Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Giáo trình lý thuyết tiền tệ tín dụng phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.01 KB, 62 trang )

Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh

LỜI NÓI ĐẦU
Để đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập Cao đẳng Nghề chuyên ngành
Kế toán, Cử nhân Kinh tế Nguyễn Sơn Ngọc Minh tiến hành biên soạn cuốn
giáo trình môn học Lý thuyết tiền tệ tín dụng .
Giáo trình môn học lý thuyết tiền tệ tín dụng được biên soạn dựa trên cơ
sở Quyết định số 15/2008/QĐ- BLĐTBXH ngày 31 tháng 03 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội về việc ban hành chương trình
khung đào tạo bậc Cao đẳng Nghề Kế toán Doanh nghiệp, giáo trình Lý thuyết
tiền tệ của Học viện Tài chính ban hành năm 2008 và một số tài liệu chuyên
ngành khác có liên quan.
Giáo trình gồm 05 chương:
Chương 1: Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường
Chương 2: Tín dụng trong nền kinh tế thị trường
Chương 3: Hệ thống ngân hàng và thị trường tiền tệ
Chương 4: Thanh toán trong nền kinh tế thị trường
Chương 5: Thanh toán và tín dụng quốc tế
Soạn giả đã cố gắng thể hiện nội dung giáo trình môn học đảm bảo tính lý
luận, tính khoa học và tính thực tiễn phù hợp với nhận thức chung của sinh viên
Cao đẳng Nghề Kế toán. Tuy nhiên, do thời gian và trình độ có hạn nên việc
biên soạn không tránh khỏi những thiếu sót. Soạn giả rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của độc giả để giáo trình được bổ sung hoàn thiện hơn.
Xin trân thành cảm ơn !
Ngày 11 tháng 10 năm 2008
Soạn giả

1



Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh

CHƯƠNG 1

TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I- Nguồn gốc, bản chất, chức năng và vai trò của tiền tệ
1-Nguồn gốc ra đời và quá trình phát triển của tiền tệ
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tiền tệ cũng được hình thành
và phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử.
Ở thời kỳ đầu, khi nền sản xuất xã hội còn thấp kém, quá trình trao đổi
hàng hoá được tiến hành theo hình thức trao đổi trực tiếp mang tính ngẫu nhiên:
H-H. Tương ứng với hình thức trao đổi này đã xuất hiện hình thái ngẫu nhiên
của giá trị.
Ví dụ: 1 rìu =20 m vải
Ở đây rìu biểu thị giá trị của mình bằng vải, còn vải là vật để biểu hiện
giá trị của rìu. Giá trị của hàng hoá rìu được biểu hiện như là một giá trị tương
đối (hình thái tương đối của giá trị), còn vải đóng vai trò vật ngang giá.
Lực lượng sản xuất càng phát triển, phân công lao động lần thứ nhất:
Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, làm cho sản phẩm thặng dư và số lượng hàng
hoá trao đổi ngày càng nhiều hơn. Tương ứng với quan hệ trao đổi này là hình
thái đầy đủ hay mở rộng của giá trị:
20 m vải,
1 con ngựa kéo

=

02 cái áo,
10 kg chè,
0,5 chỉ vàng,...


Ở hình thái này, giá trị sử dụng của nhiều hàng hoá được sử dụng làm vật
ngang giá cho một hàng hoá. Quan hệ này trở thành phức tạp khi một hàng hoá
có nhiều vật ngang giá gây khó khăn cho trao đổi.
Về sau, cùng với sự chuyên môn hoá lao động ngày càng cao, trong xã hội
diễn ra cuộc phân công lao động lần thứ hai: “Thủ công tách khỏi nghề nông”, là

2


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
thời kỳ đánh dấu sự phát triển cao của lực lượng sản xuất.Thực tế đó đòi hỏi
trong trao đổi phải có một vật đóng vai trò vật ngang giá chung (hình thái chung
của giá trị ra đời). Khi đó phương trình trao đổi được thể hiện:
20 m vải,
02 cái áo,
10 kg chè,

=

1 con ngựa kéo

0,5 chỉ vàng,...

Thời kỳ đầu vật ngang giá chung chưa cố định vào một hàng hoá nào; mỗi
địa phương sử dụng một vật ngang giá chung khác nhau. Để đáp ứng yêu cầu phát
triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá, đòi hỏi phải có một vật ngang giá chung
thống nhất. Theo tiến trình của lịch sử, các kim loại lần lượt thay thế nhau đóng
vai trò vật ngang giá chung: đồng, chì, kẽm…Đầu thế kỷ 19, kim loại vàng độc

tôn đóng vai trò vật ngang giá chung - nó được gọi là kim loại tiền tệ hay tiền tệ.
Đầu thế kỷ 20, giấy bạc ngân hàng được sử dụng phổ biến thay thế cho
các loại tiền đúc bằng vàng. Ngày nay, với sự can thiệp của Nhà nước, các
phương tiện sử dụng trong trao đổi ngày càng đa dạng, phong phú.
2. Bản chất của tiền tệ
- Theo quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển
Tiền tệ là hàng hoá đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá chung trong trao
đổi, nó có khả năng đo lường giá trị của mọi hàng hoá khác.
Cũng như hàng hoá thông thường, tiền tệ có giá trị và giá trị sử dụng.
Tính chất đặc biệt của thuộc tính giá trị sử dụng của tiền tệ là ở chỗ nó có tính xã
hội. Tiền tệ có thể thoả mãn các nhu cầu về sử dụng hàng hoá, dịch vụ của người
sở hữu nó.
- Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại
Nền kinh tế hàng hoá phát triển đến giai đoạn cao, kinh tế thị trường được
hình thành theo đúng nghĩa của nó, thì quá trình phi vật chất của tiền cũng đồng

3


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
thời diễn ra một cách tương ứng. Theo quan niệm của các nhà kinh tế học hiện
đại thì:
Tiền tệ là bất kỳ phương tiện nào được thừa nhận chung để thanh
toán cho việc giao hàng, dịch vụ và chi trả công nợ - nó là một phương
tiện trao đổi.
- Một số tên gọi của tiền:
+ Hoá tệ: là hàng hoá đóng vai trò vật ngang giá trong trao đổi.
Ví dụ: ở Mêxicô đã từng coi hạt ca cao làm phương tiện trao đổi
“tiền trên cây”; ở châu Phi vỏ ốc quý được dùng làm phương tiện trao đổi

+ Tín tệ: là loại tiền được sử dụng trên cơ sở uy tín hoặc quyền lực
của người phát hành.
Tiền giấy được coi là tín tệ hoàn chỉnh nhất, nó xuất hiện từ thời nhà
Đường thế kỷ thứ VII và thời nhà Tống (960 - 1279). Ở Việt nam, dưới
triều Hồ (1400 - 1407), Hồ Quý Ly đã cho phát hành tiền giấy.
+ Bút tệ: là hình thức phi vật chất cao nhất của tiền, nó tiết kiệm chi
phí lưu thông nhất và được áp dụng thanh toán phổ biến trong đời sống
kinh tế – xã hội.
3- Chức năng của tiền tệ
Bản chất của tiền tệ được thể hiện đầy đủ thông qua các chức năng của
nó. Các chức năng của tiền tệ bao gồm:
3.1 Chức năng thước đo giá trị
Chức năng thước đo giá trị là chức năng cơ bản nhất của tiền tệ. Khi thực
hiện chức năng này, tiền tệ được coi là chuẩn để đo giá trị của các hàng hoá
khác.
Thông qua quan hệ này, các hàng hoá biểu hiện giá trị của mình thành
những lượng có cùng tên giống nhau về chất và có thể so sánh được với nhau về
lượng. Sở dĩ tiền và các hàng hoá thông thường thực hiện được quan hệ so sánh
này, vì chúng đều là sản phẩm của lao động của con người đã vật hoá và do lao
động xã hội kết tinh trong chúng. Các hàng hoá được trao đổi trên thị trường
4


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
thông qua giá cả hàng hoá. Giá cả hàng hoá là biểu hiện bằng tiền của giá trị
hàng hoá.
Thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ phải có các điều kiện sau:
- Tiền phải có đủ giá trị
Tất cả các hàng hoá đều có giá trị nội tại, vì vậy để đo được các lượng giá

trị này tiền phải có giá trị.
Ngày nay, việc biểu hiện giá trị hàng hoá thông qua việc sử dụng các
phương tiện trao đổi được tồn tại trong quan niệm của mọi người, được mọi
người thừa nhận, đó là cơ sở dẫn đến hiện tượng phi vật chất hoá chức năng
thước đo giá trị.
- Tiền phải có tiêu chuẩn giá cả
Tiêu chuẩn giá cả là đơn vị đo lường tiền tệ của mỗi quốc gia được pháp
luật Nhà nước thừa nhận, nó gồm hai yếu tố: tên gọi đơn vị tiền tệ và hàm lượng
vàng trong một đơn vị tiền tệ.
Ví dụ: Đơn vị tiền tệ của hợp chủng quốc Hoa Kỳ có tên gọi là Dollar ký
hiệu quốc tế là USD, 1USD = 0,736662 gram vàng ròng.
Do thế giới hàng hoá rất đa dạng và phong phú; bởi vậy luật pháp Nhà
nước cũng quy định tiền đơn vị theo bội số (tiền có mệnh giá gấp nhiều lần tiền
đơn vị) và ước số (tiền có mệnh giá là phần thập phân của tiền đơn vị)
Ví dụ: 1USD = 100 cent hoặc 1 cent = 0,01 USD
Ngày nay, do xuất hiện quá trình phi vật chất hoá thước đo giá trị; nên
hàm lượng vàng của tiêu chuẩn giá cả đã dần mất đi ý nghĩa thực của nó. Trong
thực tế, khi sử dụng tiền người ta không quan tâm đến hàm lượng vàng trong nó
là bao nhiêu mà chỉ quan tâm đến sức mua của nó cao hay thấp.
Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền đã chuyển giá trị hàng hoá
thành tên gọi mới, đó là giá cả hàng hoá. Giá cả hàng hoá là biểu hiện bằng tiền
của giá trị hàng hoá. Thực chất của giá cả hàng hoá được xác lập trên quan hệ so
sánh giữa giá trị của nó với giá trị của tiền tệ: “Giá cả hàng hoá tỷ lệ thuận với
giá trị hàng hoá và tỷ lệ nghịch với giá trị của tiền tệ”
5


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
3.2 Chức năng phương tiện lưu thông

Thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền tệ là môi giới trung gian
trong trao đổi hàng hoá dịch vụ. Nó được thể hiện qua công thức sau: H- T- H.
Quá trình này gồm hai giai đoạn:
- Giai đoạn H-T là giai đoạn bán hàng, giai đoạn chuyển hoá hình thái giá
trị của hàng hoá thành tiền tệ. Đây là giai đoạn khó khăn nhất của các nhà sản
xuất kinh doanh.
- Giai đoạn T-H là giai đoạn mua hàng, giai đoạn này được thực hiện một
cách dễ dàng. Người có tiền chỉ cần bỏ ra một lượng tiền nhất định là có thể mua
được một lượng hàng hoá nhất định.
Hai giai đoạn này được tiến hành độc lập tương đối với nhau. Thực hiện
chức năng phương tiện lưu thông tiền phải thoả mãn các điều kiện sau:
+ Sử dụng tiền mặt: Tiền mặt là tiền đang lưu thông nó có tên gọi và tiêu
chuẩn giá cả được luật pháp Nhà nước quy định.
+ Có thể sử dụng dấu hiệu giá trị: Vì mục đích của bán hàng không phải là
để có tiền rồi sở hữu tiền vĩnh viễn, mà là để thực hiện việc mua hàng hoá nhằm
đạt đến một giá trị sử dụng mới. Tiền tệ chỉ là trung gian trong trao đổi hàng hoá,
dịch vụ.
+ Lưu thông chỉ chấp nhận một lượng tiền nhất định: Số lượng tiền cần
thiết cho lưu thông do tổng nhu cầu giao dịch của nền kinh tế quốc dân trong
một thời kỳ quyết định. Có nghĩa là lượng tiền đưa vào lưu thông phải phù hợp
với yêu cầu của nền kinh tế; nếu yêu cầu này không thoả mãn sẽ gây khó khăn
cho sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Ngày nay, khi nền sản xuất hàng hoá phát triển ở mức độ cao, thì lượng
tiền mặt ít được sử dụng mà thay vào đó là lưu thông các công cụ thanh toán của
hệ thống tín dụng ngân hàng - thanh toán không dùng tiền mặt)
3.3 - Chức năng phương tiện thanh toán

6



Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
Thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, tiền dùng để chi trả các
khoản giao dịch, mua bán hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ…
Khi thực hiện chức năng này, tiền tệ không làm trung gian trong quá trình
trao đổi mà nó hoàn thành quá trình này một cách độc lập tương đối so với sự
vận động của hàng hoá cả về không gian và thời gian. Thực hiện chức năng này
có thể sử dụng tiền mặt hoặc dấu hiệu giá trị. Chức năng phương tiện thanh toán
có tác dụng tích cực là thúc đẩy quá trình tiêu thụ hàng hoá, kích thích sản xuất
và lưu thông hàng hoá phát triển.
3.4. Chức năng tiền tệ cất trữ (cất trữ giá trị)
Thực hiện chức năng phương tiện cất trữ, tiền tệ tạm thời rút khỏi lưu
thông và trở về trạng thái tĩnh, chuẩn bị cho nhu cầu tiêu dùng trong tương lai.
Thực hiện chức năng này chỉ có thể là tiền đủ giá trị (vàng). Ngày nay việc cất
trữ giá trị được thực hiện bằng nhiều phương tiện khác nhau. Nhưng các phương
tiện cất trữ phải thoả mãn các điều kiện sau:
- Giá trị cất trữ phải được thể hiện bằng những phương tiện hiện thực có
thể cân đong đo đếm được chứ không phải là lượng tiền tưởng tượng.
- Giá trị cất trữ phải là những phương tiện được xã hội thừa nhận.
- Giá trị cất trữ phải có thời hạn, tuỳ thuộc vào thời gian sẽ sử dụng giá trị
cất trữ dài hay ngắn để lựa chọn các phương tiện cất trữ thích hợp.
3.5. Chức năng tiền tệ thế giới
Cùng với sự phát triển các quan hệ kinh tế, chính trị và ngoại giao giữa
các quốc gia, quan hệ về tiền tương ứng cũng được mở rộng và phát triển.
Thực hiện chức năng tiền tệ thế giới, tiền được sử dụng làm phương tiện
thanh toán, chi trả chung giữa các quốc gia.
Thực hiện chức năng này chỉ có thể là vàng với trọng lượng và hàm lượng
xác định. Tuy nhiên, ngày nay trên trường quốc tế vàng ít được lưu thông; nó chỉ
được sử dụng khi cán cân thanh toán giữa các quốc gia bị thâm hụt. Thực hiện
chức năng tiền tệ thế giới là các đồng tiền mạnh như: USD, GBP, JPY, EURO…

4- Vai trò của tiền tệ
7


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
Tiền tệ là sản phẩm của kinh tế hàng hoá. Trong nền kinh tế thị trường
tiền tệ có các vai trò sau:
4.1 Tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng sản xuất và trao đổi
hàng hoá, cụ thể:
- Tiền làm cho giá trị hàng hoá được biểu hiện một cách đơn giản
Mỗi hàng hoá được biểu hiện giá trị của mình bằng một số tiền nhất định,
qua đó người sản xuất có thể so sánh với nhau về mức độ và trình độ lao động
của mình đã bỏ ra cho xã hội trong một đơn vị thời gian.
- Tiền tệ làm cho giá trị hàng hoá được thực hiện một cách thuận lợi.
Người sở hữu hàng hoá chỉ cần chuyển đổi hàng hoá của mình bằng một số tiền
nhất định rồi từ đó đạt tới một giá trị sử dụng mới một cách dễ dàng.
- Tiền tệ làm cho việc trao đổi hàng hoá không bị phụ thuộc vào không
gian và thời gian. Chính vì lẽ đó mà sự lựa chọn của những người tham gia vào
quá trình trao đổi trở nên thận trọng và chính xác hơn
- Tiền tệ làm cho việc hạch toán kinh doanh được thực hiện thuận tiện, chính
xác và hiệu quả.
Ví dụ: Để sản xuất 1 sản phẩm A, doanh nghiệp X, tập hợp được chi phí và kết
quả như sau:
Tiền Nguyên vật liệu:

150.000đ

Tiền công sản xuất sản phảm:


50.000đ

Khấu hao máy móc, thiết bị:

20.000đ

Chi phí quản lý:

20.000đ

Cộng giá thành toàn bộ :
Giá bán:

240.000đ

320.000đ

Lợi nhuận trước thuế: 60.000đ
4.2- Tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng quan hệ hợp tác quốc
tế
Cùng với quan hệ ngoại thương, các quan hệ thanh toán tín dụng quốc tế,
tiền tệ là phương tiện thực hiện và mở rộng quan hệ quốc tế. Thông qua vai trò
8


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
này, tiền tệ thúc đẩy xu hướng hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, khoa
học kỹ thuật, đầu tư… giữa các quốc gia ngày càng mở rộng và phát triển (Xuất
khẩu, nhập khẩu, thanh toán quốc tế…)

4.3. Tiền tệ là phương tiện phục vụ mục đích của người sở hữu tiền
Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp kể cả
Nhà nước muốn đạt được mục đích của mình đều phải sử dụng tiền tệ.
Tiền tệ là công cụ có quyền lực mạnh mẽ để xử lý và giải quyết các ràng
buộc phát sinh trong quan hệ kinh tế xã hội, không những ở phạm vi quốc gia
mà còn ở cả phạm vi quốc tế.
II- Các chế độ lưu thông tiền tệ
Sự phát triển của chế độ lưu thông tiền tệ không những tuỳ thuộc vào sự phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia mà còn được quyết định bởi trình độ tổ chức Nhà
nước.
Trong lịch sử phát triển của tiền tệ, chế độ lưu thông tiền tệ đã trải qua
nhiều loại hình và xu hướng chung là ngày càng được hoàn thiện.

1. Chế độ lưu thông tiền kim loại
Chế độ lưu thông tiền kim loại lấy kim loại làm thước đo giá trị và
phương tiện lưu thông.
Việc lưu thông tiền đúc bằng kim loại có giá trị thấp: đồng, chì,
nhôm….tồn tại trong một thời gian dài ở hầu hết các quốc gia.
Đầu thế kỷ 20, kim loại quý: Bạc, vàng dần chiếm vị trí độc tôn - Nó được
gọi là kim loại tiền tệ (bao gồm chế độ bản vị bạc: Bạc làm thước đo giá trị và
phương tiện lưu thông; chế độ song bản vị: lưu thông tiền bạc, vàng; chế độ bản
vị vàng: vàng là thước đo giá trị)
2. Chế độ lưu thông tiền dấu hiệu
* Khái niệm
9


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
Tiền dấu hiệu (dấu hiệu giá trị) là loại tiền không có giá trị nội tại, mà chỉ

có giá trị danh nghĩa theo luật định thay thế tiền đủ giá trị (tiền vàng) trong lưu
thông; chúng chỉ thực hiện được chức năng phương tiện lưu thông và chức năng
phương tiện thanh toán.
* Các loại tiền dấu hiệu
- Tiền giấy
Tiền giấy được phát hành thay thế cho tiền vàng đã từng tồn tại trong lưu
thông. Nó là đại biểu cho tiền vàng để thực hiện chức năng phương tiện lưu
thông và phương tiện thanh toán.Tiền giấy do Ngân hàng Trung ương phát hành
thống nhất trong cả nước với các tên gọi và mệnh giá khác nhau theo bội số và
ước số.
- Các loại dấu hiệu giá trị khác
+ Séc các loại
+ Thương phiếu
+ Tín phiếu
+ Chứng chỉ tiền gửi
+ Cổ phiếu, trái phiếu
* Ý nghĩa của tiền dấu hiệu
- Lưu thông tiền dấu hiệu sẽ khắc phục được tình trạng thiếu phương
tiện lưu thông: Trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển, khối lượng hàng
hoá dịch vụ trao đổi tăng lên. Sự gia tăng khối lượng trao đổi hàng hoá dịch
vụ đòi hỏi khối lượng tiền tăng lên tương ứng; Nếu chỉ sử dụng tiền kim loại
quý để lưu thông sẽ không đáp ứng được nhu cầu thanh toán chi trả trong nền
kinh tế.
- Lưu thông tiền dấu hiệu sẽ tiết kiệm được chi phí lưu thông xã hội: do
lưu thông tiền dấu hiệu sẽ loại trừ được sự hao mòn vàng. Mặt khác, do tiền dấu
hiệu có nhiều mệnh giá khác nhau nên việc thanh toán trao đổi được thuận lợi,
nhanh chóng, chi phí phát hành tiền dấu hiệu thấp nên tiết kiệm được chi phí lưu
thông.
10



Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
3- Chế độ lưu thông tiền tệ quốc tế
Khi đồng tiền của bất kỳ một quốc gia nào đó có khả năng thanh toán, trao
đổi hoặc được chấp nhận ngoài lãnh thổ quốc gia đó đều được xem là tiền tệ quốc
tế.
Chế độ lưu thông tiền tệ quốc tế là tập hợp những quy định thống nhất
giữa các quốc gia trong việc tổ chức và điều hành các quan hệ tiền tệ phát
sinh giữa các nước nhằm thiết lập một trật tự cho các quan hệ trao đổi mậu
dịch và các quan hệ kinh tế quốc tế khác nhau giữa các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Trong lịch sử phát triển các quan hệ tiền tệ thế giới đã hình thành các chế
độ tiền tệ quốc tế điển hình như sau:
3.1 Chế độ tiền tệ quốc tế Paris năm 1867- chế độ bản vị vàng
Chế độ bản vị vàng gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Thừa nhận vàng là tiền tệ thế giới được chu chuyển và trao đổi tự do
giữa các quốc gia
- Vàng là căn cứ để xác lập tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền của các
quốc gia với nhau
- Vàng thực hiện mọi chức năng của tiền tệ .
3.2 Chế độ tiền tệ Giê nơ - chế độ bản vị Bảng Anh (GBP)
Năm 1922 hội nghị tiền tệ- tài chính quốc tế được tổ chức tại thành phố
Giê-nơ hình thành chế độ tiền tệ Giê-nơ với các nội dung cơ bản sau:
- Các nước thừa nhận vai trò đặc biệt quan trọng của đồng bảng Anh
(GBP) trong các quan hệ tiền tệ, thanh toán và tín dụng quốc tế.
- Việc sử dụng đồng bảng Anh trong thanh toán quốc tế về ngoại thương
và các quan hệ quốc tế khác không hạn chế, các nước muốn có bảng Anh thì
phải đổi vàng ra bảng Anh .
3.3 Chế độ tiền tệ Bretton-Woods: chế độ bản vị Dollar Mỹ (USD)

Tháng 7 năm 1944 hội nghị tiền tệ- tài chính quốc tế tại thành phố
Bretton-Woods của Mỹ được tiến hành nhằm thoả thuận thiết lập các quan hệ
11


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
tiền tệ - tài chích quốc tế mới cho thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai được
gọi là chế độ tiền tệ Bretton-Woods, với nội dung chủ yếu như sau:
- Thừa nhận Dollar Mỹ (USD) là đồng tiền chuẩn được sử dụng làm
phương tiện dự trữ và thanh toán quốc tế chủ yếu trong các quan hệ tiền tệ,
thanh toán.
- Việc sử dụng USD trong thanh toán quốc tế về ngoại thương và các
quan hệ đối ngoại khác không hạn chế, các đồng tiền của các quốc gia khác phải
liên hệ mật thiết với USD theo tỷ giá cố định.
- USD được tự do chuyển đổi ra vàng theo giá 35 USD = 1 ounce =
31,1035 gram vàng .
- Thiết lập Quỹ tiền tệ quốc tế (International Moneytary Fund IMF) và ngân
hàng khôi phục và phát triển quốc tế (international Bank for Reconstruction and
Development- IBRD).
3.4 Chế độ tiền tệ Gia mai ca- chế độ bản vị Special Drawing Right (SDR)
Chế độ bản vị Gia mai ca ra đời trên cơ sở hiệp định được ký kết giữa
các thành viên IMF tại Gia mai ca vào năm 1976 - 1978 gồm các nguyên tắc cơ
bản sau:
- Thừa nhận quyền rút vốn đặc biệt (Special Drawing Right- SDR) là cơ
sở của chế độ tiền tệ của các nước. SDR là đồng tiền ghi sổ và trở thành đơn vị
tiền tệ quốc tế mới.
- Các nước thành viên được tự do lựa chọn thi hành chế độ tỷ giá hối đoái
mà không cần sự can thiệp của IMF.
- Thực hiện phi tiền tệ hoá vai trò của vàng, không thừa nhận vàng là cơ

sở để xác định tỷ giá hối đoái của các đồng tiền của các quốc gia.
3.5 Chế độ tiền tệ châu Âu (đồng ECU)
Chế độ tiền tệ châu Âu là chế độ tiền tệ khu vực, nó được xây dựng trên
cơ sở hiệp định tiền tệ do các nước châu Âu ký kết vào tháng 3 năm 1979. Đồng
ECU là đơn vị tiền tệ chung của cộng đồng châu Âu và tồn tại dưới dạng bút tệ.
Đồng ECU có các chức năng tương tự như SDR, là hình thái tiền “ bút tệ.”
12


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
Ngày 1/1/1999 đồng tiền chung châu Âu với tên gọi mới là EURO đã
được ra đời thay thế cho đồng ECU của liên minh châu Âu trước đây. Sự ra đời của
đồng EURO sẽ tác động đến các quan hệ kinh tế tài chính quốc tế. Nó là một đơn vị
tính toán, một đồng tiền dự trữ và một công cụ đa dạng hoá kết cấu đầu tư tài chính
quốc tế.
4. Chế độ lưu thông tiền tệ Việt Nam
Giấy bạc ngân hàng Nhà nước Việt nam là tiền dấu hiệu, do NHNN Việt
nam độc quyền phát hành vào lưu thông.
Tiền của nước CHXHCNVN có tên gọi là đồng, ký hiệu quốc gia là “đ”,
ký hiệu quốc tế là ”VND”
Tiền Việt nam có nhiều mệnh giá khác nhau: 50đ, 100đ, ... tối đa hiện nay
là 500.000 đ. Cùng lưu thông với giấy bạc ngân hàng, hiện nay các loại tiền
mệnh giá 200đ, 500đ, 1000 đ, 2000đ và 5000 đ đựoc phát hành bằng tiền kim
loại.
- Theo luật pháp của nước CHXHCN Việt nam, giấy bạc ngân hàng Nhà
nước có quyền lưu thông trên toàn lãnh thổ Việt nam và được thanh toán không
hạn chế với mọi khoản trao đổi hàng hoá, dịch vụ.
Ở Việt nam hiện nay, tiền mặt được sử dụng phổ biến trong hầu hết các
gia đình của dân cư và một số doanh nghiệp, vì vậy làm cho tỷ trọng giấy bạc

ngân hàng trong tổng các phương tiện thanh toán là rất lớn. Tình trạng này
không những làm cho chi phí lưu thông tăng lên, mà còn làm cho giao dịch kinh
tế trở nên không an toàn, khó kiểm soát. Để khắc phục tình trạng này, NHNN
Việt nam quy định các biện pháp:
+ Quy định có tính cưỡng chế tồn quỹ tiền mặt đối với các doanh nghiệp
và cơ quan thuộc phạm vi kiểm soát của NHNN.
+ Các đơn vị có kế hoạch sử dụng tiền mặt. Ngân hàng thương mại cùng
kho bạc nhà nước kiểm soát các kế hoạch này.
+ Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển thanh toán không
dùng tiền mặt trong các giao dịch về hàng hoá-dịch vụ
13


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
+ Đưa vào lưu thông những phương tiện thanh toán hiện đại: Thẻ thanh
toán, tiền điện tử..., phù hợp với điều kiện kinh tế và trình độ dân cư.
III- Quy luật lưu thông tiền tệ
1- Nội dung của quy luật lưu thông tiền tệ
Số lượng tiền cần thiết thực hiện chức năng phương tiện lưu thông tỷ lệ
thuận với tổng giá cả hàng hoá trong lưu thông, tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông
bình quân của tiền tệ trong một đơn vị thời gian
Kc

=

H
V

=


P.Q
V

Trong đó:
Kc: Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông
H: Tổng giá cả hàng hoá trong lưu thông
V: Tốc độ lưu thông bình quân của tiền
P: Giá cả bình quân của hàng hoá trong lưu thông
Q: Khối lượng hàng hoá trong lưu thông
V: Tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ
“ Tốc độ lưu thông của tiền tệ là một đại lượng chỉ rõ trong một thời gian
nhất định một đơn vị tiền tệ thực hiện được bao nhiêu lần chức năng phương
tiện lưu thông”.
Như vậy, số lượng tiền cần thiết trong lưu thông tỷ lệ thuận với tổng giá
cả hàng hoá trong lưu thông, tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông bình quân của
tiền tệ trong một thời gian nhất định.
Trong nền kinh tế thị trường, khối lượng hàng hoá bán chịu ngày càng
cao, làm cho khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông tại một thời điểm nào đó
cũng chịu ảnh hưởng của quan hệ bán chịu trên. Cụ thể:

Kc

=

H - HBC + Ht - Hb
V

Trong đó:
H Tổng giá cả hàng hoá trong lưu thông

14


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
HBC Tổng giá cả hàng hoá bán chịu
Ht Tổng giá cả hàng hoá đến hạn thanh toán
Hb Tổng giá cả hàng hoá được thực hiện bằng thanh toán bù trừ
2. Cung - Cầu tiền tệ
2.1 Cầu tiền tệ và các nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền tệ
* Cầu tiền tệ
Cầu tiền tệ: Là tổng cầu giao dịch, tích luỹ, dự phòng của các tác nhân và
thể nhân trong nền kinh tế.
Cơ cấu cầu tiền tệ bao gồm:
- Cầu giao dịch: Nhu cầu giao dịch của các tác nhân và thể nhân về hàng
hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ…
- Cầu tích luỹ: ngoài nhu cầu giao dịch thường xuyên, các tác nhân, dân
cư… còn phải tích luỹ một phần giá trị để tiêu dùng cho tương lai: mua sắm tài
sản, học tập …Cầu tích luỹ phụ thuộc vào thu nhập và mục đích sử dụng tiền.
Nếu thu nhập càng cao, mục đích sử dụng tiền càng cấp bách thì tích luỹ càng
nhiều.
- Cầu dự phòng
Trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động về giá cả, lãi suất, thu
nhập…thì dự phòng một khoản tiền là cần thiết với doanh nghiệp và dân cư. Dự
phòng bao gồm:
+ Dự phòng chi thường xuyên: đây là những khoản chi thường xuyên cho
nhu cầu cá nhân, buộc mọi người phải có dự phòng một khoản tiền tối thiểu. Số
lượng tiền dự phòng chi thường xuyên phụ thuộc vào mức thu nhập của các tác
nhân.
+ Dự phòng chi cho rủi ro: thiên tai, dịch bệnh, ốm đau, giá cả, lãi suất….

Tất cả những nhu cầu trên về tiền tệ hợp thành tổng cầu tiền trong nền
kinh tế quốc dân trong một thời kỳ nhất định.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền tệ:
- Lãi suất tiền gửi
15


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
Lãi suất tiền gửi có tác động trực tiếp đến tổng cầu tiền cho giao dịch.
Nếu lãi suất tiền gửi tăng sẽ thu hút được các doanh nghiệp và dân cư gửi tiền
vào các tổ chức tín dụng, ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất tăng sẽ giảm mức cầu
tiền trong nền kinh tế do nhu cầu vay vốn giảm; Ngược lại, lãi suất huy động
giảm thì các tổ chức, cá nhân sẽ ít gửi tiền, trong khi đó nhu cầu vay vốn của các
doanh nghiệp tăng làm cho tổng cầu tiền tăng.
- Giá trị các khoản giao dịch
Nếu số lượng và số lần giao dịch trong kỳ là cố định thì giá trị các khoản
giao dịch sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mức cầu tiền. Giả định giá cả hàng hoá
tăng gấp đôi thì cầu tiền tăng tương ứng và ngược lại.
- Thu nhập của dân cư
Thu nhập của dân cư tăng thì nhu cầu tích luỹ tăng dần đến mức cầu tiền
tăng.
- Sự ổn định của nền kinh tế và hệ thống chính trị
Nếu nền kinh tế phát triển và hệ thống chính trị ổn định mức cầu tiền sẽ
tăng và ngược lại.
2.2 Cung tiền tệ và các nhân tố ảnh hưởng đến cung tiền tệ
* Cung tiền tệ
Cung tiền tệ là việc tạo ra và đưa vào lưu thông tổng các phương tiện
đóng vai trò tiền để áp dụng nhu cầu sử dụng tiền trong nền kinh tế.
Khối lượng tiền trong nền kinh tế được cung ứng từ các tác nhân sau:

- Ngân hàng Nhà nước ( NHNN )
Ngân hàng Nhà nước độc quyền phát hành tiền ( giấy bạc ngân hàng và
các phương tiện thanh toán khác) vào lưu thông qua các nghiệp vụ:
+ Tái chiết khấu và tái cầm cố các thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi và
các chứng từ có giá khác của các tổ chức tín dụng. Khi thực hiện các nghiệp vụ
tái chiết khấu, tái cầm cố thương phiếu, các chứng từ có giá... và ứng tiền cho
NSNN, ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện nghiệp vụ chi. Khi đến hạn thanh toán
của thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi, NHNN sẽ thực hiện nghiệp vụ thu.
16


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
Nghiệp vụ chi làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông, còn nghiệp vụ thu thì
làm giảm khối lượng tiền trong lưu thông.
+ Ngân hàng Nhà nước ứng tiền cho ngân sách Nhà nước nhằm đáp ứng
nhu cầu chi thường xuyên hoặc cho Nhà nước vay trong trường hợp bội chi ngân
sách.
+ Mua chứng khoán chính phủ trong nghiệp vụ thị trường mở.
+ Mua vàng, ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
- Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác
Các tác nhân này không trực tiếp cung ứng tiền mặt ra lưu thông mà
chúng chỉ tạo tiền bút tệ thông qua các nghiệp vụ:
+ Cho khách hàng vay quá nguồn vốn của mình. Số cho vay vượt quá
mức vốn hiện có của ngân hàng là số tiền không có thực, nó được ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng cho vay dưới hình thức chiết khấu, cầm cố
các thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi và các chứng từ có giá khác.... Tổng
hợp lại, tại một thời điểm nào đó, tổng giá trị các khoản cho vay này có thể lớn
hơn nguồn vốn hiện có của NHTM.
+ Cho khách hàng thấu chi

Là sự cho phép của ngân hàng để khách hàng được phép chi vượt quá số
dư hiện có trên tài khoản tiền gửi của mình tại ngân hàng với một hạn mức và
trong một thời gian nhất định.
+ Phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các phương tiện thanh toán
khác...theo quy chế tài chính.
- Các tổ chức phi ngân hàng: Cung ứng tiền cho nền kinh tế thông qua
những phương tiện chuyển tải giá trị như:
+ Chính phủ phát hành công trái: trái phiếu công trình,tín phiếu kho bạc
+ Các tác nhân mở tài khoản tại hệ thống NHTM
* Các nhân tố ảnh hưởng đến mức cung tiền tệ
Mức cung tiền tệ trong nền kinh tế do ngân hàng Nhà nước quyết định
thông qua chính sách tiền tệ.
17


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
-Khi ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thì mức
cung tiền sẽ giảm.
- Khi ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng thì mức
cung tiền tệ sẽ tăng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quy định chính sách tiền tệ của ngân hàng
Nhà nước bao gồm:
./ Chỉ số trượt giá và tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế.
./ Tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự ổn định chính trị của quốc gia.
./ Mức độ thâm hụt ngân sách
./ Mức độ thâm hụt cán cân thanh toán.
3. Vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ.
Từ công thức:
H


P. Q

Kc =

=
V

V

Như vậy Kc chịu sự tác động bởi ba yếu tố:
- Khối lượng hàng hoá, dịch vụ sản xuất và cung cấp (Q)
Theo công thức trên chỉ khi nào có một hàng hoá hoặc dịch vụ được cung
cấp thì cần một lượng tiền tương ứng. Tuy nhiên, trong thực tế, khi các nhà đầu
tư tiến hành các hoạt động mua sắm máy móc, thiết bị dự trữ nguyên vật
liệu….thì đã cần một lượng tiền nhất định. Nếu vận dụng quy luật lưu thông tiền
tệ một cách máy móc thì rễ bỏ qua các cơ hội đầu tư. Vận dụng quy luật lưu
thông tiền tệ một cách sáng tạo ta thấy rằng khi nhà đầu tư tiến hành hoạt động
sản xuất kinh doanh thì cầu tiền tệ phát sinh. Để đáp ứng nhu cầu này hệ thống
ngân hàng có thể cung ứng cho các nhà đầu tư mặc dù lúc này chưa có sản phẩm
hàng hoá. Như vậy, cầu tiền tệ chịu tác động của các yếu tố giao dịch, mua bán
phát sinh trong nền kinh tế thị trường chứ không hoàn toàn phụ thuộc vào khối
lượng hàng hoá thực có trong nền kinh tế.
18


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
- Giá cả hàng hoá - dịch vụ (P )
Khi nhu cầu mua sắm, đầu tư của người tiêu dùng và nhà đầu tư được

thực hiện mà sản lượng hàng hoá không tăng lên, nghĩa là cầu tăng nhưng cung
không tăng làm giá cả hàng hoá tăng. Lúc này nếu hạn chế cung tiền để hạn chế
sự gia tăng của của giá cả thì kéo theo hạn chế đầu tư phát triển sản xuất. Hậu
quả sẽ làm lượng hàng hoá càng khan hiếm dẫn đến giá cả hàng hoá tăng. Vì
vậy, vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ một cách linh hoạt cần nhận thức: Khi
nền kinh tế đang tăng trưởng ổn định, khi giá cả gia tăng thì vẫn phải cung ứng
thêm tiền nhằm đáp ứng cầu tiền tệ; đây là biện pháp dùng lạm phát để chống
lạm phát trong điều kiện lạm phát vừa phải.
- Tốc độ lưu thông của tiền tệ (V )
Kc tỷ lệ nghịch với V. Nghĩa là, trong điều kiện sản lượng hàng hoá sản
xuất không tăng nhưng tốc độ lưu thông tiền tệ tăng nhanh thì sẽ làm cho khối
lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông giảm xuống và ngược lại. Tuy nhiên, vận
dụng quy luật lưu thông tiền tệ trong điều kiện kinh tế tăng trưởng ổn định mà
tốc độ lưu thông tiền tệ càng tăng thì hoạt động của nền kinh tế càng sôi động,
khả năng tạo thêm hàng hoá càng cao nên tự nó có thể cân đối được với khối
lượng tiền đang lưu thông; Do vậy, không cần phải hạn chế lượng tiền cung ứng
cho lưu thông. Mặt khác tốc độ lưu thông tiền tệ tăng trong điều kiện kinh tế
phát triển là một dấu hiệu tốt của nền kinh tế.
4. Các khối tiền trong lưu thông
4.1 Khối lượng tiền trong lưu thông ( Ms )
Khối lượng tiền trong lưu thông là tất cả các phương tiện được chấp nhận
làm trung gian trao đổi với mọi hàng hoá, dịch vụ tại một thị trường nhất định và
trong một thời gian nhất định.
Căn cứ vào khả năng chuyển đổi của các phương tiện thành hàng hoá
“tính lỏng” của các phương tiện trong trao đổi. Khối lượng tiền trong lưu thông
bao gồm các bộ phận sau:

19



Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
- Khối lượng tiền trong giao dịch ( M1): là những phương tiện có “ tính
lỏng" cao nhất trong lưu thông, bao gồm:
+ Tiền mặt (giấy bạc ngân hàng và tiền đúc);
+ Ngoại tệ tự do chuyển đổi;
+Vàng;
+ Séc các loại;
+ Các chứng từ có giá có khả năng thanh toán;
+ Tiền gửi không kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng.
- Khối tiền mở rộng (M2): Bao gồm khối lượng tiền M1 và các loại tiền
gửi có kỳ hạn.
M2 = M1 + Tiền gửi có kỳ hạn.
- Khối tiền tài sản (M3): Bao gồm khối tiền M2 và những phương tiện có
“tính lỏng” thấp như:
+ Thương phiếu
+ Tín phiếu kho bạc
+ Cổ phiếu, trái phiếu.
M3 = M2 + Các phương tiện có “ tính lỏng” thấp.
Nếu gọi Ms là tổng khối lượng tiền trong lưu thông
Ms = M3 + Các phương tiện trao đổi khác
4.2. Khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông (Kc)
Là khối lượng tiền đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hoá, dịch vụ của nền
kinh tế quốc dân trong một thời kỳ nhất định.
Kc phụ thuộc vào hai yếu tố: Tổng mức lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ
(P.Q ) và tốc độ lưu thông bình quân của đồng tiền cùng loại (V) trong một thời
kỳ.
Quy luật lưu thông tiền tệ, chủ yếu là quy luật về cân bằng tiền - hàng
được thể hiện qua mối quan hệ giữa Ms và Kc:
- Nếu :


20


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
Ms
Kc

=

1

Tiền hàng cân đối. Đây là mức độ lý tưởng của quản lý kinh tế vĩ mô và
vi mô
- Nếu :
Ms
1


Kc

Hiện tượng thiểu phát, hàng hoá chậm tiêu thụ vì thiếu phương tiện lưu thông.

- Nếu :
Ms
Kc

1




Hiện tượng lạm phát: Lượng tiền trong lưu thông lớn hơn lượng tiền cần thiết
trong lưu thông.
Để xác định quan hệ trên, các nhà kinh tế dựa vào tín hiệu thị trường: giá
cả hàng hoá, tỷ giá hối đoái, giá vàng….
IV- Lạm phát, thiểu phát và các biện pháp ổn định tiền tệ
1. Lạm phát
1.1 Khái niệm
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế, trong đó lượng giấy bạc đưa vào lưu
thông vượt quá nhu cầu cần thiết, làm cho chúng bị mất giá, dẫn đến giá cả cả
của hầu hết các hàng hoá trong lưu thông không ngừng tăng lên.
1.2 Phân loại lạm phát
* Căn cứ vào cường độ lạm phát
- Lạm phát vừa phải
Là lạm phát mà giá cả hàng hoá tăng chậm ở mức một con số (dưới 10%/
một năm). Đây là lạm phát tích cực, Chính phủ thường duy trì mức lạm phát này
để khuyến khích sản xuất và chi tiêu trong dân cư.
21


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
- Lạm phát phi mã
Là lạm phát khi mà giá cả hàng hoá tăng ở mức hai hoặc ba con số
(20%; 100% ; 200%/ năm). Lạm phát này ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
- Siêu lạm phát: là loại lạm phát mà giá cả hàng hoá tăng gấp nhiều lần so
với lạm phát phi mã. Siêu lạm phát ảnh hưởng trầm trọng đến nền kinh tế.
1.3 Cách tính lạm phát:
Gpt


=

CPt - CPo
CPo

x

100

Trong đó:
Gpt : Tỷ lệ lạm phát tại thời điểm t
CPt : Chỉ số giá của lô hàng hoá tại thời điểm t
CPo : Chỉ số giá của lô hàng hoá tại thời điểm lấy làm gốc
Lô hàng hoá là những hàng hoá tiêu dùng phổ biến được chọn làm cơ sở
nghiên cứu (ở Mỹ chọn 256 nhóm hàng hoá tiêu dùng thường xuyên ở 85 thành
phố để tìm chỉ số giá; ở Việt nam chọn 396 mặt hàng ở khu vực trọng điểm của
cả nước chia thành 10 nhóm: ăn uống và dịch vụ, đồ uống và thuốc lá, may mặc,
nhà ở và vật liệu xây dựng, thiết bị và đồ dùng gia đình, dược phẩm và dịch vụ y
tế, phương tiện đi lại và dịch vụ vận tải, văn phòng và dịch vụ giáo dục, văn hoá
TDTT, các loại khác làm cơ sở để tính chỉ số giá)
+ Nếu G pt = 0: không có lạm phát
+ Nếu G pt  0: lạm phát
+ Nếu G pt  0: giảm phát
1.4 Nguyên nhân của lạm phát
- Do chính sách của nhà nước như:
+ Nhà nước phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách mà không sử
dụng các hình thức khác.
+ Chính sách thuế chưa hợp lý không khuyến khích sản xuất phát triển,
công tác kiểm soát thu thuế kém hiệu quả.

+ Tăng lương vượt quá mức tăng năng suất lao động
22


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
+ Chính sách phát triển cơ cấu kinh tế không phù hợp, không khuyến
khích phát triển các ngành có chi phí cao (khai thác, khoa học , tri thức…)
- Thực trạng nền kinh tế: Nền kinh tế kém phát triển, sản xuất kinh doanh
kém hiệu quả cung không đủ cầu.
- Những nguyên nhân liên quan đến điều kiện quốc tế như: khủng hoảng
tài chính - tiền tệ khu vực và thế giới; chiến tranh xảy ra….
- Những nguyên nhân liên quan đến điều kiện tự nhiên như thiên tai,
dịch bệnh…
- Những nguyên nhân liên quan đến tình hình chính trị: do khủng hoảng hệ
thống chính trị làm cho việc điều hành sản xuất không được quan tâm và điều cốt
lõi là dân chúng không tín nhiệm vào đồng tiền pháp định của Nhà nước.
1.5- Ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế - xã hội
Tuỳ theo mức độ lạm phát khác nhau mà ảnh hưởng của nó đối với nền
kinh tế cũng khác nhau.
- Lạm phát vừa phải, tạo nên sự chênh lệch giá hàng hoá, dịch vụ giữa các
vùng làm cho thương mại năng động hơn. Các doanh nghiệp vì thế sẽ gia tăng
sản xuất, đẩy mạnh cạnh tranh đưa ra thị trường nhiều hàng hoá có chất lượng
cao hơn. Lạm phát vừa phải làm cho đồng nội tệ mất giá nhẹ so với đồng ngoại
tệ; đây là lợi thế cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu tăng ngoại hối,
khuyến khích sản xuất trong nước phát triển. Nhìn chung lạm phát vừa phải có
tác động tích cực đến phát triển kinh tế – xã hội.
- Lạm phát phi mã và siêu lạm phát ảnh hưởng xấu đến các lĩnh vực sau:
+ Tiền tệ: Lạm phát làm cho tiền tệ không còn giữ được chức năng thước
đo giá trị, không tính toán được các chỉ tiêu hiệu quả của nền kinh tế. Người dân

không tin vào đồng tiền bản tệ nên tìm đến vàng, ngoại tệ để cất trữ không đưa
ra đầu tư, dẫn đến hoạt động tín dụng bị thu hẹp, hệ thống tín dụng - ngân hàng
rối loạn không kiểm soát được.
+ Tài chính kinh tế: lạm phát làm sản xuất bị thu hẹp, vì lợi nhuận của
doanh nghiệp giảm thấp do giá cả, vật tư tăng liên tục. Mặt khác, lạm phát làm
23


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
sản xuất phát triển không đồng đều, mất cân đối giữa các ngành vì vốn sẽ chạy
vào các ngành nào có lợi nhuận cao và thu hồi vốn nhanh.
+ Xã hội: Lạm phát làm giảm khối lượng hàng hoá tiêu dùng của dân cư,
đặc biệt đời sống của cán bộ công chức ngày càng khó khăn. Lạm phát thúc đẩy
phân hoá giàu nghèo, tăng thất nghiệp.
1.6- Biện pháp ổn định tiền tệ chống lạm phát
a- Biện pháp cấp bách (biện pháp tình thế)
Biện pháp này được áp dụng với mục đích giảm tức thời “ cơn sốt lạm
phát” để có cơ sở ổn định tiền tệ lâu dài. Các biện pháp đó là:
- Chính sách tiền tệ quốc gia
+ Ngừng phát hành tiền vào lưu thông
+ Tăng lãi suất tiền gửi nhằm thu hút tiền mặt từ dân cư vào hệ thống tín
dụng.
+ Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm hạn chế vốn tín dụng của các ngân
hàng thương mại.
+ Phát hành các loại trái phiếu ngân hàng Trung ương để thu hút tiền từ
các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp và dân cư.
- Chính sách tài chính quốc gia
+ Cắt giảm các khoản chi chưa cần thiết
+ Khuyến khích nhập khẩu hàng hoá để đưa vào thị trường trong nước các

mặt hàng đang thiếu nhằm tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng, cân đối cung cầu tiền
trong lưu thông.
+ Bán ngoại tệ và vàng để thu hút tiền từ lưu thông.
+ Phát hành trái phiếu Chính phủ để vay nợ dân cư, các tổ chức kinh tế – xã
hội.
+ Vay nợ nước ngoài để bù đắp thiếu hụt ngân sách.
b- Biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài.
- Xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển hàng hoá trong nước nhằm tăng
quỹ hàng hoá tiêu dùng.
24


Giáo trình Lý thuyết tiền tệ tín dụng
Nguyễn Sơn Ngọc Minh
- Tạo ngành sản xuất “ mũi nhọn” cho xuất khẩu nhằm thu hút ngoại tệ,
nhập khẩu các hàng hoá trong nước còn thiếu.
- Tinh giảm biên chế bộ máy hành chính, rà soát lại các khoản chi tiêu
ngân sách, cắt giảm các khoản chi tiêu chưa cần thiết.
- Xây dựng chính sách thuế hợp lý, quản lý chặt chẽ các khoản thu, chi.
- Dùng lạm phát để chống lạm phát nghĩa là tăng vốn đầu tư ở mức hợp lý
( mức lạm phát vừa phải ) nhằm tăng hiệu quả các dự án đầu tư.
2.Giảm phát và thiểu phát
2.1 Khái niệm
Thiểu phát là việc đưa tiền vào lưu thông số tiền nhỏ hơn mức cần thiết
cho sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Lạm phát
Giảm phát
Lạm phát = 0

Thiếu phát

2.2. Nguyên nhân của thiểu phát
- Do việc thắt chặt cung ứng nội tệ và tăng lãi suất để thu hút tiền thừa
ngoài lưu thông nhưng quá mức khối lượng tiền thừa.
- Hàng hoá sản xuất trong nước tăng nhanh nhưng chất lượng hàng hoá
hạn chế dẫn đến tình trạng thừa so với nhu cầu.
- Thu nhập của người tiêu dùng giảm do mức thuế tăng, thất nghiệp tăng.
- Do nguyên nhân từ bên ngoài: Tình trạng phá giá ngoại tệ của một số
quốc gia, xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng. Từ đó làm giảm giá cả những hàng
hoá nhập khẩu và sản xuất trong nước.
2.3. Hậu quả của thiểu phát
-Việc tiêu thụ hàng hoá chậm do thiếu phương tiện lưu thông làm cho sản
xuất, lưu thông bị ngừng trệ.
25


×