Sáng kiến cải tiến kỹ thuật: Một số vấn đề phát triển ngôn ngữ.
Một số vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 tuổi thông qua hoạt
động thơ
I. Phần mở đầu:
Lý do chọn đề tài:
Lúc sinh thời Bác Hồ kính yêu đã dạy:
Vì lợi ích mười măm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người.
Sự nghiệp trồng người là trách nhiệm chung của toàn xã hội trong đó ngành giáo
dục đào tạo giữ vai trò then chốt. Giáo dục nước ta hiện nay đang phát triển không
ngừng, để thúc đẩy con đường sự nghiệp đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước một cách nhanh chống và bền vững. Đòi hỏi chất lượng giáo dục là nền tảng
quan trọng, là nguồn nhân lực có chất lượng cao như Nghị quyết Trung ương II khóa
VIII khẳng định. Giáo dục là quốc sách hàng đầu chính vì thế bắt buộc những người
làm công tác giáo dục cần phải trang bị cho mình những vốn tri thức về khoa học kỹ
thuật, năng lực, trình độ, kinh nghiệm hiểu biết xã hội tạo lập cho con đường sự
nghiệp giáo dục của mình mang lại những kết quả thành công đáng kể, góp phần cho
đất nước phát triển mạnh mẽ. trong đó sự nghiệp giáo dục Mầm non là nền tảng, là cơ
sở đầu tiên tạo đà cho các cấp học tiếp theo được vững chắc. Bởi giáo dục mầm non
là thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất, trong thời điểm ấy tất cả mọi việc đều bắt
đầu: Bắt đầu đi, bắt đầu nói, bắt đầu nghe, nhìn và bắt đầu vận động bằng đôi bàn tay,
bàn chân của mình. Vì vậy chuẩn bị cho trẻ bước vào lớp một là cả một hành trang,
điều đó phải thông qua các môn học, mà ở đây bộ môn làm quen văn học là một trong
những bộ môn góp phần xây dựng ở trẻ lối sống tốt đẹp, lòng nhân ái, biết ca ngợi cái
tốt, phê phán lên án cái xấu, cái ác.
Trong các thể loại văn học, thơ là thể loại giúp trẻ cảm nhận được nghệ thuật, qua
thơ trẻ như cảm nhận được thế giới xung quanh, mở rộng vốn hiểu biết của trẻ đối với
thiên nhiên và cuộc sống xung quanh, qua đó trẻ tích lũy được những kinh nghiệm
Người thực hiện: Trần Thị Thúy Vân
- Trường MN Thái Thủy
T
Sáng kiến cải tiến kỹ thuật: Một số vấn đề phát triển ngôn ngữ.
sống. Văn học không chỉ giúp trẻ cảm nhận được nghệ thuật, văn học còn phát triển
về ngôn ngữ làm tăng thêm vốn từ.
Ngôn ngữ trong mổi tác phẩm Văn học là mẫu ngôn ngữ chính xác, chuẩn mực,
phong phú và đa dạng thúc đẩy sự bắt chước nói theo của trẻ một cách tự nhiên. Chính
vì thế giáo dục ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động thơ đóng một vai trò quan trọng
trong phát triển toàn diện về nhân cách cho trẻ.
Xuất phát từ những vấn đề trên hơn nữa bản thân là một giáo viên đứng lớp chăm
sóc giáo dục các cháu 5 tuổi nên bản thân đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu đề tài
Một số vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 tuổi thông qua hoạt động thơ với
mục đích, giúp trẻ dễ dàng hơn trong việc cảm nhận ngôn ngữ nghệ thuật của thơ và
biết thể hiện nó bằng chính ngôn ngữ hành động của trẻ.
II. Nội dung:
1. Cơ sở lý luận:
Chúng ta đã biết mục tiêu chiến lược phát triển của giáo dục Mầm non từ nay đến
2020 đã đưa ra quan điểm xác định vị trí của giáo dục mầm non, đặt nền móng cho sự
phát triển nhân cách thông qua hệ thống giáo dục quốc dân tạo tiền đề cho phổ cập
giáo dục tiểu học.
Mục tiêu chung của phát triển giáo dục Mầm non đến năm 2020 là nhanh chóng
mỡ rộng phạm vi chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ từ 0-6 tuổi trên cơ sở xây dựng
một đội ngũ giáo viên hiểu biết nghiệp vụ và tâm huyết với nghề. Là cô giáo Mầm
non chúng ta phải có trách nhiệm giáo dục đối tượng thế hệ trẻ ngay từ buổi ban đầu
Dạy trẻ như trồng cây non, Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai. Trẻ em là nguồn
hạnh phúc lớn lao, là niềm tự hào của mổi gia đình và niềm hi vọng chung của toàn xã
hội.
Từ nhận thức trên tôi thấy việc giáo dục trẻ ở lứa tuổi Mầm non phát triển toàn diện
là vô cùng quan trọng , ở trường mầm non ngoài việc chăm lo sức khỏe đến cung cấp
kiến thức là không thể thiếu. Song việc dạy trẻ tham gia vào hoạt động thơ nhằm phát
triển ngôn ngữ và làm tăng vốn từ là điều hết sức cần thiết.
Bởi qua mỗi tác phẩm thơ khơi dậy ở trẻ tình yêu quê hương đất nước, yêu cái hay,
cái đẹp, biết lên án và phê phán cái xấu từ đó hình thành ở trẻ thói quen chuẩn mực.
2. Cơ sở thực tiển:
Người thực hiện: Trần Thị Thúy Vân
- Trường MN Thái Thủy
T
Sáng kiến cải tiến kỹ thuật: Một số vấn đề phát triển ngôn ngữ.
Qua thực hiện chuyên đề làm quen Văn học-chữ viết và đã được tập huấn chuyên
đề, giáo viên đã nắm được phương pháp hình thức tổ chức hoạt động làm quen văn
học, đặc biệt là tiết hoạt động thơ, nhìn chung khả năng cảm nhận được cái hay cái
đẹp trong bài thơ, biết thể hiện bằng ý chí năng lực sư phạm của mình, với giọng đọc
đầy truyền cảm, sáng tạo, với điều đó đã tạo ra những cảm xúc cho trẻ hứng thú khi
tiếp xúc với tác phẩm thơ.
Bên cạnh khả năng cảm nhận về nội dung một số bài thơ còn hạn chế, giọng đọc,
cách phối hợp ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ minh họa đôi lúc chưa bộc lộ hết cảm xúc, kết
quả trẻ nói trọn câu, rõ lời chưa cao, trẻ chưa thực sự say mê hào hứng, cách sử dụng
đồ dùng dạy học chưa khoa học dẫn đến giờ học trẻ ít tập trung chú ý, đưa đến hiệu
quả trên tiết học chưa cao.
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy bộ môn Văn học mà đặc biệt là hoạt động thơ đã có
tầm quan trong trong việc phát triển nhận thức giáo dục đạo đức, thẩm mĩ và thông
qua hoạt động thơ giúp trẻ làm giàu vốn từ, rèn luyện khả năng phát âm và cách diễn
đạt mạch lạc và tác phẩm văn học chỉ có thể phát huy tác dụng của nó khi cô biết cách
truyền tải được tư tưởng cảm xúc của tác giả và nội dung tác phẩm thông qua các hình
thức nghệ thuật hấp dẫn, phong phú, đa dạng.
3. Thực trạng:
Trong thời gian nghiên cứu đề tài bản thân nhận thấy trong lớp mình đang công tác
còn gặp một số thuận lợi và khó khăn sau.
+ Về thuận lợi:
- Trường có nhiều phòng học, sân chơi thoáng mát, cơ sở vật chất, đồ dùng đồ chơi
đầy đủ, phù hợp thuận lợi cho cô và trẻ hoạt động bộ môn văn học.
- Tôi được nhà trường phân công giao nhiệm vụ đứng lớp 5 tuổi hầu như các trẻ cùng
độ tuổi và đã học qua chương trình mẫu giáo nhỡ và mẫu giáo bé nên đã có nề nếp.
- Bản thân luôn yêu nghề mến trẻ, say sưa với công việc tích cực tìm tòi, học hỏi để
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Lớp có 2 cô nên ít nhiều chúng tôi tranh thủ thời gian làm thêm đồ dùng đồ chơi
phục vụ cho các tiết dạy.
- Nhìn chung phụ huynh đều quan tâm đến trẻ, hiểu được tầm quan trọng của bộ môn
LQVH trong trường Mầm non.
Người thực hiện: Trần Thị Thúy Vân
- Trường MN Thái Thủy
T
Sáng kiến cải tiến kỹ thuật: Một số vấn đề phát triển ngôn ngữ.
- Nhà trường phòng giáo dục luôn quan tâm tới mọi hoạt động của giáo viên, nhất là
việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Trường đã có máy vi tính cho công tác tổ chức các tiết dạy học.
+ Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên bản thân gặp không ít những khó khăn đó là:
- Mặc dù trẻ cùng độ tuổi nhưng qua khảo sát đầu năm cho thấy khả năng nhận thức
và sự tập trung chú ý của mỗi trẻ không đồng đều.
- Một số trẻ phát âm còn ngọng, chưa đủ từ trọn câu, nói những câu phức tạp chưa
hoàn thiện, còn lúng túng khi giao tiếp. Chính những khó khăn này làm cho trẻ thiếu
tự tin trong giao tiếp nên trẻ ngày càng ít có cơ hội phát triển ngôn ngữ.
- Thời gian cho việc tạo môi trường hoạt động, tìm tòi khám phá các bài thơ ngoài
chương trình chưa nhiều.
- Qua khảo sát đầu năm cho thấy 30% cháu đạt loại khá, 60% cháu đạt loại trung
bình, 10% cháu yếu. Vì thế để tổ chức tốt tiết hoạt động thơ và tạo được môi trường
tốt cho trẻ nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và làm tăng thêm vốn từ cho trẻ quả là
điều làm tôi băn khoăn.
Chính vì gặp những vấn đề khó khăn trên bản thân đã suy nghĩ và đưa ra một số biện
pháp nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện thông qua hoạt động thơ.
4. Biện pháp thực hiện:
a/ Biện pháp thứ nhất: Huy động sức mạnh của phụ huynh và nhà trường:
Đây là một công việc rất quan trọng và cần thiết nhằm tạo điều kiện để giúp trẻ học
tốt hơn chuyên đề LQVH nói chung và hoạt động thơ nói riêng.
- Đầu năm học bản thân mở cuộc họp phụ huynh để tuyên truyền cho các bậc phụ
huynh về tầm quan trọng và phương pháp về bộ môn LQVH mà đặc biệt là hoạt động
thơ và trao đổi về kết quả ban đầu của trẻ.
- Trong các giờ đón, trả trẻ tôi trao đổi với phụ huynh về kiến thức mà trẻ tiếp thu và
vận động phụ huynh cùng tôi tìm nhặt các phế liệu sẵn có ở địa phương như lịch củ,
lông gà, lông vịt, cây thông, các loại tranh ảnh, mẫu các bài thơ... phù hợp với chủ đề
chủ điểm, phù hợp với độ tuổi.
- Động viên nhắc nhở phụ huynh thường xuyên đọc thơ cho trẻ nghe và trò chuyện
cùng trẻ
Người thực hiện: Trần Thị Thúy Vân
- Trường MN Thái Thủy
T
Sáng kiến cải tiến kỹ thuật: Một số vấn đề phát triển ngôn ngữ.
- Tham mưu với nhà trường mua sắm thêm các trang thiết bị dạy học như băng đĩa,
đèn chiếu, họa báo, tranh ảnh...phù hợp với nội dung các bài thơ, phù hợp với chủ đề
chủ điểm.
b/ Biện pháp thứ hai: Tích hợp các nội dung giáo dục và nghệ thuật đọc thơ của cô:
Như chúng ta đã biết trẻ Mầm non chưa nhìn và tự đọc tác phẩm, trẻ muốn cảm nhận
được tác phẩm Văn học phải nhờ vào người lớn, mà người lớn ở đây chính là bố mẹ, cô
giáo và cô giáo chính là người trung gian là chiếc cầu nối đưa tác phẩm văn học đến với
trẻ . Do đó lời đọc lời nói diễn cảm trong khi truyền thụ tác phẩm có thể coi là phương
pháp quan trọng nhất giúp phát triển ngôn ngữ và làm tăng vốn từ cho trẻ.
Lời đọc lời nói càng hay càng hấp dẩn bao nhiêu thì sẽ giúp trẻ cảm thụ được nội
dung bấy nhiêu, thông qua tác phẩm thơ là tiền đề cho trẻ bắt chước ngữ điệu, nhịp
diệu, là cơ sở phát triển ngôn ngữ, cho trẻ tri giác toàn bộ nội dung bài thơ.
Trong quá trình truyền thụ tác phẩm cho trẻ, việc tích hợp nội dung giáo dục và nghệ
thuật đọc thơ của cô là một hoạt động đòi hỏi sự sáng tạo cao, trí tưởng tượng phong
phú, chịu khó kiên trì, tìm tòi học hỏi, chất giọng tốt, cảm nhận chính xác nội dung
bài thơ. Lời nói của cô chính là thước đo chuẩn mực cho trẻ học tập.
Vì vậy mà trước mỗi tiết truyền thụ tác phẩm thơ cho trẻ bản thân tôi luôn chú trọng
đến việc xác định nội dung, yêu cầu của mỗi bài thơ, bài thơ thuộc thể loại thơ nào,
nhịp đọc của mỗi bài thơ như thế nào, bài thơ sử dụng nghệ thuật gì? và nội dung bài
thơ nói đến điều gì?
Ví dụ: Bài thơ Trăng ơi! từ đâu đến với bài thơ này tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh.
Trăng ơi! từ đâu đến
Hay từ cánh đồng xa
....................................
Trăng bay như quả bóng
Bạn nào đá lên trời.
Với nghề thuật so sánh tác giả như vẽ lên trước mặt ta hình ảnh ánh trăng rằm, trăng
hồng như quả chín, trăng lại tròn như mắt cá, trăng từ trên cao lại lửng lơ bay như quả
bóng, thật sóng động phải không, trăng ở trong bài thơ chỉ mới nghe, chưa được nhìn,
được ngắm mà ta cảm nhận được vẽ đẹp lung linh của ánh trăng.
Người thực hiện: Trần Thị Thúy Vân
- Trường MN Thái Thủy
T
Sáng kiến cải tiến kỹ thuật: Một số vấn đề phát triển ngôn ngữ.
Ngoài ra tôi luôn chú ý đến cách ngắt nghĩ, nhịp diệu, giọng đọc của mỗi từ, mỗi câu
thơ cho phù hợp.
Ví dụ: Bài thơ Giữa vòng gió thơm Tôi luôn chú ý đến các dấu cấm hỏi, dấu chấm
than như:
Này! Chú gà nâu
Cải nhau gì thế?
Với câu thơ này tôi thể hiện giọng đọc như đang hỏi, với dấu chấm than tôi phải ngắt
nghĩ đúng nhịp ở từ Này.
Ngoài ra tôi luôn chú ý đến cách ngắt giọng như thế nào, để khi đọc lên câu thơ đó
mới có ý nghĩa từ đó mới giúp trẻ hiểu được nội dung của bài thơ nói lên điều gì?
Ví dụ: Bài thơ Cây dừa
Cây dừa/ xanh tỏa/ nhiều tàu
Giang tay đón gió/gật đầu gọi trăng
Thân dừa/ bạc phách/ tháng năm
Quả dừa/ đàn lợn con/ nằm trên cao
Đêm hè/ hoa nở/ cùng sao
Tàu dừa/ chiếc lược chải/ vào mây xanh
Ai mang/ nước ngọt/ nước lành
Ai đeo/ bao hủ rượu/quanh cổ dừa
........................................................
Đối với các bài thơ có nhiều từ mang các dấu hỏi, dấu ngã khi đọc bản thân tôi luôn
chú ý đến giọng đọc để phù hợp với ngữ điệu như câu thơ.
Giữa vòng gió thơm
Này! Chú gà nâu
Cải nhau gì thế?
Này! Chị Vịt bầu
Chớ gào ầm ĩ.
Như vậy để giọng đọc hay, hấp dẫn tôi phải tự rèn luyện mình, tập đọc nhiều lần cho
đồng nghiệp nghe để tham gia góp ý cùng chỉnh sữa. Nếu đơn thuần trong quá trình
truyền thụ tác phẩm chỉ có lời đọc suông thì trẻ sẽ cảm thấy nhàm chán và không chú ý
đến từng câu thơ từ đó trẻ sẽ không hiểu được nội dung bài thơ giáo dục điều gì? Vì vậy
Người thực hiện: Trần Thị Thúy Vân
- Trường MN Thái Thủy
T
Sáng kiến cải tiến kỹ thuật: Một số vấn đề phát triển ngôn ngữ.
tôi luôn chú ý đến cử chỉ, nét mặt, ánh mắt, điệu bộ nhưng quan trọng hơn là sử dụng các
nghệ thuật đó như thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh của mỗi câu thơ, bài thơ.
Để tiết dạy hấp dẫn tôi chú trọng đến việc lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục vào
để dạy, việc lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục trong hoạt động thơ vừa có tác
dụng tạo ra bầu không khí thoải mái, vừa có tác dụng giáo dục trẻ một cách toàn diện
về trí tuệ, thẩm mĩ, đạo đức và thể lực. Nhưng lồng ghép ở đây không có nghĩa xáo
trộn, kiêm dạy quá nhiều môn học khác mà lồng ghép sao cho thật nhẹ nhàng, hòa
quyện vào nhau và xen kẽ các hoạt động, động, tỉnh khác nhau.
Ví dụ: Thông qua bài thơ Mèo đi câu cá tôi lồng ghép bộ môn âm nhạc bằng cách
tôi cho trẻ hát bài Ai cũng yêu chú mèo để qua đó tôi có thể đàm thoại và hướng
dẫn trẻ vào chủ đề và nội dung bài thơ. Để thay đổi không khí tôi xen kẻ động, tỉnh
bằng cách tổ chức trò chơi Bắt chước tiếng mèo kêu hoặc trò chơi Mèo đuổi
chuột một cách nhẹ nhàng giúp trẻ thoải mái hơn trong khi hoạt động. Tùy theo nội
dung bài thơ mà tôi đưa ra trò chơi phù hợp như vậy sẽ giúp trẻ hứng thú và tiếp thu
kiến thức một cách nhẹ nhàng và không bị gò bó.
c/ Biện pháp thứ ba: Xây dựng câu hỏi phong phú và đa dạng:
Căn cứ vào yêu cầu, vào bài dạy, căn cứ vào độ tuổi mà tôi đặt câu hỏi cho phù hợp.
Câu hỏi đặt ra phải ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu, phát huy được tính tư duy ở trẻ Ví
dụ: Các mẫu câu hỏi như: Vì sao? Tại sao?
Câu hỏi đặt ra phải có một hệ thống, có sự chuẩn bị một cách chu đáo, câu hỏi phải đi
từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
Câu hỏi không phát huy được tính tư duy của trẻ thì không nên hỏi
Ví dụ: Câu hỏi ở bài thơ Giữa vòng gió thơm.
Con thấy bạn nhỏ ở trong bài thơ có thương yêu bà mình không? Mà nên hỏi. Con
thấy bạn nhỏ trong bài thơ đối với bà như thế nào?
Cùng một nội dung câu hỏi tôi có thể đưa ra các câu hỏi khác nhau nhằm giúp trẻ làm
quen với cách đặt câu và mở rộng cho trẻ về ý nghĩa của từ, từ đó làm tăng vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: Bài thơ Hoa cúc vàng
Trong bài thơ tác giả nói đến hoa gì?
Hoa gì có ở trong bài thơ?
Bài thơ nói về gì?
Người thực hiện: Trần Thị Thúy Vân
- Trường MN Thái Thủy
T
Sáng kiến cải tiến kỹ thuật: Một số vấn đề phát triển ngôn ngữ.
Trong câu hỏi đặt ra để trẻ trả lời nếu trẻ không trả lời được cô nên gợi ý.
Ví dụ: Bài thơ Giữa vòng gió thơm cô hỏi
Cô vừa đọc con nghe bài thơ gì? Nếu không trả lời được tôi có thể gợi hỏi.
Bài thơ gì có chú Gà nâu, có chị Vịt bầu và có em bé đang quạt cho bà đó.
Trong mỗi câu hỏi nên cho từ 3-4 trẻ trả lời, trong quá trình trẻ trả lời cô chú ý sữa sai
và hướng cho trẻ nói đúng từ, trọn câu nếu nhiều lần cô hướng dẫn mà trẻ không nói
được thì cô bồi dưỡng thêm ngoài tiết học.
Tùy theo nội dung bài thơ dể hay khó, dài hay ngắn, thuộc hay chưa để tôi đưa ra các
câu hỏi khác nhau.
Ví dụ: Những bài thơ ngắn dễ hiểu tôi giúp trẻ khám phá những điều mới lạ, những
điều trẻ chưa biết, đưa ra câu hỏi khó hơn, dài hơn và yêu cầu trẻ trả lời trọn câu.
Còn đối với những bài thơ khó, dài, trên tiết học tôi có thể cho trẻ đọc nhiều lần,
giảng giải, giải thích cho trẻ về các câu thơ, đoạn thơ, các từ khó, đặt ra các câu hỏi dễ
hơn, gợi mở hơn hoặc tôi có thể kích thích trẻ trả lời dưới dạng câu ghép. Ví dụ như
bài thơ Mèo đi câu cá cô hỏi.
Vì sao giỏ của mèo em lại không có cá?
(Vì mèo em ham chơi với bầy Thỏ bạn nên không câu được cá)
Như vây có thể nói mổi bài thơ đưa ra nhiều cách như vậy sẽ giúp trẻ lựa chọn ngôn
ngữ trả lời, qua đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ nói đủ câu như câu đơn, câu ghép và
chắt lọc ngôn ngữ cho trẻ khi giao tiếp.
Đặc biệt khi hỏi trẻ cô củng phải hỏi bằng các giọng điệu, cử chỉ khác nhau nhằm
kích thích gây hứng thú cho trẻ trả lời. Qua đó chúng ta có thể thấy rằng việc sử dụng
các câu hỏi đàm thoại khác nhau, phù hợp với độ tuổi, yêu cầu của bài dạy, của đối
tượng thì tôi thấy không chỉ giúp trẻ phát triển nhân cách mà đặc biệt là phát triển
ngôn ngữ làm tăng vốn từ cho trẻ, giúp trẻ mạnh dạn hơn trong giao tiếp, bên cạnh
chất lượng tiết dạy của tôi ngày một đạt chất lượng cao.
c/ Biện pháp thứ tư: Sử dụng đồ dùng gây hứng thú cho trẻ:
Đối vớiVí dụ: ở góc gác sách khi thực hiện chủ đề Gia đình tôi bố trí môi trường
mới có đủ các loại tranh ảnh, sách báo có nội dung về gia đình như ông bà, bố mẹ,
anh chị em... cho trẻ xem.
Người thực hiện: Trần Thị Thúy Vân
- Trường MN Thái Thủy
T
Sáng kiến cải tiến kỹ thuật: Một số vấn đề phát triển ngôn ngữ.
trẻ Mầm non nói chung và trẻ 5-6 tuổi nói riêng tư duy của trẻ là tư duy trực quan
hình tượng. Chính vì vậy mà trong quá trình chuẩn bị cho trẻ làm quen với tác phẩm
thơ tôi luôn chú trọng đến đồ dùng trực quan và lựa chọn trực quan nào cho phù hợp,
bởi đồ dùng đẹp, hấp dẫn bao nhiêu thì kích thích và gây sự chú ý của trẻ bấy nhiêu,
vì vậy mà tôi luôn tạo ra những đồ dùng không lặp lại với các giờ học trước, trong một
tiết học tôi có thể sử dụng đồ dùng trực quan theo nhiều hình thức.
Ví dụ: Khi dạy bài Hoa cúc vàng tôi có thể vẽ tranh, chụp tranh, phong cảnh nào đó
phù hợp với nội dung bài thơ, sau đó đưa lên máy chỉnh sữa, tìm những hình ảnh phù
hợp với bài thơ để tạo thành bức tranh theo ý muốn. Sử dụng hình ảnh trên máy trẻ
cảm thấy hứng thú hơn, hình ảnh trên máy sống động và mượt mà hơn, sử dụng các
nhân vật trong thơ bằng máy vi tính tôi không phải sợ khó khăn, không phải sợ cứng
và đó cũng là điều giúp tôi chú ý hơn trong giọng đọc giọng nói của mình.
Tuy nhiên nếu chỉ sử dụng đồ dùng trên máy thì sẽ không kích thích sự tò mò hoạt
động của trẻ, vì vậy ngoài việc sử dụng hình ảnh trên máy để giải thích, giảng giải tôi
có thể sử dụng sa bàn bằng cách tôi sử dụng nhiều hình ảnh, nhân vật, cảnh vật bằng
xốp, bông...thông qua đó trẻ có thể sử dụng các đồ dùng đó, vừa sử dụng vừa thể hiện
lại nội dung bài thơ bằng sự sáng tạo của trẻ.
Tuy nhiên đồ dùng đồ chơi gây hứng thú cho trẻ song việc sử dụng nó như thế nào để
đạt được hiệu quả cao nhất, tôi phải tập sử dụng nhiều lần, tập trước gương bạn bè,
đồng nghiệp để cùng tham gia chỉnh sữa cho phù hợp với từng câu thơ, bài thơ. Như
vậy chúng ta có thể thấy rằng đồ dùng trực quan quan trọng và cần thiết như thế nào
đối với bộ môn làm quen văn học nói riêng và tiết thơ nói chung, qua đó giúp trẻ nhớ
tên bài thơ, hiểu nội dung bài thơ một cách nhanh nhất.
Sự thu hút và gây hứng thú về đồ dùng sẽ mang lại cho trẻ sự say mê, chú ý đến lời
đọc, lời hướng dẫn, giải thích của cô. Đó chính là khoảng thời gian để trẻ tư duy và sử
dụng vốn từ, luyện cách phát âm, diễn đạt ý của mình và diễn đạt ngôn ngữ mạch lạc.
d/ Biện pháp thứ năm:Tạo môi trường, gây hứng kích thích sự hoạt động tích cực
của trẻ:
Môi trường cho trẻ hoạt động là một trong những việc cần thiết không thể thiếu
được trong vấn đề đổi mới nội dung, đổi mới hình thức giáo dục Mầm non hiện nay.
Với những năm trước đây thì giáo viên tìm chọn những tranh đẹp, sống động và trang
Người thực hiện: Trần Thị Thúy Vân
- Trường MN Thái Thủy
T
Sáng kiến cải tiến kỹ thuật: Một số vấn đề phát triển ngôn ngữ.
trí lớp cho đẹp từ đầu cho đến cuối năm học. Vì thế mà trẻ nhìn lâu rồi trẻ củng cảm
thấy chán và củng không kích thích sự phát triển ở trẻ. Nhưng ngày nay bằng những
việc tìm tòi khám phá tôi đã tạo được môi trường cho trẻ hoạt động một cách tích cực
và sáng tạo hơn.
Ví dụ: ở góc gác sách khi thực hiện chủ đề Gia đình tôi bố trí môi trường mới có
đủ các loại tranh ảnh, sách báo có nội dung về gia đình như ông bà, bố mẹ, anh chị
em... cho trẻ xem.
Môi trường tôi tạo không chỉ ở góc sách mà tôi tạo môi trường trong ngoài lớp ngay
chủ đề mà trẻ đang thực hiện để khắc sâu sự ghi nhớ của trẻ với chủ đề với nội dung
bài thơ đó.
Ví dụ: Trong chủ đề Thế giới thực vật với bài thơ Hoa cúc vàng tôi viết nội dung
bài thơ bằng chữ to, bên cạnh nội dung bài thơ tôi vẽ thêm cành hoa cúc vàng, tuy trẻ
chưa đọc được các từ trên bức tranh nhưng khi được nhìn thấy cành hoa cúc vàng
được vẽ cùng với những dòng chữ trong bức tranh phần nào trẻ hiểu được bức tranh
nói về bài thơ Hoa cúc vàng và dựa trên bức tranh trẻ có thể đọc lại nội dung mà trẻ
đã được học giúp trẻ ôn luyện lại bài thơ, ghi nhớ và khắc sâu hơn về bài thơ.
Trong các bức tranh viết chữ to treo ở lớp tôi luôn chú ý đến kích cở, màu sắc phải
sống động, rõ ràng để gây được sự chú ý của trẻ.
5. Kết quả đạt được:
Sau một thời gian áp dụng các biện pháp trên tôi đã thu được một số kết quả sau:
* Về phía cháu:
+ Nhìn chung 100% trẻ biết tên và hiểu nội dung bài thơ.
+ 80% trẻ hiểu được ý nghĩa của câu, từ và biết thực hiện theo ý nghĩa của câu đó.
+ 80% trẻ nói năng mạch lạc, mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.
+ 70% trẻ biết sử dụng ngữ điệu, giọng diệu, nhịp điệu phù hợp trong giao tiếp.
+ 90% trẻ biết sử dụng từ ngữ, ngữ pháp đúng.
* Về phía cô:
+ Bản thân tôi cảm thấy thoải mái tự tin khi tiến hành dạy trẻ hoạt động với tiết thơ.
+ Nghệ thuật đọc thơ diễn cảm của bản thân được nâng lên.
+ Tham khảo được nhiều bài thơ hay, hấp dẫn ngoài chương trình.
Người thực hiện: Trần Thị Thúy Vân
- Trường MN Thái Thủy
T
Sáng kiến cải tiến kỹ thuật: Một số vấn đề phát triển ngôn ngữ.
+ Tích lũy được nhiều kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy, cách truyền đạt tác
phẩm cho trẻ.
+ Tôi có thêm nhiều kinh nghiệm về việc tạo đồ dùng trực quan đẹp.
+ Khả năng sử dụng máy tính trở nên thành thạo hơn.
* Về phía phụ huynh:
+ Nhận thức của phụ huynh đã thể hiện sự quan tâm rõ rệt đối với con mình.
+ Hiểu được tầm quan trọng của bộ môn Văn học nói chung và tiết thơ nói riêng
nhằm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
6. Bài học kinh nghiệm:
Sau khi thực hiện một số vấn đề phát triển ngôn ngữ trong hoạt động thơ nhằm phát
triển ngôn ngữ, nhận thức ngữ điệu, cung cấp vốn từ cho trẻ thu hút được một số kết
quả trên và đã rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân.
- Bản thân luôn luôn tạo hứng thú kích thích tính tò mò ham hiểu biết, thu hút trẻ
trong giờ hoạt động thơ.
- Trước khi truyền thụ một tác phẩm văn học giáo viên phải đọc thuộc và diễn cảm bài
thơ. Xác định kiến thức cần truyền thụ, giọng đọc của từng câu, từng bài, sau đó luyện
giọng đọc diễn cảm phối hợp ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ minh họa phù hợp với nội dung
tác phẩm nhằm thu hút sự tập trung chú ý của trẻ.
- Là giáo viên Mầm non phải có tâm hồn cao đẹp, trái tim nhân hậu, yêu nghề mến
trẻ, hiểu được tâm sinh lý và khả năng nhận thức, nhận biết của trẻ để có biện pháp
giáo dục phù hợp với cá nhân trẻ.
- Chú ý đầu tư nghiên cứu tìm ra các phương pháp hướng dẫn trẻ có nhiều sáng tạo
phù hợp mang lại hiệu quả cao.
- Tích cực học hỏi bạn bè đồng nghiệp, luôn tìm tòi các loại sách báo, tranh ảnh để
tạo ra môi trường trong và ngoài lớp học phong phú và đa dạng.
- Phải có nhiều sáng tạo trong việc làm đồ dùng đồ chơi và linh hoạt trong cách lên
lớp và cách sử dụng đồ dùng.
- Thường xuyên rèn luyện kĩ năng nghe, đọc cho trẻ.
- Biết tạo và xử lý các tình huống sư phạm.
Người thực hiện: Trần Thị Thúy Vân
- Trường MN Thái Thủy
T
Sáng kiến cải tiến kỹ thuật: Một số vấn đề phát triển ngôn ngữ.
- Tạo cơ hội cho trẻ sữa sai những điều trẻ chưa thực hiện được như nói trọn câu, đúng
lời, đúng ngữ pháp và tạo cơ hội để trẻ bộc lộ năng khiếu và thực hiện sở thích của
mình.
- Biết lồng ghép các nội dung hợp lý trên các tiết học vào hoạt động trong ngày một
cách nhẹ nhàng, không áp đặt trẻ.
- Chú ý phối kết hợp với phụ huynh để thống nhất phương pháp giáo dục trẻ làm quen
tác phẩm văn học.
III. Kết luận:
Công tác giáo dục có một vị trí cực kì quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ
cho đất nước. Trong đó Mầm non là bậc học có vai trò đặc biệt quan trọng. Việc cho
trẻ làm quen văn học ngay từ lứa tuổi Mầm non là một cơ sỡ tốt để hình thành ở trẻ
tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống con người qua đó trẻ biết yêu thương kính trọng
ông bà, cha mẹ, anh chị em, yêu thương quan tâm bạn bè, em nhỏ và luôn có thái độ
đúng với con vật, cảnh vật xung quanh trẻ. Văn học còn giúp trẻ phát triển tư duy, trí
tường tượng, ngôn ngữ, thẩm mĩ, hình thành nhân cách con người, tạo nền tảng vững
chắc cho trẻ bước vào học phổ thông.
Bộ môn văn học nói chung và văn học trẻ thơ nói riêng là kho tàng qúy báu được
khai thác không ngừng phục vụ cho việc bồi dưỡng tâm hồn trẻ. Đặc biệt là các tác
phẩm thơ dành cho trẻ Mầm non với hình tượng nghệ thuật gần gủi phù hợp với nhận
thức của trẻ và từ những khó khăn thực tế mà lớp tôi gặp phải tôi đưa ra biện pháp
nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong việc hướng dẫn trẻ và phát triển ngôn ngữ cho
trẻ thông qua hoạt động thơ. Kính mong sự góp ý, bổ sung của cấp lãnh đạo, các đồng
chí đồng nghiệp để bản sáng kiến của tôi mang tính khả thi, góp phần nâng cao chất
lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong giai đoạn hiện nay.
Thái Thủy, Ngày 20 tháng 5 năm 2010
ý kiến của Hội đồng khoa học nhà trường
Người viết
Trần Thị Thúy Vân
ý kiến của Hội đồng khoa học phòng GD - ĐT Lệ Thuỷ
Người thực hiện: Trần Thị Thúy Vân
- Trường MN Thái Thủy
T