Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tiểu luận tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.28 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠ I H ỌC KINH TẾ TP. HCM

Khoa Kế Toán – Kiểm Toán


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
Khoa Kế Toán – Kiểm To án

NHÓM 27:
STT

HỌ TÊN

MSSV

46

Bùi Thị Mộng Huyền

33121020452

114

Nguyễn Thị Hồng Son

33111025871

143

Trần Thị Bích Trâm


33121021605

159

Bùi Nguyễn Thảo Vy

33121021556

CHỮ KÝ


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 1
I. QUAN ĐIỂM VỀ NỢ CÔNG..........................................................................................2
II. TÁ C ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ - Ý NGHĨA
CỦA NGƯỠNG NỢ VÀ TRẦN NỢ QUỐC GIA ........................................................4
2.1 Tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế - Bằng chứng thực nghiệm.. 4
2.2 Ý nghĩa của ngưỡng nợ và trần nợ quốc gia..........................................................9
KẾT LUẬ N...........................................................................................................................16

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT
ADB
EU
IMF
GDP
ODA

VIẾT ĐẦY ĐỦ
Asian Development Bank

European Union
International Monetary Fund
Gross Domestic Product
Official Development Assistance


LỜI MỞ ĐẦU


Nợ công đang trở thành vấn đề nóng bỏng không chỉ ở riêng Châu Âu, Mỹ,
Nhật Bản mà nhiều nước đang phát triển trên thế giới cũng đang phải đối mặt,
trong đó có Việt Nam. Bộ Tài chính dự kiến nợ công của Việt Nam năm 2011 ở
mức khoảng 1.375 nghìn tỷ đồng, tương đương 58,7% GDP. Mặc dù chỉ số trên
vẫn được xem là trong ngưỡng an toàn nhưng nếu không có một chương trình và
kế hoạch quản lý nợ công hiệu quả, đặc biệt là nợ nước ngoài thì nguy cơ mất
kiểm soát nợ công trong tương lai là điều có thể xảy ra.
Nợ công đang đe dọa đến đà phục hồi và sự ổn định của nền kinh tế toàn thế
giới, viễn cảnh của cuộc tái suy thoái kinh tế toàn cầu cũng đã được đặt ra.
Trong khi đó, đối với những quốc gia phát triển và những nền kinh tế thị trường
mới nổi, mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế biểu hiện rõ nhất khi nợ vượt
mức 90-100% GDP; lúc này, nợ càng tăng, tăng trưởng kinh tế giảm đáng kể.
Như vậy, việc đánh giá đúng nợ công và "thực chất" nợ công của một nền kinh tế,
một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi
lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỉ lệ nợ công cao một cách thuần tuý sẽ gây nên
hiệu ứng tâm lý dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ
vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỉ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn,
mà không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành
như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế
nào..., cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách - "thắt
lưng buộc bụng" - tác động tiêu cực đến tăng trưởng.

Trong bài tiểu luận này nhóm 27 phân tích mối quan hệ giữa nợ công và tăng
trưởng kinh tế, tron g qu á t rìn h n gh iên cứu n hó m hẳn còn nh iều t h iếu s ó t,
mon g nh ận được sự góp ý nhiệt tình từ thầy và các bạn.


I. QUAN ĐIỂM VỀ NỢ CÔNG
Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định nợ
công gồm nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh. Ở một số nước, nợ
công còn bao gồm nợ của chính quyền địa phương ( Đài Loan, Bungari, Rumani),
nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận ( Thái Lan, M acedonia ).
Tại Việt Nam , theo luật quản lý nợ công được ban hành ngày 29/6/2009 và
có hiệu lực từ ngày 01/01/2010: “Nợ công bao gồm: Nợ chính phủ, nợ được chính
phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương”.
Cũng theo luật này:
Nợ chính phủ: Là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước,
nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính
phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền
phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản
nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách
tiền tệ trong từng thời kỳ.
Nợ được Chính phủ bảo lãnh: Là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức
tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương: Là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương ( gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh)
ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ
(trong cũng như ngoài nước), hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài được
chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công. Trước nay mọi người thường chỉ
nghĩ đến nợ Chính phủ khi nói đến tổng nợ công. Khi Chính phủ phát hành 1 tỷ
đô-la trái phiếu ở nước ngoài, ai cũng biết nó được tính vào tổng nợ công nhưng

khi đọc tin một doanh nghiệp thu xếp ký kết một khoản vay 2 tỷ đô-la với một


ngân hàng nước ngoài nào đó, có sự bảo lãnh của Chính phủ, có thể có người vẫn
nghĩ đó là nợ doanh nghiệp, không phải nợ công.
Ngoài ra cần chú ý thêm khái niệm “nợ nước ngoài của quốc gia”: Là tổng
các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của
doanh nghiệp và tổ chức khác vay theo phương thức tự vay, tự trả (Luật quản lý nợ
công năm 2009). Vốn vay từ A DB hay WB đương nhiên là nợ nước ngoài rồi
nhưng một doanh nghiệp vay từ đối tác nước ngoài vài trăm triệu đô-la, chẳng hạn,
dù có hay không có bảo lãnh của chính phủ, thì khoản tiền đó vẫn phải tính vào
tổng nợ nước ngoài của quốc gia.
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ, khi chi tiêu của chính
phủ lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được. Do đó, Nhà nước phải đi vay (trong hoặc
ngoài nước) để trang trải thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả
gốc và lãi khi đến hạn, Nhà nước sẽ phải thu thuế tăng lên để bù đắp. Vì vậy, suy
cho cùng nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh thuế: hôm nay hay ngày mai,
thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất là cách đánh thuế dần dần, được hầu
hết chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt động chi ngân sách. Nợ
chính phủ thể hiện sự chuyển giao của cải từ thế hệ sau (thế hệ phải trả thuế cao)
cho thế hệ hiện tại (thế hệ được giảm thuế).


II. TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ - Ý
NGHĨA CỦA NGƯỠNG NỢ VÀ TRẦN NỢ QUỐC GIA
“Nợ công là một trong những nguồn cần thiết của cấu trúc vốn mỗi quốc
gia. Nó góp phần tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn,
nhưng lại gây tổn hại cho nền kinh tế trong dài hạn, do gánh nặng thực hiện
nghĩa vụ trả nợ cả vốn gốc và lãi. Theo tính toán của những nhà kinh tế học, khi
vay nợ tăng vượt ngưỡng 90-100% GDP, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ suy giảm

với tất cả các nhóm nước, nhóm nước phát triển, mới nổi và cả khu vực sử dụng
đồng tiền chung Châu Âu. Tuy nhiên, môi trường kinh tế khác nhau lại đưa ra kết
quả tác động khác nhau của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế, minh chứng cụ
thể với Nigeria và Nam Phi. Do đó, quản lý nợ công của mỗi quốc gia đòi hỏi phải
dựa trên trần nợ hợp lý, tạo khoảng trống bù đắp những rủi ro tiềm ẩn phát sinh
thông qua tham khảo ngưỡng nợ tính toán được phù hợp cho mỗi quốc gia. Mức
trần nợ nàyđược IMF khuyến nghị là khoảng 35-40% GDP đối với những nước
mới nổi và trong đó có Việt Nam.”
2.1 Tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế - Bằng chứng thực
nghiệm
Khủng hoảng tài chính toàn cầu đưa đến những hậu quả rất nặng nề cho nền
kinh tế thế giới. Kéo theo nhiều vấn đề về quản trị tài chính quốc gia được lật lại
nhưng nổi trội hơn hẳn là vấn đề nợ công. Nhiều vấn đề được đưa trao đổi: Nguy
cơ khủng hoảng nợ công của toàn cầu và nhìn lại nợ công ở Việt Nam, Chính Phủ
cần phải lưu ý những vấn đề gì trong chính sách quản lý nợ công nói riêng và tài
chính công nói chung? Qua nghiên cứu và tìm hiểu những quan điểm của các nhà
kinh tế học trên thế giới, có năm quan điểm như sau:
 Thứ nhất:
Nợ công là một nguồn rất cần thiết thuộc cấu trúc vốn tài chính của
các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển, góp phần vào sự
phát triển kinh tế đất nước trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn có nguy cơ


gây tổn hại cho nền kinh tế bởi những yêu cầu thanh toán cả vốn gốc và lãi
của nó.
Theo quan điểm của Folorunso S. Ayadi và Felix O. Ayadi (2008):
Nợ là mộttrong những nguồn thuộc cấu trúc vốn tài chính của bất kỳ một nền
kinh tế nào, đặc trưng bởi một cấu trúc vốn nội bộ không thỏa đáng. Do đó, luôn
gặp phải vòng luẩn quẩn của năng suất thấp vì thiếu nguồn vốn đầu tư nâng cấp và
xây dựng cơ sở hạ tầng, cập nhật công nghệ kỹ thuật, thu nhập thấp, kéo theo là

tiết kiệm cũng thấp và tiếp tục quay lại với cấu trúc vốn nội bộ thiếu thốn. Vì vậy,
lúc này, những kiến thức thuộc về chuyên môn, bộ máy quản lý tài chính quốc gia
và sự hỗ trợ tài chính từ những nước Phương Tây để khắc phục sự khó khăn về
nguồn lực là điều trở nên rất cần thiết. Mặt khác, nợ nước ngoài như là một sự ràng
buộc chính yếu đến cấu trúc vốn của nhữngquốc gia đang phát triển. Trong đó, nợ
dồn tích lại bởi vì những yêu cầu thanh toán cả vốn gốc và lãi của nó, dần dần nợ
không góp phần một cách đáng kể cho sự phát triển kinh tế tại những đất nước
đang phát triển trong dài hạn. Phát triển những ý tưởng trên.
Theo Elmendorf và Mankiw (1999): Nợ công có ảnh hưởng quan trọng
đến nền kinh tế cả trong ngắn và dài hạn. Các khoản nợ (phản ánh tài trợ thâm hụt)
có thể kích thích tổng cầu và sản lượng trong ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu huy động
vốn của những cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Nợ công cao có thể ảnh
hưởng bất lợi đến tích lũy vốn và tăng trưởng thông qua lãi suất dài hạn cao hơn,
bóp méo hệ thống thuế trong tương lai cao hơn, lạm phát và sự không chắc chắn
cao hơn về các triển vọng và chính sách.
 Thứ hai:
Đối với những quốc gia phát triển và những nền kinh tế thị trường
mới nổi, mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế biểu hiện rõ nhất
khi nợ vượt mức 90-100% GDP; lúc này, nợ càng tăng, tăng trưởng kinh tế
giảm đáng kể.


Theo M. Reinhart và S. Rogoff : Đã xem xét mối quan hệ giữa nợ công và
tăng trưởng kinh tế với các mức độ khác nhau của nợ công ở những nền kinh tế
tiên tiến và mới nổi. Nghiên cứu gần đây được thực hiện bởi hai tác giả này, thông
qua thống kê tương quan đơn giản về những mức khác nhau của nợ công và tốc độ
tăng trưởng GDP thực dài hạn trong mẫu 20 quốc gia phát triển trải dài khoảng hai
thế kỷ (1790 – 2009), và mẫu 24 nền kinh tế thị trường mới nổi giai đoạn 1946 2009 nhận thấy rằng:
(i)


Mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng dài hạn thì yếu đối với tỷ số
nợ/GDP dưới ngưỡng90% GDP;

(ii)

Trên 90%, khi nợ tăng, tốc độ tăng trưởng giảm đáng kể. Như vậy,
đâychính là điểm mấu chốt trong việc đề ra những chính sách quản lý nợ
công và trần nợ công phù hợp cho mỗi quốc gia dựa vào ngưỡng nợ cảnh
báo. Từ đó, tránh vay mượnquá đà, rơi vào trạng thái mất khả năng chi trả
và ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởngkinh tế.

 Thứ ba:
Có thể xem xét sự tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế thông
qua dữ liệu nợ nước ngoài cùng với những rủi ro và hệ lụy mà nó đưa lại: sự
không khuyến khích đầu tư, giới hạn sự tham gia của các quốc gia đang
phát triển với nền kinh tế toàn cầu, sự trống rỗng trong dự trữ ngoại hối quốc
gia, cứng nhắc trong chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
Một số nghiên cứu của Krugman (1988) và Sachs (1989): Đã xem
xét tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế thông qua sự tác động của
một yếu tố đóng vai trò quan trọng: Đó là nợ nước ngoài. Hầu hết động cơ của
các nghiên cứu này là giả thuyết "số dư nợ quá mức" – một tình huống
trong đó, gánh nặng nghĩa vụ nợ của một quốc gia là quá nặng đến nỗi một phần
sản lượng lớn phải tích lũy cho các chủ nợ nước ngoài và do đó gây nên sự không
khuyến khích đầu tư.


Theo đánh giá của Ayadi (1999) và các cộng sự (2003): Gánh nặng nợ
nước ngoài đã giới hạn sự tham gia của những quốc gia đang phát triển với nền
kinh tế toàn cầu và kèm theo đó là những nghĩa vụ nợ đã gây trở ngại đến tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Hơn thế nữa, gánh nặng nợ quốc gia gây cản

trở chi tiêu công cho đầu tư phát triển, hạn chế việc tích lũy nguồn vốn và có
khuynh hướng cản trở áp dụng những chính sách tiền tệ linh hoạt để củng cố
những doanh nghiệp vừa và nhỏ do nguồn thu được phải đáp ứng phần lớn nghĩa
vụ nợ cả gốc và lãi. Điều này đã ảnh hưởng một cách gián tiếp đến việc làm, học
vấn và sự bần cùng, nghèokhó của người dân trong một quốc gia.
 Thứ tư:
Tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm và đầu tư có mối quan hệ với
nhau, khi vốn nội địa không đủ để tài trợ cho chi tiêu đầu tư trong nước
thì vay nợ là tất yếu để phục vụ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vay nợ luôn
kèm theo những rủi ro do lãi suất, thời hạn, cơ cấu vay mượn, gây ảnh
hưởng tiêu cực lên tăng trưởng kinh tế, do đó vấn đề quản lý nợ hiệu quả
đang trở nên cấp thiết.
Theo Hunt (2007): Sự tăng lên trong tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế dẫn
đến tăng trưởng kinh tế. Sachs (2002) tranh luận rằng sự tăng trưởng sẽ
không tăng cho đến khi tổng lượng vốn tăng đạt đến một ngưỡng nhất định. Lý
thuyết “dual-gap” nói rằng đầu tư là một hàm của tiết kiệm, và trong những quốc
gia đang phát triển, mức độ tiết kiệm nội địa không đủ để tài trợ cho đầu tư cần
thiết để đảm bảo phát triển kinh tế và thật hợp lý khi tìm kiếm sử dụng những s ản
phẩm và dịch vụ từ bên ngoài.
Colaco (1985): Đã giải thích tính chất nhạy cảm của việc thanh toán
nợ đối với những nước đang phát triển thông qua sử dụng ba kịch bản:
(i)

Quy mô khoản nợ nước ngoài đạt đến một mức độ mà lớn hơn so với vốn tự
có, dẫn đến sự không cân bằng giữa nợ và vốn tự có;


(ii)

Tỷ lệ nợ với lãi suất thả nổi tăng đột ngột, vì vậy những người vay mượn

phải đối mặt trực tiếp với việc lãi suất tăng cao;

(iii)

Thời hạn vay rút ngắn đáng kể, một phần bởi vì sự giảm đi của những nguồn
chính thức. Do đó, điều cần tham khảo ở đây chính là xác định đúng những
yếu tố thuộc môi trường quản lý nợ công của mỗi quốc gia, đặctrưng vốn có
của chúng để có thể đề ra được chính sách quản lý phù hợp: môi trường
kiểm soát, hệ thống kế toán nợ công, vấn đề thực hiện minh bạch và chống
tham nhũng, quy trình ra quyết định khi vay nợ và xét duyệt dự án.

 Thứ năm:
Nợ tích lũy theo thời gian và dòng chi trả nợ đã gây cản trở lớn đến
tăng trưởng kinh tế do những trở ngại thuế khóa, bất ổn vĩ mô và sự giảm
bớt chi tiêu cho đầu tư phát triển của Chính Phủ.
Cohen (1993) và Clements (2003): Cũng làm vững thêm cho tác động đã
nói ở trên của nợ, như họ quan sát thấy tác động tiêu cực của nợ lên tăng trưởng
không chỉ thông qua sự tồn đọng của nợ, mà còn thông qua dòng chi trả nợ, điều
mà giống như sự giảm bớt chi tiêu cho đầu tư Chính Phủ. Điều này rất quan trọng
cho việc đánh giá, xem xét vì chi tiêu công được xem là yếu tố quyết định chủ yếu
của các hoạt động kinh tế trong nhiều vấn đề chức năng. Nợ tích lũy làm giảm sức
mạnh của nền kinh tế và bất ổn định vĩ mô. Trở ngại thuế khóa nghĩa là tồn nợ lớn
không khuyến khích đầu tư vì những người đầu tư tiềm năng nhận thấy rằng sẽ có
thuế cao hơn trên thu nhập tương lai để tạo nên khoản hoàn trả nợ. Bất ổn vĩ mô có
liên quan đến việc gia tăng thiếu hụt tài chính, không chắc chắn do sự huy động
vốn bất thường, sự suy giảm giá trị đồng nội tệ, mở rộng tiền tệ và lạm phát dự
đoán.
2.2 Ý nghĩa của ngưỡng nợ và trần nợ Quốc gia.
Theo quan điểm thứ hai: Khi nợ công vượt ngưỡng 90% GDP thì tăng
trưởng kinh tế sẽ giảm – Bằng chứng ở các nước phát triển, mới nổi và nhóm

nước sử dụng đồng tiền chung châu Âu


 Nhóm nước phát triển

Hình 1: N ợ công, tăng trưởng và lạm phát: Những thị trường mới nổi được chọn
lọc,1946-2009.Nguồn: IMF, World Economic Outlook, World Bank, Global
Development Finance, and Reinhart and Rogoff (2009b) và những nguồn được
trích dẫn tại đó
Sau đây là mối quan hệ giữa tỷ lệ tăng trưởng GDP và các mức nợ khác
nhau của 20 nước phát triển trong khoản gthời gian 1946 - 2009. Quan sát hàng
năm được gộp thành 4 nhóm, dựa theo tỷ lệ nợ trên GDP trong suốt phạm vi quan
sát, cụ thể như: những năm khi nợ công/GDP dưới 30% (nợ thấp) , những năm mà
nợ công/GDP từ 30% đến 60% (nợ trung bình), 60 đến 90% (nợ cao),và trên 90%
(rất cao).
Có tổng số 1142 quan sát hàng năm, cụ thể là: 502 quan sát cho
Nợ/GDP dưới 30%, 385 cho Nợ/GDP từ 30 đến 60%, 145 cho Nợ/GDP từ
60 đến 90%, và 110 cho Nợ/GDP trên 90%. Đáng ngạc nhiên là mối quan hệ
giữa nợ công và tăng trưởng thì tương tự nhau một cách đáng chú ý ở cả những thị


trường mới nổi lẫn những nền kinh tế phát triển.Trong giai đoạn 1946 đến 2009,
tốc độ tăng trưởng trung vị và bình quân xấp xỉ khoảng 4 - 4,5% cho tất cả những
mức độ nợ khoảng 90% GDP. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP trung vị giảm
mạnh còn 2,9% đối với tỉ lệ nợ trên 90%, sự sụt giảm này còn lớn hơn khi xét đến
tốc độ tăng trưởng bình quân, giảm chỉ còn 1%. Như vậy, đối với những nước mới
nổi, tỷ lệ nợ có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế nhiều nhất cũng được tìm thấy
là mức 90% GDP. Do đó, có thể nói, mức nợ 90% GDP là mức nợ đe dọa chung
đến tăng trưởng kinh tế của tất cả các nhóm nước, từ đó, giúp các Chính Phủ có
thể nhận định được ngưỡng nợ trung bình tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh

tế trên thế giới.Tuy nhiên, những kết quả trên được tính toán cho trung bình các
quốc gia, do đó, chưa kể đến môi trường kinh tế đặc trưng, chính sách quản lý và
điều hành đất nước của mỗi Chính Phủ, do đó, việc phân tích những đặc trưng
riêng cho mỗi nước là điều cần thiếtvà ngưỡng nợ của mỗi quốc gia sẽ thay đổi
khác nhau. Khu vực sử dụng đồng tiền chung Châu  u Cuộc khủng hoảng 2008 2009 đã tạo ra những căng thẳng đáng kể lên lĩnh vực tài chính công trong khu vực
đồng tiền chung châu Âu, cụ thể là nợ công của mỗi quốc gia. Nhiều nước trong
Liên Minh Châu Âu và khu vực đồng tiền chung châu Âu đang ở mức rủi ro cao có
liên quan đến việc duy trì ổn định tài chính. Nợ công tăng lên đáng kể qua nhiều
thập niên và xu hướng này càng được thấy rõ khi quan sát sự mở rộng trong quy
mô của Chính Phủ. Đối với nhiều nước công nghiệp, tăng trưởng tổng chi tiêu
Chính Phủ thì khổng lồ trong thế kỷ 20. Vào cuối giai đoạn hiện nay, tỷ lệ
nợ công/GDP trung bình là 79% đối với những Chính Phủ cỡ lớn, 60% đối với
những Chính Phủ cỡ vừa và 53% đối với Chính Phủ cỡ nhỏ.Khủng hoảng kinh tế
và tài chính có khuynh hướng đóng góp vào việc gia tăng nợ, cuộc khủng
hoảng 2008-2009 đã tạo những căng thẳng đáng kể lên nợ, và tổng quát, lên lĩnh
vực tài chính công ở các nước trong khu vực đồng tiền chung Châu Âu. Tỷ lệ thâm
hụt chính phủ khu vực này được ước tính tăng lên nhanh chóng từ 0,6% GDP năm
2007 lên đến 6,6% GDP năm 2011, trong khi tỷ lệ tổng nợ chính phủ được cho là
bùng phát từ 66,0% đến 88,5% GDP trong suốt cùng một giai đoạn. Nhìn chung,
sự duy trì ổn định tài chính dài hạn trong khu vực đồng tiền chungchâu Âu đã trở


nên xấu hơn một cách rõ rệt và nhiều nhận định rằng những ảnh hưởng như thế sẽ
tiếp tục kéo dài trong trung và dài hạn. Dựa theo bản báo cáo mới nhất về sự bền
vững của Hội đồng Châu Âu, nhiều quốc gia trong khu vực đồng tiền chung và
Liên Minh Châu Âu (8 nước trong khu vực đồng tiền chung và 13 nước trong Liên
Minh châuÂu) đang ở mức rủi ro cao về sự duy trì ổn định tài chính. Điều này
phản ánh sự thâm hụt tài chính lớn hiện tại, dự đoán về khả năng tăng trưởng GDP
bị chế ngự. Như vậy, chúng ta đều biết mức nợ kìm hãm tăng trưởng kinh tế cho
hầu hết các nước trên thế giới đều ở ngưỡng 90 – 100% GDP.


Hình 2: N ợ công, tăng trưởng và lạm phát: những thị trường mới nổi được chọn
lọc,1946-2009.Nguồn: IMF, World Economic Outlook, World Bank, Global
Development Finance, and Reinhart and Rogoff (2009b) và những nguồn được
trích dẫn tại đó


Khi nợ công quá lớn cũng sẽ đặt các quốc gia vào tình trạng k hó khăn:
Khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách
"thắt lưng buộc bụng" để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để
được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, "thắt lưng
buộc bụng" lại dẫn tới những cuộc biểu tình phản đối của quần chúng, gây căng
thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người nghèo, những người yếu thế trong
xã hội là những người bị tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm phúc lợi, cắt
giảm chi tiêu của chính phủ. Chẳng hạn, để được nhận gói cứu trợ nhằm giải quyết
khủng hoảng nợ, Chính phủ Hy Lạp đã phải quyết định tăng nhiều loại thuế, từ
thuế giá trị gia tăng đến thuế thu nhập, thuế bất động sản; và đánh thuế vào nhiều
sản phẩm như rượu, thuốc lá..., đồng thời chấp nhận áp dụng các biện pháp cắt
giảm chi tiêu mạnh tay. Để phản đối chính sách này của chính phủ, các cuộc tổng
đình công đã diễn ra, hàng chục ngàn người đã tham gia biểu tình trên khắp đất
nước Hy Lạp, nhất là tại thủ đô A -ten. Năm 2001, Á c-hen-ti-na đã phải đối mặt
với tình trạng rối loạn nghiêm trọng do các làn sóng biểu tình khắp nơi phản ứng
các biện pháp "thắt lưng buộc bụng", để rồi Tổng thống Á c-hen-ti-na khi đó là ông
Féc-nan-đô đơ la Rua đã phải từ chức, và 4 ngày sau đó, người kế nhiệm là A-đônphơ Rô-ri-get Saa phải tuyên bố tình trạng vỡ nợ quốc gia, với khoản nợ 90 tỉ USD
- mức nợ lớn nhất trong lịch sử đất nước này.
Trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng
hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà
chính phủ các nước đã chi ra trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi tiêu,
tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc
độ tăng trưởng, thậm chí có thể đẩy nền kinh tế vào "khủng hoảng kép". Nghiêm

trọng hơn, việc tung ra các gói kích thích kinh tế chính là một trong những nguyên
nhân làm tăng nợ công của các chính phủ, vậy nếu như khủng hoảng "tái xuất" thì
liệu các chính phủ có còn đủ khả năng xoay xở, cứu vãn nền kinh tế của mình?
Vấn đề đặt ra cho các chính phủ là phải chèo lái để giải quyết được thâm hụt ngân


sách nhưng không đẩy nền kinh tế trở lại tình trạng suy thoái, trong khi các biện
pháp để giải quyết hai vấn đề này lại có tác động không thuận chiều.
Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo
của các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm
tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục
tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế. Thí dụ, đối với Hy Lạp, khi tổ chức
xếp hạng tín dụng Standard & Poor's hạ bậc tín nhiệm đối với trái phiếu chính phủ
của A-ten, các quỹ đầu tư lớn lập tức bán ra loại trái phiếu này, đồng thời từ chối
mua vào trong các đợt phát hành tiếp theo. Nếu chính phủ muốn huy động tiền từ
thị trường tài chính sẽ phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn và sau đó, rơi vào vòng
xoáy: tiếp tục bị tụt bậc tín nhiệm. Việc đưa ra xếp hạng tín nhiệm trong thời điểm
nhạy cảm, dễ tổn thương của nền kinh tế có nguy cơ làm cho cuộc khủng hoảng
thêm trầm trọng, có tác dụng như một "cú huých", đẩy nền kinh tế lún sâu thêm
vào khó khăn, bế tắc.
Việc căn cứ vào mức nợ công trên GDP để xác định tình trạng nợ công là
hết sức quan trọng, tuy nhiên, điều quan trọng không kém là phân tích "thực chất"
nợ công. Đó là: nợ chính phủ là vay nợ trong nước hay vay nợ nước ngoài;
tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, hay tình trạng "sức khoẻ" nói chung
của nền kinh tế; Lượng dự trữ quốc gia... Chẳng hạn, hiện nay, dư luận
đang lo ngại liệu Nhật Bản có thể trở thành "một Hy Lạp thứ hai", thế nhưng, một
số nhà phân tích, khi phân tích nợ công của Nhật Bản đã cho thấy có sự khác biệt
khá lớn giữa nợ công của nước này với nợ công của Hy Lạp, thể hiện ở chỗ, 95%
trái phiếu chính phủ của Nhật Bản do người dân nước này nắm giữ, trong khi 70%
nợ chính phủ Hy Lạp do người nước ngoài nắm giữ. Bên cạnh đó, Nhật còn tự chủ

về tỉ giá hối đoái, dự trữ ngoại tệ của Nhật cũng ở mức rất cao (theo con s ố mà Bộ
Tài chính Nhật Bản công bố ngày 12-5, tính đến cuối tháng 4-2010, dự trữ quốc
gia của Nhật là 1.046,873 tỉ USD). Do vậy, nền kinh tế Nhật Bản, mặc dù ngoài nợ
công cao còn đứng trước nhiều khó khăn khác nữa, nhưng vẫn được dự báo là khó
có thể trở thành mục tiêu tấn công của giới đầu cơ quốc tế. Như vậy, việc đánh giá


đúng nợ công và "thực chất" nợ công của một nền kinh tế, một quốc gia là vô cùng
quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng
vào con số tỉ lệ nợ công cao một cách thuần tuý sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý hoang
mang, kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới đầu cơ lợi
dụng tấn công, dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ
vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỉ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn,
mà không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành
như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế
nào..., cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách - "thắt
lưng buộc bụng" - tác động tiêu cực đến tăng trưởng.


KẾT LUẬN
Tóm lại từ những phân tích ở trên cho thấy giữa nợ công và sự tăng trưởng kinh tế
có 1 mối quan hệ mật thiết với nhau.Khi chính phủ vay nợ để bù đắp cho thâm hụt
ngân sách do cắt giảm các nguồn thu từ thuế trong khi mức chi tiêu công không
thay đổi sẽ tác động đến hành vi tiêu dùng của người dân, từ đó hạn chế tăng
trưởng kinh tế, dẫn đến nền kinh tế trì trệ, chậm phát triển .Ngược lại, xét về mặt
tích cực, Chính phủ các quốc gia có thể sử dụng nợ công như là một công cụ để
tài trợ vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia,
khuyến khích phát triển sản xuất, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, nợ công vẫn thật sự cần thiết cho nền kinh tế
mọi quốc gia. Bài toán về nợ công vốn phức tạp và hiệu ứng của nó vẫn luôn là

khó lường, chính vì vậy mỗi quốc gia cần phải đánh giá đúng quy mô, năng lực
của mình để có thể hấp thụ một luồng vốn tương ứng, để từ đó chủ động nhận
thức, kiểm soát, quản lý việc vay- sử dụng nợ một cách hợp lý cả trong ngắn hạn
và dài hạn, đảm bảo khả năng thanh toán và xử lý các vấn đề phát sinh từ nợ
công một cách hiệu quả, giảm thiểu các tác động tiêu cực, giữ vững sự ổn định và
phát triển nền kinh tế.


Tài liệu tham khảo:
[1] />XHCN/2012/16541/No-cong-cua-Viet-Nam-Nhung-van-de-va-tac-dong -tiem.aspx
[2] />[3] />


×