Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Đề cương ôn tập môn TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.85 KB, 17 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Câu 1: Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh ( Cơ sở khách quan)
a. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
 Bối cảnh thời đại
- Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển
sang giai đoạn độc quyền đã xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế
giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.
- Thắng lợi cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm “thức tỉnh các dân tộc Châu
Á”. Cách mạng Tháng Mười Nga đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập chính quyền Xô
Viết, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người, mở ra con đường giải phóng cho
các dân tộc thuộc địa.
- Tháng 3 năm 1919 Quốc tế cộng sản (Quốc tế thứ 3) ra đời, chủ trương đoàn kết
phong trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa Phương Tây và phong trào giải
phóng thuộc địa phương Đông trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa
đế quốc.
 Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối Tk XIX đầu Tk XX
- Năm 1858, trước sự xâm lược của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký
kết các hiệp ước đầu hàng, Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp.
- Cho đến cuối thế kỷ XIX, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, các phong trào đấu
tranh của nhân dân nổ ra và lan rộng khắp cả nước. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới
khẩu hiệu “Cần Vương” do các sĩ phu, văn thân lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Hệ
tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.
- Sang đầu thế kỷ XX, dưới chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, xã hội
nước ta có sự chuyển biến và phân hóa mạnh mẽ. Do ảnh hưởng của “Tân thư” ở
Trung Quốc và trào lưu cải cách ở Nhật Bản, phong trào yêu nước của nhân dân ta
chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản. Đại biểu là Phan Bội Châu và Phan Chu
Trinh, với phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy tân… nhưng tất cả đều bị
dập tắt do chưa có hướng đi đúng. Hệ tư tưởng tư sản cũng không lãnh đạo được
phong trào chống Pháp.
- Trước sự khủng hoảng sâu sắc về đường lối, sứ mệnh lịch sử đặt ra cho cả dân tộc
Việt Nam là phải tìm con đường cứu nước đúng đắn. Phong trào yêu nước của nhân


dân ta muốn giành thắng lợi phải đi theo một con đường mới.
b. Những tiền đề tư tưởng – lí luận
1


-

-

-

-

-

-

 Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất; tinh thần tương thân tương ái, lòng
nhân nghĩa, ý thức cố kết cộng đồng; ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn thử
thách; trí thông minh, tài sáng tạo quý trọng hiền tài, khiêm tốn… là tiền đề tư tưởng,
Cơ sở khách quan hình thành tư tưởng hồ chí minh. Trong những giá trị đó, chủ nghĩa
yêu nước là giá trị thiêng liêng cao quý nhất, trong lịch sử dân tộc Việt Nam .
Chủ nghĩa yêu nước có trong mỗi con người Việt Nam, là cội nguồn của trí tuệ sáng
tạo và lòng dũng cảm của người Việt Nam và là chuẩn mực đạo đức cơ bản của cả dân
tộc. Hồ Chí Minh đúc kết chân lí: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng,thì tinh
thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua
mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước ”
 Tinh hoa văn hóa nhân loại

Văn hóa phương Đông: Hồ Chí Minh tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo. Đó là
các triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; đó là ước vọng về một
xã hội bình trị, hòa mục, hòa đồng; là triết lý nhân sinh, tu thân dưỡng tính; đề cao
văn hóa lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học.
Văn hóa phương Tây: Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tiếp thu những tư tưởng tiến
bộ của nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây; những giá trị của bản Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại cách mạng Pháp và các giá trị về quyền sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập Mỹ.
Hồ Chí Minh còn tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, nếp
sống có đạo đức, bình đẳng, dân chủ, đề cao lao động, chống lười biếng… của Phật
giáo. Ngoài ra, Người còn tiếp thu tư tưởng của Lão Tử, Mạc Tử, chủ nghĩa Tam dân
của Tôn Trung Sơn.
 Chủ nghĩa Mác – Lênin
Trước sự khủng hoảng về đường lối cứu nước của dân tộc, xuất phát từ lòng yêu
nước, Nguyễn Tất Thành quyết định rời quê hương ra đi tìm đường cứu nước. Thực
tiễn trong gần 10 năm tìm tòi, khảo nghiệm, nhất là sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin (7/1920)
Nguyễn Ái Quốc đã: “cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng,…vui mừng đến phát
khóc…” vì đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc. Như vậy, chính Luận cương
của Lênin đã nâng cao nhận thức của Hồ Chí Minh về con đường giải phóng.

2


-

-

Hồ Chí Minh coi việc tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin trước hết phải nắm vững
phương pháp biện chứng; phải vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của

chủ nghĩa Mác- Lênin để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác- Lênin là thế giới quan, phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thế giới quan và phương pháp luận Mác- Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết kiến
thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước. Đó là con đường cách
mạng vô sản

Câu 2: Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản
a. Bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước của ông cha ta trước khi
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước.
- Tất cả các phong trào cứu nước của ông cha ta, mặc dù diễn ra vô cùng anh dũng với
tinh thần “người trước ngã, người sau đứng dậy”, sử dụng nhiều con đường gắn với
những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau
nhưng đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu.Đất nước lâm vào tình trạng khủng
hoảng về đường lối cứu nước đầu thế kỉ XX.

3


-

-

Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã biến thành thuộc địa, nhân dân chịu
cảnh lầm than, được chứng kiến các phong trào cứu nước của ông cha ta người nhận
thấy các phong trào ấy chưa thực tế.
Mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Hồ Chí Minh không
tán thành các con đường của họ mà quyết tâm ra đi tìm con đường mới.
b. Cách mạng tư sản không triệt để.


Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã tìm hiểu các cuộc cách mạng
lớn trên thế giới như cách mạng tư sản Anh, Pháp, Mĩ …. Và nhận thấy rằng: “ Cách
mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mĩ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến
nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kì thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp
bức thuộc địa”. Cuộc cách mạng này chưa hưướng tới giải phóng quyền con người. Do
đó, Người không theo con đường cách mạng tư sản
c. Cách mạng vô sản
Hồ chí minh nhận thấy cánh mạng tháng 10 nga không chỉ là cách mạng vô sản mà
còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sang về sự nghiệp
giải phóng dân tộc thuộc địa và mở ra trước mắt họ thời đại chống đế quốc, thời đại
giải phóng đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc.
7/1920 HCM đọc được luận cương sơ khảo của Lê nin thấy trong lý luận của lê nin có
1 phương hướng mới để giải phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản.
- Hồ Chí Minh viết: “ Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân
tộc cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của
cách mạng thế giới”.
- Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu
hướng tư sản đương thời, HCM đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác
– Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: “ Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”.
- Ý nghĩa
Lý luận
+ Cách mạng vô sản giúp VN thoát khỏi tình trạng khủng hoảng đường lối.
+ đi theo lý luận của chủ nghĩa Mác lê nin đi theo chủ nghĩa xã hội kiên định đường lối
cho đến ngày nay.
+ Giúp vn tìm thấy con đường hướng tới mục tiê cao nhất là giải phóng con người.
Thực tiễn
4



+Cách mạng tháng 8 thành công là minh chứng cho sự lựa chọn đúng đắn của HCM
chấm dứt chế độ áp bức bóc lột, mở ra một hướng đi đúng đắn cho cách mạng VN
+ Một số nước trên thế giới cũng đi theo con đường cách mạng vô sản điều đó chứng tỏ
cách mạng VN là một bộ phận cách mạng vô sản trên thế giới thể hiện sự đoàn kết quốc
tế chống lại đế quốc.

5


Câu 3: Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
* Chủ động sáng tạo
Bối cảnh quốc tế cuối 19 đầu 20:
- Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển
sang giai đoạn độc quyền đã xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế
giới.
- Thắng lợi cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm “thức tỉnh các dân tộc Châu
Á”. Cách mạng Tháng Mười Nga đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập chính quyền Xô
Viết, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người, mở ra con đường giải phóng cho
các dân tộc thuộc địa.
- Tháng 3 năm 1919 Quốc tế cộng sản (Quốc tế thứ 3) ra đời, chủ trương đoàn kết
phong trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa Phương Tây và phong trào giải
phóng thuộc địa phương Đông trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa
đế quốc.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “ Tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản đế quốc đều lấy ở
các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó,
nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ mạt cho đạo quân lao động của nó, và
nhất là tuyển những binh lính bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng của nó”.
Nhận ra được điều này, Hồ Chí Minh kêu gọi: “ Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ

trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho
một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái
cánh của cách mạng vô sản”.
Trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản quan tâm đến cách mạng
thuộc địa, HCM vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể
thực hiện bằng sự nỗ lực tự giải phóng.
Vận dụng công thức của C.Mac “ Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự
nghiệp của bản thân giai cấp công nhân” , người đi đến luận điển: “Công cuộc giải
phóng anh em – tức nhân dân thuộc địa – thế giới chỉ có thể thực hiện được bằng sự
nỗ lực của bản thân anh em”. Người cho rằng các nước thuộc địa trên thế giới tự lực
chiến đấu xong phải biết đoàn kết tạo thành liên minh phương đông là cái cánh của
cách mạng vô sản trên thế giới
Tại phiên họp thứ 22 đại hội V quốc tế cộng sản HCM phê phán các đảng cộng sản ở
pháp, anh, hà lan … chưa thi hành chính sách thật tích cực trong vấn đề thuộc địa

6


-

-

Tháng 8- 1945, khi thời cơ cách mạng xuất hiện, Người kêu gọi: “Toàn quốc đồng
bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nói: “Kháng chiến trường kì gian khổ
đồng thời lại phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức minh… cố nhiên sự giúp đỡ của các
nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người
khác.Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì
không xứng đáng được độc lập”.
* Mối quan hệ cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản chính quốc

Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách
mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc.nó vô
hình làm giảm tính chỉ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng thuộc địa.
Theo HCM giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng mạng vô sản
ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. đó là mối quan hệ bình đăng chứ không
phải lệ thuộc.
Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh dân
tộc, Nguyễn Ái Quốc cho rằng: “Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành
chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính
quốc”.
Ý nghĩa
Nêu cao tinh thần tự lực tự cường nhưng tranh thủ sự giúp đỡ của các quốc gia trên
thế giới
Thể hiện tinh thần đoàn kết quốc tế
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lí luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất
quan trọng của HCM vào kho tang lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã được thắng
lợi của phong trào cách mạng giải phóng dt trên toàn thế giới trong gần thế kỉ qua
chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

7


Câu 4: Xây dựng nhà nước thể hiện quyền là chủ và làm chủ của nhân dân
- Xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ luôn là quan điểm nhất quán, xuyên
suốt trong lập trường tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ở nước ta
chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ ... Nhân dân là ông chủ nắm chính
quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”.
- Dân chủ là “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.

Dân chủ ở nước ta là dân chủ gián tiếp theo hình thức đại diện.
1. Nhà nước của dân
- Quan điểm nhất quán của HCM là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong
xã hội đều thuộc thuộc về nhân dân.Quan điểm trên được thể hiện qua hai bản Hiến pháp
mà Người đã lãnh đạo soạn thảo trong 24 năm làm Chủ tịch nước là Hiến pháp 1946 và
Hiến pháp 1959.
- Nhân dân làm chủ Nhà nước tức là nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước. Nhân dân
có bầu ra các đại biểu, uỷ quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước; đồng thời, nhân dân cũng có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín
nhiệm của nhân dân.
- Người cũng nêu lên quan điểm Dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác
định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Do
đó, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất nước.
Trong nhà nước của dân, người dân được hưỏng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất
cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân
phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người
dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa uỷ quyền của dân, chỉ là công bộc của
dân.
2. Nhà nước do dân
- Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ.Nhà nước đó do nhân dân lựa
chọn bầu ra, do dân ủng hộ, đóng thuế để hoạt động... Do đó khi cơ quan nhà nước không
đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi miễn nó. Tuy
nhiên, quyền lợi, quyền hạn của nhân dân bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ
của người công dân.

8


- Hồ Chí Minh quan niệm phải xây dựng Nhà nước Việt Nam mới hợp hiến, hợp pháp.

Nhà nước do nhân dân tạo ra và quản lý ở chỗ:
+ Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, cơ
quan duy nhất có quyền lập pháp.
+ Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính phủ.
+ Hội đồng Chính phủ là cơ quan hành pháp nhà nước cao nhất, thực hiện các nghị quyết
của Quốc hội và chấp hành pháp luật.
+ Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý chí của
dân.
3. Nhà nước vì dân
- Nhà nước vì dân là nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả
đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ lợi ích nào khác. Đồng thời, cán bộ
nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân thừa uỷ quyền và cũng là
người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân.
- Nhà nước đó là một nhà nước trong sạch, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong
sạch, cần kiệm liêm chính. Phải làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở và được học hành.
Cán bộ nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, việc gì có lợi cho dân thì hết
sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh.
- Cán bộ thì phải trung thành, tận tuỵ, cần kiệm liêm chính..., là người lãnh đạo thì phải
có trí tuệ hơn người, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi với dân, trọng dụng hiền tài...
Cán bộ phải vừa có đức vừa có tài. Cán bộ là đầy tớ của dân chứ không phải là làm quan
phát tài.
Ý nghía
Khẳng định quyền làm chủ của nhân dân (qua bản tuyên ngôn độc lập của chủ tịch HCM
năm 1945)
- lý luận: 1946 nhân dân có quyền bầu cử khẳng định nhà nước của số đông người không
phải của số ít của giai cấp
Nhà nước do dân lập ra tất cả đều hoạt nhà nước nhằm phục vụ nhân dân
- Thực tiễn: đưa ra chủ trương chính sách đường lối phục vụ nhân dân đặc biệt chủ
trương chính sách đó phát huy quyền là chủ của nhân dân.


9


Câu 7 : Quan niệm về Đảng Cộng Sản Việt Nam cầm quyền
a) Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền
- Qua những năm tháng hoạt động thực tiễn, Hồ chí Minh đã tìm thấy con đường cách
mạng ở chủ nghĩa Mác-Lenin và quyết định đi theo con đường của Cách mạng Tháng
Mười vĩ đại.
- Từ những năm 1920 trở đi, Người tích cực chuẩn bị cả 3 mặt : chính trị, tư tưởng và tổ
chức để tiến tới thành lập Đảng.
- Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một trang mới trong lịch sử dân
tộc ta.
- Trong Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của
đảngcách mạng – nhân tố đầu tiên, quyết định sự thắng lợi của cách mạng
- Thấu hiểu lịch sử về sức mạnh của quần chúng cùng ả ới ánh sáng của chủ nghĩa mác – lê
nin người chỉ rõ: công nông là gốc cách mạng, nhưng trước pải làm cho dân giác ngộ.
dân phải được tổ chức, lãnh đạo thì mới trở thành lực lượng to lớn mới là gốc cách mạng.
- Để đảng vững mạnh phải có chủ nghĩa là nòng cốt. thành lập đảng để mọi thành viên
trong đảng đó thống nhất về tư tưởng từ đó thống nhất về hànhđộng.
- Tóm lại HCM nhất quán cho rằng cách mạng VN muốn thành công phải đi theo chủ
nghĩa Mác – lênin.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cách mạng chân chính, mang bản chấcht của giai cấp
công nhân
b) Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền
- Khái niệm Đảng cầm quyền :

-

+ Theo nghĩa thông thường : “Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học
chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo

chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình.
+ Trong Di chúc 1969 của Hồ Chí Minh : “Đảng cầm quyền” là Đảng tiếp tục lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành
được quyền lực nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước đó để tiếp tục
hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền :
+ Mục đích, lý tưởng của Đảng cầm quyền :
Theo Hồ Chí Minh, Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc,
của nhân dân. Đó là mục đích, lý tưởng cao cả không bao giờ thay đổi trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
+ Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của
nhân dân :
10



















Xác định “người lãnh đạo” là xác định quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với toàn bộ
xã hội và khi có chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền nhà nước.
“Là người lãnh đạo”, theo Hồ Chí Minh, bằng giáo dục, thuyết phục, Đảng phải làm cho
dân tin, dân phục để dân theo.
Là người lãnh đạo, Đảng phải sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến
của dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân và phải chịu sự kiểm soát của nhân dân, bởi “Sự
lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại
nơi quần chúng”.
Là người lãnh đạo, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cũng có nghĩa bao hàm cả trách
nhiệm “là người đầy tớ” của dân. Song, “đầy tớ” không có nghĩa là “tôi tớ, tôi đòi hay
theo đuôi quần chúng” mà là tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân nhằm đem lại các quyền
và lợi ích cho nhân dân.
Người nhấn mạnh: đã phụng sự cho nhân dân thì phải phụng sự cho ra trò nghĩa là việc gì
có lợi cho nhân dân thì phải làm cho kỳ được, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức
tránh
Người sử dụng cụm từ đầy tớ trung thành là để nhắc nhở và chỉ rõ vai trò trách nhiệm của
mỗi cán bộ đảng viên trong hoạt động của mình đều phải quan tâm đến lợi ích của nhân
dân: khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ
Mặt khác Ý nghĩa cụm từ “đầy tớ trung thành của nhân dân”, theo tư tưởng Hồ Chí Minh
đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải có tri thức khoa học, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
giỏi; thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng : “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Dù là người lãnh đạo hay người đầy tớ theo quan điển hồ chí minh đề cùng chung một
mục đích: vì dân. Làm tốt chức năng lãnh đạo làm tròn nghĩa vụ đày tớ cho nhân dân là
cơ sở vững chắc nhất đảm bảo uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng.
+ Đảng cầm quyền, dân là chủ :
Theo Hồ Chí Minh, quyền lực phải thuộc về nhân dân. Người đã đề cập xây dựng một
Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, Đảng lãnh đạo cách mạng là để thiết lập và củng cố quyền làm
chủ của nhân dân. Dân làm chủ, Đảng lãnh đạo, Đảng phải “lấy dân làm gốc”.

Mặt khác, dân muốn làm chủ thực sự thì phải theo Đảng. Mỗi người dân phải biết lợi ích
và bổn phận của mình tham gia vào xây dựng chính quyền.

11


12


-

-

Câu 8 : Xây dựng Đảng – Quy luật tồn tại và phát triển của Đảng
Xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất yếu, thường xuyên để Đảng hoàn thành vai trò chiến
sĩ tiên phong trước giai cấp, dân tộc và nhân dân.
Xây dựng Đảng được Hồ Chí Minh đặt ra như một nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài.
Khi cách mạng gặp khó khăn, xây dựng Đảng để cán bộ, đảng viên củng cố lập trường
quan điểm, bình tĩnh, sang suốt, không tỏ ra bị động, lúng túng, bi quan. Ngay cả khi
cách mạng trên đà thắng lợi cũng cần đến xây dựng Đảng để xây dựng những quan điểm,
tư tưởng cách mạng khoa học, ngăn ngừa chủ quan, tự mãn, lạc quan tếu và rơi vào căn
bệnh “kiêu ngạo cộng sản”-theo cách nói của V.I.Lenin.
Tính tất yếu khách quan của công tác xây dựng Đảng được Hồ Chí Minh lý giải hết sức
thuyết phục:
+ Xây dựng Đảng bị chế định bởi quá trình phát triển liên tục của sự nghiệp cách
mạng do Đảng lãnh đạo. Sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo là một quá trình, bao
gồm nhiều thời kì, nhiều giai đoạn; mỗi thời kỳ, giai đoạn có những mục tiêu, nhiệm vụ
cụ thể và những yêu cầu riêng. Trước diễn biến của điều kiện khách quan, bản thân Đảng
phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn trọng trách trước giai cấp và dân tộc.
+ Đảng là một tổ chức chính trị gắn liền với một bộ phận người trong xã hội. Đối

với toàn Đảng, hồ Chí Minh cũng chỉ rõ : Đảng sống trong xã hội, là một bộ phận hợp
thành cơ cấu của xã hội; mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi
trường xã hội, các quan hệ xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái tích cực, tiến bộ và cái tiêu
cực, lạc hậu. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện; Đảng phải chú
ý đến việc xây dựng Đảng.
+ Xây dựng Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, giáo dục và tu
dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, đặc biệt là giữ
được các phẩm chất đạo đức cách mạng tiêu biểu.
Xây dựng Đảng là làm cho mỗi cán bộ, đảng viên hiểu rõ, hiểu đúng và thực hành tốt
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng. Mặt khác, giúp cho cán bộ, đảng viên phải
nhìn lại mình, phát huy mặt tốt, loại bỏ mặt xấu vốn có trong mỗi con người. Trên bình
diện phát triển cá nhân, xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nhu cầu tự
hoàn thiện, nhu cầu tự làm trong sạch nhân cách của mỗi cán bộ, đảng viên.
Đảng không thể buông lỏng việc thắt chặt công tác kiểm tra quản lý cán bộ, đảng viên.
Xây dựng đảng nếu không được đặt đung vị trí, ngang tầm mà lại buông lỏng kiểm soát
quản lý thì dễ làm cho một bộ phận cán bộ đảng viên bị thoái hóa biến chất về đạo đức,
lối sống dẫn đến tha hóa cả về chính trị.
13


-

Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng Đảng lại Được Hố
Chí Minh coi là công việc càng phải tiến hành thường xuyên hơn của Đảng. Vì, theo Hồ
Chí Minh, quyền lực có tính hai mặt:
+ một mặt, nó có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử
dụng đúng;
+ mặt khác, quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực bị tha
hoá, biến chất, tham quyền lực, lộng quyền,…
→ Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn, đổi mới để hạn chế, ngăn

chặn, đẩy lùi, tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hoá, biến chất gây nên.
Tóm lại, theo Hồ Chí Minh, xây dựng và chỉnh đốn Đảng là vấn đề mang tính quy
luật khách quan và là nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân Đảng. Chỉnh đốn và đổi
mới Đảng là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững vàng cả về chính trị, tư tưởng
và tổ chức; làm cho đội ngũ cán bộ, Đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng
lực trước yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao, càng phức tạp của nhiệm vụ cách mạng. Đổi
mới và chỉnh đốn Đảng sẽ làm cho Đảng trở thành một khối thống nhất, vững mạnh, đủ
sức lái con thuyền cách mạng ViệtNam vượt qua những khúc quanh đầy thử thách để cập
bến thắng lợi.

Câu 9: Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
• Đạo đức là cái gốc của người cách mạng
14


HCM là một trong những nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng thế giới đã bàn
nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Tư tưởng đạo đức HCM rất sâu sắc, phong
phú, cả về lý luận và thực tiễn, đã trở thành một bộ phận vô giá của văn hóa dân tộc và
nhân loại, một sức mạnh to lớn làm nên mọi thắng lợi của cách mạng VN.
HCM khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc
của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người cho rằng, người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng làm nền tảng, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự
nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề.
Người nói, cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân phục thì phải có tư cách, đạo
đức. Đạo đức là gốc, là nền tảng vì liên quan tới Đảng cầm quyền. Người trăn trở với
nguy cơ của Đảng xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng, rơi vào tha hoa biến chất. Vì vậy,
Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải "là đạo đức, là văn minh".
Tư tưởng đạo đức HCM là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế làm
thước đo. Chính vì vậy, HCM luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói
đi đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế.

 Trong tư tưởng đạo đức HCM, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất và năng lực thông
nhất làm một. Trong đó: đức là gốc của tài; hồng là gốc của chuyên; phẩm chất là gốc của
năng lực. Tài là thể hiện cụ thể của đức trong hiệu quả hành động.
• Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
Sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội trước hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở
phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của
mình, chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực.
Phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở thành lực lượng quyết định vận mệnh
của loài người ko chỉ do chiến lược và sách lược thiên tài của cách mạng vô sản mà còn
do những phẩm chất đạo đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành một sức
mạnh vô địch.
Tấm gương đạo đức của HCM là nguồn cổ vũ động viên tinh thần quan trọng đối
với nhân dân ta và nhân loại tiến bộ đoàn kết đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội.

Câu 10: Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
• Trung với nước, hiếu với dân

15


HCM cho rằng: trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước là của dân, quyền
hành và lực lượng đều ở dân, lời ích đều vì dân, cán bộ là đày tớ của dân chứ ko phải là
“quan cách mạng”.
- Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung
thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng.
- Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, phục vụ nhân dân hết lòng. Phải gần
dân, kính trọng và học tập nhân dân, dựa vào dân là lấy dân làm gốc. Cán bộ lãnh đạo
phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng
cao dân trí.

• Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
- Cần là siêng năng, chăm chỉ, lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất cao với tinh
thần tự lực cánh sinh.
- Kiệm là tiết kiệm (thời gian, công sức, của cải...) của nước, của dân; không xa xỉ, không
hoang phí, không bừa bãi, không phô trương hình thức, ko liên hoan, chè chén lu bù.
- Liêm là luôn tôn trọng của công và của dân. Trong sạch ko tham lam tiền của địa vị danh
tiếng.
- Chính là thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình: không tự cao tự đại tự phụ, phải khiêm tốn
học hỏi phát triển cái hay sửa chữa cái dở. Đối với người: không nịnh người trên không
khinh người dưới, thật thà không dối trá. Đối với việc: để việc công lên trên lên trước,
việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác nhỏ mấy cũng tránh.
 Các đức tính cần, kiệm, liêm, chính: có quan hệ chặt chẽ với nhau ai cũng phải thực hiện,
song cán bộ đảng viên phải thực hành làm mẫu cho dân; là thước đo sự giàu có về vật
chất, vững mạnh về tinh thần, thể hiện sự văn minh, tiến bộ về 1 quốc gia; là nền tảng của
sự đổi mới, của các phong trào thi đua yêu nước.
- Chí công vô tư là công bằng, công tâm, không thiên tư thiên vị; làm việc gì cũng không
nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc. Là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ
chủ nghĩa cá nhân.
• Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
- Yêu thương con người được Hồ Chí Minh xác định là một trong những phẩm chất đạo
đức cao đẹp nhất. Người nói, người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách
mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương con người, yêu thương nhân dân mà chấp
nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập, tự do, cơm no áo ấm và hạnh phúc cho
con người.
- Tình yêu thương rộng lớn dành cho những người nghèo khổ, bi mất quyền, bị áp bức, bóc
lột không phân biệt màu da, dân tộc. Nếu không có tình yêu thương như vậy thì ko thể
nói đến cách mạng, chủ nghĩa XH và chủ nghĩa cộng sản.
-

16



Tình yêu thương được xây dựng trên lập trường giai cấp công nhân đòi hỏi mỗi ng phải
chặt chẽ và nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng và giàu lòng vị tha với người khác;
thái độ tôn trọng những quyền của con người, nâng con người lên kể cả những người nhất
thời lầm lạc không được thái độ dĩ hòa vi quý hạ thấp hay vùi dập con người.
• Có tinh thần quốc tế trong sáng
- Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức cộng sản
chủ nghĩa. Nó bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân nhằm vào mqh rộng lớn vượt
khỏi quốc gia dân tộc.
- Đó là sự tôn trọng hiểu biết thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với
tất cả các dân tộc nhân dân và các nước với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại
sự chia rẽ hằn thù, bất bình đẳng, phân biệt chủng tộc, chống lại CN dân tộc hẹp hòi,
sôvanh, biệt lập và CN bành trướng bá quyền... HCM chủ trương giúp bạn là giúp mình.
- Đoàn kết quốc tế là nhằm thực hiện mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị theo tinh thần: bốn phương vô sản, bốn
bể đều là anh em.
-

17



×