Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

khóa luận viêm tử cung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.63 KB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA THÚ Y
_ _ _  _ _ _

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP

Đề tài:
"Khảo sát tình hình mắc bệnh viêm tử cung ở lợn
tại trại lê phước phúc huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh và thử nghiệm
một số phác đồ điều trị "


HÀ NỘI - 2015

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt báo cáo tốt nghiệp này ngoài cố gắng và nỗ lực của bản
thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ quý báu của các cá nhân và tập thể.
Nhân dịp này cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới:
Học viện Nông Nghiệp Việt Nam, khoa Thú Y cùng các thầy cô đã đào tạo
và truyền tải kiến thức khoa học cho tôi trong suốt quá trình học tập tại trường.
Trang trại Trương Xuân Bính huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh đã tạo mọi
điều kiện giúp tôi hoàn thành báo cáo này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo: TS.Nguyễn Văn
Thanh – là những người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo giúp đỡ tôi
trong suốt quá trinh thực hiện và hoàn thành tốt báo cáo tốt nghiệp.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đã luôn quan tâm, chia sẻ, ủng hộ tôi suốt quá trình
học tập và hoàn thành đề tài tốt nghiệp.

Xin chân thành cảm!



PHẦN I
MỞ ĐẦU
Trong xã hội ngày nay, ngành chăn nuôi nói chung chăn nuôi lợn nói riêng
có xu hướng ngày càng phát triển mạnh nhằm cung cấp nguồn thực phẩm thiết yếu
cho thị trường, đem lại hiệu quả cao cho người chăn nuôi. Để cung cấp nguồn con
giống có chất lượng tốt cho ngành chăn nuôi lợn thì việc phát triển đàn lợn nái sinh
sản là vô cùng cần thiết.
Tuy vậy, việc phát triển đàn lợn nái sinh sản gặp không ít khó khắn. Một trong
những trở ngại lớn nhất là tình hình dịch bệnh xảy ra dẫn đến thiệt hại lớn nếu
không can thiệp kịp thời. Trong quá trình sinh đẻ, lợn nái dễ bị các loại vi khuẩn ở
ngoài môi trường như: Streptococcus, Staphylococcus, E. Coli,... xâm nhập và gây
một số bệnh nhiễm trùng sau đẻ như Viêm âm đạo, Viêm âm môn,... đặc biệt hay
gặp là bệnh Viêm tử cung đây là bệnh ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh sản
của lợn mẹ. Nếu không điều trị kịp thời, Viêm tử cung có thể dẫn tới kế phát các
bệnh như: Viêm vú, Mất sữa, Rối loạn sinh sản, Chậm sinh, Vô sinh, Viêm phúc
mạc dẫn đến nhiễm trùng huyết và chết... Vì vậy, các bệnh viêm đường sinh dục,
đặc biệt là bệnh Viêm tử cung ở lợn nái ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đàn
lợn giống nói riêng, đồng thời ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và hiệu quả
toàn ngành chăn nuôi lợn nói chung.
Để góp phần vào việc phòng và điều trị bệnh Viêm tử cung lợn, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Khảo sát bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái tại trang trại ông Trương Xuân
Bính huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh và thử nghiệm điều trị.”
1.2 Mục đích
-

Khảo sát tình hình chăn nuôi và tình hình dịch bệnh tại trang trại.


- Khảo sát được thực trạng bệnh viêm tử cung ở đàn lợn nái theo quy mô

trang trại.
- Thử nghiệm một số phác đồ điều trị Viêm tử cung và rút ra phác đồ điều trị
tốt nhất.


PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm cơ quan sinh dục và sinh lý của lợn nái
2.1.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục cái
Trong cơ quan sinh sản, bộ phận sinh dục của lợn cái được chia thành: bộ
phận sinh dục bên ngoài và bộ phận sinh dục bên trong.
a, Bộ phận sinh dục bên ngoài gồm: âm môn, âm vật và tiền đình
 Âm hộ (Vulva) hay còn gọi là âm môn, nằm dưới hậu môn, phía ngoài
là hai môi lớn có sắc tố đen. Vào thời kỳ động dục và khi sắp đẻ, hai môi này sung
huyết – mọng nước, sưng lên to hơn bình thường và có màu hồng tươi. Cuối thời
kỳ động dục và khi đã đẻ xong, hai môi lớn hết sung huyết, nhỏ dần và thâm lại.
Dưới niêm mạc của những môi lớn có nhiều tuyến tiết mồ hôi và chất nhờn.
Phía trong của hai môi lớn là hai môi nhỏ, luôn có màu hồng tười tắn và sự
mềm mại được giữ thường xuyên bởi dịch nhờn. Phía trên của hai môi nhỏ thu hẹp
dần, các nếp gấp hình thành lên âm vật.
Khoảng giữa của âm hộ có lỗ thông với âm đạo, gọi là âm môn (khe sinh
dục hay cửa mình).
 Âm vật (Clitoris) có cấu tạo như dương vật được thu nhỏ lại, âm vật là
tạng cương của đường sinh dục cái, được dính vào phần trên của khớp bán động
ngồi, bao xung quanh bởi lớp cơ ngồi hổng. Âm vật được bao phủ bởi lớp niêm
mạc có chứa các đầu mút dây thần kinh cảm giác, lớp thể hổng và tổ chức liên kết
bao bọc gọi là mạc âm vật.
 Tiền đình (Vestibulum vaginae sinus progenitalis) là giới hạn giữa âm
môn và âm đạo. Trong tiền đình có màng trinh, phía trước màng trinh là âm môn,
phía sau màng trinh là âm đạo. Màng trinh có các sợi đàn hồi ở giữa và do hai lá



niêm mạc gấp thành một nếp. Lỗ niệu đạo ở sau và dưới màng trinh. Hành tiền
đình là hai tạng cương ở hai bên lỗ niệu đạo và có cấu tạo giống thể hổng ở bao
dương vật của con đực.
b, Bộ phận sinh dục bên trong gồm: âm đạo, tử cung, buồng trứng và ống dẫn
trứng
 Âm đạo (Vagina) là một ống tròn để chứa cơ quan sinh dục khi giao
phối, đồng thời là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong quá trình sinh đẻ và là ống
thải các chất dịch từ tử cung. Cấu tạo âm đạo chia làm ba lớp
- Lớp liên kết ở ngoài.
- Lớp cơ trơn có cơ dọc bên ngoài, cơ vòng bên trong. Các lớp cơ âm
đạo liên kết với các cơ ở cổ tử cung.
- Lớp niêm mạc có nhiều tế bào thượng bì, gấp nếp dọc hai bên nhiều
hơn ở giữa.
 Tử cung (Uterus) có cấu tạo phù hợp với chức năng phát triển và dinh
dưỡng bào thai. Trứng được thụ tinh ở ống dẫn trứng rồi trở về tử cung làm tổ, ở
đây hợp tử phát triển là nhờ chất dinh dưỡng từ cơ thể mẹ thông qua lớp niêm mạc
tử cung cung cấp. Tử cung còn có nhiệm vụ đẩy thai ra ngoài trong quá trình đẻ
nhờ vào các lớp cơ. Tử cung được cấu tạo bởi 3 lớp.
- Ngoài cùng là tổ chức liên kết (Perimetrium).
- Lớp cơ trơn (Myometrium) giữ vai trò quan trọng trong việc đẩy thai ra
ngoài. Nó là lớp cơ trơn khỏe nhất trong cơ thể. Bên trong các cơ trơn có những sợi
liên kết đàn hồi và tĩnh mạch lớn. Các lớp cơ đó đan vào nhau làm cho tử cung
chắc, tính đàn hồi cao.
- Lớp niêm mạc tử cung (Endometrium) có màu hồng, được phủ lên bằng
những tế bào biểu mô kéo dài thành lông nhung. Xen kẽ giữa các tế bào biểu mô là
các tuyến tiết chất nhầy. Chất nhầy được gạt về cổ tử cung khi các lông rung động.



Tử cung nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng, trên bàng quang và niệu
đạo trong xoang chậu, hai sừng nằm ở phần trước xoang chậu. Tử cung được giữ
tại chỗ nhờ sự bám của âm đạo vào cổ tử cung và được giữ bởi các dây chằng.
Tử cung của lợn thuộc loại tử cung phân nhánh (Uterus Bicorus). Tử cung
được chia làm ba phần: cổ, thân và sừng tử cung.
- Sừng tử cung dài 50 – 100cm, hình ruột non, thông với ống dẫn trứng.
- Thân tử cung dài 3 – 5cm.
- Cổ tử cung lợn dài 10 -18cm, có thành dày, hình trụ, có các cột thịt xếp
theo kiểu cài răng lược, thông với âm đạo.
 Buồng trứng (Ovarium) của lợn gồm một đôi treo ở đầu trước của sừng
tử cung, phía dưới hõm hông, cạnh trước đây chằng rộng (dây chằng tử cung) và
được giữ bởi đây chằng buồng trứng – tử cung và các mạch quản thần kinh vào
nuôi nó. Hình dáng của buồng trứng rất đa dạng nhưng phần lớn có hình bầu dục
hoặc hình ovan dẹt, không có lõm rụng trứng. Buồng trứng có cấu tạo.
- Bên ngoài là lớp màng có tế bào biểu mô hình khối ở ngoài và lớp màng
trắng dai chắc như màng bọc bao dịch hoàn ở bên trong.
- Bên trong là mô buông trứng gồm hai miền: miền vỏ và miền tủy.
+ Miền vỏ (peripheral cortex) dưới màng trắng, nền là mô liên kết đệm
gồm nhiều sợi chun, sợi hồ. Miền vỏ sinh ra các loại nang trứng (noãn bao) ở
những giai đoạn phát triển khác nhau, mỗi nang trứng là một túi tròn chứa tế bào
trứng bên trong.
+ Miền tủy ở giữa buồng trứng (zona vasculosa; central medulla) gồm mô
liên kết giữa sợi xốp chứa các sợi cơ trơn, mạch máu, thần kinh và lâm ba.
 Ống dẫn trứng (Oviductus) còn gọi là vòi Fallop, nằm ở màng treo
buồng trứng. Khi có tinh trùng vào đường sinh dục của gia súc cái, tế bào trứng có
thể bị đứng lại ở các đoạn khác nhau của ống dẫn rứng. Ống dẫn trứng được chia
thành hai đoạn.


- Đoạn ống dẫn trứng phía buồng trứng được phát triển to tạo thành một

cái phễu để hứng tế bào trứng. Loa kèn có nhiều tua, nhung mao rung động để
hứng tế bào trứng. Quá trình thụ tinh thường xảy ra khi trứng và tinh trùng gặp
nhau ở 1/3 phía trên ống dẫn trứng.
- Đoạn ống dẫn trứng phía sừng tử cung gắn với mút sừng tử cung. Đoạn
này phía ngoài là lớp liên kết sợi, được kéo dài từ màng treo buồng trứng. Ở giữa
là hai lớp cơ, cơ vòng phía trong, cơ dọc phía ngoài. Trong cùng là lớp niêm mạc
làm nhiệm vụ tiết niêm dịch. Phía trên lớp niêm mạc có lớp nhung mao luôn rung
động để đẩy tế bào trứng hay hợp tử xuống tử cung làm tổ.
Cấu tạo ống dẫn trứng gồm có phễu, phần rộng và phần eo. Phễu mở ra để
tiếp nhận noãn và có những sợi lông nhung để gia tăng diện tích tiếp xúc với buông
trứng khi xuất noãn. Phễu tiếp nối với phần rộng. Phần rộng chiếm khoảng 1/2
chiều dài của ống dẫn trứng, đường kính tương đối lớn và mặt trong có nhiều nếp
gấp với tế bào biểu mô có lông nhỏ. Phần eo nối tiếp sừng tử cung, nó có thành dày
hơn phần rộng và ít nếp gấp hơn.
Vai trò cơ bản của ống dẫn trứng là vận chuyển noãn và tinh trùng đến nơi
thụ tinh trong ống dẫn trứng (1/3 phía trên ống dẫn trứng), tiết các chất để nuôi
dưỡng noãn, duy trì sự sống và gia tăng khả năng thụ tinh của tinh trùng, tiết các
chất nuôi dưỡng phôi trong vài ngày trước khi phôi đi vào tử cung. Nơi tiếp giáp
giữa phần eo và tử cung có vai trò điều khiển sự di chuyển của tinh trùng đến phần
rộng của ống dẫn trứng hoặc di chuyển của phôi vào tử cung. Ở lợn, sự co thắt của
nơi tiếp giáp eo – tử cung tạo thành vật cản đối với tinh trùng để không có quá
nhiều tinh trùng đi đến phần rộng, nhờ đó tránh được hiện tượng nhiều tinh trùng
xâm nhập noãn.
2.1.2. Đặc điểm sinh lý sinh dục lợn cái
Đặc điểm sinh lý sinh dục của gia súc nói chung và loài lợn nói riêng đặc


trưng cho loài, có tính ổn định với từng giống vật nuôi. Nó được duy trì qua các thế
hệ và luôn củng cố, hoàn thiện qua quá trình chọn lọc. Ngoài ra, còn chịu ảnh
hưởng của một số yếu tố như: ngoại cảnh, điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc, sử

dụng,… Để đánh giá đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái người ta thường tập
trung nghiên cứu, theo dõi các chỉ tiêu sau đây
a, Sự thành thục về tính
Sự thành thục về tính được đánh dấu khi con vật bắt đầu có phản xạ sinh
dục và có khả năng sinh sản. Lúc này tất cả các cơ quan sinh dục của gia súc cái
phát triển đến mức độ hoàn thiện, buồng trứng có bao noãn chin, có trứng rụng và
trứng có khả năng thụ thai, tử cung biến đổi theo, đủ điều kiện cho thai phát triển
trong tử cung. Những dấu hiệu động dục xút hiện đối với gia súc như vậy gọi là sự
thành thục về tính và sự thành thục về tính và sự thành thục về tính thường đến
sớm hơn sự thành thục về thể vóc.
Theo A. A. Xuxoep, Cù Xuân Dần, Lê Khắc Thận (1985), sự thành thục
của gia súc được đặc trưng bởi những thay đổi bên trong và bên ngoài cơ thể, đặc
biệt là sự biến đổi bên trong của cơ quan sinh dục.
Tùy thuộc vào từng loài gia súc khác nhau mà thời gian thành thục về tính
khác nhau. Tuổi thành thục về tính của lợn khoảng 6 tháng, giới hạn dao động từ 48 tháng. Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), ở lợn tuổi thành thục tính là 6-8
tháng.
Mặt khác, tuổi thành thục tính sớm hơn tuổi thành thục về thể vóc. Vì vậy,
để đảm bảo sự sinh trưởng và phẩm chất giống ở thế hệ sau nên cho gia súc giao
phối sau khi đã hoàn toàn thành thục về tính và trước thời gian thành thục về thể
vóc. Tuy nhiên, không nên cho lợn phối giống quá muộn vì nó ảnh hưởng đến thế
hệ sau của chúng. Theo Phạm Hữu Doanh, Lưu Kỷ (1995), tuổi phối giống lần đầu
cho lợn cái tốt nhất là lúc 8 tháng tuổi và khối lượng là ≥ 70 kg hoặc ở 9 tháng tuổi


với khối lượng là 80 – 90 kg.

Các yếu tố ảnh hưởng đến tuổi thành thục tính
• Giống
Các giống gia súc khác nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác nhau, sự
thành thục về tính ở những gia súc có tầm vóc nhỏ thường sớm hơn gia súc có tầm

vóc lớn. Các giống lợn nội tuổi thành thục về tính là 4 – 5 tháng, các giống lợn
Landrace, Yorkshire tuổi thành thục về tính là 6 – 7 tháng.
Theo Phạm Hữu Doanh và cộng sự (1995), tuổi thành thục về tính của lợn
cái ngoại và lợn cái lai muộn hơn lợn cái nội thuần chủng (Ỉ, Móng Cái,…). Các
giống lợn nội này thường có tuổi thành thục vào 4 – 5 tháng tuổi (121-158 ngày
tuổi). Lợn ngoại là 6 – 8 tháng tuổi, lợn lai F1(ngoại × nội) thường động dục lần
đầu ở 6 tháng tuổi.
 Điều kiện nuôi dưỡng và quản lý
Dinh dưỡng có ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục về tính của lợn nái.
Cùng một giống nhưng nếu được nuôi dưỡng, chăm sóc, quản lý tốt, gia súc phát
triển tốt thì sẽ thành thục về tính sớm hơn và ngược lại.
Nguyễn Tấn Anh (1998) cho biết, kinh nghiệm từ thực tiễn chăn nuôi Hoa
Kỳ, để duy trì năng suất sinh sản cao thì cần chú ý tới nhu cầu dinh dưỡng và
cách thức nuôi dưỡng. Cho ăn tự do đến khi đạt khối lượng 80-90 kg, sau đó cho
ăn hạn chế đến lúc phối giống (ở chu kỳ động dục thứ 2 hoặc thứ 3).
Hoặc có thể điều chỉnh để khối lượng cơ thể đạt 120 – 140 kg ở chu kỳ động
dục thứ 3 và cho phối giống. Trước phối giống 14 ngày cho ăn chế độ kích dục,
tăng lượng thức ăn từ 1 – 1,5 kg, có bổ sung khoáng và sinh tố chỉ trong 14 ngày,
sẽ giúp lợn nái ăn được nhiều hơn và tăng số trứng rụng từ 2 – 2,1 trứng/lần động


dục/nái.
 Điều kiện ngoại cảnh
Khí hậu và nhiệt độ cũng ảnh hưởng tới tuổi thành thục về tính của gia súc.
Những giống lợn nuôi ở vùng có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thường thành thục về tính
sớm hơn những giống lợn nuôi ở vùng có khí hậu ôn đới và hàn đới.
Sự kích thích của con đực cũng ảnh hưởng đến tuổi thành thục về tính của
lợn cái hậu bị. Cách ly lợn cái hậu bị (ngoài 5 tháng tuổi) khỏi lợn đực sẽ dẫn đến
làm chậm trễ sự thành thục so với những lợn cái hậu bị cùng độ tuổi được tiếp xúc
với con đực. Theo Paul Hughes (1996), nếu cho lợn cái hậu bị tiếp xúc với lợn đực

2 lần/ ngày, với thời gian từ 15 – 20 phút thì 83% lợn nái (ngoài 90 kg thể trọng)
động dục lúc 165 ngày tuổi.
Lợn cái hậu bị nếu nuôi nhốt liên tục sẽ có tuổi động dục lần đầu dài hơn lợn
nuôi chăn thả. Vì lợn nuôi có thời gian chăn thả sẽ tăng cường trao đổi chất, tổng
hợp được sinh tố và có dịp tiếp xúc với lợn đực, nên có tuổi động dục lần đầu sớm
hơn.
b, Chu kỳ động dục (chu kỳ tính)
Khi gia súc thành thục về tính thì cơ thể con cái đặc biệt là cơ quan sinh
dục có sự biến đổi, đồng thời có rụng trứng, trứng phát triển nhờ quá trình điều
khiển của hoocmon thùy trước tuyến yên làm trứng chín và rụng một cách có chu
kỳ, con vật biểu hiện bằng những triệu chứng động dục theo chu kỳ được gọi là
chu kỳ tính.
Chu kỳ tính có sự khác nhau giữa các loài, thời gian kéo dài chu kỳ giữa
các loài cũng có sự khác nhau. Ở thời gian đầu, do mới có sự thành thục về tính
nên chu kỳ chưa ổn định, phải sau 2 – 3 chu kỳ tiếp sau mới có được sự ổn định.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), lợn động dục không theo mùa,
chu kỳ sinh dục thường 21 ngày, thời gian dao động từ 18 – 22 ngày.


Nguyễn Văn Thanh (2002) cho rằng, chu kỳ động dục của lợn liên quan
chặt chẽ với quá trình điều hòa kích tố trong cơ thể, và chịu sự điều khiển của hệ
thống thần kinh thể dịch.
Chu kỳ động dục là khoảng thời gian giữa 2 lần động dục và nó được chia
làm 4 giai đoạn.
* Giai đoạn trước động dục (preoestrus)
Đây là giai đoạn đầu của chu kỳ sinh dục, nó xuất hiện đầy đủ các hoạt
động về sinh lý, tính thành thục trong đó sự phát triển của noãn bao thành thục nổi
rõ lên bề mặt buồng trứng, buồng trứng to hơn bình thường, các tế bào của vách
ống dẫn trứng tăng sinh, số lượng lông nhung tăng lên. Đường sinh dục xung
huyết, nhu động sừng tử cung tăng, mạch quản trong màng nhầy tử cung tăng, các

dịch nhày ở âm đạo nhiều, niêm dịch cổ tử cung tiết ra, kích thích cho cổ tử cung
hé mở, bộ phận sinh dục phù thũng, niêm dịch ở đường sinh dục chảy ra nhiều, con
vật bắt đầu xuất hiện tính dục. Giai đoạn này ở lợn dài từ 1 – 2 ngày.
Tất cả những biến đổi đó tạo điều kiện thuận lợi cho tinh trùng vào đường
sinh dục cái để thụ tinh với tế bào trứng.
* Giai đoạn động dục (Oestrus)
Là giai đoạn tiếp theo thường kéo dài từ 2 – 3 ngày. Trong giai đoạn này
những biến đổi về sinh lý so với giai đoạn trước động dục càng rõ hơn. Bên ngoài
âm hộ phù thũng, niêm mạc xung huyết, niêm dịch trong suốt từ âm đạo chảy ra
nhiều. Cuối giai đoạn này tính hưng phấn của con vật cao độ, gia súc ở trạng thái
không yên tĩnh, ăn uống giảm rõ, kêu rống, phá chuồng, đứng ngẩn ngơ, nhảy lên
lưng con khác hay để con khác nhảy lên lưng, đái rắt, thích gần con đực, xuất hiện
các tư thế của phản xạ giao phối. Sau đó khoảng 20 giờ thì trứng mới bắt đầu rụng,
thời gian trứng rụng kéo dài từ 4 – 6 giờ, số trứng rụng mỗi lần từ 8 – 25 trứng
hoặc hơn.
Giai đoạn này nếu tế bào trứng ra khỏi buồng trứng gặp tinh trùng và được
thụ thai thì chu kỳ sinh dục sẽ ngừng lại, gia súc cái ở giai đoạn có thai và đến một


thời gian sau khi sinh đẻ xong chu kỳ tính mới xuất hiện trở lại. Trường hợp tế bào
trứng không được thụ thai thì nó sẽ chuyển sang giai đoạn sau của chu kỳ.
* Giai đoạn sau động dục (Metoestrus)
Được tính từ khi kết thúc động dục, thường kéo dài từ 3 – 4 ngày, hoạt
động sinh lý bắt đầu lắng xuống, con vật dần trở lại trạng thái sinh lý bình thường,
rồi chuyển sang giai đoạn yên tĩnh làm giảm tiết hoocmon oestrogen, từ đó làm
giảm hưng phấn thần kinh, ức chế sự tăng và tiết thể dịch, làm cho con vật trở lên
bình thường, chuyển sang giai đoạn yên tĩnh.
* Giai đoạn yên tĩnh (Dioestrus)
Là giai đoạn dài nhất chiếm phần lớn chu kỳ động dục, bắt đầu từ ngày thứ
4 sau khi trứng rụng và không được thụ tinh, kết thúc sau khi thể vàng tiêu hủy

không còn biểu hiện gì về hành vi sinh dục. Đây là giai đoạn chuyển giao giữa hai
lần động dục. Trong quá trình động dục, nếu trứng được thụ tinh thì thể vàng tồn
tại suốt 2/3 thời gian mang thai và tiết progesteron có tác dụng an thai, ức chế quá
trình rụng trứng, kích thích tuyến vú phát triển. Thời kỳ yên tĩnh lúc này chính la
giai đoạn mang thai và thời kỳ sau đẻ. Ở giai đoạn nuôi con dưới tác dụng của
prolactin, oxytoxin, progesterone,… làm cho quá trình rụng trứng bị đình trệ, hiện
tượng động dục không xảy ra. Thường sau cai sữa thì chu kỳ tính dần được khôi
phục và xuất hiện trở lại sau cai sữa 4 – 8 ngày.
Nếu trong quá trình động dục, trứng rụng không được thụ tinh thì thể vàng
chỉ tồn tại được 3 – 10 ngày, sau đó teo đi làm ngừng tiết progesteron. Do đó,
trứng tiếp tục chin và rụng, xuất hện chu kỳ tính tiếp theo.
Các yếu tố ảnh hưởng tới chu kỳ động dục
 Yếu tố ngoại cảnh
Khí hậu, nhiệt độ, ánh sáng, mùa vụ, thức ăn,… đều ảnh hưởng rõ rệt đến
chu kỳ tính của gia súc cái.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), ở lợn chu kỳ sinh dục trong suốt
cả năm nhưng thường khi khí hậu ấm áp thì nó xuất hiện rõ ràng và đầy đủ các đặc


điểm hơn so với điều kiện khí hậu lạnh. Trong điều kiện quá giá lạnh thì chu kỳ
sinh dục có thể ngừng lại hoàn toàn.
Vũ Duy Giảng và cộng sự (1999), trong điều kiện thức ăn thiếu protein,
vitamin, khoáng, chu kỳ tính kéo dài, bao noãn thành thục chậm , thậm chí có bao
noãn quắt lại.
 Yếu tố thần kinh – thể dịch
Quy luật và đặc điểm của chu kỳ sinh dục chịu sự điều khiển của hệ thần
kinh trung ương. Tất cả các kích thích bên ngoài và trong cơ thể như: khí hậu,
nhiệt độ, ánh sáng, chế độ nuôi dưỡng quản lý, tác động xoa bóp, mùi vị con đực,
tình trạng cơ quan sinh dục và các bộ phận khác của cơ thể đều ảnh hưởng trực tiếp
đến chu kỳ tính một cách phản xạ theo phương thức thần kinh– thể dịch.

Ngoài ra, hệ thần kinh thực vật có tác động đến chu kỳ sinh dục. Khi thần
kinh giao cảm hưng phấn thì sẽ ức chế chu kỳ sinh dục. Còn khi thần kinh phó giao
cảm hưng phấn thì lại kích thích chu kỳ động dục.
Tuyến yên có tác dụng trực tiếp lên cơ quan sinh dục cái. Nếu cắt bỏ tuyến
yên, noãn bao không phát triển, tế bào trứng không rụng, thể vàng không hình
thành, buồng trứng bị teo và các kích tố của buồng trứng cũng không hình thành.
Thời điểm phối giống thích hợp
Thời gian tinh trùng lợn đực giống sống trong tử cung lợn nái khoảng 45 –
48 giờ, trong khi thời gian trứng của lợn nái tồn tại và thụ thai có hiệu quả là rất
ngắn, cho nên phải tiến hành phối giống đúng lúc. Thời điểm phối giống thích hợp
nhất là vào giữa giai đoạn chịu đực.
Đối với lợn nái ngoại, lợn lai, thời điểm phối giống tốt nhất là sau khi có
hiện tượng chịu đực 6 -8 giờ, hoặc cho phối vào cuối ngày thứ 3 và sáng ngày thứ
4 kể từ lúc bắt đầu động dục.
Đối với lợn nái nội, thời điểm phối giống sớm hơn lợn nái ngoại và lai 1 ngày,
tức là vào ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3 vì thời gian động dục ngắn hơn.
Khi thực hiện thụ tinh nhân tạo, thấy lợn nái chịu đực buổi sớm thì cho phối
vào buổi chiều, nếu có triệu chứng chịu đực buổi chiều thì sáng hôm sau cho phối,


thường phối 2 lần (phối lặp) ở giai đoạn chịu đực “chặn đầu khóa đuôi” của thời kỳ
rụng trứng.
2.2. Quá trình thụ tinh (fertilization)
Khi gia súc đã thành thục về tính thì những biểu hiện về sinh dục của con
đực và con cái ngày càng mạnh mẽ. Quá trình thụ tinh xảy ra khi tế bào trứng gặp
tinh trùng, tạo ra một sự kết hợp phức tạp giữa hai loại tế bào sinh dục đực và tế
bào sinh dục cái. Có hai hình thức thụ tinh là thụ tinh trực tiếp và thụ tinh nhân tạo.
Thụ tinh trực tiếp là quá trình giao phối giữa gia súc đực và gia súc cái, tinh dịch
của con đực đi vào đường sinh dục của con cái để tế bào trứng và tinh trùng kết
hợp với nhau ở 1/3 phía trên ống dẫn trứng tạo ra một tế bào mới là hợp tử. Theo

Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), thụ tinh trực tiếp là quá trình giao phối giữa gia
súc đực và gia súc cái, tinh dịch của con đực đi vào đường sinh dục con cái. Thụ
tinh nhân tạo là trường hợp dùng tinh dịch của con đực pha loãng bơm vào đường
sinh dục con cái để tinh trùng kết hợp với trứng tạo hợp tử. Theo Trần Tiến Dũng
và cộng sự (2002) trong chăn nuôi, phương pháp thụ tinh nhân tạo đã cải tạo giống
gia súc, giảm số đầu giống vật nuôi, nâng cao hiệu suất sử dụng đực giống, có thể
thương mại hóa tinh dịch, bảo tồn quỹ gen, phòng các bệnh truyền lây qua tiếp xúc.
Đây là biện pháp kỹ thuật hữu hiệu để thúc đẩy ngành chăn nuôi phát triển, nó có
những lợi ích kinh tế kỹ thuật to lớn, tuy nhiên nó là con dao hai lưỡi nếu công tác
thú y kém.
2.3. Sinh lý quá trình đẻ
2.3.1. Khái niệm đẻ
Gia súc cái mang thai trong một thời gian nhất định, khi bào thai đã phát
triển đầy đủ, gia súc mẹ đẩy thai ra ngoài cùng với màng nhau, dịch thai. Quá trình
đó gọi là đẻ.
2.3.2. Thời gian đẻ của gia súc


Thời gian đẻ của gia súc được tính từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn đến khi
thai ra khỏi cơ thể mẹ và số lượng bào thai ra hết ở những loài gia súc đa thai.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), thời điểm đẻ của lợn từ 2-6 giờ
2.3.3. Những biểu hiện của cơ thể mẹ trong thời gian gần sinh đẻ
Quá trình sinh đẻ của gia súc là một quá trình sinh lý bình thường. Cho nên
cuối thời kỳ mang thai gia súc cái có những biểu hiện của quá trình sinh đẻ, chủ
yếu là sinh dục và bầu vú.
* Triệu chứng ở thời kỳ sắp đẻ
Trước thời gian đẻ 1 – 2 tuần, chất niêm dịch ở cổ tử cung, đường sinh dục
lỏng, sánh dính và chảy ra ngoài. Còn 1 – 2 ngày trước khi gia súc đẻ thì cơ quan
sinh dục bên ngoài có những thay đổi: âm môn to phù, nhão ra và sung huyết nhẹ,
đầu núm vú to, bầu vú căng to, tĩnh mạch vú nổi rõ. Nhiệt độ cơ thể thường thay

đổi, trước khi đẻ thì nhiệt độ tăng lên cao hơn bình thường. Bên ngoài gia súc cái
có hiện tượng sụt mông.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), lợn trước khi đẻ 10 -15 ngày bầu
vú căng. Giữa bầu vú và thành bụng đã phân chia ranh giới rõ ràng.
* Triệu chứng rặn đẻ
Khi đẻ gia súc mẹ phải dùng sức đẩy thai cùng với các khí quan trong
đường sinh dục để đưa thai ra ngoài. Sức rặn căn bản là do sự co bóp của tử cung,
sự co bóp này bắt đầu từ sừng tử cung đến thân tử cung, đến cổ tử cung, kết quả
làm mở rộng cổ tử cung.
Nhưng chỉ nhờ vào sức co bóp của tử cung thì không đủ đẩy thai ra ngoài
mà phải nhờ vào sự co bóp của cơ ở bụng, hoành cách mô và toàn thân. Đó mới là
“rặn “ đẻ, mặt khác còn dựa vào sự co bóp của cơ âm đạo, chậu hông, sức. Khi có
triệu chứng đẻ thì tử cung bắt đầu co bóp, ban đầu yếu sau mạnh dần.
2.3.4. Quá trình sinh đẻ


Quá trình sinh đẻ của gia súc cái do sự co bóp của tử cung, cơ thành bụng,
sức rặn toàn thân, thai, màng nhau thai cùng với nước thai được tống ra ngoài. Quá
trình sinh đẻ được chia ra làm 3 thời kỳ.
* Thời kỳ mở cổ tử cung
Thời kỳ này bắt đầu từ khi tử cung có cơn co bóp đầu tiên đến khi cổ tử
cung mở ra hoàn toàn. Tùy từng giống mà biểu hiện bên ngoài không giống nhau.
Ở lợn thường hay đứng nằm không yên, đi đi lại lại trong chuồng và có triệu chứng
cắn ổ.
Động lực thúc đẩy cho quá trình sinh đẻ là sự co bóp của cơ quan sinh dục
được tiến hành từ mút sừng từ cung đến thân tử cung, đến cổ tử cung và đến âm
đạo, thời gian co bóp có những khoảng cách nên gọi là những cơn rặn.
Con vật xuất hiện cơn rặn đầu tiên trong thời kỳ 1 nhưng nói chung cơn rặn
này yếu về cường độ, thời gian cơn rặn ngắn, thời gian nghỉ giữa hai cơn rặn lại dài
từ 20 – 30 phút, mỗi cơn rặn thường từ 2 – 3 giây. Nếu con mẹ rặn liên tục thì

mạch máu của bào thai chèn ép, tuần hoàn đình trệ, dưỡng khí cung cấp cho thai
nhi thiếu, thai ra chậm có thể bị ngạt.
Cường độ co bóp chuyển từ sừng tử cung xuống thân tử cung, đến cổ tử
cung ra ngoài âm đạo. Nước ở trong tử cung và màng thai dồn ép ra ngoài, cổ tử
cung lúc này đã mở, màng nhau thai đã một phần lọt ra ngoài. Cùng với sức co bóp
của tử cung tăng lên, màng thai tiếp tục chui ra, ép vào cổ tử cung làm cho cổ tử
cung càng mở rộng. Khi cổ tử cung đã mở rộng thì một phần của thai chui ra, lúc
này giữa cổ tử cung và âm đạo không còn ranh giới nữa. Cùng lúc thai ra ngoài có
hiện tượng vỗ ối, màng ối và màng niệu vỡ ra. Thứ tự màng niệu vỡ trước, màng ối
vỡ sau, nước ối và nước niệu đều ra cùng với màng ối, màng niệu cũng góp phần
cho cổ tử cung mở rộng hoàn toàn đồng thời làm trơn đương sinh dục, cho thai đi
ra ngoài dễ dàng.


* Thời kỳ đẻ hay còn gọi là sổ thai
Thời kỳ này bắt đầu từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn và kết thúc khi thai lọt ra
ngoài. Ở thời kỳ này thai qua cổ tử cung và đi vào âm đạo. Nếu đẻ bình thường, bộ
phận ra trước nhất là đầu và chân. Lúc này gia súc cái bồn chồn, đứng nằm không
yên, có con chân sau đá vào bụng, lưng cong lên mà rặn.
Khi đầu của thai đã đi vào hố chậu, gia súc cái lại nằm xuống. Đặc điểm là
sức co bóp của tử cung trong thời kỳ này mạnh vì thân của thai tiếp xúc niêm mạc
âm đạo, gây ra một ma sát lớn. Trong lúc này gia súc thường kêu do bị đau vì dịch
ối, dịch niệu chảy ra hết, thân thai lại tiếp giáp với niêm mạc âm đạo.
Bào thai đã đi ra đường sinh dục thì tăng kích thích cho cơ co bóp, lực co
bóp lúc này là tổng hợp giữa co bóp của đường sinh dục, sự co bóp của cơ thành
bụng, cơ hoành thành một lực mạnh và được kéo dài.
Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), lợn rặn đẻ khác với loài gia súc khác, tử
cung co bóp đẩy thai thai chiều dọc và co bóp theo từng đoạn. Sự co bóp bắt đầu từ
gốc sừng tử cung, lan dần đến đầu nhọn của sừng tử cung. Hai sừng tử cung thay
nhau co bóp. Trong cơn rặn đẻ lợn thường nằm nghiêng, cũng có khi đứng lên

nhưng lại nằm xuống ngay, màng thai của lợn không lòi ra ngoài âm hộ, nước ối ít,
thai lợn ra từng con một, sau mỗi lần rặn thường thai ra dễ dàng.
* Thời kỳ sổ nhau ( hay gọi là bong nhau)
Sau khi thai lọt ra khỏi đường sinh dục của gia súc mẹ một thời gian, con
mẹ trở lên yên tĩnh, nhưng tử cung vẫn co bóp và tiếp tục những cơn rặn, mỗi lần
co bóp từ 1,5 – 2 phút, thời gian giữa hai lần co bóp là 2 phút, nhưng cường độ lúc
này yếu hơn.
Sau khi sổ thai khoảng 2 – 3h tử cung co nhỏ lại, thành tử cung dày, trên bề
mặt có nhiều nếp nhăn, bên trong tử cung có nhiều núm nhau. Cơn rặn lúc này của
gia súc cái chủ yếu là đưa nhau thai ra ngoài.


Trong thời gian này tuần hoàn của núm nhau mẹ và núm nhau con đã giảm
nên nhau thai có thể tách ra được. Các nhung mao teo lại, tách núm nhau mẹ ra
khỏi nhau. Trong thời gian này tử cung tiếp tục co bóp và thu nhỏ lại dần thể tích,
nhưng màng niệu và màng nhung mao thì không co lại được nên tử cung đẩy ra
ngoài.
Trong quá trình đẩy nhau thai ra ngoài, do đặc tính của tử cung co bóp từ
mút sừng tử cung tới thân tử cung, nên màng nhau thai bong ra sẽ được lộn trái,
phần mút sừng tử cung ra trước, sau đó bong dần xuống sừng tử cung, thân tử cung
và ra ngoài.
Thời gian bong nhau thai của gia súc có khác nhau do đặc điểm cấu tạo của
núm nhau con và núm nhau mẹ trên niêm mạc tử cung.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), lợn sau khi thai ra hết toàn bộ,
khoảng 10 – 50 phút nhau thai mới ra. Nhau thai của lợn ra chia thành hai đống,
mỗi đống gồm nhau thai của tất cả các thai chứa trong một sừng tử cung.
Trong sừng tử cung lợn có ít thai thì nhau thai không dính lại như vậy, mà
ra từng cái một, thai sau có thể đẩy nhau thai của thai trước ra. Nếu trong sừng tử
cung lợn có xen kẽ nhiều thai bình thường và thai bị chết khô thì nhau thai cũng ra
thành nhiều đống. Thường những thai chết khô trong sừng tử cung sẽ ra cùng với

nhau thai.
2.4. Bệnh Viêm tử cung ở lợn nái (mestritis)
2.4.1. Nguyên nhân của bệnh Viêm tử cung
Theo Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long và Nguyễn Văn Thanh (2002),
Viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ.
Quá trình viêm phá hủy các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối
loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí mất khả năng sinh sản ở
gia súc cái.


Theo các tác giả Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ, Huỳnh
Văn Kháng (2000), bệnh Viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau:
- Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phương
pháp thụ tinh nhân tạo làm xây sát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được
vô trùng khi phối giống có thể đưa vi khuẩn từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm.
- Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh Viêm bao dương vật hoặc
mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị Viêm tử cung, Viêm âm đạo truyền
sang cho lợn khỏe.
- Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc tử
cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát.
- Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử
cung.
- Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: Sảy thai truyền nhiễm, Phó
thương hàn, bệnh Lao,… gây viêm.
- Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn trước và su đẻ không
sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm nhập vào
gây viêm.
Ngoài các nguyên nhân kể trên viêm tử cung còn có thể là biến chứng
nhiễm trùng do vi khuẩn vào dạ con gây nên trong thời gian động dục (vì lúc đó cổ
tử cung mở), vi khuẩn xâm nhập vào tử cung theo đường máu và viêm tử cung là

một trong những triệu chứng lâm sàng chung (Lê Văn Năm và cộng sự, 1997).
Theo F. Madec và C. Neva (1995), bệnh Viêm tử cung và các bệnh ở đường
tiết niệu có mối quan hệ với nhau, vi khuẩn trong nước tiểu cũng phát triển trong
âm đạo và việc gây nhiễm ngược lên tử cung là rất dễ xảy ra.
Nhiễm khuẩn tử cung qua đường máu là do vi khuẩn sinh trưởng ở một cơ
quan nào đó có kèm theo bại huyết, do vậy có trường hợp lợn hậu bị chưa phối


nhưng đã bị viêm tử cung.
2.4.2. Hậu quả của bệnh Viêm tử cung
Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh
dục của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh hưởng
rất lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sinh trưởng, phát triển của lợn con.
Đánh giá được hậu quả của Viêm tử cung nên đã có rất nhiều nhà khoa học
nghiên cứu về bệnh và đưa ra các nhận xét có ý nghĩa rất lớn cho quá trình chẩn
đoán, phòng và điều trị bệnh.
Theo Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long và Nguyễn Văn Thanh (2002);
Trần Thị Dân (2004), lợn nái bị Viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau:
- Khi lợn bị Viêm tử cung dễ dẫn tới sảy thai.
Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt
của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám
chặt vào tử cung.
Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết
nhiều prostaglandin F2

(PGF2 ). PGF2 gây phân hủy thể vàng ở buồng trứng

bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc
thoái hóa các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể
vàng bị phá hủy, không tiết progesterone nữa, do đó hàm lượng progesterone trong

máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng nên gia súc cái chửa
dễ bị sảy thai.
- Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu.
Lớp nội mạc của tử cung bào thai có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử
cung để giúp phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng
progesterone giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung giảm,


do đó bào thai nhận được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ mẹ nên phát
triển kém hoặc chết lưu.
- Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai
đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy.
Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt
của vi khuẩn E. coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết kích
thích tố tạo sữa prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lượng
sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu chảy, còi cọc.
- Lợn nái bị viêm tử cung mạn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại
Nếu tử cung bị viêm mạn tính thì sự phân biệt PGF 2 giảm, do đó thể vàng
vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết progesterone.
Progesterone ức chế thùy trước tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự phát
triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại được
và không thải trứng được.
Theo F. Madec và C. Neva (1995), ảnh hưởng rõ nhất trên lâm sàng mà
người chăn nuôi và bác sỹ thú y nhận thấy ở lợn Viêm tử cung lúc sinh đẻ là: chảy
mủ ở âm hộ, sốt, bỏ ăn. Mặt khác, các quá trình bệnh lý xảy ra lúc sinh đẻ ảnh
hưởng rất lướn tới năng suất sinh sản của lợn nái sau này. Tỷ lệ phối giống không
đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ
kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt
khác, Viêm tử cung là một trong các nguyên nhân dẫn đến hội chứng Viêm vú,
Mất sữa, Viêm tử cung, từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống thấp. Đặc biệt, nếu

Viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động của
buồng trứng.
Qua đó, ta thấy hậu quả của Viêm tử cung là rất lớn, để tỷ lệ mắc bệnh


giảm, người chăn nuôi phải có những hiểu biết nhất định về bệnh, từ đó tìm ra biện
pháp đề phòng và điều trị hiệu quả.
2.4.3. Các thể Viêm tử cung
Tử cung là bộ phận quan trọng của cơ quan sinh dục, nơi làm tổ và đảm bảo
mọi điều kiện để thai phát triển. Mọi quá trình bệnh lý ở tử cung đều ảnh hưởng
trực tiếp tớ khả năng sinh sản (Nguyễn Văn Thanh, 2002).
Chính vì vậy, bệnh Viêm tử cung đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Theo
Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) thì Viêm tử cung được chia ra làm 3 thể: Viêm
nội mạc tử cung, Viêm cơ tử cung và Viêm tương mạc tử cung.
* Viêm nội mạc tử cung
Khi gia súc sinh đẻ, nhất là trong những trường hợp đẻ khó phải can thiệp
bằng tay hoặc dụng cụ, niêm mạc tử cung bị xây sát, tổn thương, vi khuẩn xâm
nhập và phát triển gây viêm nội mạc tử cung. Mặt khác, một số bệnh truyền nhiễm
như Sảy thai truyền nhiễm, Phó thương hàn, bệnh Lao,... thường gây ra Viêm nội
mạc tử cung. Căn cứ vào tính chất, trạng thái của quá trình bệnh lý, Viêm nội mạc
tử cung có thể chia ra làm hai loại: Viêm nội mạc tử cung thể cât cấp có mủ và
Viêm nội mạc tử cung có màng giả.
- Viêm nội mạc tử cung cata cấp tính có mủ (Endomestritis puerperslis
Catarrhalis purulenta acuta).
Bệnh này xuất hiện trên tất cả các loài gia súc, gặp nhiều ở trâu, bò, lợn.
Sau khi sinh đẻ, niêm mạc cổ tử cung và âm đạo bị tổn thương, xây sát, nhiễm
khuẩn, nhất là khi gia súc bị sát nhau, đẻ khó phải can thiệp.
Khi bị bệnh, gia súc có biểu hiện một số triệu chứng chủ yếu: thân nhiệt hơi
cao, ăn uống giảm, lượng sữa giảm. Con vật có trạng thái đau đớn nhẹ, đôi khi
cong lưng rặn tỏ vẻ không yên tĩnh. Từ cơ quan sinh dục thải ra ngoài hôn dịch,

niêm dịch lân với dịch viêm, mủ, lợn cợn những mảnh tổ chức chết,...


Khi con vật nằm, dịch viêm thải ra ngoài càng nhiều hơn. Xung quanh âm
môn, gốc đuôi hai bên mông dính nhiều dịch viêm, có khi nó khô lại hình thành
từng đám vẩy, màu trắng xám. Kiểm tra qua âm đạo, niêm dịch và dịch viêm thải
ra nhiều. Cổ tử cung hơi mở và có mủ chảy qua cổ tử cung. Niêm mạc âm đạo bình
thường.
- Viêm nội mạc tử cung màng giả
Thể viêm này, niêm mạc tử cung thường bị hoại tử. Những vết thương đã ăn
sâu vào tầng cơ của tử cung và chuyển thành hoại tử.
Trường hợp này, con vật xuất hiện triệu chứng toàn thân rõ: thân nhiệt lên
cao, ăn uống và lượng sữa giảm, có khi hoàn toàn mất sữa. Con vật biểu hiện trạng
thái đau đớn, luôn rặn, lưng và đuôi cong lên. Từ cơ quan sinh dục luôn thải ra
ngoài hỗn dịch: dịch viêm, máu, mủ, lợn cợn những mảnh tổ chức hoại tử và niêm
dịch.
* Viêm cơ tử cung (Myometritis puerperslis)
Viêm cơ tử cung thường kế phát từ Viêm nội mạc tử cung thể màng giả.
Niêm mạc tử cung bị thấm dịch thẩm xuất, vi khuẩn xâm nhập và phát triển sâu
vào tử cung làm niêm mạc bị phân giải, thối rữa gây tổn thương mạch quản và lâm
ba quản. Từ đó làm cho các lớp cơ và một ít tương mạc tử cung bị hoại tử. Trường
hợp này có thể dẫn đến hiện tượng nhiễm trùng toàn thân, huyết nhiễm trùng hoặc
huyết nhiễm mủ.
Ở thể viêm này, gia súc biểu hiện triệu chứng toàn thân rõ: thân nhiệt lên
cao, mệt mỏi, ủ rũ, ăn uống giảm, lượng sữa giảm hay mất hẳn. Gia súc biểu hiện
trạng thái đau đớn, rặn liên tục. Từ cơ quan sinh dục luôn thải ra ngoài hỗn dịch
màu đỏ, nâu lợn cợn, có mủ và những mảnh tổ chức thối rữa nên có mùi tanh thối.
Khám qua trực tràng thì tử cung to hơn bình thường, hai sừng tử cung to nhỏ
không đều nhau, thành tử cung dày và cứng. Khi kích thích lên tử cung, con vật rất



mẫn cảm, đau nên càng rặn mạnh hơn, hỗn dịch bẩn trong tử cung, thải ra càng
nhiều.
Thể viêm này thường ảnh hưởng đến quá trình thụ thai và sinh đẻ lần sau.
* Viêm tương mạc tử cung (Perimetritis puerperalis)
Viêm tương mạc tử cung thường kế phát từ thể viêm cơ tử cung. Bệnh này
thường ở thể cấp tính, cục bộ, toàn thân xuất hiện những triệu chứng điển hình và
nặng.
Lúc đầu, lớp tương mạc tử cung có màu hồng, sau chuyển màu đỏ sẫm, mất
tính trơn bóng. Sau đó, các tế bào bị phân hủy và bong ra, dịch thẩm xuất rỉ ra làm
cho lớp tương mạc bị xù xì. Trường hợp viêm nặng, nhất là thể viêm có mủ, lớp
tương mạc ở một số vùng có thể dính cới các tổ chức xung quanh, gây nên tình
trạng viêm thể Parametritis và dẫn đến viêm phúc mạc, thân nhiệt tăng cao, mạch
nhanh. Con vật ủ rũ, uể oải, đại tiểu tiện khó khăn, ăn uống kém hoặc bỏ ăn. Con
vật luôn biểu hiện trạng thái đau đớn, khó chịu, lưng và đuôi cong, rặn liên tục. Từ
âm hộ thải ra ngoài rất nhiều hỗn dịch lẫn mủ và tổ chức hoại tử, có mùi thối
khắm. Kiểm tra qua trực tràng thấy thành tử cung dày, cứng, hai sừng tử cung mất
cân đối, kích thích con vật biểu hiện trạng thái đau đớn càng rõ và càng rặn mạnh
hơn. Thể viêm này thường dẫn đến kế phát bệnh viêm phúc mạc bại huyết, huyết
nhiễm mủ.
2.5. Chẩn đoán Viêm tử cung
Bệnh Viêm tử cung thường biểu hiện vào lúc đẻ và thời kỳ tiền động dục, vì
đây là thời gian cổ tử cung mở nên dịch viêm có thể chảy ra ngoài. Số lượng mủ
không ổn định, từ vài ml cho tới 200ml hoặc hơn nữa. Tính chất mủ cũng khác
nhau, từ dạng dung dịch màu trắng loãng cho tới màu xám hoặc vàng, đặc như
kem, có thể màu máu cá. Người ta thấy rằng, thời kỳ sau sinh đẻ hay xuất hiện
viêm tử cung cấp tính, viêm tử cung mạn tính thường gặp trong thời kỳ cho sữa.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×