Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

THỰC TRẠNG và một số GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG ở THÁI BÌNH TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.68 KB, 30 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH

LỚP BỒI DƯỠNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
CHƯƠNG TRÌNH CHUYÊN VIÊN CAO CẤP
Tổ chức tại Học viện Hành chính. Khoá IV - Năm 2012
Lớp C

ĐỀ ÁN
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG THAM
NHŨNG Ở THÁI BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Người thực hiện : Vũ Quang Dương
Chức vụ

: Phó Thanh tra tỉnh Thái Bình

Đơn vị công tác

: Thanh tra tỉnh Thái Bình

Hà Nội. tháng 6 năm 2012
1

1


Lời nói đầu
Sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng
và lãnh đạo, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu hết sức quan trọng. Kinh
tế tăng trưởng khá, văn hoá xã hội có những tiến bộ, đời sông nhân dân


được cải thiện; tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng an
ninh được tăng cường, hệ thống chính trị được củng cố, quan hệ đối ngoại
được mở rộng; hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt
nhiều kết quả tốt nâng cao được vị thế và uy tín của nước ta trên trường
quốc tế.
Tuy nhiên chúng ta cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ và
thách thức nghiêm trọng. Một trong những nguy cơ cản trở công cuộc đổi
mới đất nước chính là tệ tham nhũng, Tham nhũng cùng với lãng phí gây
thiệt hại lớn về tài sản và làm xói mòn bản chất của Nhà nước, làm tha hoá
đội ngũ cán bộ, đảng viên, xâm hại trực tiếp công lý và công bằng xã hội,
xói mòn lòng tin của nhân dân, tiếp tay cho các thế lực thù địch chống phá,
uy hiếp sự tồn vong của chế độ.

2

2


Nhận thức rõ mức độ nghiêm trọng và những hậu qua nguy hại của
tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương biện pháp đấu
tranh nhằm ngăn ngừa, phát hiện vả xử lý các hành vi tham nhũng và đã đạt
được những kết quả nhất định. Song tệ nạn tham nhung vẫn còn diễn ra khá
phổ biến, có nguy cơ lan tràn ở mọi nơi, mọi cấp, mọi ngành, thậm chí
tham nhũng còn ăn sâu vào tư duy và tác phong làm việc của một số cán
bộ, công chức làm giảm hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước, gây bức xúc
bất bình trong nhân dân. Nghị quyết lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương
khoá IX nêu rõ: “Điều làm cho nhân dân còn nhiều bất bình, bức xúc nhất
hiện nay là tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư
tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,
đảng viên còn rất nghiêm trọng, kỷ cương phép nước trong nhiều việc,

nhiều lúc chưa nghiêm”. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng đã đánh giá: “tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, chính
trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất
nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị
và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của
chế độ ta”.
Do đó phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trở thành 1 bộ
phận cấu thành quan trọng của toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của
Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay. Nó góp phần nâng cao vai
trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, xây
dựng Đảng và kiện toàn bộ máy Nhà nước trong sạch vững mạnh, thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy mỗi cán bộ đảng viên cần phải
nhận thức đầy đủ tính chất, mức độ và những tác hại của tham nhũng, biến
những quyết tâm chính trị thành những biện pháp, giải pháp cụ thể để ngăn
chặn và đẩy lùi tệ nạn tham nhũng góp phần ổn định chính trị, thúc đẩy sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh.
3

3


Với những lý do trên, thông qua việc học tập nghiên cứu lý luận tại
Học viện Hành chính và thực tiễn công tác, tôi chọn nghiên cứu Đề án
“Thực trạng và một số giải pháp phòng ngừa và đấu tranh tham nhũng ở
Thái Bình trong giai đoạn hiện nay”.

4

4



I/ Phần 1: Cơ sở xây dựng đề án
1. Cơ sở pháp lý của công tác phòng chống tham nhũng:
Hiện nay trong hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan trực tiếp
đến việc phòng chống tham nhũng ở nước ta gồm các văn bản sau:
- Bộ luật hình sự năm 1999; Luật phòng, chống tham nhũng năm
2005; Nghị định số 120/ 2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Luật phòng, chống tham nhũng; Luật cán bộ công chức và Nghị định
về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất của cán bộ, công chức; Luật thực
hành tiết kiệm chống lãng phí và các Nghị định quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành pháp lệnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí; Một số nghị
định, nghị quyết về kê khai tài sản đối với một số chức danh trong cơ quan
Nhà nước hay những người ứng cử vào cơ quan quyền lực Nhà nước; một
số văn bản quản lý tài sản công...; Luật thanh tra.
2. Cơ sở thực tiễn:
Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo tuy
là một tỉnh nông nghiệp, điều kiện phát triển KT-XH có nhiều khó khăn
nhưng Đảng bộ và nhân dân Thái Bình đã nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều
thành tích hết sức quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội góp
phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, làm thay đổi cơ
bản bộ mặt nông thôn tạo tiền đề để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Bên cạnh những kết quả đạt được,
Thái Bình cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ và thách thức đó là tệ
tham nhũng. Mặc đù quy mô mức độ tham nhũng ở Thái Bình không lớn
như một số địa phương khác, song có nhiều vụ việc tính chất phức tạp gây
tác động xấu đến đời sống, tư tưởng của cán bộ và nhân dân, ảnh hưởng
đến sự ổn định trật tự xã hội, điển hình là tình trạng tham nhũng tiêu cực ở
các địa phương, cơ sở xã, phường, thị trấn dẫn đến mất ổn định khu vực
nông thôn trong những năm 1997-1999. Tình hình mất ổn định (19975


5


1999) đã trở thành vấn đề chính trị nghiêm trọng, gây ra hậu quả nặng nề
về nhiều mặt, vi phạm đến bản chất của Đảng và Nhà nước của dân, do dân
và vì dân, làm tổn thương lớn đến truyền thống đoàn kết trong xã hội và
nhân dân địa phương, đến tình làng nghĩa xóm, tình đồng chí trong Đảng;
trật tự kỉ cương phép nước bị vi phạm; làm giảm sút lòng tin của nhân dân
đối với cấp Ủy, Đảng, chính quyền các cấp; kinh tế xã hội gặp nhiều khó
khăn. Nghị quyết số 06 ngày 12/1/1998 của Tỉnh uỷ Thái Bình khi đánh giá
về nguyên nhân tình trạng mất ổn định tình hình đã nêu rõ : “Trước hết là
do một hộ phận không nhỏ cán bộ từ tỉnh đến cơ sỏ tham nhũng, tiêu cực,
làm giàu bất chính, lề lốỉ làm việc quan liêu độc đoán chuyên quyền, mất
dân chủ nghiêm trọng, không chấp hành nghiêm chỉnh một số quy định của
pháp luật, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước...”
Các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong việc áp dụng các biện
pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời nhiều vụ việc tham nhũng,
thu hồi một số lượng lớn tiền, tài sản cho Nhà nước và nhân dân. Tuy
nhiên, còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu của cuộc
đấu tranh phòng ngừa, chống tham nhũng hiện nay.

6

6


II/ Phần 2: Muc tiêu của Đề án.
1. Muc tiêu chung:
Tham nhũng là một thách thức lớn mà chúng ta phải đối mặt trên con

đường phát triển của đất nước trong thế kỷ 21. Đảng, Nhà nước ta đã thực
hiện nhiều biện pháp đồng bộ nhằm phòng, chống tham nhũng, đã xây
dựng một khung pháp luật về phòng, chống tham nhũng tương đối đồng bộ,
trong đó quy định về các biện pháp phòng ngừa, xử lý tham nhũng tương
đối hợp lý và hiện đại. Tuy nhiên, khung pháp luật này còn bộc lộ một số
tồn tại cần phải được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện.
Làm rõ được những quy định của pháp luật về chống tham nhũng, từ
đó đánh giá thực trạng đồng thời tìm ra những phương thức, thủ đoạn và
nguyên nhân phát sinh tệ tham nhũng, đưa ra những giải pháp và kiến nghị
để góp phần phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả đối với tệ tham nhũng
trong tình hình hiện nay.
2. Muc tiêu cụ thể:
Trên cơ sở chủ trương, quan điểm và các giải pháp của Đảng và Nhà
nước về phòng, chống tham nhũng và việc nghiên cứu một cách toàn diện
về nguyên nhân, nguồn gốc phát sinh, những lĩnh vực dễ phát sinh tham
nhũng có thể đưa ra nhóm giải pháp phòng, ngừa và chống tham nhũng.
Chủ yếu đề cập đến các hành vi và tệ tham nhũng được quy định trong Bộ
luật hình sự nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Luật phòng,
chống tham nhũng; Công tác phòng; ngừa và đấu tranh chống tham nhũng
thông qua hoạt động thanh tra.

7

7


III/ Phần 3. Nôi dung cơ bản của Đề án:
Đê án tập trung làm rõ 2 nội.dung chính sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và quy định của pháp luật về công tác
phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng.

Chương 2: Thực trạng tình hình tham nhũng và phòng chống tham
nhũng ỏ Thái Bình từ năm 1990 đến nay.

8

8


Chương I: Cơ sở lý luân và quy đinh của pháp luât về công tác phòng ngừa
và đấu tranh chống tham nhũng.
I/ Khái quát về tham nhũng,
1/ Khái niệm về tham nhũng.
Tham nhũng là một hiện tượng; xã hội gắn liền với sự hình thành
giai cấp và sự ra đời phát triển của bộ máy Nhà nước. Tệ nạn tham nhũng
diễn ra ở tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, không kể
quốc gia đó là giàu hay nghèo, tham nhũng diễn ra ở mọi lĩnh vực kinh tế,
xã hội, văn hoá, nó tồn tại và phát triển, len lỏi vào mọi mặt của đời sống
xã hội và đụng chạm đến lợi ích của hầu hết dân cư. Tham nhũng trở thành
một căn bệnh nguy hiểm, nó gây ra những hậu quả hết sức nguy hại về mặt
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, nó cản trở sự phát triển đi lên của xã hội,
thậm chí nó dẫn đến sự sụp đổ của cả một thể chế.
Khái niệm tham nhũng gắn bó chặt chẽ, hữu cơ với sự tồn tại và phát
triển của bộ máy Nhà nước. Về mặt lý luận thì không thể có tệ tham nhũng
ngoài Nhà nước, tách khỏi bộ máy quản lý cai trị. Cũng như quan liêu,
tham nhũng là căn bệnh đồng hành đặc trưng của mọi Nhà nước, nó là
khuyêt tật bẩm sinh của quyền lực, đó là biểu hiện của sự tha hoá quyên lực
của Nhà nước, là căn bệnh không thể tránh khỏi của các chế độ. Tham
nhũng là hiện tượng mà không ai có thể phủ nhận về sự tồn tại cũng như
tính nguy hại của nó đối với xã hội. Tuy nhiên khi nhận thức về tham
nhũng thì chưa có một định nghĩa chung nhất và cụ thể về tham nhũng.

Những hình thức tham nhũng, những biểu hiện tham nhũng khác nhau tuỳ
theo bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước.
Điêu 1 khoản 2, Luật phòng, chống tham nhũng về khái niệm tham nhũng
quy định: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi
dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.
2/ Các dấu hiệu đặc trưng của tham nhũng (nhìn từ góc độ pháp luật) Tham
nhũng được mô tả dưới dạng hành vi, bao gồm ba yếu tố.
9

9


Thứ nhất, hành vi này được thực hiện bởi một đối tượng đặc biệt là
người có chức vụ, quyền hạn; thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã có
sự lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ được
giao và thứ ba, hành vi này thực hiện với mục đích vì vụ lợi. Yếu tố vụ lợi
được hiểu không chỉ là vụ lợi cho cá nhân mình mà còn có thể là vụ lợi cho
cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình hoặc tổ chức, cá nhân khác. Lợi
ích được hướng tới ở đây không chỉ là lợi ích về vật chất mà có thể là cả lợi
ích về tinh thần. Lợi ích đó có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Được coi là hành
vi tham nhũng nếu có đủ cả ba yếu tố, nếu thiếu một trong các yếu tố đó thì
tuy không là tham nhũng, nhưng có thế là một hành vi vi phạm pháp luật
khác (chẳng hạn: hành vi cố ý lảm trái, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản).
Về những đối tượng được coi là người có chức vụ, quyền hạn, khoản
3 Điều 1 quy định:
a) Cán bộ, công chức, viên chức;
b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công

an nhân dân;
c) Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh
đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh
nghiệp;
d) .Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi
thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó”.
Như vậy, có bốn nhóm đối tượng được coi là người có chức vụ,
quyền hạn.
Nhóm thứ nhất, nêu tại điểm a là cán bộ, công chức, viên chức được
quy định cụ thể trong Luật Cán bộ, công chức, đây là nhóm đối tượng chủ
yếu, chiếm tỷ lệ lớn về số lượng trong số người có chức vụ, quyền hạn
10

10


thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Phòng, chống tham nhũng. Đồng thời,
cán bộ, công chức, viên chức cũng là nhóm đối tượng thường nắm giữ
những vị trí, công việc liên quan đến vốn, tài sản nhà nước hoặc tiếp xúc
trực tiếp, giải quyết công việc của công dân, doanh nghiệp, có nhiều cơ hội
để thực hiện hành vi tham nhũng nên cần được thể chế hóa và giám sát chặt
chẽ để giảm thiểu nguy cơ tham nhũng.
Nhóm thứ hai gồm những người có chức vụ, quyền hạn nêu tại điểm
b là nhóm đối tượng có địa vị pháp lý tương đối đặc thù, thuộc các lực
lượng vũ trang nhân dân và được quy định cụ thể tại Luật Quốc phòng và
Luật Công an nhân dân.
Nhóm thứ ba nêu tại điểm c có thể được chia thành hai loại: thứ nhất,
những cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước, theo đó,
doanh nghiệp của Nhà nước được hiểu là doanh nghiệp một trăm phần trăm
vốn nhà nước; thứ hai, cán bộ lãnh dạo, quản lý là người đại diện phần vốn

góp của Nhà nước tại các doanh nghiệp khác.
Nhóm thứ tư là những người nêu tại điểm d cũng đã được quy định là
người có chức vụ, quyền hạn tại Phần các tội phạm về chức vụ của Bộ luật
Hình sự. Theo đó, bên cạnh đối tượng là cán bộ, công chức nhà nước,
những người tuy không phải là cán bộ, công chức nhưng được giao nhiệm
vụ, còng vụ và có quyên hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó
cũng được coi là người có chức vụ, quyền hạn vả thuộc phạm vi điều chỉnh
của Luật Phòng, chống tham nhũng.
3/Nguyên nhân và tác haỉ của tê tham nhũng.
*/ Nguyên nhân: Có rất nhiều căn nguyên dẫn đến tham nhũng bao gồm cả
nguyên nhân khách quan và chủ quan, nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp.
Tuy nhiên do tính chất, mức độ và biểu hiện có khác nhau nên sự nhìn nhận
nguyên nhân của tình trạng tham nhũng có khác nhau. Tham nhũng nảy
sinh do sự biến động mạnh mẽ về chính trị, kinh tế; Xã hội thiếu dân chủ
dẫn đến bộ máy chuyên quyền độc đáo; trình độ quản lý xã hội thấp kém,
11

11


quản lý kinh tế xã hội lỏng lẻo sẽ tạo nhiều sơ hở cho các mầm mống tham
nhũng phát triển. Quản lý lỏng lẻo biểu hiện ở các mặt: Hệ thống pháp luật
cũ kỹ, lạc hậu; Bộ máy nhà nước cồng kềnh kém hiệu lực; Đội ngũ công
chức sa sút đạo đức, trình độ chuyên môn kém; Chế độ tiền lương không
thoả đáng trong khi đó cơ chế chịu trách nhiệm và cơ chế kiểm tra chức
trách công chức, công vụ không rõ ràng; Các chủ trương chính sách phát
triên kinh tế xã hội không đúng hướng, kỷ cương xã hội bị buông lỏng... tất
cả đó là cội nguồn của tệ tham nhũng.
*/ Tác hại của tham nhũng: Tham nhũng là một tệ nạn nguy hiểm, gây tác
hại vô cùng to lớn. Ở nước ta hiện nay, trong quá trình thực hiện công cuộc

đối mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, tham nhũng đã
được nhận diện là một căn bệnh nguy hiểm, là mối đe doạ đối với toàn xã
hội, đối với sự nghiệp cách mạng mà toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang dày
công xây dựng; Hiện nay tệ tham nhũng ở nước ta đã ở mức nghiêm trọng,
tham nhũng không chỉ xảy ra đối với cấp trung ương, đối với các chương
trình dự án lớn mà còn tràn lan trong các cấp chính quyền cơ sở. Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đánh giá: "tình
trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sông ở một
bộ phận không nhỏ cản hộ, đảng viên là rất nghiêm trọng, Nạn tham
nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức
kinh tế là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta”.
4/ Quan điểm của Đảng về phòng chống tham nhung:
Tham nhũng là căn bệnh của quyền lực, đấu tranh chống tham nhũng
chủ yếu và trước hết là chống tham nhũng trong bộ máy quyền lực. Đây là
cuộc đấu tranh hết sức gay go và phức tạp bởi đối tượng của nó chính là
bản thân những con người và khuyết tật của bộ máy nhà nước. Để loại bỏ
được căn bệnh nguy hiếm này chúng ta phải nắm vững những quan điểm
của Đảng về chống tham nhũng như:
Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn chặt với đổi mới kinh tế - xã
12

12


hội, nâng cao đời sống của nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân. Phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng Đảng và kiện toàn tăng cường đoàn kết nội bộ.
Góp phần làm trong sạch bộ máy các cơ quan Đảng, nâng cao sức chiến
đấu của từng đảng viên và cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến cơ sở.
Chống tham nhũng phải gắn liền với chống quan liêu, lãng phí. Đại hội IX

của Đảng đã khẳng định: "Gắn chống tham những với chống lãng phí quan
liêu, buôn lậu, đặc biệt chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu
bất chính”. Trong thực tế tham nhũng, quan liêu và lãng phí thường đi liền
với nhau, chúng đều là biểu hiện của sự tha hoá quyền lực nhà nước. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Phải chống bệnh quan liêu vì đó là nguồn gốc
của nạn tham ô, lãng phí”. Do vậy chống tham nhũng phải gắn liền với
chống quan liêu, thông qua chống tham nhũng mà chúng ta phát hiện ra
những thiếu sót, sơ hở bất cập trong chính sách để chỉnh sửa bổ sung; hoàn
thiện cơ chế quản lý.
Đấu tranh chống tham nhũng phải kết hợp giữa xây và chống. Vừa
tích cực phòng ngừa, vừa xử lý nghiêm mọi hành vi tham nhũng: Để đảm
bảo hiệu quả của cuộc đấu tranh chống tham nhũng thì Giám sát, thanh tra,
kiểm tra, kiểm toán là phương thức chủ động tích cực để đấu tranh chống
tham nhũng.
Đẩy mạnh phòng và chống tham nhũng một cách chủ động, huy
động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh chống tham nhũng,
thực hiện chống tham nhũng ở mọi cấp, mọi ngành, cần xác định rõ trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu về
hiệu quả đấu tranh chống tham nhũng ở cơ quan, đơn vị, địa phương mình.
Để đạt được hiệu quả cao trong phòng, chống tham nhũng cần phải
có sự phối kết hợp giữa các cơ quan, tổ chức ở các cấp, các ngành. Lực
lượng chủ yếu và trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng
là các cơ quan bảo vệ pháp luật, nhưng có thể thấy đa số những vụ tham
13

13


nhũng lớn được vạch trần bắt đầu từ sự phát hiện của các cơ quan thông tin
báo chí và việc phát giác của quần chúng nhân dân, Vì vậy cần phải phát

huy lực lượng hùng hậu này.
5 . Các biện pháp xử lý đối với người có hành vi tham nhũng:
Theo quy định tại Điều 68 và Điều 69 Luật phòng, chống tham
nhũng thì người có hành vi tham nhũng có thể phải chịu 2 loại chế tài là kỷ
luật và hình sự, cụ thể:
Điều 68. Đối tượng bị xử lý kỷ luật, xử lý hình sự gồm: 1. Người
có hành vi tham nhũng quy định tại Điều 3 của Luật này. 2. Người không
báo cáo, tố giác khi biết được hành vi tham nhũng. 3. Người không xử lý
báo cáo, tố giác, tố cáo về hành vi tham nhũng. 4. Người có hành vi đe doạ,
trả thù, trù dập người phát hiện, báo cáo, tố giác, tố cáo, cung cấp thông tin
về hành vi tham nhũng. 5. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy
ra hành vi tham những trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ
trách. 6. Người thực hiện hành vi khác vi phạm quy định của Luật này và
quy định khác của pháp luật có liên quan.
Điều 69. Xử lý đối với người có hành vi tham nhung: Người có
hành vi tham nhũng thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ
luật, truy cứu trách nhiệm hình sự; trong trường hợp bị kết án về hành vi
tham nhũng và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải bị buộc
thôi việc; đối với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thì đương
nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
6. Các biện pháp xử tham nhũng, xử lý tài sản do tham nhũng mà có:
Điều 4. Nguyên tắc xử lý tham nhũng: 1. Mọi hành vi tham nhũng
đều phải được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh. 2.
Người có hành vi tham nhũng ở bất kỳ cương vị, chức vụ nào phải bị xử lý
theo quy định của pháp luật. 3. Tài sản tham nhũng phải được thu hôi, tịch
thu; người có hành vi tham nhũng gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi
hoàn theo quy định của pháp luật. 4. Người có hành vi tham nhũng đã chủ
14

14



động khai báo trước khi bị phát hiện, tích cực hạn chế thiệt hại do hành vi
trái pháp luật của mình gây ra, tự giác nộp lại tài sản tham nhũng thì có thể
được xem xét giảm nhẹ hình thức kỷ luật, giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. 5. Việc xử lý
tham nhũng phải được thực hiện công khai theo quy định của pháp luật. 6.
Người có hành vi tham nhũng đã nghỉ hưu, thôi việc, chuyển công tác vẫn
phải bị xử lý về hành vi tham nhũng do mình đã thực hiện.
Điều 70. Nguyên tắc xử lý tài sản tham nhũng, 1. Cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi, tịch thu tài
sản tham nhũng. 2. Tài sản tham nhũng phải được trả lại cho chủ sở hữu,
người quản lý hợp pháp hoặc sung quỹ nhà nước. 3. Người đưa hối lộ mà
chủ động khai báo trước khi bị phát hiện hành vi đưa hối lộ thì được trả lại
tài sản đã dùng để hối lộ. 4. Việc tịch thu tài sản tham nhũng, thu hồi tài sản
tham nhũng được thực hiện bằng quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật.
Điều 71. Thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài: Trên cơ
sở điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
và phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, Chính phủ
Việt Nam hợp tác với Chính phủ nước ngoài trong việc thu hồi tài sản của
Việt Nam hoặc của nước ngoài bị tham nhung và trả lại tài sản đó cho chủ
sở hữu hợp pháp.
Như vậy, có thế thấy pháp luật hiện hành rất coi trọng các biện pháp
thu hồi tài sản tham nhũng. Bản chất của tham nhũng là lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để mưu lợi về kinh tế, cho nên để đấu tranh chống tham nhũng
một cách triệt để và có hiệu quả thì cần phải chú trọng đến thu hồi về kinh
tế, hạn chế tối đa và khắc phục hậu quả do hành vi tham nhũng gây ra, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội.


15

15


7. Vi trí, vai trò, nhiệm vụ của cơ quan thanh tra trong công tác phòng,
chống tham nhũng:
Luật thanh tra được Quốc hội Khoá 11 thông qua ngày 15/6/2004.
Điều 3, Luật thanh tra quy định về mục đích thanh tra : Hoạt động thanh tra
nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát
hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy
nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước;
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
Điều 2, Luật thanh tra 2010 nêu về Mục đích hoạt động thanh tra:
Mục đích hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý,
chính sách, pháp luật đề kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp
luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật;
phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Vai trò, vị trí của các tổ chức thanh tra nhà nước trong công tác
phòng, chống tham nhũng cũng được thể hiện khá rõ trong các quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra. Các cơ quan trong hệ thống
thanh tra nhà nước : Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện,
Thanh tra bộ, Thanh tra sở đều có nhiệm vụ chung là phòng ngừa và chống
tham nhũng theo quy định của pháp luật về chống tham nhũng; tổng hợp,
báo cáo kết quả về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống

tham nhũng thuộc thẩm quyền trách nhiệm của mình. Điều 76. Trách
nhiệm của Thanh tra Chính phủ : Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm sau đây: 1. Tổ chức, chỉ
đạo, hướng dẫn công tác thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp
16

16


luật về phòng, chống tham nhũng; trường hợp phát hiện hành vi tham
nhũng thì đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý; 2. Xây dựng hệ
thống dữ liệu chung về phòng chống tham nhũng.
“Cơ quan thanh tra có trách nhiệm giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà
nước cùng cấp xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và kiến nghị biện
pháp xử lý; trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu tội phạm, thì chuyển
cho cơ quan điêu tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xử lý theo quy định của
pháp luật về tố tụng hình sự” và “Quản lý nhà nước về công tác phòng,
chống tham nhũng; thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy
định của pháp luật vè phòng, chống tham nhũng"
“Trong phạm vị nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chánh thanh tra các
cấp, các ngành có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc việc phòng ngừa, phát
hiện hành vi tham nhũng, xử người có hành vi tham nhũng trong các cơ
quan tổ chức thuộc bộ, ngành, địa phương mình...”
Ngoài ra, vai trò của tổ chức thanh tra trong đấu tranh chống tham
nhũng còn được quy định ở nhiều văn kiện của Đảng và ở nhiều văn bản
quy phạm pháp luật khác.

17

17



CHƯONG 2 : THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THAM NHŨNG VÀ PHÒNG
CHỐNG THAM NHŨNG Ở THÁI BÌNH (TỪ 1995 ĐẾN NAY)
L Đăc điểm kinh tế xã hôi Thái Bình.
Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp, diện tích 1500 Km2, dân số trên
1,8 triệu người có 8 huyện, Thị và 285 xã, phường, Thị trấn. Trong sự
nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Thái Bình là một tỉnh có truyền thống vẻ vang “thóc không thiếu một
cân, quân không thiếu một người” đóng góp sức người sức của cho sự
nghiệp cách mạng chung của đất nước. Trong những năm thực hiện công
cuộc đổi mới đất nước, tuy là tỉnh nông nghiệp có nhiều khó khăn nhưng
Đảng bộ và nhân dân Thái Bình đã nỗ lực phấn đấu đạt nhiều thành tích to
lớn trên các lĩnh vực kinh tế xã hội. Phong trào xây dựng có sở hạ tầng
nông thôn của Thái bình dẫn đầu cả nước: 100% số xã có đường đá láng
nhựa, có điện thoại; Trên 98,5% số hộ có điện thắp sáng, hầu hết các
trường học, trạm xá được xây dựng kiên cố, các lĩnh vực văn hoá xã hội
giáo dục có bước phát triển mới, đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được nâng cao, bộ mặt nông thôn được cái thiện. Tuy nhiên trong quá
trình đi lên bên cạnh những thành tựu đã đạt được Thái Binh đã mắc một số
sai lầm khuyết điếm làm phát sinh khiếu kiện của công dân.
Từ đầu năm 1997, công dân một số xã trong huyện Quỳnh phụ đi
KNTC tập thể, tập trung đông người lên huyện, lên tỉnh đòi hỏi các cấp
chính quyền phải giải quyết. Đến cuối năm 1997 tình hình diễn biến phức
tạp, việc công dân đi KNTC tập thể đã phát sinh ở hầu hết các xã trong
huyện Quỳnh phụ và tiếp tục lan ra ở các huyện, thị xã. số lượng công dân
đi KNTC tập thể tăng, nội dung phức tạp, thái độ gay gắt. Thời kỳ cao điểm
nhất tới 264/ 285 xã, Thị trấn có công dân đi KNTC, trong đó có 61 xã có
công dân đi KNTC với nội dung phức tạp, 18 xã tình hình khiếu kiện có lúc
rất nghiêm trọng, xảy ra tình trạng vây ép, truy bức, bắt giữ cán bộ, một số

phân tử qúa khích đập phá tài sản của Nhà nước, tập thể và tài sản của công
18

18


dân, một số Đảng bộ cơ sở mất vai trò lãnh đạo, đứng ngoài cuộc, chính
quyền một số nơi bị vô hiệu hoá. Nhiều xã đã hình thành “Ban Thanh tra
Nhân dân” một cách tự phát, tự ý niêm phong tài liệu của UBND xã và
HTX nông nghiệp, tiến hành tự thanh tra kiểm tra trái với quy định của
pháp luật...
Trước tình hình trên, thực hiện sự chỉ đạo của Tổ công tác Bộ Chính
trị, Tỉnh uỷ Thái Bình đã họp đề ra Nghị quyết số 06 phân tích nguyên
nhân tình hình KNTC của công dân, đề ra các chủ trương, giải pháp ổn
định tình hình, trong đó xác định công tác thanh tra giải quyết KNTC là
nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Ban Thường vụ Tỉnh uỷ có Chỉ thị số 11 yêu
cầu cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, các ngành tăng cường lãnh đạo. chỉ
đạo và tổ chức hoạt động thanh tra giải quyết KNTC.
2. Tinh hình tham nhũng ở Thái Bình thông qua hoạt động thanh tra (19902010).
2. 1. Khái quát chung :
Thái Bình nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, sản xuất công nghiệp,
thương mại dịch vụ mới bước đầu phát triển, nguồn ngân sách hạn hẹp, chi
ngân sách còn nhiều khó khăn. Tuy vậy tình hình tham nhũng vẫn còn diễn
biến phức tạp có thể đánh giá khái quát như sau:
Một là: Mức độ tham nhũng tăng, qua kết quả thanh tra cho thấy số
các vụ tham nhũng được phát hiện có xu hướng tăng thể hiện ở số lượng tài
sản của nhà nước bị chiếm đoạt, lãng phi, thất thoát; ngày càng có nhiều vụ
việc tham nhũng bị phát hiện.
Hai là: Phạm vi tham nhũng xảy ra ở các cấp các ngành. Ngoài
những lĩnh vực nhạy cảm hay xảy ra tham nhũng như đầu tư xây dựng cơ

bản, quản lý đất đai, quản lý tài chính, thuế...Tham nhũng đã lan sang các
lĩnh vực từ trước tới nay rất được coi trọng về đạo lý như giáo dục, y tế,
chính sách nhân đạo, xã hội. Chính tham nhũng, tiêu cực ở các cơ sở là 1
trong những nguyên nhân gây nên những điểm nóng thời gian qua.
19

19


Ba là: Tính chất tham nhũng, ngày cảng phức tạp, thủ đoạn tham
nhũng ngày càng tinh vi. Đối tượng thực hiện hành vi tham nhũng có cả
những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có nhiều kinh nghiệm
trong công tác quản lý vì vậy việc phát hiện xử lý gặp rất nhiều khó khăn,
2.2 Kết quả đấu tranh chống tham nhũng thông qua hoạt động thanh tra ở
Thái Bình từ 1990- 2010.
Theo số liệu tổng hợp, từ năm 1990 đến hết năm 2010 toàn ngành
Thanh tra Thái Bình đã tham mưu giải quyết và trực tiếp giải quyết 15.316
đơn thư KNTC của công dân, trong đó có 12.192 đơn khiếu nại, 3.124 đơn
tố cáo. Tổ chức 1.844 cuộc thanh tra kinh tế xã hội ở 8.580 lượt cơ quan,
đơn vị. Đã phát hiện tổng số các sai phạm về kinh tế 175, 1 tỷ đồng; số phải
xử lý thư hồi cho ngân sách Nhà nước và phải thu nộp quỹ của đơn vị là
96,2 tỷ đồng, trong đó số do tham ô chiếm dụng cá nhân là 13.737 triệu
đồng. Tổng số thóc sai phạm ỉà 39.665 tấn, số xử lý phải thu hồi và trả lại
dân là 26.867 tấn. Diện tích đất cấp giao làm nhà ở trái thẩm quyền là
648,09 ha. Số cán bộ mắc sai phạm phải xử lý kỷ luật hành chính 3.288
người. Chuyển cơ quan điều tra xử lý theo pháp luật hình sự 111 vụ, 270 cá
nhân có hành vi tham nhũng tiêu cực.
Các hành vi tham nhũng, tiêu cực phát hiện qua hoạt động thanh tra
cụ thê trên các lĩnh vực như sau: Trong quản lý sử dụng đất đai; Trong
quản lý ngân sách và chi tiêu tài chính, các đơn vị; Trong lĩnh vực XDCB;

Trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng; Trong việc thực hiện các chương trình
dự án phát triển kinh tế; Trong các lĩnh vực xã hội; Trong lĩnh vực y tể giáo
dục:
2.3 Những tồn tại, hạn chế:
- Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về đấu tranh chống
tham nhũng, tiêu cực chưa được thường xuyên, sâu rộng. Việc triển khai
thực hiện ở các cấp các ngành chưa đồng đều, kiên quyết và triệt để. Từ
năm 1990, thực hiện Chỉ thị số 15, kết luận số 207 của bộ Chính trị, quyết
20

20


định số 240, quyết định số 114 của Chính phủ, các cấp các ngành đã thành
lập Ban chỉ đạo chống tham nhũng, tiêu cực, song không được kiện toàn,
củng cô thường xuyên, đến nay phần lớn không còn hoạt động.
- Lành đạo một số cấp, ngành, cơ quan, đơn vị, chưa nêu cao tinh
thần trách nhiệm, tính tiên phong, gương mẫu trong việc thực hiện cuộc
đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Chưa tự tổ chức thanh tra, kiểm tra,
ngăn chặn, phát hiện và xử lý tham nhũng, tiêu cực trong nội bộ. Hầu hết
các vụ việc tham nhũng tiêu cực đều do các cơ quan chức năng (như Thanh
tra, Công an ...) phát hiện qua hoạt động và từ ý kiến, kiến nghị của quần
chúng nhân dân.
- Số lượng tiền, tài sản có sai phạm bị thất thoát, tham ô chiếm đoạt
phát hiện lớn song kết quả thu hồi chưa nhiều, việc xử lý cán bộ có vi
phạm, có vụ việc, có đơn vị làm chưa nghiêm, còn nương nhẹ, không xử lý
hoặc cho người vi phạm nghỉ chế độ, chuyển công tác, đã tạo ra tâm lý hoài
nghi, thiếu tin trong cán bộ và nhân dân, làm giảm hiệu quả, hiệu lực của
cuộc đấu tranh, Có những đơn vị, cá nhân vi phạm sau khi bị xử lý được
uốn nắn, nhắc nhở nhưng không khắc phục mà còn tái phạm, ở một số lĩnh

vực, tình trạng tham nhũng, tiêu cực không những không được hạn chế mà
còn diễn biến phức tạp, kéo dài với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, quy
mô, mức độ lớn hơn như trong lĩnh vực XDCB, việc thực hiện các chương
trình, dự án ngân sách cấp cho phát triển kinh tế, xã hội.
- Đối với ngành Thanh tra, hoạt động của một số tổ chức Thanh tra
gắn với đấu tranh chống tham nhũng tiêu cực chưa đồng đều, chưa có sự
phối kết hợp chặt chẽ dẫn đến trùng lắp hặc bỏ trống lĩnh vực, địa bàn. Một
số cuộc thanh tra chất lượng, hiệu quả chưa cao. Một số vụ việc đã phát
hiện các sai phạm về kinh tế song chưa quy rõ trách nhiệm của các cá nhân
có liên quan đã ảnh hưởng đến việc thu hồi kinh tế bị thất thoát và xử lý
cán bộ kỷ luật có vi phạm.
2.4. Nguyên nhân của các tồn tại trên:
21

21


- Hệ thống pháp luật về đấu tranh chống tham nhũng tiêu cực chưa
đồng bộ và thiếu cụ thể. Chưa quy định trách nhiệm của lãnh đạo cấp,
ngành, đơn vị để xảy ra tình trạng tham nhũng, tiêu cực nên việc xử lý chưa
nghiêm túc và kịp thời.
- Sự chỉ đạo của cấp Uỷ Đảng, chính quyền một số cấp, ngành, cơ
quan, đơn vị đối với công tác này chưa được quan tâm thường xuyên, đúng
mức. Công tác tự phê bình và phê bình, thực hiện quy chế dân chủ công
khai một số nơi còn hạn chế, tình trạng mất dân chủ, quan liêu trong một số
cơ quan, đơn vị nhất là cấp chính quyền cơ sở kéo dài, chậm được khắc
phục, sửa chữa. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về
phẩm chất, đạo đức, lối sống song việc quản lý, giáo dục cán bộ, xử lý,
thay thế cán bộ vi phạm chưa có sự chuyển biến tích cực. Bản thân một số
đ/c lãnh đạo cấp, ngành, đơn vị, cơ sở chưa gương mẫu thực hiện đấu tranh

chống tham nhũng, tiêu cực, còn có vi phạm.
- Việc thực hiện cải cách hành chính tiến hành chậm, thủ tục hành
chính trong việc giải quyết các công việc cho dân, cơ quan, tổ chức ở một
số ngành, lĩnh vực còn rườm rà, chưa công khai, gây ra những phiền hà cho
nhân dân.
- Hành vị tham nhũng, tiêu cực diễn ra ngày càng tinh vi, phức tạp.
Nhiều vụ việc liên quan đến nhiều đơn vị, cá nhân, việc phát hiện và làm rõ
có nhiều khó khăn song lực lượng trực tiếp chống tham nhũng, tiêu cực chủ
yếu là do các ngành khối Nội chính nên chưa đủ mạnh. Chưa có cơ chế
điều hoà, phối hợp chặt chẽ giữa cấp uỷ Đảng, chính quyền và các ngành
chức năng nên hiệu lực, hiệu quả của cuộc đấu tranh còn hạn chế.
- Chưa phát động được phong trào đấu tranh mạnh mẽ, rộng khắp
trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là ở các cơ quan, doanh nghiệp,
thiếu những quy định cơ chế cụ thể, để nhân dân tích cực giám sát kiểm tra
tham gia cuộc đấu tranh chống tham nhũng. tiêu cực có hiệu quả.
IV/ Phần 4: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống tham
22

22


nhũng, tiêu cực trong thời gian tới
I. Để nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cưc, cần
thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
Trên cơ sở chủ trương, quan điểm và các giải pháp của Đảng và Nhà
nước về phòng, chống tham nhũng và việc nghiên cứu một cách toàn điện
về nguyên nhân, nguồn gốc phát sinh, những lĩnh vực dễ phát sinh tham
nhũng có thể đưa ra nhóm giải pháp phòng ngừa và chống tham nhũng như
sau;
1/ Bổ sung hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, đảm bảo

các quy trình đồng bộ, dễ thực hiện. Trước hết hoàn thiện các thể chế về
quản lý kinh tế, thể chế về quản lý xã hội; Hoàn thiện các quy định về hành
vi tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng; các quy định liên quan đến
công khai, minh bạch tài sản (kê khai tài sản, khai báo thu nhập đối với cán
bộ, công chức...); trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị để xảy ra
tham nhũng trong nội bộ.
2/ Đẩy mạnh cải cách bộ máy hành chính Nhà nước, áp dụng cơ chế
“một cửa” xoá bỏ các thủ tục phiền hà, công khai hoá thủ tục hành chính để
mọi người biết, thực hiện và giám sát người thi hành công vụ.
3/ Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; Cải cách
chế độ tiền lương, nâng cao thu nhập, đời sống của người hưởng lương nói
chung, các cán bộ công chức Nhà nước nói riêng. Có chế độ động viên,
khen thưởng những người phát hiện và trực tiếp đấu tranh chống tham
nhũng tiêu cực có hiệu quả.
4/ Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính
quyền đối với cuộc đấu tranh chống tham nhung, tiêu cực, tiếp tục thực
hiện các Nghị quyết về xây đựng Đảng, tăng cường giáo dục chính trị tư
tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình, chống
chủ nghĩa cá nhân. Đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, công khai
23

23


các hoạt động của cơ quan, đơn vị, phát huy quyền làm chủ của cán bộ
đảng viên và nhân dân, nâng cao tác dụng ngăn chặn phòng ngừa tham
nhũng, tiêu cực.
5/ Củng cố, kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật, tăng cường hoạt
động thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước, sự phối kết

hợp chặt chẽ trong hoạt động tạo ra sức mạnh đồng bộ đế phát hiện và xử
lý kịp thời, nghiêm minh các vụ việc tham nhũng, tiêu cực.
6/ Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, phát động
rộng rãi phong trào quần chúng tham gia phát hiện với các cơ quan chức
năng các vụ việc tham nhũng, tiêu cực. Tăng cường vai trò giám sát của
Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp và các đoàn thể nhân dân,
các CO' quan thông tin đại chúng đối với hoạt động các cấp, các ngành, các
đơn vị nói chung và với thực hiện cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu
cực.
Để các giải pháp trên đây có tính khả thi và sớm được thực hiện xin
kiến nghị như sau:
- Đảng và Nhà nước cần có nhiều biện pháp kiên quyết hơn nữa
trong việc đấu tranh chống tham nhũng, kết hợp với tích cực phòng ngừa
ngăn chặn có hiệu quả. Thông qua các hoạt động thanh tra kiểm tra của các
cơ quan Đảng và Nhà nước ở Trung ương và giám sát của Quốc hội để kịp
thời phát hiện và xử lý sớm những hiện tượng tiêu cực tham nhũng và công
khai rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Bộ luật hình sự và Luật chống tham nhũng hiện hành là những cơ
sở pháp lý quan trọng cho cuộc đấu tranh phòng và chống tham nhũng và
đã đạt được kết quả tương đối khả quan. Tuy nhiên diễn biến của tình trạng
tham nhũng hiện nay ở nước ta đòi hỏi cần có nhiều hơn nữa các giải pháp
đồng bộ, trong đó việc hoàn thiện thể chế pháp luật cần phải được ưu tiên
sớm. Trước mắt theo tôi nên sửa đổi một số điều của Bộ luật hình sự, xây
dựng Luật chống tham nhũng có như vậy mới quy định được đầỳ đủ các
24

24


biện pháp cần thiết, đồng bộ đảm bảo cho hiệu lực và hiệu quả chống tham

nhũng được tốt hơn.
- Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh chỉ đạo các cấp uỷ Đảng, các cấp
chính quyền từ tỉnh đến cơ sở hàng năm tiến hành tổng kết công tác Đảng,
công tác chuyên môn phải gắn với việc sơ tổng kết kiểm điểm việc thực
hiện đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, tiếp tục cho củng cố kiện toàn
ban chỉ đạo chống tham nhũng, tiêu cực ở các cấp các ngành, nâng cao
nhận thức và trách nhiệm của lãnh đạo mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi đơn vị
trong cuộc đấu tranh này.
- Rà soát các văn bản quản lý, bổ sung, sửa đồi, ban hành mới các
văn bản quy định về cơ chế, chính sách của địa phương, ngành mình, khắc
phục các sơ hở, thiếu sót, chấn chỉnh tăng cường công tác quản lý, nâng
cao tác dụng ngăn chặn, phòng ngừa.
- Chỉ đạo tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, điều tra, kiểm
sát, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật các vụ việc
tham nhũng, tiêu cực. Tạo các điều kiện về biên chế cán bộ, phương tiện
làm việc và có chế độ khen thưởng kịp thời, động viên đội ngũ cán bộ,
công chức trong các cơ quan bảo vệ pháp luật nâng cao hiệu quả hoạt động.
Xử lý dứt điểm các vụ việc tồn đọng, các vụ việc nổi cộm, bức xúc. Thu
hồi đầy đủ kinh tế bị thất thoát, tham ô, chiếm dụng. Xử lý nghiêm các cán
bộ có sai phạm, Đưa ra xét xử công khai một số vụ án tham nhũng có tính
chất điển hình để nâng cao tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung.
2. Giải pháp cụ thể:
2.1 Cần sớm sửa đổi Luật PCTN năm 2005.
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đà tạo lập khung pháp lý
quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham
nhũng. Tuy nhiên, qua triển khai thực hiện nhiều quy định của Luật phòng,
chống tham nhũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa phản ánh được
những chủ trương, quan điểm chỉ đạo trong một số nghị quyết, văn kiện
25


25


×