Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tiểu luận lý thuyết tài chính tiền tệ tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.73 KB, 23 trang )

Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN

TIỂU LUẬN MÔN
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ
Đề tài số 04:

Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa
lạm phát và tỷ giá hối đoái

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn
NHÓM: 16

STT

Chữ ký SV

1. Trần Thị Thanh Loan

68

..………………

2. Lê Trần Hạnh

27


..………………

3. Nguyễn Thanh Huyền

47

..………………

4. Lê Thị Phương Thảo

124

..………………

TP. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2012

Page 1


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

Trong đời sống hàng ngày, lạm phát là một trong những vấn đề của kinh
tế học vĩ mô. Nó đã trở thành mối quan tâm lớn của các nhà chính trị và của
toàn công chúng. Lạm phát đã được đề cập rất nhiều trong các công trình nghiên
cứu của các nhà kinh tế. Lạm phát là một phạm trù kinh tế khách quan, là vấn
đề của mọi thời đại, mọi nện kinh tế tiền tệ. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế
tiền tệ thì còn xảy ra lạm phát, người ta chỉ có thể kiềm chế mức độ lạm phát
sao cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế mà ít gây ra những hậu quả tai

hại. Xong để có thể kiềm chế lạm phát là điều không hề đơn giản và đó là bài
toán nan giải của rất nhiều nước trên thế giới hiện nay.
Tăng trưởng kinh tế bền vững và ổn định lạm phát ở mức thấp đó là mục
tiêu hàng đầu của điều tiết vĩ mô ở tất cả các nước. Không có gì đáng ngạc
nhiên khi câu hỏi có sự tồn tại và bản chất của mối quan hệ của lạm phát và các
yếu tố khác trong đó có yếu tố về tỷ giá hối đoái đã được các nhà kinh tế hoạch
định chính sách đặc biệt quan tâm và trở thành trung tâm của nhiều cuộc tranh
luận về chính sách.
Chính vì những tác hại to lớn do lạm phát gây ra cho nền kinh tế mà việc
nghiên cứu lạm phát là một vấn đề cần thiết và cấp bách đối với nền kinh tế đặc
biệt là nền kinh tế thị trường còn non nớt như nền kinh tế nước ta. Chúng ta cần
phải tìm hiểu xem lạm phát là gì? Do đâu ma có lạm phát? Tại sao người ta lại
quan tâm đến lạm phát? Hay tỷ giá hối đoái là gì? Mối quan hệ giữa lạm phát và
tỷ giá hối đoái là như thế nào?
Bài tiểu luận sẽ điểm lại một cách có hệ thống các lý thuyết, các bằng
chứng thực nghiệm về lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái
để qua đó đưa ra cái nhìn khách quan về các nghiên cứu của đề tài trên .

Page 2


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

Chương I
Một số vấn đề lý luận về lạm phát, tỷ giá hối đoái và mối quan hệ giữa
lạm phát và tỷ giá hối đoái
I. Các vấn đề của lạm phát
1. Lạm phát là gì?

Nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ lạm phát
(inflation), nhưng nói chung chưa có một sự thống nhất hoàn toàn. Quan điểm
cổ điển cho rằng lạm phát xảy ra khi số tiền lưu hành vượt quá dự trữ vàng làm
đảm bảo của ngân hàng phát hành. Cụ thể người ta dự vào tỷ lệ đảm bảo của
tiền tệ để xem xét có lạm phát hay không. Chẳng hạn nếu pháp luật ấn định rằng
tỷ lệ đảm bảo tối thiểu của tiền tệ 40%, khi tỷ lệ đó xuống dưới mức pháp định
tức là ngân hàng đã phát hành tiền quá mức. Quan điểm này coi trọng cơ sở đảm
bảo của tiền. Trong thực tế, có những trường hợp tỷ lệ đảm bảo pháp định vẫn
được tôn trọng nhưng giá cả của hàng hóa đều lên cao. Nước Đức năm 1934 đã
tránh được nạn lạm phát mặc dù tỷ lệ đảm bảo của đồng Mark xuống dưới 2%.
Quan điểm khác cho rằng lạm phát là sự mất cân đối giữa tiền và hàng
trong nền kinh tế. Có thể tóm tắt trong phương trình Fisher: M.V=P.Y. Nếu tổng
khối lượng tiền lưu hành (M) tăng thêm trong khi tổng lượng hàng hóa - dịch vụ
được trao đổi (Y) giữ vững, tất nhiên mức giá trung bình (P) phải tăng. Và nếu
thêm vào đó tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tăng thì P lại tăng rất nhanh. Để khắc
phục tình trạng này cần dùng biện pháp thích hợp để thiết lập lại cân đối giữa
tiền và hàng trong nền kinh tế.
Quan điểm tĩnh về lạm phát nêu trên tuy giúp ta hiểu rõ về lạm phát,
nhưng không cho biết nguyên nhân của lạm phát và khiến cho ta lầm tưởng lạm
phát cao là kết quả của việc tăng trưởng mức cung tiền tệ cao. Thật ra trong
nhiều trường hợp không hẳn là như vậy, nhà nước có thể tăng cung ứng tiền tệ
mà không làm cho giá cả tăng, không gây ra lạm phát, nếu như khối lượng tăng
đó phù hợp với khối tiền cần thiết cho lưu thông, đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế.
Page 3


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn


Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng giá của các loại hàng hóa
(tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất và hàng hóa sức lao động). Lạm phát xảy ra
khi mức chung của giá cả và chi phí tăng. Theo quan điểm này thì giá cả tăng
lên cho dù bất kỳ nguyên nhân nào đều là lạm phát. Lạm phát và giá cả tăng đều
cùng một ý nghĩa. Thật ra giá cả đồng loạt tăng lên chỉ là một trong những biểu
hiện cơ bản của lạm phát mà thôi.
Vậy lạm phát là gì? Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá
nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các lại hàng hóa
tăng lên đồng loạt.
2. Phân loại lạm phát
- Lạm phát 1 con s ố (dưới 10%): lạm phát vừa phải. Lạm phát ở mức độ
này không gây ra những tác động đáng kể đối với nền kinh tế.
- Lạm phát 2 con s ố (từ 10% đến dưới 100%): lạm phát phi mã. Loại này
khi phát triển chín mùi sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
- Lạm phát 4 con s ố trở lên (từ 100% trở lên): siêu lạm phát. Lạm phát mức
độ này thường xảy ra những thiệt hại nghiêm trọng và sâu sắc, tuy nhiên
chúng cũng ít khi xảy ra.
3. Nguyên nhân gây ra lạm phát
Lạm phát khởi thủy từ những nguyên nhân khác nhau. Thứ nhất là lạm
phát có thể xảy ra do tác động chủ quan của hệ thống tiền tệ - tín dụng - ngân
hàng, bất cứ một sự biến đổi nhỏ nào của hệ thống này đều có tác động hoặc
tăng hoặc giảm tỷ lệ lạm phát. Thứ hai là lạm phát cũng chịu ảnh hưởng của
một số điều kiện khách quan khác như chính trị xã hội, thiên tai bão lũ, … Do
chịu tác động của nhiều yếu tố trong nền kinh tế như vậy nên hiện tượng lạm
phát diễn biến hết sức phức tạp đòi hỏi trong quá trình tăng trưởng và chống
lạm phát phải có chiến lược đúng đắn đảm bảo lạm phát luôn nằm trong quỹ đạo
mà nền kinh tế có thể kiểm soát được. Lạm phát xuất hiện cũng gây ra nhiều
hậu quả đến nền kinh tế , nó không nững làm suy giảm hiệu quả hoạt đọng của
hệ thống tài chính mà còn tác động trực tiếp đến đời sống chính trị, văn hóa, xã

hội và sinh hoạt bình thường của người dân. Bằng chứng là cuộc khủng hoảng ở
Page 4


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

Đức xảy ra dữ dội vào những năm đầu thế kỷ, ở các nước phát triển những năm
70 và mới đây là ở nước Nga. Đặc biệt là hậu quả lạm phát rất trầm trọng ở các
nước đang phát triển chưa đủ sức hạn chế có hiệu quả sự lây lan của lạm phát
… Những điều đó đòi hỏi mỗi quốc gia không chỉ riêng nước ta cần có chính
sách chống lạm phát để hạn chế bớt những thiệt hại do hiện tượng này gây ra
cho nền kinh tế. Vấn đề đặt ra cấp thiết là cần phải lý giải xác đáng lạm phát
xảy ra và diễn biến như thế nào? Và cần có những biện pháp gì để chống lạm
phát. Nếu giải quyết tốt vấn đề đó thì chúng ta mới có cơ sở vững chắc hợp
logic để tiến tới thành công trong việc phát triển kinh tế.
Lạm phát là sự tăng lên của giá cả trung bình trong một thời kì bởi nhiều
nguyên nhân hoặc do các yếu tố chủ quan của các cấp quản lý kinh tế hoặc do
những điều kiện chính trị, xã hội, … gây ra. Và có thể giải thích quy về những
cách sau đây:
1. Theo thuyết tiền tệ lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức
cung tiền mà.
2. Theo trường phái Keynes lạm phát có thể xảy ra do dư cầu về hàng hóa
trong nền kinh tế.
3. Theo thuyết chi phí đẩy lạm phát xảy ra do tăng chi phí sản xuất.
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những luận điểm lý thuyết mang tính tương
đối còn trong thực tế lạm phát xảy ra thường là kết quả tổng hợp của nhiều yếu
tố ở những khía cạnh khác nhau của nền kinh tế.
II. Những vấn đề lý luận chung về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối

đoái
Tỷ giá hối đoái không chỉ tác động đến những cân bằng bên ngoài mà còn
tác động đến cả những cân đối bên trong nền kinh tế. Đây được coi là cơ sở cho
việc lựa chọn chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay được các chính phủ các nước
rất quan tâm, chú trọng.
1. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một quốc gia tính
bằng tiền tệ của một nước khác, hay là quan hệ so sánh về mặt giá cả giữa hai
Page 5


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

đồng tiền của các quốc gia khác nhau. Nó là một phạm trù kinh tế bắt buộc từ
nhu cầu trao đổi hàng hóa, dịch vụ phát sinh trực tiếp từ quan hệ tiền tệ giữa các
quốc gia. Về cơ bản, phân tích vấn đề tỷ giá cần tập trung chú trọng vào hai vấn
đề cơ bản sau: các nhân tố tác động đến sự biến động của tỷ giá hối đoái và các
chế độ tỷ giá hối đoái.
2. Các nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái
Ngày nay, tỷ giá hối đoái biến động rất thường xuyên và thất thường. Sự
tăng hay giảm của tỷ giá hối đoái chịu ảnh hưởng rất nhiều của các nhân tố khác
nhau, trong đó chia ra lam 2 dạng là: nhân tố cơ bản làm thay đổi tỷ giá hối đoái
ngắn hạn và nhân tố dài hạn.
- Những nhân tố cơ bản làm thay đổi tỷ giá hối đoái dài hạn: mức giá
tương đối, chính sách bảo hộ, sở thích của người tiêu dung và năng suất
lao động.
- Những nhân tố cơ bản làm thay đổi tỷ giá hối đoái ngắn hạn: mức chênh
lệch lạm phát, những dự đoán về tỷ giá hối đoái.

3. Các dạng chế độ tỷ giá hối đoái
 Các chế độ cố định cơ bản : tỷ giá ngắn
- Vào một đồng tiền: nền kinh tế gắn đồng tiền của mình vào những đồng
tiền quốc tế chủ chốt mà không hoặc rất hiếm khi điều chỉnh giá trị so
sánh của chúng; các nền kinh tế thường công bố trước lịch điều chỉnh tỷ
giá của đồng tiền nước mình s o với đồng tiền mà nó gắn vào theo mức độ
cố định.
- Vào một rổ các loại đồng tiền: các nước gắn đồng tiền mình vào một rổ
đồng tiền giao dịch chính hoặc hỗn hợp các đồng tiền tiêu chuẩn.
- Trong khoảng chênh lệch xác định trước: các nước gắn đồng tiền mình
vào đồng tiền khác hoặc rổ đồng tiền trong khoảng chênh lệch nhất định.
- Cố định nhưng có điều chỉnh: biên độ khoảng+-2%.
 Các chế độ linh hoạt cơ bản: tỷ giá có điều chỉnh và linh hoạt.
- Theo các chỉ số: nền kinh tế tự động điều chỉnh đồng tiền của mình theo
sự thay đổi trong các chỉ số cho trước.
Page 6


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

- Thả nổi có kiểm soát: các nước thường xuyên điều chỉnh tỷ giá hiện nay
trên cơ sở đánh giá diễn biến của các biến số như tình hình dự trữ và
thanh toán.
- Thả nổi tự do: các nước cho phép thị trường và các lực lượng thị trường
quyết định tỷ giá đồng tiền của mình.
4. Chính sách tỷ giá hối đoái
Chính sách tỷ giá hối đoái là một hệ thống các công cụ được dung để tác
động tới quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trườn ngoại hối, từ đó giúp điều

chỉnh tỷ giá hối đoái đặt tới mục tiêu cần thiết. Về cơ bản, chính sách tỷ giá hối
đoái gồm hai vấn đề lớn: một là vấn đề lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái và hai là
vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
III. Những vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá
hối đoái
Đồng tiền ổn định và tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng trong chính
sách tiền tệ, ổn định và phát triển kinh tế, nó là mục tiêu của chính sách kinh tế
mà mọi quốc gia đều hướng tới. Đồng tiền ổn định và tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ
tạo điều kiện cho sự duy trì, mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế trong
và ngoài nước, giúp cho nền kinh tế có điều kiện hội nhập khu vực và thế giới
ngày càng mạnh mẽ hơn.
Tỷ giá hối đoái chọi tác động của nhiều nhân tố, trong đó hai nhân tố
quan trọng nhất là sức mua của đồng tiền và tương quan cung cầu ngoại tế. Khi
lạm phát tăng, sức mua đồng nội tệ giảm so với đồng ngoại tệ, làm cho tỷ giá
hối đoái của đồng ngoại tệ so với đồng nội tệ tăng (hay tỷ giá đồng nội tệ so với
ngoại tệ giảm) và ngược lại. Nếu đồng nội tệ giảm, tỷ giá hối đoái cao có tác
dụng:
- Kích thích các hoạt động xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, góp phần tăng
thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán.
- Với tỷ giá hối đoái cao sẽ khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối, hạn chế
các hoạt động chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, kết quả là làm cho sức mua
của đồng nội tệ tăng lên.
Page 7


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

- Tỷ giá hối đoái cao cũng khuyến khích các hoạt động du lịch vào trong

nước, làm cho quan hệ cung cầu về ngoại tệ bớt căng thẳng.
Những tác động tích cực trên đây chỉ có thể có được khi tỷ lệ lạm phát
được kiềm chế ở mức độ hợp lý.
Khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái
không đổi, hàng hóa dịch vụ trong nước sẽ đắt hơn trên thị trường nước ngoài
trong khi hàng hóa dịch vụ nước ngoài sẽ lại rẻ hơn trên thị trường trong nước.
Theo quy luật cung cầu, cư dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại
nhiều hơn vì giá rẻ hơn, nhập khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng.
Tương tự vì tăng giá, cư dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt
động xuất khẩu giảm sút, cung ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ giá hối đoái
tăng. Như vậy, lạm phát ảnh hưởng tới cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng
giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trên thị
trường tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyền sang lắm
giữ các tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái
tăng. Trong trường hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác động trên sẽ
phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ
lạm phát cao hơn, đồng nội tệ của quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương đối và
tỷ giá hối đoái tăng.

Page 8


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

Chương II
Mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái ở Việt Nam
I. Các bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá
hối đoái

Ilan Goldfajn và Sergio R.C. Werlang (1998) trong một nghiên cứu thực
nghiệm về Cơ chế truyền dẫn từ sự sụt giảm tỷ giá đến lạm phát theo khung dữ
liệu bảng đã thấy rằng có mối quan hệ giữa sự sụt giảm tỷ giá hối đoái và lạm
phát. Bài nghiên cứu của 2 tác giả này sử dụng số liệu thu thập từ 71 quốc gia
trong giai đoạn 1980-1998. Bài nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các nhân tố chính
quyết định đến hệ số truyền dẫn từ sụt giảm (hoặc sự gia tăng) tỷ giá hối đoái
đến lạm phát bao gồm các yếu tố mang tính chu kỳ cấu thành đầu ra của nền
kinh tế, mức độ mở cửa kinh tế, mức độ định giá cao tỷ giá hối đoái thực ban
đầu (RER – Real Exchange rate), tỷ lệ lạm phát ban đầu (Initial inflation).
Trong bài nghiên cứu này, tác giả đã tìm ra hệ số truyền dẫn tăng khi thời gian
đo lường tăng lên và đạt đến đỉnh điểm tại thời điểm 12 tháng. Tác giả cũng chỉ
ra sự sai lệch trong việc đánh giá tỷ giá hối đoái thực là nhân tố quan trọng nhất
ảnh hưởng đến lạm phát tại các quốc gia thị trường mới nổi trong khi tỷ lệ lạm
phát ban đầu là nhân tố quan trọng nhất đối với các quốc gia phát triển. Bằng
cách sử dụng mô hình ước tính, bài nghiên cứu của hai tác giả này dự báo một
tỷ lệ lạm phát hơi cao hơn một chút so với thực tế quan sát được trong nhiều
trường hợp các quốc gia bị sụt giảm tỷ giá hối đoái mạnh, thậm chí ngay cả khi
có tính đến những phương pháp ước tính kỳ vọng tỷ giá hối đoái. Điều này cho
thấy rằng các nhà hoạch định chính sách nên thận trọng khi sử dụng các mô
hình trong quá khứ để dự báo tỷ lệ lạm phát sau khi tỷ giá hối đoái bị mất giá
mạnh.
A gnès Belaisch (2003), nghiên cứu Cơ chế truyền dẫn Tỷ giá hối đoái tại
Brazil. Ông kết luận rằng: (1) Sau 2 quý xảy ra cú shock về tỷ giá thì sẽ tác

Page 9


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn


động đến giá tiêu dùng (consumer prices), với tỷ lệ tương ứng là 6% sau 2 quý
và 17% sau 1 năm.
Năm 2006 Takatoshi Ito và Kiyotaka Sato (2006) đã thực hiện một
nghiên cứu về sự thay đổi tỷ giá và lạm phát trong giai đoạn khủng hoảng kinh
tế Châu Á (Exchage rate changes and Inflation in Post – Crisis Asian
Economies) bằng cách sử dụng mô hình VAR phân tích cơ chế truyền dẫn trong
tỷ giá (VA R Analysis of the Exchange Rate Pass – Through). Kết quả bài
nghiên cứu này cho thấy rằng (1) Hệ số truyền dẫn từ tỷ giá hối đoái tới giá
nhập khẩu (import price) là khá cao trong nền kinh tế khủng hoảng lớn; (2) Hệ
số truyền dẫn từ tỷ giá tới chỉ số giá tiêu dùng (CPI – Costumer Price Index) là
thấp. Điều này hàm ý rằng tỷ giá hối đoái tác động không lớn tới lạm phát của
các quốc gia Châu Á trong giai đoạn khủng hoảng;
Michele Ca’ Zorzi, Elke Hahn vàMarcelo Sánchez (2007) thực hiện
nghiên cứu về cơ chế truyền dẫn từ tỷ giá hối đoái trong các nền kinh tế mới nổi
(Exchange rate pass through in emerging market). Tác giả kiểm định trong 12
nền kinh tế mới nổi ở Châu Á, Mỹ Latin, Trung và Đông Âu. Bằng cách sử
dụng mô hình tự hồi quy vector (Vector A utoregressive Model) tác giả đã thấy
rằng: Hệ số truyền dẫn đến chỉ số giá CPI và nhập khẩu ở các quốc gia này cao
hơn với những nước có nền kinh tế phát triển; Ở các nền kinh tế mới nổi có lạm
phát ở mức một con số, hệ số truyền dẫn tới Chỉ số giá tiêu dùng CPI và nhập
khẩu là khá thấp và cũng không giống như các quốc gia có nền kinh tế đã phát
triển; Bài nghiên cứu cũng tìm ra được mối tương quan mạnh giữa tỷ giá hối
đoái và lạm phát.
Võ Văn Minh (2009) trong một nghiên cứu về cơ chế truyền dẫn của tỷ
giá hối đoái và tác động tới lạm phát Việt Nam (Exchang rate pass – through
and its implications for inflation in Vietnam) đã chỉ ra rằng: hệ số truyền dẫn tỷ
giá hối đoái trong năm đầu tiên là 0,61, hệ số này là tương đương với các nền
kinh tế giống Việt Nam; Bài viết cũng chỉ ra rằng sau cú shock về tỷ giá thì sau
5 đến 7 tháng sau mới tác động tới nhập khẩu; ngoài ra bài nghiên cứu còn cho

Page 10


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

thấy chỉ số giá tiêu dùng CPI (Costumer price index) sẽ bị tác động s au 10 tháng
khi xảy ra cú shock về tỷ giá. Và trong vòng 15 tháng kẻ từ lúc xảy ra cú shock
về tỷ giá thì sẽ không còn tác động đến Chỉ số giá tiều dùng CPI và giá nhập
khẩu (import price).
Ngoài ra còn có những bài nghiên cứu lớn về hệ số truyền dẫn từ giảm tỷ
giá hối đoái đến lạm phát (Dornbusch năm 1987, Feenstra et al 1994, 1989
Fisher, Goldberg và các cộng sự năm 1997, và Klein năm 1990). Ngoài ra còn
có một số công trình thực nghiệm về hệ số truyền dẫn cho quốc gia, khu vực cụ
thể (Amitrano và cộng sự năm 1997 và những người khác).
Theo một nghiên cứu về lạm phát trong tình trạng đô la hóa ở Việt Nam
của Michaël Goujon năm 2006 ( Fighting inflation in a dollarized economy: The
case of Vietnam. Journal of Comparative Economics 34 (2006) 564–581) thì có
ba kênh ảnh hưởng của thay đổi tỷ giá lên lạm phát:
Thứ nhất, thay đổi tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng lên giá hàng hóa xuất
khẩu (tradables) và hàng hóa sản xuất và tiêu dùng trong nước (non-tradables)
(thông qua nhập khẩu các yếu tố đầu vào chẳng hạn). Giới nghiên cứu gọi là
hai ảnh hưởng này của tỷ giá lên lạm phát là nhóm ảnh hưởng chuyển tỷ giá hối
đoái lên lạm phát (exchange rate pass – through)
Thứ hai, biến động của tý giá hối đoái có ảnh hưởng trực tiếp đến cung
tiền. Sự mất giá của đồng nội tệ sẽ gia tăng cung tiền do giá trị bằng nội tệ của
các tài sản neo theo ngoại tệ tăng cùng với sự phá giá đồng tiền. Nói cách khác,
biến động tỷ giá ảnh hưởng đến chênh lệch tiền tệ giữa cung và cầu tiền tệ và
lạm phát.

Thứ ba, sự phá giá đồng nội tệ có thể dẫn đến sự gia tăng giá hàng xuất
khẩu và giá của hàng sản xuất và tiêu dùng trong nước (như nói ở điểm thứ
nhất) và điều này ảnh hưởng đến cầu và cung của hàng hóa sản xuất và tiêu
dùng trong nước. Cung của hàng hóa này có thể giảm trong khi cầu của chúng
tăng sẽ tạo áp lực lên lạm phát.
Page 11


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

Về mặt định tính, lạm phát có xu hướng tăng sau khi tỷ giá hối đoái được
điều chỉnh tăng. Một câu hỏi quan trọng là liệu có thể dự báo mức tăng lạm phát
(cụ thể là tăng của chỉ số giá tiêu dùng CPI) là bao nhiêu ứng với đợt điều chỉnh
tăng ngày 11/02/2011.
Lâu nay, nghiên cứu định lượng về các yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát ở
Việt Nam không nhiều, lý do chính là do các hạn chế về dữ liệu. Để trả lời cho
câu hỏi trong bài này, chúng tôi điểm lại một số nghiên cứu gần đây.
Nghiên cứu thứ nhất của Phạm Thế A nh, đăng trên Tạp chí Kinh tế &
Phát triển số tháng 12 năm 2009 với nhan đề “Xác định các nhân tố quyết định
lạm phát ở Việt Nam”, sử dụng số liệu theo thời gian từ quý 1 năm 1995 đến
quý 4 năm 2008. Về vai trò của chỉ riêng tỷ giá hối đoái (đo bằng tỷ giá
USD/VND) với lạm phát trong dài hạn, kết quả bài báo cho thấy: trong điều
kiện các yếu tố khác không thay đổi, lạm phát theo quý có mối quan hệ âm với
tỷ giá hối đoái theo quý của 2 quý trước và mối quan hệ dương với tỷ giá hối
đoái theo quý của 7 quý trước. Bài báo kết luận: sự thay đổi của tỉ giá hối đoái
có những chiều hướng tác động trái chiều nhau và ở những độ trễ khác nhau lên
lạm phát. Kết quả nghiên cứu của bài báo này là một đóng góp quan trọng vào
hiểu các yếu tố quyết định lạm phát ở Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả này không

thật sự thuận tiện cho việc dự báo ảnh hưởng lên lạm phát của thay đổi tỷ giá
hối đoái của một năm như chúng ta đang quan tâm.
Nghiên cứu thứ hai của Ngô Quang Thành, đăng trên Tạp chí Phát triển
Kinh tế số tháng 12/2010 với nhan đề “Vấn đề cơ cấu và không gian của lạm
phát ở Việt Nam”, sử dụng số liệu chéo của một năm 2006 từ thông tin lạm phát
và các yếu tố có liên quan của 64 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Đối với ảnh
hưởng lên chỉ số CPI của riêng tỷ giá hối đoái giữa VND với USD, nghiên cứu
này cho thấy mối quan hệ dương. Về mặt định lượng: Trong điều kiện các y ếu
tố kh ác không thay đổi, trung bình, chỉ số tăn g tỷ giá hối đoái tại một địa
phương tăng 1%, chỉ số CPI của địa phương đó tăng 0,21%. Lưu ý rằng con số
0,21% này là tổng ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái lên giá hàng hóa xuất khẩu
Page 12


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

(tradables) và hàng hóa sản xuất và tiêu dùng trong nước (non-tradables) (hay
exchange rate pass – through).
Bên cạnh đó, nghiên cứu này còn chỉ ra tác động lan tỏa theo địa lý của
CPI giữa các địa phương. Trong trường hợp tỷ giá đoái VND với USD tăng 1%
tại một địa phương, CPI các địa phương còn lại tăng tổn g cộng khoảng 0,11%
điểm.
Tổng hợp lại, giả sử chỉ số tăng tỷ giá hố i đoái VND với USD tăng 1%
tại tất cả các địa phương, CPI trung bìn h của cả n ước có thể tăng lên đến khoảng
0,33% điểm trong một năm.
Trở lại chủ đề ảnh hưởng của quyết định thay đổi tý giá hối đoái của
NHNN ngày 11/02/2011, có thể dự báo rằng tỷ lệ CPI tăng do ảnh hưởng của
việc tỷ giá hối đoái tăng 9,3% trung bình khoảng 3,1% điểm. Đây là mức tăng

chỉ số CPI chỉ do ảnh hưởng của thay đổi tỷ giá hối đoái (trực tiếp, không qua
trung gian biến số kinh tế khác như cung tiền tệ hay cung cầu hàng hóa sản xuất
và tiêu dùng trong nước nhưng có tính đến ảnh hưởng lan tỏa theo địa lý).
Như vậy, theo nghiên cứu định lượng công phu đối với lạm phát ở Việt
Nam, mức tăng chỉ số CPI trong năm 2011 do ảnh hưởng của thay đổi của riêng
tăng tỷ giá hối đoái USD/VND nhìn chung không phải là nhỏ nếu tính đến mặt
bằng chỉ số CPI thời gian qua. Tuy nhiên, chính phủ vẫn có nhiều công cụ và
biện pháp điều hành hợp lý để đạt lạm phát như mong muốn.
Tóm lại, có rất nhiều nghiên cứu về cơ chế truyền dẫn từ sự sụt giám tỷ
giá đến lạm phát. Các kết quả nghiên cứu này là không giống nhau do sự khác
biệt về chọn mẫu các quốc gia nghiên cứu, thời điểm mà các tác giả thực hiện
nghiên cứu, mô hình mà các tác giả này sử dụng… Nhưng tất cả các nghiên cứu
này đều cho thấy rằng có sự tác động giữa sụt giảm tỷ giá hối đoái (hoặc tăng
giá) tới Chỉ số giá tiều dùng CPI, lạm phát và giá nhập khẩu (price import). Đây
là một bằng chứng quan trọng đề chúng tôi xây dựng mô hình nghiên cứu “Cơ
chế truyền dẫn từ sự sụt giảm tỷ giá đến lạm phát tại Việt Nam”.
Page 13


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

II. Thực tiễn trong mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái ở Việt
Nam
Về mặt lý thuyết được nhiều nhà kinh tế học thừa nhận, mối quan hệ giữa
tỷ giá và lạm phát có thể được giải thích theo thuyết “Ngang giá Sức mua”
(Purchasing Power Parity theory), mối quan hệ đó phát biểu như sau:
“Khi mức độ phá giá của tiền tệ lớn hơn sự mất giá của hàng hóa, lạm
phát sẽ gia tăng. Khi mức độ mất giá của tiền tệ thấp hơn sự mất giá của hàng

hóa, lạm phát sẽ được hạn chế. Bởi vậy khi lạm phát trầm trọng, tăng tỷ giá có
thể hạn chế được lạm phát.”
Giả sử tại thời điểm 01/01/2011, tỷ giá giữa VND và USD là
20.000VND/USD. Theo thuyết “Ngang giá sức mua“, tỷ giá giữa hai đồng tiền
sẽ được điều chỉnh, sao cho giá của cùng một loại hàng hóa ở hai nước thì có
mức giá ngang bằng nhau. Do vậy, giá cà phê ở hai thị trường Mỹ và VN phải
tương đương nhau. Tức là 1kg cà phê ở Mỹ có giá là 2USD, tương ứng với
40.000VN ở thị trường VN.
Giả sử đến ngày 01/06/2011, dự đoán giá cà phê tại thị trường VN giảm
xuống còn 35.000VND/kg, tương ứng với 1.75USD/kg tại Mỹ (tỷ giá
20.000VND/USD). Tuy nhiên, vào ngày 02/06/2011, tỷ giá USD/VND được
điều chỉnh lên 24.000VND. Để đảm bảo việc đem cà phê từ VN sang bán ở Mỹ
không đem lại lợi ích kinh tế do chênh lệnh giá, khi đó giá cà phê ở VN sẽ tăng
lên 42.000VND/kg. Kết quả là việc đem 1kg cà phê giá 42.000VND sang Mỹ
bán với giá 1.75USD, sau đó đổi lấy 42.000VND với tỷ giá 24.000VND/USD là
vô nghĩa về mặt lợi ích kinh tế. Qua đó cho thấy, mặc dù cà phê bị mất giá tuy
nhiên VND bị mất giá mạnh hơn nên, kết quả là lạm phát tăng.
Cũng giả sử đến 01/6/2011, kinh tế VN lạm phát 25% (tác động lên tất cả
các mặt hàng, trong đó có cà phê) khiến giá cà phê tăng lên 50.000VND/kg,
trong khi đó kinh tế Mỹ không xảy ra lạm phát, cà phê vẫn ở mức 2USD/kg.
Lúc này, theo thuyết “Ngang giá sức mua”, 2USD phải có giá trị ngang với
50.000VND, nên tỷ giá USD/VND được điều chỉnh lên mức 25.000VND/USD.
Tuy nhiên nếu như, tỷ giá được siết chặt ở mức 22.500VND/USD, khi đó theo
Page 14


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn


thuyết “Ngang giá Sức Mua” 2 USD sẽ tương đương với 45.000VND. Và do
vậy, việc đem cà phê từ Mỹ sang VN bán để hưởng chênh lệch (mua cà phê giá
2USD/kg từ Mỹ sang bánVN thu về 50.000VND, quy đổi sang USD với tỷ giá
22.500VND/USD sẽ là ~2.22USD) sẽ diễn ra. Kết quả là giá cà phê ở thị trường
VN sẽ giảm xuống (giả sử là 45.000VND/kg) và lạm phát được hạn chế ở mức
12,5%. Đó là một ví dụ cụ thể minh chứng cho sự tác động giữa lạm phát và tỷ
giá hối đoái tại thị trường cà phê Việt Nam.
Tỷ giá là một trong những kênh truyền tải của chính sách tiền tệ, truyền
dẫn tác động từ các công cụ đến mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ, trong
đó, quan trọng nhất là mục tiêu ổn định giá cả. Đối với Việt Nam, mục tiêu này
hiện càng trở nên cấp thiết khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã tăng cao liên tục
trong nhiều năm trở lại đây. Tháng 7/2011, Tổng cục Thống kê công bố CPI của
Việt Nam đã tăng 22,2% so với cùng thời điểm của năm 2010 và tăng 14,6% so
với thời điểm đầu năm, cao hơn nhiều so với mục tiêu không quá 7% mà Quốc
hội khóa XII kỳ họp thứ 8 đặt ra tại Nghị quyết 51/2010/QH12 về kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm 2011. Cho dù có so với mức mục tiêu đã được điều
chỉnh là CPI năm 2011 tăng từ 15 - 17% tại Báo cáo tình hình kinh tế xã hội 6
tháng đầu năm, giải pháp cho 6 tháng cuối năm của Chính phủ thì mức lạm phát
thực tế dường như cũng khó đạt mục tiêu.
Chính sách tiền tệ, thông qua các công cụ của mình và qua các kênh
truyền dẫn, để tác động đến mức sản lượng và giá cả trong nền kinh tế. Tại hầu
hết các nước công nghiệp có thị trường tài chính phát triển, đặc biệt tại những
nước theo đuổi khuôn khổ mục tiêu lạm phát, công cụ phổ biến nhất của chính
sách tiền tệ là lãi suất. Việc thay đổi lãi suất điều hành của ngân hàng trung
ương sẽ tác động đến sản lượng và giá cả theo bốn kênh chủ yếu: lãi suất thị
trường, tín dụng, giá tài sản và tỷ giá. Trong kênh truyền dẫn tỷ giá, nếu ngân
hàng trung ương thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách tăng các mức lãi suất
điều hành, thì sẽ làm tăng giá trị đồng nội tệ, khiến giá hàng hóa dịch vụ trong
nước đắt lên tương đối so với giá hàng hóa dịch vụ nước ngoài tính bằng nội tệ.
Kết quả là, một mặt, xuất khẩu hàng hóa dịch vụ giảm và nhập khẩu hàng hóa

Page 15


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

dịch vụ tăng, qua đó giảm mức sản lượng của nền kinh tế, thu hẹp chênh lệch
sản lượng thực tế và sản lượng tiềm năng và giảm áp lực lạm phát từ phía cầu;
mặt khác, do giá nhập khẩu hàng hóa dịch vụ tính bằng nội tệ giảm, giảm hiệu
ứng “nhập khẩu lạm phát” góp phần giảm lạm phát.
Khi nhắc đến hiệu ứng “nhập khẩu lạm phát”, người ta cũng nói đến khái
niệm “hiệu ứng trung chuyển tác động của tỉ giá” (“exchange rate passthrough
effect (ERPT)”), nôm na có thể hiểu là tác động của việc tăng 1% tỷ giá (phá
giá 1%) lên lạm phát CPI thông qua tăng giá của nhóm hàng hóa nhập khẩu.
ERPT được xây dựng dựa trên giả định về luật ngang giá sức mua (PPP), rằng
giá của một loại hàng hóa giao dịch ngoại thương (tradable goods) tính trên
cùng một loại tiền tệ phải bằng nhau ở tất cả các quốc gia.
Như vậy, nếu cơ chế ERPT diễn ra hoàn hảo thì 1% tăng lên của tỷ giá có
thể khiến giá hàng hóa nhập khẩu tính bằng nội tệ tại quốc gia nhập khẩu tăng
lên 1%, giả định các nhân tố khác không thay đổi. Đồng thời, nếu coi là tỷ lệ
của nhóm hàng nhập khẩu tính trên tổng giá trị rổ hàng hóa tiêu dùng của một
nước, ta có công thức tính chỉ số giá của một quốc gia như sau: Rõ ràng là giá
hàng nhập khẩu tăng là một yếu tố làm tăng mức giá chung trong nền kinh tế.
Cơ chế ERPT có thể diễn ra một cách hoàn hảo, không hoàn hảo và thậm chí là
không xảy ra tùy vào đặc điểm kinh tế của từng quốc gia. Khi cơ chế này xảy ra
hoàn hảo, 1% phá giá nội tệ cũng sẽ làm tăng 1% giá nhập khẩu và ngược lại.
Nếu đồng nội tệ phá giá nhưng không làm thay đổi giá của nhóm hàng nhập
khẩu tính bằng nội tệ, ta nói rằng cơ chế ERPT đã không xảy ra. Trường hợp
1% phá giá làm tăng giá hàng nhập khẩu ít hơn 1% diễn ra khi cơ chế ERPT

diễn ra không hoàn hảo. Có nhiều nguyên nhân để cơ chế ERPT diễn ra không
hoàn hảo hoặc không diễn ra, tuy nhiên, nội dung đó nằm ngoài chủ đề của bài
viết này, tác giả mong muốn sẽ được thảo luận trong một dịp khác. Song, một
kết quả nghiên cứu đáng chú ý là tác động ERPT có vẻ mạnh hơn tại những
nước mới nổi và đang phát triển nơi lạm phát thường xuyên biến động ở mức
cao, trong khi tác động này thường khá thấp ở những nước phát triển nơi lạm
phát thấp và ổn định (Zorzi, Hahn, & Sánchez, 2007 và Mishkin, 2008). Đây là
Page 16


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

một kết quả thú vị, cho thấy tỷ giá và lạm phát có mối quan hệ 2 chiều: Việc
phá giá đồng nội tệ có thể làm gia tăng lạm phát, nhưng sự ổn định của lạm phát
với kỳ vọng lạm phát được “neo” chắc chắn có thể là nền tảng làm giảm đi tác
động ERPT của tỷ giá.
Quay trở lại chủ đề mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát ở Việt Nam,
trước hết, cần điểm qua một vài nét về cơ chế điều hành chính sách tiền tệ của
Việt Nam, để nhìn nhận vai trò của tỷ giá trong quá trình truyền tải tác động của
chính sách tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều hành chính sách tiền tệ
theo cơ chế mục tiêu tiền tệ (Monetary Targeting Strategy), theo đó, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam căn cứ vào kế hoạch tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông
hàng năm do Chính phủ phê duyệt để điều hành các công cụ chính sách tiền tệ
(gồm dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất và tỷ giá)
nhằm bơm hoặc hút tiền theo mục tiêu cung ứng tiền. Lượng cung tiền của
Ngân hàng Nhà nước qua các kênh truyền tải gồm lãi suất, tiền tệ và tín dụng, tỷ
giá và giá tài sản sẽ tác động đến mục tiêu cuối cùng. Sơ đồ sau đây sẽ thể hiện
rõ hơn cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ của Việt Nam.

Giá tài
sản
Cầu nội
địa ròng
(C,I)

M2, Tín
dụng

Công cụ

MB

Lãi suất

CSTT

m

Ttrường

Tổng
cầu
Cầu nước
ngoài
ròng
(X, M)

Lạm
phát


Giá
nhập
khẩu

Tỷ giá
Ttrường

Hình 2.1: Sơ đồ về cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ tại Việt Nam
Page 17


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

Như vậy, cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ của Việt Nam có sự biến
tướng chút ít so với cơ chế truyền tải truyền thống như đề cập ở trên. Đó là thứ
nhất, mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ là khối lượng tiền cung ứng do
Chính phủ phê duyệt thay vì là lãi suất liên ngân hàng; và quan trọng hơn, tỷ giá
vừa là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ, vừa là mục tiêu trung
gian. Với vai trò là công cụ của chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam hàng ngày công bố tỷ giá bình quân liên ngân hàng là mức tỷ giá bình
quân trên thị trường liên ngân hàng tại thời điểm đóng cửa của ngày giao dịch
trước đó. Theo đó, các ngân hàng thương mại căn cứ vào mức tỷ giá này cộng
với biên độ giao dịch theo quy định để quyết định mức tỷ giá giao dịch với
khách hàng. Ngân hàng Nhà nước cũng có thể thực hiện các can thiệp mua/bán
ngoại tệ để đạt được mức tỷ giá bình quân liên ngân hàng và tỷ giá thị trường
như mong muốn, khi đó tỷ giá đóng vai trò là mục tiêu trung gian.
Đã có một vài nghiên cứu thực nghiệm cho thấy tồn tại mối quan hệ giữa

tỷ giá và lạm phát ở Việt Nam. Camen (2006) trong nghiên cứu về các yếu tố
tác động lên lạm phát CPI của Việt Nam với chuỗi số liệu tháng từ 2/1996 4/2005 đã kết luận rằng tỷ giá danh nghĩa USD/VND đóng góp khá quan trọng
vào tốc độ tăng CPI của Việt Nam, giải thích khoảng 19% trong tổng mức tăng
CPI sau 12 tháng. Vo Van Minh (2009) trong nghiên cứu về tác động ERPT tại
Việt Nam với chuỗi số liệu tháng từ 1/2001 - 2/2007 cũng chứng minh được
việc phá giá đồng Việt Nam tạo ra tác động không hoàn hảo lên giá nhập khẩu
và lạm phát CPI, tuy nhiên, mức độ tác động không lớn, 1% phá giá của VND
khiến lạm phát CPI tăng 0,08% trong trong khoảng thời gian 1 năm đầu kể từ
khi xảy ra cú sốc phá giá. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng nghiên cứu của Vo
Van Minh (2009) sử dụng tỷ giá hiệu dụng đa phương danh nghĩa (NEER), vốn
không phải là công cụ tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước. Và gần đây nhất, trong
một nghiên cứu về các yếu tố tác động lên lạm phát CPI của Việt Nam giai đoạn
2000 - 2010 của Nguyen Thi Thu Hang va Nguyen Duc Thanh (2010), khi Ngân
hàng Nhà nước tăng 1% tỷ giá chính thức USD/VND sẽ tạo áp lực làm tăng lạm
phát, và tỷ giá giải thích khoảng 19% mức lạm phát CPI sau 12 tháng và khoảng
Page 18


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

30% sau 17 tháng. Nghiên cứu này cho thấy có vẻ như tỷ giá là một yếu tố khá
quan trọng giải thích biến động của lạm phát, nhưng cũng cần lưu ý rằng ở
nghiên cứu này còn một số điểm cần làm rõ hơn như kết quả kiểm định nhân
quả Granger giữa tỷ giá và lạm phát, hàm phản ứng thể hiện tác động tỷ lệ
nghịch giữa 2 biến này, kết quả kiểm định đồng liên kết không hoàn toàn tốt.
Tại trang thông tin của Ngân hàng Nhà nước, bài nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Phi Lân (2010) với chuỗi số liệu từ 1998 - 2009 về cơ chế truyền tải
chính sách tiền tệ cũng cho thấy tương quan tỷ lệ thuận giữa tỷ giá và lạm phát

mặc dù khả năng giải thích của tỷ giá đối với lạm phát là khá khiêm tốn, 5% sau
12 tháng và 8% sau 24 tháng.
Những kết quả nghiên cứu trên đây phần nào chứng minh được mối quan
hệ tỷ lệ thuận giữa ổn định tỷ giá và ổn định lạm phát ở Việt Nam. Dường như
mối quan hệ này trong vài năm gần đây đã trở nên rõ rệt hơn khi mà tốc độ phá
giá của VND so với USD kể từ năm 2008 đến nay ở mức khoảng 28,5%, và
tương ứng tốc độ gia tăng CPI trong cùng thời kỳ cũng ở mức khoảng 42%. Sử
dụng phương pháp thống kê đơn giản là tính toán hệ số tương quan giữa tốc độ
mất giá của VND (tính theo tỷ giá trên thị trường phi chính thức) và lạm phát
CPI của Việt Nam, có thể thấy có sự thay đổi rõ rệt về tương quan giữa hai biến
này. Nếu như trong giai đoạn 1994 - 2011, mức độ tương quan giữa tỷ giá trễ 2
quý và lạm phát là không đáng kể và có phần còn ngược chiều (hệ số tương
quan bằng -1%), giai đoạn 2000 -2011 mức độ tương quan đã chuyển sang cùng
chiều và tăng lên mức 12% và chủ yếu tập trung vào giai đoạn 2008 - 2011 với
hệ số tương quan là 19%. Tất nhiên, hệ số tương quan chỉ nói lên được mức độ
chặt chẽ về mối quan hệ giữa các biến số mà không cho biết biến nào là nguyên
nhân tác động (biến độc lập), biến nào là kết quả (biến phụ thuộc), đồng thời
cũng không rõ mức độ tác động của biến độc lập lên biến phụ thuộc. Tuy nhiên,
nó cũng phần nào phản ánh một kết quả khá thống nhất với các kết quả nghiên
cứu hiện hành.
Mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa tỷ giá USD/VND với lạm phát CPI có thể
được lý giải sâu hơn khi xem xét cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Mặc dù được
Page 19


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

đánh giá là nền kinh tế có mức tăng trưởng ấn tượng và nhiều tiềm năng, nhưng

nền sản xuất của Việt Nam có giá trị gia tăng thấp, phụ thuộc phần lớn vào
nguồn máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu. Đơn cử như ngành
hàng dệt may hiện đang là ngành hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta thì cũng
phải nhập khẩu đến 90% nguyên liệu. Hay thậm chí nước ta là nước nông
nghiệp, có thế mạnh về các sản phẩm nông nghiệp như lúa gạo, thủy sản xuất
khẩu nhưng từ phân bón, thuốc trừ sâu đến thức ăn chăn nuôi cũng đều phải
nhập từ nước ngoài. Với một nền kinh tế phụ thuộc vào bên ngoài lớn như vậy,
tác động gián tiếp của việc tăng tỷ giá đến lạm phát CPI thông qua tăng chi phí
sản xuất do tăng giá nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị tính
bằng VND thì có thể sẽ tương đối lớn. Đối với tác động trực tiếp lên giá nhóm
hàng tiêu dùng có nguồn gốc nhập khẩu, khó có thể xác định do không có số
liệu về cơ cấu nhóm hàng tiêu dùng nhập khẩu trong rổ hàng hóa tiêu dùng của
Việt Nam, nhưng dường như sự tác động có chiều hướng tăng do xu hướng
nhập khẩu hàng tiêu dùng, đặc biệt là nhóm hàng tiêu dùng xa xỉ như ô tô, xe
máy, điện thoại, máy tính... đang tăng nhanh.
Xem xét mối quan hệ giữa ổn định tỷ giá và ổn định lạm phát như trên,
có thể thấy chủ trương ổn định tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước trong bối cảnh
hiện tại là hợp lý. Nó phù hợp với mục tiêu ổn định lạm phát mà Luật Ngân
hàng Nhà nước năm 2010 đặt ra cho chính sách tiền tệ. Một lợi ích lớn hơn mà
ổn định tỷ giá (nếu thành công) có thể đem lại là có thể phục hồi lòng tin của
công chúng và thị trường vào điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nước một cách nhanh chóng. Ai cũng biết đây là ưu điểm chính của cơ chế điều
hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu tỷ giá.
Trong khi lạm phát chưa thể giảm xuống mức thấp nhanh chóng, tỷ giá
ổn định sẽ giúp lấy lại niềm tin vào giá trị đồng Việt Nam. Việc đặt mục tiêu ổn
định tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước cũng có thể là một quyết định khôn ngoan
khi mà điều kiện hiện tại của Việt Nam vẫn chưa cho phép thực hiện khuôn khổ
mục tiêu lạm phát do ngân hàng trung ương vẫn trực thuộc Chính phủ, thị
trường tài chính kém phát triển, và còn nhiều yếu tố khác mà Ngân hàng Nhà
Page 20



Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

nước Việt Nam hiện nay vẫn đang trong quá trình đổi mới.Song, về lâu dài, ổn
định tỷ giá có phải là lựa chọn tốt nhất trên con đường hướng tới mục tiêu cuối
cùng là ổn định giá cả hay không? Thứ nhất,nếu nhìn vào quy mô tác động của
tỷ giá lên lạm phát thì câu trả lời dường như là “Không” do mối quan hệ giữa tỷ
giá là lạm phát chưa phải là đã chặt chẽ, hệ số tương quan cho giai đoạn 2008 2011, là giai đoạn tỷ giá biến động nhất cũng chỉ đạt 20%, khả năng giải thích
của tỷ giá đối với sự gia tăng của CPI dao động trong khoảng 5 - 30% và nếu
không kể nghiên cứu của hai tác giả Nguyen Thi Thu Hang va Nguyen Duc
Thanh (2010) do một số nghi ngờ về mức độ tin cậy của mô hình thì tỷ giá chỉ
giải thích được tối đa 19% biến động của lạm phát. Thứ hai, kinh nghiệm của
một số nước đã từng theo đuổi cơ chế mục tiêu tỷ giá (một cách chính thức hoặc
không chính thức) thành công như Trung Quốc hoặc Malaysia cho thấy đây đều
là những nước có cán cân thương mại thặng dư, nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào
tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trung ương thực hiện can thiệp khi tỷ giá
biến động. Trong khi đó, Việt Nam lại là nước thâm hụt thương mại dai dẳng và
quy mô nhập siêu đang ngày càng có xu hướng tăng, dự trữ ngoại hối mỏng.
Điều này khiến tỷ giá luôn chịu áp lực phá giá trong khi tiềm lực can thiệp của
ngân hàng trung ương hạn chế. Hơn nữa, thực tế cũng cho thấy nếu tỷ giá được
neo ở một mức quá cứng nhắc, không phản ánh đúng quy luật thị trường thì tất
đến một lúc nào đó sẽ phải điều chỉnh. Điển hình như Trung Quốc hiện tại đang
phải liên tục tăng giá đồng Nhân dân tệ để phù hợp với các điều kiện thị trường,
hay Malaysia cũng đã thả nổi tỷ giá kể từ năm 2005. Thứ ba, ổn định tỷ giá và
ổn định lạm phát không phải lúc nào cũng song hành với nhau mà có lúc lại là
mâu thuẫn. Theo lý thuyết về bộ ba bất khả thi, khi luồng vốn di chuyển linh
hoạt, một quốc gia chỉ có thể chọn hoặc chính sách tiền tệ độc lập hoặc ổn định

tỷ giá. Nhiều ý kiến cho rằng điều này đã xảy ra đối với Việt Nam giai đoạn
2007 - 2008 khi Việt Nam đón nhận một luồng vốn ngoại lớn từ bên ngoài trước
kỳ vọng về nền kinh tế sau khi là thành viên WTO. Để ổn định tỷ giá, Ngân
hàng Nhà nước đã mua một lượng lớn ngoại tệ, qua đó, tăng dự trữ ngoại hối,
đồng thời để kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước cũng đã phải thực hiện
Page 21


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn

nghiệp vụ can thiệp trung hòa (sterilize) trên thị trường mở. Rủi ro chính của
việc can thiệp trung hòa là quy mô can thiệp có thể không tương xứng với lượng
tiền cung ứng để mua ngoại tệ, hậu quả là lạm phát tăng mạnh do cung tiền tăng
cao. Như vậy, có vẻ như để đạt được mục tiêu cuối cùng là ổn định giá cả như
đã quy định trong Luật Ngân hàng Nhà nước mới, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam cần nghiên cứu thiết lập khuôn khổ mục tiêu lạm phát. Khi đó, quay trở lại
với nhận định của Mishkin (2008), khi một nền kinh tế có mức lạm phát thấp và
ổn định, ERPT không phải là vấn đề đáng lo ngại. Và để làm được điều này, còn
rất nhiều vấn đề phải làm, không chỉ là trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước,
mà còn cần sự ủng hộ của Chính phủ, và sự chung tay của các Bộ, Ngành.

Page 22


Đề tài 04 - Nhóm 16

GVHD: Thầy Trương Minh Tuấn


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS.TS.SỬ ĐÌNH THÀ NH – TS.VŨ THỊ MINH HẰNG đồng chủ biên,
(2008), Giáo trình Nhập môn tài chính – tiền tệ, NXB Lao Động Xã Hội.
2. GS – TS Vũ Đình Bách (chủ biên) 2001 « Giáo trình kinh tế vĩ mô »
ĐHKTQD nhà xuất bản thống kê 2001.
3. Kinh tế học – David Begg.
4. Tạp chí tài chính, tạp chí Ngân hàng.
5. www.tailieu.vn

Page 23



×