Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.21 KB, 11 trang )

BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
Môn : Tôn giáo tín ngưỡng Hàn Quốc

Đề tài : TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA VIỆT NAM VÀ

HÀN QUỐC

Người thực hiện : Nguyễn Thị Nga
MSSV : 11030585
Chuyên ngành : Hàn Quốc học
Giảng viên : Phạm Hồng Thái


Đề tài : TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA VIỆT NAM VÀ

HÀN QUỐC

Họ và tên : NGUYỄN THỊ NGA
Ngày sinh : 2/9/1993
MSSV : 11030585
Lớp : K56 Hàn Quốc học
1. Đặt vấn đề

Trong một xã hội đậm đà bản sắc văn hóa truyền thống như phương
Đông, thờ cúng tổ tiên chính là một trong những nét đẹp đã và đang được
lưu giữ và bảo tồn. Có thể thấy được nét đẹp văn hóa này ở hai quốc gia
Việt Nam và Hàn Quốc.
Ở Việt Nam, thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục truyền thống có vị
trí hết sức đặc biệt, một trong những thành tố tạo nên bản sắc văn hóa
Việt Nam. Tín ngưỡng này thể hiện niềm tin vào sự bất diệt của tổ tiên,
dù đã đi vào cõi vĩnh hằng nhưng ông bà cha mẹ vẫn ở một nơi nào đó


phù hộ cho con cháu, sống cạnh và giúp đỡ mỗi khi gặp tai ách, khó khăn,
vui mừng khi con cháu gặp may mắn, phát đạt nhưng cũng quở trách khi
con cháu làm điều sai trái, tội lỗi.
Thông thường tín ngưỡng tờ cúng tổ tiên được biểu hiện theo hai nghĩa :
nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo quan niệm của người Việt Nam, thờ cúng
tổ tiên trước hết là thờ cúng những người cùng huyết thống, như cha, mẹ,
ông, bà, cụ, kỵ v.v... là người đã sinh ra mình. Về nghĩa rộng, tổ tiên cũng
là những người có công tạo dựng nên cuộc sống hiện tại như các vị
"Thành hoàng làng" các "Nghệ tổ". Không chỉ thế, tổ tiên còn là những
người có công bảo vệ làng xóm, quê hương, đất nước khỏi nạn ngoại xâm


như Trần Hưng Đạo đã thành "Cha" được tổ chức cúng, giỗ vào tháng 8
âm lịch hàng năm. "Tháng 8 giỗ cha" ở rất nhiều nơi trong cộng đồng
người Việt. Ngay cả "Thành hoàng" của nhiều làng cũng không phải là
người đã có công tạo dựng nên làng, mà có khi là người có công, có đức
với nước được các cụ xa xưa tôn thờ làm "thành hoàng". Tổ tiên trong tín
ngưỡng của người Việt Nam còn là "Mẹ Âu Cơ", còn là "Vua Hùng", là
người sinh ra các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam.
Và trong mỗi quốc gia ở phương Đông, mức độ đậm nhạt trong tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng được biểu hiện khác nhau. Ở bài nghiên
cứu này, người viết chỉ giới hạn tổng hợp và so sánh về tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên ở người Việt và người Hàn.

2. Nội dung nghiên cứu
2.1 Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là gì?

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là quan niệm về sự tồn tại của linh hồn và
mối liên hệ giữa những người đã mất và những người đang sống (có
cùng huyết thống) bằng con đường hồn về chứng kiến, dõi theo những

hành vi của con cháu, phù hộ khi gặp rủi ro, bất trắc hay trách móc khi
con cháu làm điều không hay không phải.
Thờ cúng tổ tiên không được cho là “mê tín dị đoan” như nhiều tín
ngưỡng dân gian khác, bởi nó lấy giá trị cốt lõi chính là đạo lý. Đạo lý
Uống nước nhớ nguồn được thể hiện ở lòng biết ơn, tưởng nhớ của
con cháu đến các bậc sinh thành ngay cả khi họ đã đi vào cõi vĩnh
hằng. Mặt khác, nó cũng thể hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của
con cháu đối với nhu cầu của tổ tiên. Trách nhiệm được biểu hiện
không chỉ trong các hành vi sống (giữ gìn danh dự và tiếp tục truyền


thống của gia đình, dòng họ, đất nước) mà còn ở trong các hành vi
cúng tế cụ thể.
Thờ cúng tổ tiên còn là hình thái tín ngưỡng có ý nghĩa lớn về mặt tổ
chức cộng đồng trong xã hội truyền thống. Sống trong xã hội, xét theo
cả trục dọc và trục ngang, con người không thể sống biệt lập, đơn độc.
Theo trục dọc phụ hệ, thờ cúng tổ tiên là sự nối tiếp liên tục các thế
hệ: ông bà - cha mẹ - bản thân. Mỗi con người phải có trách nhiệm thờ
phụng bốn đời trước: cao, tằng, tổ, khảo (kỵ, cụ, ông, bố) và họ cũng
tin rằng sẽ được con cháu bốn đời kế tiếp cúng giỗ. Theo trục ngang,
thờ cúng tổ tiên đã gắn bó con người trong mối liên kết dòng họ: họ
cha, họ mẹ, họ vợ (hoặc chồng). Với tư cách một tập thể - gồm cả
người đang sống và người đã chết gắn bó với nhau về huyết thống và
thờ chung một thủy tổ, dòng họ có sức mạnh đảm bảo giá trị tinh thần
cho mỗi thành viên của nó trong làng xã.
2.2 Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của Việt Nam

Có thể thấy rằng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của Việt Nam được hình
thành trên cở sở quan niệm tâm linh và nền tảng kinh tế xã hội tư
tưởng khá vững chắc. Trong xã hội cổ truyền, người Việt đã sớm có

niềm tin rằng, cái chết chẳng qua là cuộc trở về gặp tổ tiên, ông bà,
tồn tại thế giới âm phủ và có linh hồn. Những yếu tố tâm linh có tính
bản địa và mộc mạc này đã được hợp pháp hóa nhờ hệ tư tưởng Nho
giáo và sự ủng hộ của các vương triều. Chính vì vậy, tín ngưỡng này
đã được lưu giữ vfa phát triển suốt tiến trình lịch sử nhiều biến động.
Nét đặc trưng tiêu biểu trong tín ngưỡng này ở Việt Nam được thể hiện
ở sự cố định và vị trí của bàn thờ tổ tiên trong mỗi gia đình. Trong mỗi
gia đình, bàn thờ tổ tiên được chọn và đặt ở vị trí trang trọng, chính
điểm của căn phòng và nó được cố định ở một vị trí trong suốt 24/24
giờ. Trong gia đình người ta thường thờ phụng nhiều vị thần. Bên cạnh


việc thờ tổ tiên, thờ Phật, người ta còn thờ bà Cô, ông Mãnh (ông
Hoàng) là những người thân thích, chết trẻ, hoặc chết vào giờ linh
thiêng. Ở một số gia đình, vị trí bàn thờ được sắp xếp theo quy định, ví
dụ thờ Thánh sư ở góc nhà, thờ Tiền chủ ở bàn thờ đặt ngoài sân, thờ
bà Cô, ông Mãnh ở cạnh thấp hơn bàn thờ tổ tiên.... Trong các vị thần
được thờ tại gia, thường không có vị thần nào được sắp xếp ngang
hàng với tổ tiên.
Việc bài trí bàn thờ gia tiên thường không giống nhau, điều này phụ
thuộc vào quan niệm tâm linh và cả điều kiện kinh tế của gia chủ. Nhìn
chung bàn thờ gia tiên nào cũng có một số đồ thờ chủ yếu sau: bài vị,
bát hương, đĩa đèn, bình hoa, chén rượu, mâm đựng hoa quả…. Các gia
đình bình dân, đồ thờ thường được làm bằng gỗ hoặc sành sứ, còn các
gia đình giàu có thế nào cũng có đồ thờ tự bằng đồng. Bàn thờ gia tiên
của ngành trưởng phức tạp hơn ngành thứ, của chi trưởng phức tạp hơn
chi thứ, gia đình con thứ, con út chỉ thờ vọng nên bài trí bàn thờ cũng
đơn giản hơn con trưởng.
Trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc cúng giỗ vào ngày
mất (còn gọi là kỵ nhật) thường được tính theo âm lịch. Họ tin rằng đó

là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng. Không chỉ ngày giỗ, việc cúng
tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các ngày mồng một, ngày rằm
trong tháng và các dịp lễ Tết khác trong một năm như: Tết Nguyên
đán, Tết Hàn thực, Tết Đoan Ngọ, Tết Trung thu, Tết Trùng cửu, Tết
Trùng thập... Những khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vợ gả
chồng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử..., người Việt cũng dâng hương,
làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn
khi công việc thành công. Bản chất việc thờ cúng tổ tiên của người
Việt là từ niềm tin người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ
mật thiết và hỗ trợ nhau. Con cháu thì thăm hỏi, khấn cáo tiền nhân. Tổ
tiên thì che chở, dẫn dắt hậu thế nên việc cúng giỗ là thực hiện mối
giao lưu giữa cõi dương và cõi âm.


Ngày giỗ (ngày kị nhật) là ngày tưởng nhớ hàng năm người thân trong
gia đình đã qua đời, được tính theo âm lịch. Trong các ngày giỗ có ba
ngày chú ý nhất: tiểu tường (giỗ đầu), đại tường (giỗ hết), trừ phục (lễ
cởi bỏ đồ tang). Các ngày giỗ thường kỳ trong các năm sau được coi là
cát kỵ (giỗ lành).
Trong ngày giỗ đầu, con cái vẫn phải mặc tang phục là vải xô, khăn
trắng như đúng ngày này năm ngoái người thân qua đời. Nhiều gia
đình còn làm lễ Cáo giỗ để xin phép Thổ công cho linh hồn người đã
mất trở về gia đình nhận giỗ. Đồ cúng được chuẩn bị đầy đủ, tươm tất
với quan niệm “trần sao âm vậy”, thể hiện lòng thành kính với người
quá cố. Vào ngày này, người Việt cũng chuẩn bị từ trước đó nhiều đồ
mã để hóa (đốt) cho người đã mất dưới suối vàng. Đồ mã gồm nhiều
vật dụng như : quần áo, ô dù, xe ô tô, nhà cửa, tiền bạc,… thậm chí cả
hình nhân thế mạng để xuống cõi âm làm người hầu hạ cho họ. Đồ mã
phải được ghi tên người mất lên trên đó để tránh ma quỷ tham lam lấy
cắp, khi hóa vàng phải đổ một chén rượu lên trên đống tro để những

thứ đốt đi biến thành vật thật, tiền thật. Nhiều gia đình còn hơ một
chiếc đòn gánh, gậy trên đống lửa hoặc dựng một cây mía bên cạnh với
ý nghĩa “để các cụ gánh đồ về nhà”.
Vào những dịp lễ Tết hoặc ngày rằm, mùng một, đối tượng tổ tiên được
thờ cúng mở rộng hơn, chứ không bó hẹp một đối tượng duy nhất như
ngày giỗ. Con cháu bày đồ cúng lên bàn thờ chung. Đồ cúng có thể là
nhiều món ăn ngon, lễ vật đắt tiền, nhưng vẫn phải đáp ứng cơ bản
những đồ cúng như: rượu, nước trắng, nến, bình hoa, cơm, hoa quả, bởi
chỉ cần sự tưởng nhớ của con cháu đến thế hệ cội nguồn đã là điều
đáng quý. Nhưng đồ cúng phải là những đồ sạch, ngon, được lựa chọn
kỹ càng và người phàm không được phép ăn trước khi đặt lên bàn thờ
cúng.
Người cúng là gia chủ trong nhà, không phân biệt đàn ông hay đàn bà,
miễn là có sự thành tâm, kính cẩn mời ông bà tổ tiên về hưởng lộc. Chỉ


đến khi tắt nhang, con cháu mới được hạ đồ cúng xuống để cùng nhau
thụ lộc, với niềm tin đây là những đồ ăn được tổ tiên ban cho, đã chứa
trong đó nhiều phước lành, may mắn, nhiều sự phù hộ độ trì của ông bà
cha mẹ.
2.3 Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của Hàn Quốc

Cũng giống như Việt Nam, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Hàn
Quốc bắt nguồn từ yếu tố tâm linh, tin tưởng vào sự tồn tại của thần
linh và linh hồn người đã mất ở cõi âm. Vì thế, đây là tín ngưỡng có
từ lâu đời và là một nét văn hóa đẹp, bày tỏ đạo hiếu của người Hàn
Quốc. sau khi triều đại Koryo sụp đổ và triều đại Shoson được thiết
lập vào năm 1932, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thực sự có sự biến đổi
mạnh mẽ. Cũng bắt đầu từ đó, cuộc sống của người dân Hàn Quốc
được chỉ đạo bởi các nguyên tắc của Tống Nho. Những nguyên tắc

của Tống Nho đã ổn định luật lệ xã hội, coi trọng sự hiếu thảo với cha
mẹ và lấy đó làm đức tính cơ bản, đặc biệt, các quy tắc đó nhấn mạnh
phép tắc trong mối quan hệ xã hội và luôn đề cao việc thờ cúng tổ tiên
trong mỗi gia đình.
Trong tiếng Hàn, việc thờ cúng tổ tiên được gọi là “Jesa”. Đây là tập
tục, nét đẹo rất phương Đông nhưng cũng mang nhiều màu sắc khác
biệt, độc đáo mà chỉ ở dân tộc Hàn chúng ta mới thấy được. Người
Hàn căn cứ vào đối tượng và hình thức thờ cúng đã chia ra làm 3
phương thức thờ cúng tổ tiên cơ bản, đó là :
- Kije: nghi lễ nhằm tưởng nhớ những người mới mất.
- Ch’arye: lễ tưởng nhớ những người thân trong gia đình đã mất. Nghi
lễ này được thực hiện vào buổi sáng của những ngày lễ đặc biệt nào
đó.


- Myojje: lễ tưởng nhớ bên mộ. Nghi lễ này được thực hiện khi tiến
hành thăm viếng mộ tổ tiên, ông bà, thường viếng mộ vào những dịp
lễ tết.
Vào ngày Kije hoặc Charae, người Hàn Quốc dọn bàn cúng khá tươm
tất và chu đáo. Tuy nhiên khác với Việt Nam, bàn thờ được dọn
24/24, như một khu vực linh thiêng ngay chính giữa gian nhà, bài vị
và ảnh của người quá cố được đặt trên bàn thờ thì người Hàn Quốc
chỉ dọn bàn cúng ra vào ngày giỗ Tết, trên bàn cúng đặt bài vị của tổ
tiên ngay chính giữa, lễ cúng xong xuôi thì bàn thờ và bài vị lại được
dọn đi. Việc sắp xếp đồ lễ trên ban thờ đòi hỏi phải có một trật tự
nhất định. Chẳng hạn, những đồ hoa quả có màu đỏ phải xếp riêng ở
phía Đông, đến những hoa quả có màu trắng phải xếp ở phía Tây của
bàn thờ. Tiếp theo đó là một hàng thức ăn, rồi đến hoa quả, rau, cháo
đặc và một số loại thịt cá. Cuối cùng là những bát cơm, hoặc đôi khi
là cháo cùng với thìa và đũa. Phía trước bàn thờ bày đồ cúng là một

bàn để bát nhang và trước bát nhanh là khay rượu. Hoa quả dâng lên
làm đồ cúng phải được lựa chọn kỹ càng, được cắt gọt phần đầu với
quan niệm đồ cúng dâng lên tổ tiên phải là những đồ ăn thức uống
ngon nhất, sạch sẽ nhất, giống như tấm lòng thành kính của người
đang sống.
Người Hàn hay cúng giỗ vào ban đêm, bởi theo quan niệm, đó là thời
khắc ông bà tổ tiên có thể trở về để nhận lễ từ con cháu. Người cúng lễ
phải là con trai trưởng trong nhà, đối với những gia đình không có con
trai thì việc cúng giỗ phải nhờ đến cháu trai hoặc anh em trong gia tộc.
Điều này ít nhiều cho thấy Nho giáo với tư tưởng “trọng nam khinh
nữ” vẫn còn tồn đọng trong xã hội Hàn Quốc. Vật thờ cúng chủ đạo
trong hai lễ trên là một tấm bảng gỗ gọi là Shinjju, nhưng ngày nay,
người ta thường thay vào đó là một tờ giấy có sẵn gọi là Chibang – trên
đó có ghi họ tên, chức vụ, vị trí của người được cúng tổ tiên. Tờ giấy


này được dán lên tường hoặc một tấm đá phía sau ban thờ và sẽ được
hóa vào cuối buổi lễ.
Ngoài hai lễ trên được làm tại gia đình với sự cầu kì, phức tạp thì còn có
lễ Myoje. Nghi lễ này được thực hiện trước phần mộ của người đã khuất
vào dịp tháng 10 âm lịch. Trước kia, lễ Myojje là lễ hội quan trọng
mang tầm cỡ quốc gia và người thường mất nhiều thời gian cho lễ này.
Ngày nay, việc đi thăm mộ tổ tiên vào dịp lễ Chusok đã trở thành một
tập quán mới. Trong nghi lễ này, họ chỉ dâng cúng tổ tiên một số đồ ăn
đơn giản cùng với rượu.
Cũng giống như người Việt Nam, vào những ngày lễ tết như Tết
Nguyên Đán, Trung thu, tết Hàn thực hay tết Đoan Ngọ, ngày đông
chí,..., người Hàn cũng tiến hành nghi lễ thờ cúng tổ tiên để tưởng nhớ
đến nguồn cội, cũng như việc coi đó là một dịp để tụ họp, gắn kết các
thành viên trong gia đình.


3. Kết luận

Thờ cúng tổ tiên – nghi lễ không thể bắt gặp ở những nước phương Tây
bởi nó là đặc sản riêng biệt của nền văn hóa phương Đông giàu bản sắc
và đậm đà văn hóa dân tộc. Hàn Quốc và Việt Nam cùng nằm trong khu
vực văn hóa phương Đông nên trong nhiều tập tục nói chung, bao gồm
nghi lễ thờ cúng tổ tiên đều có những điểm tương đồng khá rõ nét. Gặp
nhau ở đạo lý, kết tinh ở chữ “hiếu”, ở truyền thống “uống nước nhớ
nguồn” nhưng thờ cúng tổ tiên ở mỗi dân tộc, mỗi quốc gia lại mang
những màu sắc riêng biệt không trùng lặp. Tìm hiểu về những nét văn hóa
này, chúng ta hiểu sâu được nét cảm, nét nghĩ của con người ở mỗi dân
tộc, nhìn thấy được chiều sâu tâm hồn của cả một quốc gia. Trong cuộc
sống hiện đại phát triển với tốc độ nhanh chóng như ngày nay, sự ảnh
hưởng của văn hóa phương Tây làm thay đổi cả nhận thức của nhiều
người trẻ, vì thế vấn đề bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống


mang đậm bản sắc dân tộc luôn là bài toán khó cho nhiều quốc gia. Vì
thế, Hàn Quốc và Việt Nam không chỉ dừng lại ở lòng tự tôn, tự hào về
nét đẹp văn hóa của mình mà cần có những chính sách, hành động thiết
thực để những giá trị văn hóa cổ truyền ấy có sức mạnh lan tỏa cả về
không gian lẫn thời gian!

4. Tài liệu tham khảo
1. Kim chi và IT _ Kim Joong Soon
2. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí

Minh



3. “한한한한한한한한 ” (Khái luận văn hóa truyền thống Hàn Quốc) – Giáo

sư Song Mi Kyung – Trường Đại học Văn hóa truyền thống Hàn
Quốc.
4. “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, bản sắc văn hóa người Việt” – Đinh

Kiều Nga
/>5. “So sánh phong tục thờ cúng tổ tiên của Việt Nam, Nhật Bản và

Hàn Quốc” – Vũ Hoa Ngọc (Viện VHNTVN)
/>


×