệp vụ vụ đã xảy các nghiệp
Thực nguyên tắc kế về doanh doanh thu ra
được vụ ghi sổ
thế có toán, đúng quan thu thực được phân phép ghi phải được
phát
hệ đối ứng…
tế xảy ra loại
và nhận
tổng hợp
sinh
được ghi hạch toán

phản
nhận đầy đúng đắn
ánh
trên
đủ
BCTC
Bảng 1.1. Mục tiêu đặc thù đối với một số khoản mục cụ thể

7

chính xác


Chương 2. PHƯƠNG PHÁP KIỂM TOÁN VÀ KỸ THUẬT KIỂM TOÁN
2.1 PHƯƠNG PHÁP KIỂM TOÁN
Phương pháp kiểm toán là các biện pháp, cách thức và thủ pháp được vận dụng

trong công tác kiểm toán nhằm đặt được mục đích kiểm toán đặt ra. Đứng trên góc độ
quá trình ghi chép xử lý, kiểm soát các nghiệp vụ kinh tế phát sinh để phản ánh vào
bảng khai tài chính, người ta chia ra hai loại phương pháp kiểm toán là kiểm toán
chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ.
2.1.1 Phương pháp kiểm toán chứng từ
Là phương pháp kiểm toán mà trong đó kiểm toán viên dựa vào các thông tin kế
toán đã được phản ánh trên các tài liệu kế toán và trên cơ sở phương pháp của kế toán,
của phân tích hoạt động kinh doanh để xây dựng phương pháp riêng của kiểm toán
phù hợp với đối tượng này như kiểm toán cân đối, đối chiếu trực tiếp, đối chiếu lôgic.
Thực ra có thể coi phương pháp kiểm toán chứng từ như một phân hệ bao gồm
những phương pháp kiểm toán sau đây:
a. Phương pháp kiểm toán cân đối là phương pháp dựa trên các phương trình kế toán
và các cân đối khác để kiểm tra các quan hệ nội tại của các yếu tố cấu thành quan hệ
cân đối đó.
Phương pháp này được sử dụng đối với những đối tượng phải tồn tại quan hệ cân
đối.
+ Cân đối tổng quát: các cân đối này trong một số trường hợp thường xuyên
không được duy trì hoặc bị phá vỡ do vậy KTV phải xem xét nguyên nhân dẫn đến sự
mất cân đối đó.
Tổng TS = Tổng NV
Tổng TS = TSNH + TSDH
Tổng NV = Nợ phải trả + vốn chủ sở hữu
Tổng TS = Nợ phải trả + vốn chủ sở hữu
Tổng Ps Bên Nợ = Tổng PS bên Có
SD cuối kỳ = SDĐK + PS tăng – PS giảm
+ Cân đối cụ thể: là biểu hiện thông qua các định khoản kế toán thể hiện trong sổ
sách khác nhau như sổ nhật ký, bảng kê sổ cái…
Khi tiến hành kiểm toán, KTV cần xem xét các đối ứng có hợp lý hay không, qui
mô tiền tệ có phù hợp hay không…
* Điều kiện áp dụng:

- Năm bắt được một cách chính xác và bản chất của các mối quan hệ, cân đối tài
chính kế toán, vì nó có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc thiết lập và sử dụng
phương pháp kiểm toán cân đối
- Xem xét các cân đối tổng quát có luôn được duy trì một cách hợp lý không.
- Xem lại bản chất riêng của từng mối liên hệ cụ thể để tìm kiếm nguồn gốc phát
sinh ra sự không cân đối đó.
- Khi tiến hành kiểm toán, các kiểm toán viên trước hết phải xác định xem các cân
đối tổng quát có cân bằng không và nếu không cân bằng thì do nguyên nhân nào.
b. Phương pháp đối chiếu trực tiếp: là so sánh đối chiếu về mặt lượng của cùng một
chỉ tiêu trên các tài liệu khác nhau. Để áp dụng, chỉ tiêu đối chiếu phải cùng chỉ tiêu và
điều kiện tương tự nhau.
8


Ví dụ: + đối chiếu số cuối kỳ với số đầu năm
+ Đối chiếu giữa dự toán, định mức với thực tế để xem xét đánh giá mức độ phấn
đấu thực hiện các mục tiêu thể hiện trên các chỉ tiêu tương ứng.
+ Đối chiếu trị số của các chỉ tiêu trong doanh nghiệp với các chỉ tiêu cùa các
công ty khác cùng ngành, cùng quy mô
Điều kiện áp dụng: Chỉ tiêu quan tâm được hạch toán theo cùng một chuẩn mực
và phải cùng một thời gian và điều kiện tương tự nhau tức là chỉ tiêu so sánh phải đồng
nhất và cùng một phương pháp tính toán.
c. Đối chiếu logic là việc nghiên cứu các mối liên hệ giữa các chỉ tiêu có quan hệ với
nhau, đối chiếu các trị số của các chỉ tiêu có quan hệ với nhau theo xu hướng nhất định
hay theo tỷ lệ nhất định. Để áp dụng thì kiểm toán viên cần hiểu bản chất của các mối
quan hệ.
Ví dụ: + Hàng tồn kho giảm có thể dẫn đến tiền mặt, tiền gửi, các khoản phải
thu tăng lên. Xu hướng biến động giữa hàng tồn kho và các khoản mục liên quan nói
trên là ngược nhau và mức biến động cũng có thể không đồng nhất trên từng khoản
mục.

+ Tỷ suất đầu tư tài sản cố định = Tổng TSCĐ/ Tổng nguồn vốn
70 – 80% là hợp lý đối với ngành công nghiệp nặng
Khoảng 50%: đối với ngành công nghiệp nhẹ.
Khoảng 20 – 30%: đối với ngành thương mại, dịch vụ.
+ Khi tiền giảm đi đáng kế thì các khoản mục tương ứng cũng phải có biến
động với mức độ phù hợp: như khoản TGNH được chuyển khoản để mua sắm tài sản
cố định thì các khoản giá trị tài sản cố định sẽ phải tăng lên…
2.1.2 Phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ
Phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ là một công cụ kiểm toán tối ưu để tạo ra
bằng chứng trong quá trình kiểm toán BCTC, khắc phục những nhược điểm của kiểm
toán chứng từ trong trường hợp đơn vị được kiểm toán lập báo cáo tài chính giả để hợp
thức số liệu.
Là phương pháp mà trong đó kiểm toán viên chưa có cơ sở dữ liệu mà phải dùng
các phương pháp thích hợp để thu thập bằng chứng như kiểm kê, thực nghiệm, điều
tra…
- Kiểm kê: là phương pháp truyển thống của kế toán, là phương pháp kiểm tra tại
chỗ các loại tài sản trong kho và trong két, nhằm cung cấp các bằng chứng về sự tồn
tại tình trạng tài sản, số lượng và cũng có thể là gía trị của tài sản.
- Kiểm kê với kỹ năng kiểm tra đơn giản, rất có cơ sở thực tế và hơn nữa lại rất
phù hợp với chức năng của kiểm toán, thông qua thực tế để khẳng định số liệu trên sổ
sách. Tuy nhiên, KTV phải chứng kiến một cách trực tiếp việc kiểm kê tài sản là đúng
với bảng kê khai và xác nhận tình trạng tài sản đó. Do tính ưu việt và lợi thế như trêm
phương pháp kiểm kê thường được áp dụng với việc kiểm kê tiền mặt, tín phiếu, tài
sản thế chấp, hàng hóa, nguyên vật liệu và TSCĐHH.
- Thực nghiệm (hay còn gọi là phương pháp trắc nghiệm): là phương pháp thực
hiện lại hoặc nghiên cứu phân tích từng yếu tố cấu thành của một tài sản, một quá trình
đã có, đã diễn ra và cần phải xác minh lại.
9



- Hay là phương pháp tái diễn các hoạt động hay nghiệp vụ để xác minh lại kết
quả một quá trình, một sự việc đã qua…
- Đôi khi KTV phải vận dụng cả những kỹ thuật chuyên ngành khác như phải
thuê chuyên gia giám định… trong các lĩnh vực hóa học, cơ lý học, xây dựng…
Để áp dụng, kiểm toán viên phải nắm được quy trình, trình tự đã thực hiện.
- Điều tra: là việc tìm kiếm các thông tin từ những người có hiểu biết ở bên trong
hoặc bên ngoài đơn vị để xác định lại 1 tài liệu 1 thực trạng đã diễn ra. Điều tra sử
dụng các kỹ thuật quan sát, tiếp xúc, phỏng vấn, xác nhận để thu nhập bằng chứng
kiểm toán. Để áp dụng, kiểm toán viên phải có kinh nghiệm trong việc tiếp cận và tìm
hiểu về đối tượng.
KTV tiếp cận đối tượng kiểm toán bằng các cách thức khác nhau nhằm tìm hiểu,
thu nhận những thông tin cần thiết để đánh giá và xác định lại một tài liệu hoặc một
thực trạng rồi đi đến những đánh giá, nhận xét hay kết luận kiểm toán.
VD: sử dụng các bảng, phiếu có sẵn câu hỏi cần quan tâm, một tờ giấy có chứa
sẵn các câu hỏi trả lời Có hoặc Không, hoặc gặp gỡ trực tiếp trao đổi trực tiếp với các
đối tượng liên quan.
2.2 PHƯƠNG PHÁP KIỂM TOÁN NGOÀI CHỨNG TỪ 2.2 THỬ NGHIỆM KIỂM
SOÁT VÀ THỬ NGHIỆM CƠ BẢN
2.2.1 Thử nghiệm kiểm soát
Theo CMKT số 330 - Biện pháp xử lý của kiểm toán viên đối với rủi ro đã đánh
giá và trong CMKT số 500 thì: “Thử nghiệm kiểm soát là thủ tục kiểm toán được thiết
kế nhằm đánh giá tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát trong việc ngăn ngừa, hoặc
phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ sở dẫn liệu.”
Thử nghiệm tuân thủ là dựa vào kết quả kiểm soát nội bộ khi hệ thống này tồn
tại và hoạt động có hiệu lực. Để khẳng định sự tồn tại và hiệu lực này cần khảo sát,
thẩm tra và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. Cần phải khẳng định thử nghiệm tuân
thủ chỉ được thực hiện khi HTKSNB tồn tại và được đánh giá là hoạt động có hiệu lực.
Trong trường hợp ngược lại, HTKSNB không tồn tại hoặc đánh giá là hoạt
động không có hiệu lực thì kiểm toán sẽ không thực hiện kiểm toán tuân thủ, tăng
cường thử nghiệm cơ bản với quy mô lơn để đảm bảo độ tin cậy của các kết luận kiểm

toán.
- Đặc trưng: Mọi thử nghiệm phân tích, đánh giá và kiểm tra đều dựa vào quy
chế kiểm soát nội bộ doanh nghiệp. Quy chế kiểm soát nội bộ doanh nghiệp chỉ có
hiệu lực, hiệu quả khi toàn bộ hệ thống kiểm soát nội bộ doanh nghiệp là mạnh, là hiệu
quả.
- Điều kiện áp dụng: Thử nghiệm kiểm soát được thực hiện khi hệ thống kiểm
soát nội bộ doanh nghiệp có tồn tại. Trong thực tế, để cuộc kiểm toán có hiệu quả,
kiểm toán luôn phải kết hợp chặt chẽ giữa thử nghiệm kiểm soát luôn được tiến hành
trong mối quan hệ với thử nghiệm chi tiết.
- Tác dụng: thủ tục kiểm toán này cho phép kiểm toán viên thu thập bằng chứng
kiểm toán về sự thiết kế phù hợp và sự vận hành hữu hiệu của hệ thống kế toán và hệ
thống kiểm soát nội bộ.
- Ví dụ về thử nghiệm kiểm soát: bạn kiểm tra xem phiếu yêu cầu mua hàng của
bộ phận có được trưởng bộ phận ký duyệt hay không? Muốn chi tiền thì phải qua
10


những ai xét duyệt, muốn mua sắm thì trình tự phải làm thế nào, ai là người đề nghị
mua hàng, ai là người đặt hàng, ai là người xét duyệt thanh toán. Hay ví dụ khác, CFO
có tiến hành kiểm tra và đánh giá hoạt động của đơn vị hàng tháng thông qua báo cáo
tài chính, và đánh giá những biến động bất thường như chi phí bán hàng tăng cao so
với tháng trước là tại sao. Để xác định được nguyên nhân thì phải kiểm tra bằng cách
phỏng vấn CFO cho các biến động và xin các báo cáo tài chính hàng tháng đã được
phân tích đó về làm bằng chứng chẳng han. Các quá trình kiểm tra, kiểm soát đó chính
là thử nghiệm kiểm soát.
- Thử nghiệm cơ bản được thực hiện cho mọi cuộc kiểm toán. Còn thử nghiệm
tuân thủ chỉ được thực hiện khi hệ thống kiểm soát nội bộ có tồn tại và được đánh giá
là hoạt động có hiệu lực. Trong trường hợp ngược lại, hệ thống kiểm soát nội bộ của
khách thể kiểm toán không tồn tại hoặc hoạt động không hiệu lực thì kiểm toán tài
chính sẽ không thực hiện kiểm toán tuân thủ và do đó phải tăng cường các kiểm toán

cơ bản với quy mô đủ lớn để đảm bảo độ tin cậy vào các kết luận kiểm toán.
Ví dụ: khi đánh giá sơ bộ về hệ thống kiểm soát nội bộ đối với chu trình bán hàng
và thu tiền, kiểm toán viên dự tính sẽ tiến hành thực hiện các thử nghiệm kiểm soát và
dự định sẽ chọn ra 30% số khách hàng để gửi thư xác nhận (thử nghiệm cơ bản) chẳng
hạn. Nhưng sau khi kiểm tra chu trình bán hàng và thu tiền của nội bộ đơn vị thấy hoạt
động có hiệu quả thì kiểm toán viên giảm số khách hàng gửi thư xác nhận đi xuống
còn 20%.
- Sự tiến hành các loại thử nghiệm này về phạm vi, quy mô nhiều khi phụ thuộc
vào tính chủ quan của kiểm toán viên, nhưng nó luôn phải được tiến hành trên cơ sở
kinh nghiệm, trình độ năng lực, sự xét đoán và sự am hiểu tường tận về đơn vị được
kiểm toán.
Ví dụ: Để thử nghiệm chi tiết kiểm soát quá trình bán hàng – thu tiền, kiểm toán
viên chọn một mẫu gồm 30 hóa đơn bán hàng, tiến hành đối chiếu hóa đơn với các hợp
đồng, đơn đặt hàng, chứng từ vận chuyển tương ứng. So sánh với bảng giá hiện hành
và quyết định phê duyệt bảng giá hiện hành và quyết định phê duyệt giá bán của lãnh
đạo, đồng thời tính toán lại trên hóa đơn để đưa ra kết quả thử nghiệm, so sánh với kết
quả cung cấp của doanh nghiệp để đưa ra kết luận có thể tin tưởng vào kết quả do bộ
phận bán hàng cung cấp hay không? Nếu xảy ra nhiều sai sót thì kiểm toán viên thiết
kế lại các thử nghiệm cơ bản để xác minh đúng đắn về nghiệp vụ bán hàng và các
khoản phải thu.
2.2.2 Thử nghiệm cơ bản
Theo CMKT số 300: Thử nghiệm cơ bản là thủ tục kiểm toán được thiết kế nhằm
phát hiện các sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ sở dẫn liệu. Các thử nghiệm cơ bản bao
gồm:
+ Kiểm tra chi tiết (các nhóm giao dịch, số dư tài khoản và thông tin thuyết
minh);
+ Thủ tục phân tích cơ bản
- Đặc trưng: Mọi thử nghiệp, phân tích, đánh giá của kiểm toán viên đều dựa vào
số liệu, thông tin trong báo cáo tài chính và do hệ thống kế toán cung cấp. Báo cáo tài
chính là sản phẩm của quá trình kiểm toán nên để tìm ra gian lận, sai sót thì kiểm toán

11


viên phải kiểm tra lại quá trình kế toán. Kiểm tra lại quá trình kế toán chính là kiểm
toán cơ bản
- Điều kiện áp dụng: Đây là thử nghiệm then chốt, cốt lõi và phải được thực hiện
trong mọi cuộc kiểm toán. Tuy nhiên, phạm vi và mức độ vận dụng lại tùy thuộc vào
tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
- Tác dụng: thủ tục kiểm toán này cho phép kiểm toán thu thập bằng chứng kiểm
toán liên quan đến báo cáo tài chính nhằm phát hiện ra những sai sót trọng yếu làm
ảnh hưởng đến báo cáo tài chính.
- Ví dụ: Kiểm tra các nghiệp vụ thu tiền, kiểm tra các nghiệp vụ bán hàng, kiểm
tra việc hạch toán chi phí và thanh toán lương, đối chiếu các khoản phải trả, xem xét
hiện vật các tài sản……
2.3 KỸ THUẬT THU THẬP BẰNG CHỨNG KIỂM TOÁN
2.3.1 Kiểm tra vật chất
Kiểm tra vât chất là quá trình kiểm kê tại chỗ hay tham gia kiểm kê các loại tài sản
của doanh nghiệp.
Kiểm tra vật chất do vậy thường được áp dụng đối với tài sản có dạng vật chất cụ
thể như hàng tồn kho, tài sản cố định, tiền mặt, giấy tờ thanh toán có giá trị.
Thời gian kiểm kê có thể định kỳ, đột xuất hay thường xuyên và loại hình kiểm kê
có thể là kiểm kê chọn mẫu, kiểm kê toàn diện… tùy thuộc vào tính chất nghiệp vụ.
Nếu cuộc kiểm toán BCTC năm thì kiểm kê tiến hành vào thời điểm cuối năm và kiểm
kê toàn diện. Nếu cuộc kiểm toán nhằm mục đích đặc biệt như giải thể doanh nghiệp,
chia tách, sáp nhập thì có thể thực hiện kiểm kê đột xuất và theo phương pháp kiểm kê
điển hình.
Thông thường cuộc kiểm kê gồm 3 phần: chuẩn bị kiểm kê, thực hiện kiểm kê và
kết thúc kiểm kê.
Ví dụ: như kiểm kê hàng hóa, vật tư tồn kho, máy móc thiết bị, nhà xưởng, tiền
mặt tồn quỹ…Kiểm tra vật chất cung cấp những bằng chứng có độ tin cậy cao.

* Ưu điểm:
- Cung cấp bằng chứng có độ tin cậy cao nhất vì kiểm kê là quá trình xác minh sự
hiện hữu của tài sản, mang tính khách quan.
Hơn nữa cách thực hiện phương pháp này đơn giản, phù hợp với chức năng xác
minh của kiểm toán
- Cách thức thực hiện đơn giản, phù hợp với chức năng xác minh của kiểm toán.
* Nhược điểm:
- Đối với một số TSCĐ như nhà xưởng, đất đai, phương tiện vận tải…việc kiểm
kê chỉ cho biết sự hiện hữu của tài sản đó chứ không cho biết về quyền sở hữu của đơn
vị đối với chúng, bời vì đây có thể là những tài sản đi thuê, hoặc đã bị đơn vị thế chấp;
- Đối với HTK, việc kiểm kê chỉ cho biết sự hiện hữu của các loại hàng này về
mặt số lượng, nhưng không cho biết chúng có được đánh giá đúng hay không. Chất
lượng và tình trạng chúng như thế nào. Các vấn đề trên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến số
dư HTK trên BCTC.
12


- Việc kiểm kê chỉ có thể thực hiện được với các tài sản hữu hình mà không thể áp
dụng được với các tài sản vô hình, các thông tin và các tài liệu khác của đơn vị.
Ưu điểm của kỹ thuật này là cung cấp bằng chứng có độ tin cậy cao vì nó xác
minh tính hiện hữu của tài sản một cách khách quan. Hơn nữa, cách thực hiện cũng
đơn giản.
Tuy nhiên kiểm kê chỉ cho biết kết quả về sự hiện hữu của một số tài sản cố định
như nhà xưởng, đất đai, phương tiện vận tài…mà không biết quyền sở hữu hợp pháp
hoặc kiểm soát lâu dài của doanh nghiệp đối với tài sản đó, bởi lẽ chúng hiện hữu
nhưng có thể là tài sản thuê ngoài, nhận giữ hộ hoặc đã bị đơn vị thế chấp.
Đồng thời với HTK, kiểm kê chỉ cho biết sự hiện hữu về mặt số lượng chứ không
chứng minh chất lượng, tình trạng của tài sản, giá trị của tài sản trong khi đó chúng lại
được trình bày trên BCTC dưới hình thức giá trị, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến số dư
hàng tồn kho trên BCTC.

Mặt khác, việc kiểm kê chỉ có thể thực hiện đối với các tài sản hữu hình mà không
thể áp dụng được đối với các tài sản vô hình, các thông tin và tài liệu khác của đơn vị,
quá trình kiểm kê thường đòi hỏi một lượng thời gian và chi phí tương đối lớn do vậy
có thể ảnh hưởng đến tính kinh tế và tính kịp thời của hoạt động kiểm toán. Vì vậy,
việc kiểm tra thường phải đi kèm với một số bằng chứng khác để chứng minh quyền
sở hữu, giá trị của tài sản đó và được xác định với quy mô thực sự phù hợp, cần thiết.
Vì vậy, kiểm tra vật chất thường phải đi kèm với một số bằng chứng khác để
chứng minh quyền sở hữu, giá trị các tài sản đó đươc xác định với quy mô thực sự phù
hợp, cần thiết.
2.3.2 Kiểm tra tài liệu
Kiểm tra tài liệu: bao gồm việc xem xét, đối chiếu các tài liệu, văn bản, sổ kế toán
và chứng từ có liên quan, có sẵn trong đơn vị được kiểm toán như hóa đơn, phiếu nhập
xuất kho…KTV có thể dựa vào một tài liệu có trước, thu thập tài liệu để khẳng định
kết luận đó hoặc có thể kiểm tra tài liệu của một nghiệp vụ từ khi phát sinh đến khi vào
sổ để dẫn đến kết luận(kiểm tra từ chứng từ rồi đối chiếu với sổ sách hoặc kiểm tra từ
sổ sách rồi đối chiếu với chứng từ).
Hai hướng kiểm tra trên sẽ cung cấp hai loại bằng chứng để thỏa mãn các mục tiêu
khác nhau. Việc kiểm tra chứng từ gốc (từ khi nghiệp vụ phát sinh) cho đến sổ sách sẽ
cho thấy mọi nghiệp vụ phát sinh đều được ghi sổ (tính đầy đủ). Ngược lại, việc kiểm
tra các nghiệp vụ khởi đầu từ sổ sách quay về chứng từ gốc sẽ cho biết rằng có phải
mọi nghiệp vụ ghi trên sổ sách đều thực hiện sự xảy ra hay không (tính hiện hữu)
trong kỹ thuật này, bằng chứng thu thập được thường là bằng chứng tài liệu.
Việc kiểm tra này thuận tiện do tài liệu có sẵn, chi phí thu thập bằng chứng không
lớn nhưng nói chung, bằng chứng cung cấp có độ tin cậy cao hay thấp là hoàn toàn
phụ thuộc vào nội dug, nguồn gốc của bằng chứng (mức độ độc lập của tài liệu với
phòng kế toán, với đơn vị được kiểm toán) và hiệu quả của hệ thống KSNB đối với
quy trình xử lý tài liệu đó. Đề phòng trường hợp đơn vị giả mạo chứng từ, tài liệu.
Phương pháp này nên kết hợp với kiểm kê và lấy xác nhận
Bốn nhóm tài liệu sau đây cung cấp cho KTV các bằng chứng với độ tin cậy khác nhau:
13



- Tài liệu do bên thứ ba lập và lưu giữ;
- Tài liệu do bên thứ ba lập và đơn vị được kiểm toán lưu giữ;
- Tài liệu do đơn vị được kiểm toán lập và bên thứ ba lưu giữ;
- Tài liệu do đơn vị được kiểm toán lập và lưu giữ.
Quá trình kiểm tra tài liệu thường được kiểm toán viên thực hiện theo 2 bước:
Bước1: KTV sẽ kiểm tra và đánh giá tính đầy đủ, tính hợp lệ, hợp pháp của các
chứng từ tài liệu cần kiểm tra.
Bước 2: KTV sẽ tiến hành so sánh đối chiếu số liệu giữa các tài liệu, chứng từ kế
toán với các ghi chép kế toán, các ghi chép của đơn vị, đồng thời đối chiếu giữa các
ghi chép với nhau nhằm đảm bảo tính đúng đắn của quá trình xử lý các nghiệp vụ.
Kỹ thuật kiểm tra tài liệu có thể áp dụng trong hai trường hợp sau:
+ Để thu thập bằng chứng chứng minh cho một vấn đề đã được đề cập trước.
Ví dụ: kiểm tra các chứng từ, tài liệu để chứng minh cho sự tồn tại của một tài sản
vô hình, hoặc KTV nghi ngờ số liệu trên sổ kế toán của đơn vị được báo cáo lớn hơn
số liệu thực tế, tức là khả năng phát sinh các nghiệp vụ được báo cáo khống, trùng
hoặc thực tế không phát sinh, KTV sẽ tiến hành chọn mẫu các nghiệp vụ trên các sổ kế
toán, sau đó tìm kiếm các chứng từ gốc chứng minh cho các nghiệp vụ để kiểm tra và
đối chiếu (đối chiếu từ sổ kế toán sang chứng từ gốc).
+ Hoặc chỉ đơn thuần là nhằm đảm bảo cho quá trình xử lý một nghiệp vụ kinh tế
từ khi phát sinh cho đến khi được phản ánh lên các BCTC được thực hiện một cách
đúng đắn. Ví dụ, KTV nghi ngờ số liệu trên sổ kế toán của đơn vị được báo cáo nhỏ
hơn số liệu thực tế, tức là khả năng các nghiệp vụ được báo cáo thiếu, không đầy đủ,
KTV sẽ tiến hành chọn mẫu các chứng từ kế toán gốc để kiểm tra, sau đó xem xét quá
trình ghi chép các nghiệp vụ này trên các sổ kế toán của đơn vị (đối chiếu từ chứng từ
vào sổ kế toán).
Việc kiểm tra ghi chép các tài liệu này sẽ cung cấp các bằng chứng kiểm toán với
mức độ tin cậy khác nhau tùy thuộc vào bản chất, nguồn gốc và hiệu lực của các quy
chế kiểm soát nội bộ.

2.3.3 Xác nhận
Là sự trả lời cho một yêu cầu cung cấp thông tin nhằm xác minh lại những thông
tin đã có trong các tài liệu kế toán
Đây là quá trình thu thập thông tin do bên thứ 3 độc lập cung cấp để xác minh tính
chính xác của thông tin mà KTV nghi vấn.
Đồng thời, KTV cần xem xét cơ sở dẫn liệu được kiểm toán và những nhân tố có
thể ảnh hưởng tới độ tin cậy của sự xác nhận như hình thức của thông tin xác nhận:
bằng miệng hay văn bản, yêu cầu xác nhận, tính chất của thông tin được xác nhận…
(xác nhận số dư từ các hóa đơn riêng lẻ thì dễ hơn xác nhận các khoản phải thu tổng
hợp) sự độc lập của bên thứ 3 khi thực hiện xác nhận với đơn vị.
Thông tin xác nhận từ bên ngoài thường phải được Ban giám đốc đơn vị được
kiểm toán đồng ý và cung cấp thông tin cho KTV (đơn vị sẽ ký công văn đề nghị xác
14


nhận và giao cho KTV). Thư xác nhận (sau khi có chữ ký và dấu của công ty khách
hàng) được gửi trực tiếp tới bên thức 3 và yêu cầu phản hồi lại cho KTV theo 2 hình
thức: hình thức thư xác nhận khẳng định (phúc đáp dù số liệu xác nhận và số liệu của
bên thứ 3 có chênh lệch hay không) và hình thức thư xác nhận khẳng định (phúc đáp
khi có chênh lệch). Tùy vào mức độ hệ trong của thông tin cần xác nhận mà KTV sẽ
xác định hình thức gửi thư xác nhận phù hợp.
Phương pháp này có ưu điểm là thông tin được cung cấp từ bên ngoài, có độ tin
cậy cao nếu đảm bảo thông tin được xác nhận theo yêu cầu của KTV, sự xác nhận
được thực hiện bằng văn bản, bên thứ 3 độc lập và KTV kiểm soát quá trình gửi và
nhận thư xác nhận. Tuy nhiên, thực hiện kỹ thuật này đòi hỏi chi phí lớn nên phạm vi
áp dụng bị giới hạn hoặc có khả năng đơn vị kiểm toán và bên thứ 3 có sự dàn xếp nên
kỹ thuật này thường chi áp dụng đối với một số đối tượng kiểm toán như công nợ, tiền
gửi ngân hàng.
Thông tin
Tài sản

Tiền gửi ngân hàng
Khoản nợ phải thu
Phiếu nợ phải thu
Hàng tồn kho gửi trong công ty lưu

Nơi xác nhận
Ngân hàng
Khách hàng
Người lập phiếu
Công ty lưu kho

kho
Giá trị bằng tiền của khoản bảo hiểm
nhân thọ
Công nợ
Khoản phải trả
Khách hàng trả tiền trước
Cầm cố phải trả
Trái phiếu phải trả

Công ty bảo hiểm

Chủ nợ
Khách hàng
Người nhận cầm cố
Người giữ trái phiếu

Ví dụ: kiểm toán viên yêu cầu đơn vị gửi thư cho khách hàng xác nhận trực tiếp
đối với số dư các khoản phải thu của khách hàng…
Kiểm toán viên thường gửi thư xác nhận cho ngân hàng, nhà cung cấp, khách

hàng, các kho lưu trữ hàng tồn kho cho đơn vị, luật sư (các vụ kiện chưa được giải
quyết)…
Kỹ thuật xác nhận được thực hiện theo các hình thức sau:
- Gửi thư yêu cầu xác nhận tới các bên liên quan. Thư yêu cầu xác nhận cũng có
thể được xác định theo hai dạng:
+ Kiểm toán viên đưa ra các thông tin, số liệu có trước và đề nghị các bên liên
quan xác nhận sự đúng đắn của các thông tin và số liệu này.
+ Thư yêu cầu chưa có thông tin và tài liệu nào và đề nghị các bên liên quan cung
cấp, xác nhận các thông tin, số liệu phù hợp với yêu cầu của kiểm toán viên.
15


- Chuẩn bị công văn yêu cầu đối chiếu số liệu giữa đơn vị được kiểm toán và các
bên có liên quan. Kiểm toán viên sẽ đề nghị đơn vị được kiểm toán ký vào các công
văn đề nghị đối chiếu này, sau đó công văn này sẽ được kiểm toán viên chuyển tới các
bên có liên quan để đề nghị đối chiếu. Hình thức này thường đạt hiệu quả cao hơn vì
kiểm toán viên hầu như chắc chắn sẽ nhận được xác nhận từ bên có liên quan đối với
các số liệu cần thẩm tra.
Ưu điểm:
- Bằng chứng thu được có độ tin cậy cao nếu kiểm toán viên thực hiện đúng quy
trình và đảm bảo: thông tin được xác nhận theo yêu cầu của kiểm toán viên, sự xác
nhận phải được thực hiện bằng văn bản, có sự độc lạp của người xác nhận thông tin,
kiểm toán viên phải đảm bảo kiểm soát được toàn bộ quá trình thu thập thư xác nhận
Nhược điểm:
- Chi phí thực thi khá lớn, do đó phạm vi áp dụng tương đối giới hạn
Phụ thuộc vào độ trung thực đáng tin cậy của bên thứ 3
2.3.4 Quan sát
Là việc theo dõi một hiện tượng, một chu trình hoặc một thủ tục do người khác
thực hiện . là phương pháp sử dụng để đánh giá một thực trạng hay hoạt động của đơn
vị được kiểm toán. KTV có thể quan sát tình trạng tài sản, quan sát việc thực hiện thủ

tục kiểm soát nội bộ do đơn vị tiến hành…nhằm đánh giá hệ thống kế toán và
HTKSNB của đơn vị. kỹ thuật quan sát cũng có thể được thực hiện để xác minh tính
đúng đắn của các thông tin, tài liệu và bằng chứng kiểm toán khác
Ví dụ: kiểm toán viên quan sát việc kiểm kê thực tế hoặc quan sát các thủ tục kiểm
soát do đơn vị tiến hành.
Việc quan sát được KTV thực hiện thông qua quan sát trực tiếp, kết quả quan sát
phải được ghi chép lại trên cơ sở giấy tờ làm việc của KTV để làm bằng chứng kiểm
toán. Kỹ thuật này cung cấp bằng chứng có độ tin cậy cao vì do bản thân KTV tiến
hành, đồng thời có thể áp dụng cho rất nhiều bộ phận được kiểm toán nhưng nó chưa
thể hiện tính đầy đủ vì chỉ cho bằng chứng về cách thức thực thi công việc tại thời
điểm quan sát chứ không chắc chắn sẽ được thực hiện tài các thời điểm khác. Phương
pháp này cần đi kèm với các thủ tục khác.
Đây là quá trình xem xét tận mắt các công việc, các tiến trình thực hiện do người
khác làm. Việc quan sát thực tế sẽ cung cấp các bằng chứng có độ tin cậy về phương
pháp thực thi của doanh nghiệp vào thời điểm quan sát nhưng không thể hiện chắc
chắn ở các thời điểm khác.
Kỹ thuật quan sát được kiểm toán viên thực hiện chủ yếu trong các khảo sát kiểm
soát nhằm đánh giá hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được
kiểm toán. Kỹ thuật quan sát cũng có thể được thực hiện để xác định tính đúng đắn của
các thông tin, tài liệu và bằng chứng kiểm toán khác. Ví dụ, KTV có thể quan sát quá
trình kiểm kê của đơn vị trên cơ sở đó để xác nhận kết quả kiểm kê tài sản do đơn vị
thực hiện.
16


Việc quan sát có thể được kiểm toán viên thực hiện thông qua việc quan sát trực
tiếp, tuy nhiên kết quả phải được ghi chép lại trên cơ sở giấy tờ làm việc của KTV để
làm bằng chứng kiểm toán. Việc quan sát cũng có thể được thực hiện trên cơ sở các
thiết bị ghi hình trong một số điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.
Ưu điểm: Phương pháp này rất hữu ích và được sử dụng trong nhiều phần hành

của cuộc kiểm toán.
Nhược điểm: bằng chứng thu được đáng tin cậy nhưng mang tính thời điểm và hiếm
khi được coi là đầy đủ.
2.3.5 Phỏng vấn
Phỏng vấn là quá trình kiểm toán viên thu thập thông tin bằng cách thẩm vấn (hỏi)
những người hiểu biết về vấn đề kiểm toán viên quan tâm.
Ví dụ: Phỏng vấn khách hàng về các chính sách khuyến mại của công ty, hình
thức trả lương khoán, lương doanh thu, lương hoa hồng…
Thẩm vấn khách hàng về những quy định kiểm soát nội nộ hoặc hỏi nhân viên về
sự hoạt động của các quy chế này
Việc thực hiện phỏng vấn có thể được thực hiện theo một trong các cách thức sau:
- Phỏng vấn trực tiếp: kiểm toán viên thực hiện cuộc phỏng vấn trực tiếp đối với
những người có trách nhiệm trong đơn vị. Khi tiến hành cuộc phỏng vấn, kiểm toán
viên cần làm cho người bị phỏng vấn biết mình là ai và vì sao phỏng vấn là cần thiết,
làm cho họ thoải mái thảo luận những trọng điểm đã xác định.
- Phỏng vấn gián tiếp:
+ Phỏng vấn bằng cách tiếp cận và trao đổi một cách thân mật với người được
phỏng vấn. Cách phỏng vấn này sẽ giúp cho người được phỏng vấn cảm thấy thoải
mái hơn trong quá trình trao đổi và KTV cũng có thể thu thập được nhiều thông tin bổ
sung cần thiết cho quá trình kiểm toán.
+ Phỏng vấn bằng cách thực hiện các câu hỏi cần thiết trên một hệ thống các bảng
biểu đã được xây dựng sẵn và đề nghị những người có trách nhiệm trong đơn vị trả lời
trực tiếp vào các bảng biểu đó. Cách phỏng vấn này sẽ giải tỏa tâm lý cho người được
phỏng vấn khi trả lời câu hỏi. Tuy nhiên nó sẽ không cho phép KTV đánh giá được
thái độ, cách thức và thứ tự trả lời các câu hỏi của người được phỏng vấn, do vậy sẽ
hạn chế phần nào đến việc xác định độ tin cậy của câu trả lời.
Khi phỏng vấn có thể dùng 2 loại câu hỏi đóng hoặc câu hỏi mở. câu hỏi mở giúp
KTV thu được câu trả lời chi tiết và đầy đủ. Loại câu hỏi này được sử dụng khi KTV
muốn thu thập thêm thông tin với việc sử dụng các cụm từ “thế nào?” cái gì? Tại sao
Câu hỏi đóng giới hạn câu trả lời của người được phỏng vấn, được sử dụng khi

KTV muốn xác nhận một vấn đề đã nghe về một vấn đề đã nghe hay đã biết. Loại câu
hỏi này thường dùng các cụm từ “có hay không?”
Ưu điểm: Giúp kiểm toán viên thu thập được những bằng chứng chưa có hoặc bổ
sung cho những bằng chứng đã có.
Nhược điểm: Hạn chế của kỹ thuật điều tra phỏng vấn là bằng chứng kiểm toán
thường có độ tin cậy không cao, thường phụ thuộc vào tính chủ qua của người phỏng
17


vấn cũng như người được phỏng vấn. Do vậy, kỹ thuật này thường được áp dụng để
thu thập các bằng chứng nhằm củng cố cho các bằng chứng khác, để thu thập thêm
thông tin hoặc đưa ra các phán đoán cho quá trình kiểm toán.
2.3.6 Tính toán
Là việc kiểm tra tính chính xác về mặt toán học của số liệu trên chứng từ, sổ kế
toán, báo cáo tài chính và các tài liệu liên quan khác hay việc thực hiện các tính toán
độc lập của kiểm toán viên.
Ví dụ: Kiểm toán viên thực hiện cộng các hóa đơn, kiểm tra lại số tổng cộng
trên các sổ cái, kiểm toán viên tự mình xác định mức dự phòng, mức khấu hao của
doanh nghiệp, đối với kiểm tra tính toán, kiểm toán viên xem xét tính chính xác bằng
tính lại các hóa đơn, phiếu nhập, phiếu xuất kho, tính lại chi phí khấu hao, giá thành,
các khoản dự phòng, thuế, số tổng cộng trên số cái, sổ chi tiết. Đối với việc kiểm tra
chính xác về mặt ghi sổ, KTV đối chiếu các chứng từ có liên quan để xem cùng một
thông tin được phản ánh trên các chứng từ khác nhau, ở những nơi khác nhau.
Ưu điểm: Tính toán cung cấp cho kiểm toán viên các bằng chứng kiểm toán có độ
tin cậy cao về phương diện số học.
Nhược điểm: Phép tính và phân bổ đôi khi khá phức tạp, tốn thời gian. Đặc biệt là
đối với công ty quy mô lớn, loại hình kinh doanh đa dạng.
2.3.7 Phân tích
Là việc phân tích các số liệu, thông tin, các tỷ suất quan trọng, qua đó tìm ra
những xu hướng, biến động và tìm ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông

tin liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến.
Phương pháp phân tích là so sánh, đối chiếu, đánh giá các mối quan hệ để xác
định tính hợp lý của các số dư trên tài khoản. Các mối quan hệ bao gồm giữa các
thông tin tài chính với nhau và quan hệ giữa các thông tin tài chính với các thông tin
phi tài chính.
Phân tích là kỹ thuật bao trùm nhất để khai thác bằng chứng kiểm toán.
Về nội dung việc phân tích bao gồm:
- Nhận dạng các bộ phận, các khoản mục của BCTC hoặc số dư tài khoản để xác
định các vấn đề cần thẩm tra.
- Nghiên cứu, đánh giá mối quan hệ nội tại giữa các yếu tố tài chính và các thông
tin khác.
- Thực hiện phân tích số ước tính, từ đó đánh giá khả năng có thể tồn tại các sai
phạm tại các bộ phận, khoản mục được kiểm toán.
Về phương pháp phân tích bao gồm:
- Kiểm tra tính hợp lý: thường bao gồm những so sánh cơ bản như: so sánh giữa
số liệu thực tế với số liệu kế hoạch, dự toán…từ kết quả so sánh tiến hành điều tra các
chênh lệch lớn giữa thực tế và kế hoạch sẽ giúp kiểm toán viên phát hiện những sai sót
trong báo cáo tài chính hoặc các biến động lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của đơn vị.
18


- Phân tích xu hướng (phân tích ngang): là phương pháp so sánh về lượng trên
cùng một chỉ tiêu. Kỹ thuật so sánh trong phân tích xu hướng thường sử dụng: so sánh
số liệu thực tế kỳ này với kỳ trước, so sánh số liệu thực tế với kế hoạch, định mức, dự
toán…so sánh số liệu thực tế doanh nghiệp với số liệu bình quân ngành hoặc số liệu
dự kiến của kiểm toán viên, so sánh số liệu thực tế doanh nghiệm này với doanh
nghiệp khác cùng quy mô, cùng lãnh thổ, cùng ngành nghề, cùng loại hình sản xuất
kinh doanh.
- Phân tích tỷ suất: Phương pháp này dựa vào các mối quan hệ, những tỷ lệ tương

quan giữa các chỉ tiêu, các khoản mục khác nhau để phân tích, đánh giá. Tùy điều kiện
cụ thể, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp mà kiểm toán viên có thể
tiến hành một số hoặc tất cả các chỉ tiêu như bảng 3.3.1
Khi sử dụng kỹ thuật phân tích để thu thập bằng chứng kiểm toán, kiểm toán viên
cần giải quyết bốn vấn đề:
- Chọn loại hình phân tích thích hợp. Nhìn chung, các loại hình phân tích áp dụng
hiệu quả đối với các tài khoản trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và các
nghiệp vụ liên quan hơn là đối với các tài khoản trong bảng cân đối kế toán. Các chỉ
tiêu trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh dễ dự đoán hơn, trong khi đó tài
khoản trong bảng cân đối kế toán thường kết hợp nhiều loại hình nghiệp vụ phức tạp.
- Đưa ra mô hình để dự đoán những số liệu tài chính hoặc những xu hướng hay tỷ
suất về số liệu tài chính và số liệu hoạt động. Vấn đề này bao gồm các bước công việc
sau:
+ Xác định các biến tài chính và các biến hoạt động cũng như mối quan hệ có thể
dự đoán được giữa hai loại biến này.
+ Đưa ra mô hình để kết hợp thông tin. Ở nội dung này, kiểm toán viên xác định
mô hình về mối quan hệ giữa các biến, phù hợp với đơn vị được kiểm toán.
+ Thu thập những số liệu cơ sở. Kiểm toán viên thu thập số liệu về các biến đã xác
định ở trên từ thực tế của đơn vị được kiểm toán
+ Xem xét tính độc lập và độ tin cậy của những số liệu cơ sở về hoạt động và về
tài chính.
+ Đưa ra dự đoán sử dụng mô hình mà kiểm toán viên đã triển khai.
- Dự đoán và so sánh dự đoán của kiểm toán viên với số liệu của đơn vị được
kiểm toán. Nếu có chênh lệch, kiểm toán viên phải tìm ra nguyên nhân bằng cách
phỏng vấn nhà quản lý về những vấn đề tài chính và hoạt động của công ty…đồng
thời, kiểm toán viên cần theo dõi và kiểm tra những thông tin này. Tất cả những lời
giải thích cần được chứng thực bằng một bằng chứng độc lập.
Ví dụ: có thể ước tính doanh thu bằng cách nhân số lượng hàng hóa bán ra (được
kiểm tra qua khoản mục hàng tồn kho) với đơn giá của sản phẩm (lấy từ phòng kinh
doanh, có phê duyệt của giám đốc)

- Sử dụng đánh giá chuyên môn để rút ra kết luận về bằng chứng kiểm toán thu
thập được. Nếu chênh lệch giữa dự đoán của kiểm toán viên với số liệu thực tế, kiểm
toán viên phải điều tra tính chất và nguyên nhân của chênh lệch và xem xét ảnh hưởng
của nó tới hoạt động kinh doanh của đơn vị được kiểm toán. Nếu chênh lệch thấp hơn
đáng kể so với mức chênh lệch theo kế hoạch, kiểm toán viên kết luận rằng mục tiêu
kiểm toán đã đạt được.Tuy nhiên, kiểm toán viên cần xem xét liệu những phát hiện của
19


kiểm toán viên có thu được từ những theo dõi thích hợp đối với kiểm soát nội bộ, hệ
thống thông tin và các vấn đề khác hay không. Nếu chênh lệch này xấp xỉ độ chênh
lệch theo kế hoạch, kiểm toán viên sẽ sử dụng đánh giá của mình để xem xét có nên:
- Chấp nhận chênh lệch này là chênh lệch kiểm toán và chuyển nó vào bảng tóm
tắt những chênh lệch kiểm toán chưa được điều chỉnh
+ Tiếp tục hoàn thiện dự đoán của mình, đưa vào nhiều biến hơn và đưa ra ít số
xấp xỉ hơn, cho đến khi số chênh lệch đạt đến mức có thể chấp nhận được
+ Tiến hành kiểm tra chi tiết
Qua kỹ thuật phân tích, KTV tìm ra những mối quan hệ mâu thuẫn với thông tin
khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá tị đã dự kiến, từ đó xem xét khả năng xảy ra
sai phạm. KTV cần tiến hành điều tra xác minh bằng cách phỏng vấn người quản lý
đơn vị hoặc xác minh lại giải trình của đươn vị, cân nhắc và sử dụng các thủ tục kiểm
toán khác để có được kết luận hợp lý.
- Ưu điểm: chi phí cho kiểm toán thấp mà vẫn có thể cung cấp bằng chứng về sự
đồng bộ, chuẩn xác và có giá trị về mặt kế toán. Do đó các phương pháp phân tích có
thể được áp dụng trong cả ba giai đoạn của quá trình kiểm toán.
- Nhược điểm: Phương pháp này chỉ áp dụng đối với các chỉ tiêu đồng chất về nội
dung và phương pháp tính. Đánh giá chênh lệch sẽ sai lầm nếu kiểm toán viên thiếu
năng lực trong việc phán đoán, khả năng liên hệ các chỉ tiêu cũng như sự biến động
của chúng.
Nhược điểm : việc phân tích chỉ có ý nghĩa khi các chỉ tiêu có mối liên hệ với

nhau (nếu giữa chúng không có mối liên hệ với nhau thì việc phân tích là vô nghĩa).

20


Chương 3. KIỂM TOÁN TIỀN
Khoản mục tiền trong kiểm toán tài chính có quan hệ mật thiết với các khoản mục
khác vì vậy bằng chứng thu thập về kiểm toán khoản mục này phụ thuộc nhiều vào kết
quả khảo sát của các chu trình khác có liên quan.
3.1 TIỀN VỚI VẤN ĐỀ KIỂM TOÁN
3.1.1 Đặc điểm của tiền ảnh hưởng đến kiểm toán
3.1.1.1 Phân loại tiền
Tiền là một loại tài sản lưu động của đơn vị tồn tại trực tiếp dưới hình thái giá trị.
Trên bảng cân đối kế toán, tiền được trình bày ở phần tài sản, thuộc tài sản lưu động của
doanh nghiệp. Theo tính chất cất trữ của tiền thì người ta chia tiền thành ba loại:
Tiền mặt: Đây là số tiền được lưu trữ tại két của doanh nghiệp. Tiền mặt có thể là
tiền Việt Nam đồng, là ngoại tệ các loại, là vàng tiền tệ … có thể là ngân phiếu.
Tiền gửi ngân hàng: Đây là số tiền được lưu trữ tại ngân hàng của doanh nghiệp.
Tiền gửi ngân hàng có thể gồm: tiền Việt Nam đồng, tiền ngoại tệ các loại, vàng bạc, đá
quí, kim loại quí,…
Tiền đang chuyển: Đây là số tiền của doanh nghiệp đang trong quá trình “xử lý”
như chuyển gửi vào ngân hàng, kho bạc, chuyển trả cho khách hàng, khách hàng thanh
toán, qua ngân hàng hoặc đường bưu điện nhưng doanh nghiệp chưa nhận được giấy báo
của ngân hàng hay thông báo của bưu điện về việc hoàn thành nghiệp vụ. Tiền đang
chuyển cũng có thể là tiền Việt Nam đồng nhưng cũng có thể là ngoại tệ các loại.
Tiền là cách thức phân loại phổ biến nhưng cũng là duy nhất được thể hiện trên bảng
cân đối kế toán của doanh nghiệp. Mỗi loại tiền mang những đặc điểm khác nhau và điều
này ảnh hưởng tới đặc điểm quản lý đối với chúng cũng như là quá trình kiểm soát, đối
chiếu trong nội bộ của đơn vị.
3.1.1.2 Đặc điểm tiền ảnh hưởng tới kiểm toán

Tiền là một loại tài sản lưu động của doanh nghiệp được trình bày trước tiên trên
bảng cân đối kế toán, và là căn cứ đánh giá khả năng thanh toán của một doanh nghiệp.
Do dó khoản mục này thường được trình bày sai lệch. Khoản mục tiền thường đóng vai
trò quan trọng trong quá trình phân tích về khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp.
Nếu số dư tiền quá thấp chứng tỏ khả năng thanh toán tức thời gặp nhiều khó khăn trong
khi nếu số dư tiền quá cao lại chứng tỏ một điều không tốt vì sử dụng tiền trong quay
vòng vốn không hiệu quả.
Các nghiệp vụ về tiền thường phát sinh thường xuyên với số lượng lớn và có qui mô
khác nhau. Mặc dù tiền có nhiều ưu điểm trong hoạt động thanh toán, kể cả trong quá
trình bảo quản, sử dụng nhưng cũng chính điều này cũng dẫn tới khả năng sai phạm tiềm
tàng rất cao khi kiểm toán cần phải chú ý.
Tiền có liên quan tới nhiều chu trình nghiệp vụ khác nhau và điều này dẫn tới những
ảnh hưởng của những sai phạm từ các khoản mục có liên quan trong chu trình tới khoản
mục tiền và ngược lại => tiền là một khoản mục quan trọng nhưng lại dễ bị trình bày sai
lệch, khả năng mất mát, gian lận lớn. Điều này dẫn tới trong bất cứ cuộc kiểm toán báo
21


cáo tài chính nào thì kiểm toán tiền luôn là một nội dung quan trọng cho dù số dư của
khoản mục tiền có thể là không trọng yếu. Và khi thực hiện kiểm toán tiền thì việc kiểm
tra chi tiết đối với khoản mục cũng như là các nghiệp vụ phát sinh liên quan là vô cùng
quan trọng và kiểm toán viên phải tập trung hơn bất cứ một thủ tục nào khác.
Đối với tiền mặt, thì khả năng sai phạm thường có các trường hợp sau đây:
- Tiền được ghi chép không có thực trong két tiền mặt
- Các khả năng chi khống, chi tiền quá giá trị thực bằng cách làm chứng từ khống,
sửa chữa chứng từ khai tăng chi, giảm thu để biển thủ tiền.
- Khả năng hợp tác giữa thủ quĩ và cá nhân làm công tác thanh toán hoặc trực tiếp
với khách hàng để biển thủ tiền.
- Khả năng mất mát tiền do điều kiện bảo quản, quản lý không tốt
- Khả năng sai sót do những nguyên nhân khác nhau dẫn tới khai tăng hoặc khai

giảm khoản mục tiền mặt trên bảng cân đối kế toán.
- Đối với ngoại tệ, khả năng có thể ghi sai tỷ giá khi qui đổi với mục đích trục lợi khi
tỷ giá thay đổi hoặc hạch toán sai do áp dụng sai nguyên tắc hạch toán ngoại tệ. Ngoài ra,
các trường hợp sai phạm đối với tiền mặt Việt Nam đồng cũng có thể xảy ra đối với
ngoại tệ.
Đối với tiền gửi ngân hàng, khả năng xảy ra sai phạm dường như thấp hơn do cơ chế
kiểm soát, đỗi chiếu đối với tiền gửi ngân hàng thường được đánh giá là khá chặt chẽ.
Tuy nhiên vẫn có thể xảy ra các khả năng sai phạm sau đây:
- Quên không tính tiền khách hàng
- Tính tiền khách hàng với giá thấp hơn giá do công ty ấn định
- Sự biển thủ tiền thông qua việc ăn chặn các khoản tiền thu từ khách hàng trước khi
chúng được ghi vào sổ
- Thanh toán một hoá đơn nhiều lần
- Thanh toán tiền lãi cho một phần tiền cao hơn hiện hành
- Khả năng hợp tác giữ nhân viên ngân hàng và nhân viên thực hiện giao dịch thường
xuyên với ngân hàng
- Chênh lệch giữa số liệu theo ngân hàng và theo tính toán của kế toán ngân hàng tại
đơn vị
Đơn vị tiền đang chuyển, do tính chất và đặc điểm của tiền đang chuyển mà sai phạm
đỗi với tiền đang chuyển có mức độ thấp. Tuy nhiên khả năng sai phạm tiềm tàng của
tiền đang chuyển cũng rất lớn: Tiền bị chuyển sai địa chỉ; Ghi sai số tiền chuyển vào
ngân hàng, chuyển thanh toán; Nộp vào tài khoản muộn và dùng tiền vào mục đích khác
3.1.2 Mục tiêu kiểm toán tiền
Xuất phát từ những đặc điểm và ảnh hưởng trên, trong qui trình kiểm toán báo cáo
tài chính đối với tiền thường xác định các mục tiêu kiểm toán sau đây:

22


Cơ sở dẫn liệu

Hiện hữu
Trọn vẹn

Mục tiêu kiểm toán cụ thể
Số dư tài khoản tiền vào ngày lập báo cáo là có thực
Tất cả các nghiệp vụ liên quan tới tiền đều được ghi
chép, phản ánh đẩy đủ
Đánh giá
Tiền các loại phải được tính giá đúng đắn theo các
nguyên tắc được qui định trong hạch toán tiền
Chính xác số học
Số dư tài khoản tiền mặt phải được tính toán, ghi sổ và
chuyển sổ chính xác
Phân loại và trình bày
Tiền p.á trên báo cáo bao gồm Tiền mặt, TGNH, tiền
đang chuyển theo đúng cách ploại đơn vị tiền qui định
Quyền và nghĩa vụ
Tiền của doanh nghiệp phải phản ánh đúng là tài sản của
doanh nghiệp
3.2 QUY TRÌNH KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC TIỀN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO
TÀI CHÍNH
3.2.1 Thực hiện thử nghiệm kiểm soát
3.2.1.1 Nguyên tắc hạch toán tiền
- Nguyên tắc tiền tệ thống nhất: Tất cả các nghiệp vụ ktế phát sinh đều được ghi chép
theo một đồng tiền thống nhất được qui định là tiền VNĐ, có nghĩa là các nghiệp vụ có
lquan tới các loại ngoại tệ khác nhau khi hạch toán phải qui đổi theo tiền VNĐ theo tỷ giá
thực tế liên ngân hàng tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ.
- Nguyên tắc cập nhật thường xuyên: Các nghiệp vụ liên quan tới tiền đều phải cập
nhật, ghi chép thường xuyên, việc ghi chép hạch toán nghiệp vụ tiền phải đúng thời điểm
phát sinh nghiệp vụ. Trong hạch toán tiền, nguyên tắc này được xem như là một mắt xích

kiểm soát quan trọng ngăn chặn khả năng dùng tiền của doanh nghiệp sử dụng sai mục
đích, phát hiện sớm các sai phạm đối với tiền.
KSNB đối với tiền chỉ hiệu quả trong trường hợp KSNB phải đáp ứng được các yêu
cầu cơ bản sau:
-Thu đủ: Tất cả các khoản tiền thu được đều phải nộp vào két tiền mặt hoặc vào tài
khoản tiền gửi ngân hàng đúng thời gian theo qui định.
-Chi đúng: Tất cả các khoản chi tiền đều phải thực hiện đúng với mục đích, được
phê chuẩn và phải được ghi chép đúng đắn
-Duy trì số dư tiền hợp lý trên cơ sở từng loại tiền để đảm bảo khả năng chi trả
những nhu cầu kinh doanh cũng như là khoản nợ đến hạn thanh toán. Một tỷ lệ dự trữ
hợp lý là rất cần thiết trong khi dự trữ thiếu hay thừa đều ảnh hưởng không tốt tới hoạt
động SXKD nói chung và có thể làm tăng mức rủi ro đối với tiền mặt.
Các thủ tục kiểm soát tiền phải được xây dựng tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản
sau đây:
- Nguyên tắc phân công, phân nhiệm: Sự phân công công việc trong các nghiệp vụ
liên quan đối với tiền phải có sự phân tách đáng kể trong mối quan hệ đối với các chu
23


trình có liên quan với tiền cụ thể. Ví dụ, trong chu trình nghiệp vụ bán hàn – thu tiền, sự
phân tách về công việc thu tiền với các công việc bán hàng, thu tiền, giữ tiền, … đảm bảo
khả năng phát hiện ra các sai phạm đồng thời thúc đẩy quá trình xử lý thông tin nhanh
hơn, mang tính “chuyên môn hoá” hơn và rõ ràng nó sẽ làm giảm khả năng sai phạm
trong chu trình này. Hay trong chu trình ngvụ mua hàng và thanh toán, sự phân tách về
công việc thanh toán với các công việc khác như đặt mua hàng, tiếp nhận hàng, thanh
toán bằng tiền cho người bán, …cũng sẽ tạo ra một khả năng kiểm soát đối với các
nghiệp vụ chi tiền tương đối tốt và vì vậy nó cũng sẽ làm giảm khả năng sai sót trong chu
trình nghiệp vụ này.
- Nguyên tắc bất kiêm nhiệm: yêu cầu phải có sự cách ly một số chức năng đặc thù
liên quan tới tiền trong doanh nghiệp. Sự cách ly các chức năng ghi chép, phê chuẩn, và

chức năng quản lý trực tiếp đối với tiền là vô cùng quan trọng. Một sự cách ly các chức
năng này không hợp lý đều có thể làm gia tăng khả năng sai phạm tiềm tàng mà thủ tục
kiểm soát được thiết kế khó có thể phát hiện ra. Ví dụ, một người vừa là thủ quĩ, vừa thực
hiện chức năng ghi chép kế toán các ngvụ thu, chi thì khả năng phát hiện ra bản thân các
sai phạm tiềm ẩn trong ngvụ thu, chi sẽ rất hạn chế. Bên cạnh đó cũng rất khó khăn cho
hđộng kiểm soát nếu có những dấu hiệu cho thấy thủ quĩ này gian lận tiền thu của khách
hàng hoặc chi khống…Trong một số trường hợp, một người có thể đảm nhiệm nhiều
chức năng khác nhau nhưng các chức năng ấy phải có một sự độc lập đáng kể, hoặc là sự
kiêm nhiệm ấy được đảm bảo không có khả năng xảy ra một khả năng sai phạm tiềm tàng
nào.
- Nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn: yêu cầu trước khi các nghiệp vụ tiền được thực
hiện cần thiết phải có sự phê chuẩn đúng mức. Sự uỷ quyền và phê chuẩn tốt sẽ tạo ra
điều kiện tốt phục vụ cho việc kiểm soát đối với các nghiệp vụ nói chung và các nghiệp
vụ về tiền nói riêng. Ví dụ, trong một doanh nghiệp khi mà các nghiệp vụ chi tiêu thường
xuyên với số lượng lớn, thủ trưởng có thể thực hiện uỷ quyền cho cấp phó thực hiện việc
phê chuẩn đỗi với những nghiệp vụ chi tiêu ấy. Tuy nhiên việc uỷ quyền phải nằm trong
giới hạn về không gian và thời gian nhất định đồng thời nó phải được qui định một cách
rõ ràng, cụ thể.
Do tính chất trọng yếu của nghiệp vụ thì các nghiệp vụ về tiền luôn phải được quan
tâm một cách đặc biệt. Một sự phê chuẩn thể hiện việc thực hiện kiểm soát đối với tiền
thường để lại dâu vết trực tiếp trên các chứng từ, tài liệu có liên quan tới chi, thu tiền.
Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho kiểm toán viên khi làm việc đối với khoản mục tiền
khi kiểm toán báo cáo tài chính của doanh nghiệp ấy.
3.2.1.2 Kiểm soát nội bộ đối với tiền
Kiểm soát đối với tiền hướng tới những điểm cơ bản sau đây khi thiết lập:
- Phân tách các chức năng phê chuẩn nghiệp vụ thu, chi tiền với ghi chép sổ sách về
tiền, và với chức năng quản lý tiền
- Tập trung được các đầu mối thu tiền. Đây là cơ sở cho việc kiểm soát được toàn bộ
số thu về của doanh nghiệp
24



- Ghi chép kịp thời, đầy đủ các nghiệp vụ thu, chi tiền
- Tăng cường các giao dịch bằng tiền gửi ngân hàng
- Đối chiếu số liệu giữa kế toán với bộ phận quản lý tiền
a. Đối với hoạt động thu tiền
- Thu tiền từ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ: việc áp dụng chính sách thu
tiền tập trung và phân công cho một nhân viên thực đảm nhận rất phổ biến để ngăn ngừa
khả năng sai phạm là vô cùng cần thiết. Cùng với việc đánh số trước đối với các chứng từ
thu tiền như phiếu thu, biên lai nhận tiền, … cũng là thủ tục kiểm soát có hiệu quả. Đối
với các trường hợp bán lẻ hàng hoá, sản phẩm các thủ tục trên vẫn cần phải được tôn
trọng nhưng cần phải có các thủ tục khác: Hệ thống máy tính tiền tự động để khách hàng
có thể nhìn thấy, kiểm tra trong quá trình mua hàng (sử dụng hệ thống mã số mã vạch
cho từng loại hàng hoá); Phiếu tính tiền phải được in ra cùng với các thông tin về hàng
hoá, sp mà khách hàng mua đồng thời khuyến khích khách hàng nhận hoá đơn; Cuối
ngày nên tính tổng số tiền thu được từ hàng hoá, sản phẩm bán ra trên cơ sở có đỗi chiếu
với kết quả kiểm kê hàng hoá cuối mỗi ngày hoặc tại thời điểm giao ca. Nếu đơn vị
không có hệ thống tính tiền tự động thì thủ tục lập báo cáo thu trong ngày, kết hợp với
ghi chép từng ngvụ bán hàng là rất cần thiết để có thể kiểm soát được số tiền thu được từ
bán hàng hóa, sản phẩm. Việc thanh toán qua ngân hàng là một giải pháp kiểm soát
tương đối toàn diện và đem lại hiệu quả kiểm soát cao.
- Trường hợp thu nợ của khách hàng, thủ tục kiểm soát như cung cấp phiếu thu hoặc
biên lai thu tiền là cần thiết. Đơn vị phải quản lý chặt chẽ đối với các giấy giới thiệu
trong trường hợp thu tiền tại người mua hoặc khi đối chiếu công nợ với khách hàng.
Trường hợp thanh toán qua ngân hàng hay khách hàng chuyển tiền thanh toán thì kiểm
soát đối với giấy báo có và định kỳ đỗi chiếu công nợ là thủ tục hữu hiệu để ngăn chặn
khả năng sai phạm trong những ngvụ này.
b. Đối với hoạt động chi tiền:
Những thủ tục kiểm soát đối với chi tiền đem lại hiệu quả trong việc ngăn chặn khả
năng sai phạm bao gồm:

- Vận dụng triệt để nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn trong chi tiền. Khi phê chuẩn
thực hiện chi tiền cần dựa trên cơ sở là các văn bản cụ thể về xét duyệt chi tiêu và kiểm
soát chi này phải để lại dấu vết trực tiếp.
- Sử dụng chứng từ là phiếu chi phải có đánh số trước. Trong quá trình phát hành,
nếu có sai thì phải lưu giữ chứng từ sai làm căn cứ cho đối chiếu.
- Hạn chế tối đa việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán, sử dụng các phương tiện
thanh toán điện tử, thanh toán qua ngân hàng sẽ giúp ích lớn trong việc ngăn chặn và phát
hiện khả năng sai phạm trong thanh toán.
- Thực hiện việc đối chiếu định kỳ với ngân hàng, với nhà cung cấp. Đây là thủ tục
kiểm soát tốt để phát hiện ra các chênh lệch giữa những ghi chép của bản thân doanh
nghiệp với những ghi chép độc lập của bên kia.
25


×