Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Tiểu luận môn triết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.08 KB, 111 trang )

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thể hiện mấy quan điểm sau :
Vật chất quyết định ý thức, vật chất quyết định nội dung ý thức . Cả ý thức thông thường và ý
thức lý luận đều bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định . những ước mơ phong tục,
tập quán , thói quen nầy nẩy sinh trên những điều kiện vật chất nhất định đó là thực tiển xã hội –
lịch sử . Chủ nghĩa xã hội khoa học đời củng dựa trên mảnh đất hiện thực là những tiên đề về
kinh tế chính trị xã hội, về khoa học tự nhiên và sự kế thừa tinh hoa tư tưởng , văn hoá nhân loại
cùng với thiên tài của cácmác và Ăngghen .

Do thưc tại khách quan luôn luôn biến động vận động nên nhận thức của nó củng luôn luôn biến
đổi theo, nhưng xét đến cùng thì vật chất bao giờ củng quyết định ý thức . Nhưng ý thức đã ra
đời thì nó có tác động lại vật chất . Với tính độc lập tương đối của mình ý thức tác động trở lại
vật chất thông qua hoạt động thực tiển của con người .

Sự tác động trở lại theo hai hướng thúc đẩy hoặc kìm hảm thâm chí phá hoại sự phát triển bình
thường của sự vật .

Vai trò của ý thức là ở trổ nó chỉ đạo hoạt động của con người, hình thành mục tiêu , kế hoạch , ý
trí biện pháp hoạt động của từng người . Cho nên trong điều kiên khách quan nhất định ý thức –
tư tưởng trở thành nhân tố quan trọng có tác dụng quyết định làm cho con người hoạt động đúng
hay sai, thành công hay thất bại .

Sức mạnh của ý thức con người không phải ở trổ tách rời điều kiện vật chất thoát li điều kiện
khách quan mà là biết dựa vào điều kiện vật chất đã có phản ánh đúng qui luật khách quan để cải
tạo thế giới một cách chủ động sáng tạo và có hiệu quả . “Ý thức con người không chỉ phản ánh
thế giới khách quan mà còn tạo ra thế giới khách quan” (Lênin).

Quán triệt quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của triết học Mác xit. Trong nhận thức và
thực tiễn , chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan , lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho
mọi hoạt động của mình . Đồng thời phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai
trò nhân tố của con người trong việc nhân thức ,tác động cải tạo thế giới .Quan điểm khách quan
trên giúp ta ngăn ngừa và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí.




Bệnh chủ quan duy ý trí là xuất phát từ việc cường điệu tính sáng tạo của ý thức , tuyệt đối hoá
vai trò nhân tố chủ quan của ý chí ,bất chấp qui luật khách quan ,xa rời hiện thực , phủ nhận xem
nhẹ điều kiện vật chất .

Ở nước ta , trong thời kỳ trước đổi mới . Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta mắt bệnh chủ quan
duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và bước đi trong việc xây dựng vật chất kỹ thuật và cải
tạo xã hội chủ nghĩa ; về bố trí cơ cấu kinh tế ;về việc sử dụng các thành phần kinh tế ….

Trong những năm 1976-1980 trên thực tế chúng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong
khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết đó là lực lượng sản xuất còn nhỏ bé , chưa phát triển , còn
chủ yếu là sản xuất nhỏ , lạc hậu , kinh tế hàng hoá chưa phát triển . Chúng ta chỉ muốn đẩy
nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ Nghĩa Xã Hội mà không tính đến điều
kiện thực tế của đất nước .

Trong bố trí cơ cấu kinh tế ,trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư , thường chỉ xuất phát từ
mong muốn đi nhanh , không tính đến điều kiện và khả năng thực tế đề ra những chỉ tiêu kế
hoạch hoá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất .

Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ,sử dụng các thành phần kinh tế , đã có hiện tượng nóng vọi muốn
xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa , nhanh chống biến kinh tế tư bản tư
nhân thành quốc doanh trong khi đúng ra là phải duy trì thực hiện phát triển các thành phần kinh
tế theo từng bước đi thích hợp , phù hợp với thời kỳ quá độ trong một thời gian tương đối dài để
phát triển lực lượng sản xuất .

Nguyên nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu ,yếu kém về lý luận ,do tâm
lý của người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ quan liêu bao cấp .

Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài học :”Đảng ta luôn luôn xuất

phát từ thực tế ,tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan . Năng lực nhận thức và hành
động theo qui luật là điều kiên đảm bảo sự lảnh đạo đúng đắn của Đảng ” (VKĐH 6, trang 30 ).


Chúng ta biết rằng quan điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
xuất phát từ bản thân sự vật hiện tượng ,phải thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất
, của các qui luật tự nhiên và xã hội , không được xuất phát từ ý muốn chủ quan .

Bài học mà Đảng ta đã nêu ra , trước heat đòi hỏi Đảng nhận thức đúng đắn và hành động phù
hợp với hệ thống qui luật khách quan. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận , nhất là tư duy về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta . Đó là xây dựng CNXH bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài nhiều chặn đường , nhiều
hình thức tổ chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ .

Mổi chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước phải xuất phát từ thực tế khách quan của đất
nước và phù hợp qui luật . Chúng ta biết rằng ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan trong
quá trình con người cải tạo thế giới . Do đó càng nắm bắt thông tin về thực tế khách quan chính
xác , đầy đủ trung thực và sử lý các thông tin ấy một cách khoa học thì quá trình cải tạo thế giới
càng hiệu quả .Đồng thời cần thấy rằng sức mạnh của ý thức là ở năng lực nhận thức và vận
dụng tri thức củng như các qui luật của thế giới khách quan .

Xuất phát từ mối quan hệ biên chứng giữa vật chất và ý thức . Đảng ta xác định : “Đảng phải
luôn luôn xuất phát từ thực tế tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan” là xác định vai
trò quyết định của vật chất (thế giới khách quan ) : “Năng lực nhận thức và hành động theo qui
luật là điều kiện đảm bảo sự lảnh đạo đúng đắn của Đảng “là khẳng định vai trò tích cực của ý
thức trong việc chỉ đạo hành động con người . Như vậy , từ chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ
vật chất và ý thức , củng như từ những kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lảnh
đạo cách mạng nước ta , Đảng ta đả rút ra bài học trên.

Bài học ấy có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất nước . Hiện nay , trong tình

hình đổi mới của cục diện thế giới và của cách mạng ở nước ta đòi hỏi Đảng ta không ngừng
phát huy sự hiệu quả lảnh đạo của mình thông qua việc nhận thức đúng , tranh thủ đươc thời cơ
do cách mạng khoa học công nghệ ,do xu thế hội nhập và toàn cầu hoá đem lại ,đồng thời xác
định rỏ những thách thức mà cách

TCCS - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) của Đảng ta đã yêu cầu phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải
quyết tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có quan hệ “giữa phát triển lực lượng sản xuất và


xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”(1). Việc nhận thức,
vận dụng mối quan hệ này phù hợp với thực tiễn Việt Nam sẽ góp phần thực hiện thành
công mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Bản chất quy luật và sự thể hiện trong điều kiện thực tiễn cụ thể
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được thể hiện thành một
quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển xã hội loài người - quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật do C. Mác phát hiện ra
và được trình bày trong nhiều tác phẩm của ông. Đây là quy luật cơ bản, phổ biến tác động trong
toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại và cùng với các quy luật khác làm cho lịch sử loài người vận
động từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn,
quy định sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cấu thành của phương thức sản xuất. Theo
quy luật khách quan, quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Phù hợp ở đây có nghĩa quan hệ sản xuất phải là “hình thức phát triển” tất yếu của lực
lượng sản xuất, tạo địa bàn, động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Cần quan niệm sự
phù hợp một cách biện chứng, lịch sử - cụ thể, trong quá trình, trong trạng thái động. Do bản tính
của mình, lực lượng sản xuất là yếu tố động, biến đổi nhanh hơn, còn quan hệ sản xuất là yếu tố
tương đối ổn định, biến đổi chậm hơn. Vì vậy lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt
đối lập biện chứng trong phương thức sản xuất. C. Mác đã chứng minh vai trò quyết định của lực

lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất đồng thời cũng chỉ ra tính độc lập tương đối của quan hệ
sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy
định mục đích xã hội của sản xuất, tác động đến lợi ích của người sản xuất, từ đó hình thành một
hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Có thể coi quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật cơ bản nhất, quy luật gốc của sự phát triển xã hội. Sự biến đổi, phát triển xã hội xét đến
cùng là bắt nguồn từ quy luật này.
Khác với quy luật của tự nhiên, quy luật xã hội là quy luật hoạt động của con người, tồn tại và
tác động thông qua hoạt động của con người, gắn với điều kiện thực tiễn, hoàn cảnh lịch sử - cụ
thể. Vì vậy việc nhận thức và vận dụng quy luật xã hội nói chung, quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng phải phù hợp với điều
kiện thực tiễn cụ thể của từng quốc gia dân tộc, từng giai đoạn phát triển của đất nước và sự biến
đổi của tình hình quốc tế.
Ở nước Nga sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, một nước tuy đã trải qua giai đoạn phát triển


trung bình của chủ nghĩa tư bản, trong thời kỳ nội chiến, chống thù trong giặc ngoài, V.I. Lê-nin
và những người bôn-sê-vích cũng đã tưởng rằng có thể bằng “chính sách cộng sản thời chiến”
tiến nhanh lên chủ nghĩa cộng sản. Nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội mùa xuân năm
1921 đã cho thấy sai lầm đó. V.I. Lê-nin viết: “Chúng ta chưa tính toán đầy đủ mà đã tưởng là có thể trực tiếp dùng pháp lệnh của nhà nước vô sản, để tổ chức theo kiểu cộng sản chủ nghĩa,
trong một nước tiểu nông, việc nhà nước sản xuất và phân phối sản phẩm. Đời sống thực tế đã
vạch rõ sai lầm của chúng ta”(2). V.I. Lê-nin đã phê phán bệnh ảo tưởng lúc bấy giờ vì không sát
thực tiễn trong việc vận dụng quy luật. Người đã quyết định chuyển sang chính sách kinh tế mới
(NEP) thay thế chế độ trưng thu lương thực bằng chế độ thuế lương thực, khuyến khích phát
triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quan hệ thị trường, cho phép phát triển kinh tế tư nhân, cá thể, tư
bản tư nhân, chính sách tô nhượng, cho phép sử dụng chuyên gia tư sản...
Còn ở Trung Quốc trong thời kỳ 1957 - 1960 - thời kỳ tiến hành “3 ngọn cờ hồng”, “công xã
nhân dân”, “đại nhảy vọt” - đó là thời kỳ bệnh chủ quan, duy ý chí ghê gớm đã phá hoại lực
lượng sản xuất của một nước còn nghèo nàn lạc hậu. Rõ ràng việc nhận thức, vận dụng không
đúng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, không phù hợp với

quy luật và điều kiện thực tiễn đã phải trả giá đắt như thế nào.
Ở nước ta trong thời kỳ từ Đại hội IV (năm 1976) đến trước Đại hội VI (năm 1986) của Đảng,
chúng ta đã mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội và bệnh bảo thủ trì trệ do vi phạm các
quy luật khách quan, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Chúng ta đã thoát ly khỏi điều kiện thực tiễn của một đất nước kinh tế kém phát
triển, còn nghèo nàn lạc hậu nhưng lại muốn tạo ra một quan hệ sản xuất tiên tiến đi trước để mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng hậu quả thì ngược lại.
Đúng như văn kiện Đại hội VI đã khẳng định: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị
kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát
triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất”(3). Lúc đó chúng ta đã chủ quan muốn tạo ra một quan hệ sản xuất vượt trước trình độ lực
lượng sản xuất, làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt,
đưa đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Chúng ta đã có những biểu hiện nóng vội
muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản
tư nhân thành quốc doanh; mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, kìm hãm
sự phát triển của đất nước. Chúng ta vừa chủ quan nóng vội, vừa bảo thủ trì trệ, hai mặt đó cùng
tồn tại và cản trở bước tiến của cách mạng.
Sự nhận thức sai quy luật chứng tỏ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng quy luật đang
hoạt động trong thời kỳ quá độ; thành kiến không đúng những quy luật của sản xuất hàng hóa;
coi nhẹ việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Cuộc sống dạy cho chúng ta một bài học thấm thía
là không thể nóng vội làm trái quy luật.


Từ sự trình bày trên đây, có thể rút ra một số sai lầm phổ biến trong nhận thức và vận dụng quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tức mối quan hệ
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phù hợp thực tiễn.
- Không hiểu đúng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, tách rời
quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, cường điệu quan hệ sản xuất mà coi nhẹ lực lượng sản
xuất, coi nhẹ việc phát triển, giải phóng lực lượng sản xuất, muốn tạo ra quan hệ sản xuất tiên
tiến đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất, muốn nhanh chóng thực hiện nhiều mục tiêu của

chủ nghĩa xã hội trong điều kiện kinh tế còn lạc hậu, mới giành được chính quyền.
- Nhận thức quan hệ sản xuất không trong chỉnh thể, cường điệu chế độ sở hữu, nhất là muốn
nhanh chóng thiết lập chế độ công hữu với bất kỳ giá nào, coi sở hữu tư nhân nằm ngoài bản chất
của chủ nghĩa xã hội cần phải nhanh chóng xóa bỏ; coi nhẹ quan hệ tổ chức - quản lý và phân
phối; coi nhẹ động lực lợi ích cá nhân của người lao động.
- Duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, coi nhẹ quy luật giá trị, quan hệ hàng hóa tiền tệ, cơ chế thị trường, từ đó tạo thành cơ chế kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Muốn tạo ra một quan hệ sản xuất nhất loạt như nhau trong những ngành sản xuất khác nhau,
những vùng miền, địa bàn khác nhau (vùng đồng bằng, miền núi, vùng sâu, vùng xa...) với
những trình độ lực lượng sản xuất rất khác nhau, tức là cào bằng quan hệ sản xuất.
Tóm lại, những sai lầm có tính phổ biến trên đây chính là do nhận thức không đúng bản chất quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp trình độ lực lượng sản xuất, những điều kiện tác động của nó,
không tính đến điều kiện thực tiễn khi vận dụng, kết cục không tránh khỏi rơi vào thất bại.
2. Công cuộc đổi mới là quá trình ngày càng nhận thức và vận dụng đúng đắn hơn quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện thực
tiễn Việt Nam và quốc tế
Tại Đại hội VI - Đại hội khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã phê phán bệnh chủ quan duy ý
chí do vi phạm quy luật khách quan mà trước hết và chủ yếu là quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó Đại hội đã rút ra bài học quan trọng là
“Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”,
phải “làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn
luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Công cuộc đổi mới xét về thực
chất chính là quay trở về với quy luật, với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin
phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, phù hợp hơn với quy luật khách quan, trong gần 30 năm
qua nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng


và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó có thành tựu về nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta.
- Chúng ta đã nhận thức rõ hơn quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,

sự phù hợp và mâu thuẫn giữa chúng trong từng giai đoạn phát triển. Về đặc trưng kinh tế trong
xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đã chuyển từ công thức “có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu” (Cương lĩnh năm 1991) sang công thức “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm
2011). Sự “phù hợp” ở đây trước hết là phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, phù
hợp với thực tiễn Việt Nam và định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Không ngừng hoàn thiện chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và
hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh.
Thực hiện chủ trương trên, trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều
chính sách và luật pháp nhằm đa dạng hóa các hình thức của quan hệ sản xuất để khuyến khích,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, giải phóng mọi tiềm năng của sản xuất, tạo thêm động lực
cho người lao động. Đó là những chính sách, pháp luật liên quan đến đổi mới, nâng cao chất
lượng, hiệu quả của kinh tế nhà nước, nhất là doanh nghiệp nhà nước, đến việc củng cố và phát
triển kinh tế tập thể, đến phát huy vai trò động lực của kinh tế tư nhân, thu hút mạnh mẽ và phát
huy hiệu quả của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, nâng cao chất lượng và hiệu quả cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước, phát triển kinh tế hỗn hợp...
Đảng và Nhà nước cũng đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật để hoàn thiện các mặt của
quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa về sở hữu, tổ chức - quản lý và phân
phối. Đã ban hành Luật Đất đai (sửa đổi năm 2013), quy định về sở hữu và đại diện chủ sở hữu,
phân định quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý
của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế; xác định vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước thông qua
định hướng, điều tiết, kế hoạch, quy hoạch, chiến lược, chính sách, chương trình phát triển và
các lực lượng vật chất. Thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân phối theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn, trí tuệ và các nguồn lực khác và phân phối
thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
- Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho quan hệ sản xuất mới. Đã đầu tư để
xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao
thông và hạ tầng đô thị lớn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại


hóa; phát triển một số ngành công nghiệp cơ khí, đóng tàu, vận tải, khai thác vật liệu, xây dựng,
chế biến; ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin;
phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao... Thực hiện đổi mới mô hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa dịch vụ.
- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp thu
những thành tựu về khoa học - công nghệ, về kinh tế tri thức, văn minh của thế giới; kinh nghiệm
quốc tế... để phát triển, hiện đại hóa lực lượng sản xuất và củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất
mới. Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện
pháp để tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song phương và tổ chức đa
phương, như ASEAN, APEC, ASEM, WTO..., thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài (FDI,
ODA...), xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, khai thác hiệu
quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ và kinh
nghiệm quản lý tiên tiến. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 170 nước, quan hệ thương
mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, ký trên 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp
định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng.

Tuy nhiên trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất trong thời gian qua bên cạnh những thành tựu đạt được cũng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém,
xuất hiện những mâu thuẫn mới, sự không phù hợp mới giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, làm cản trở sự phát triển của cả lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất.
Mặc dù đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nước có thu nhập trung bình
thấp, song thực chất vẫn là nước nghèo, kinh tế còn lạc hậu, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với thế giới và khu vực ngày càng lớn. Mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại khó có thể đạt được. Hiện nay các ngành công nghiệp cơ

khí, chế tạo, chế tác, phụ trợ... còn kém phát triển, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong GDP. Năng suất lao
động, hiệu quả, chất lượng, sức cạnh tranh thấp, yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) rất thấp. Lực
lượng sản xuất yếu kém như vậy sẽ quy định trình độ, chất lượng của quan hệ sản xuất mà chúng
ta gọi là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng không thể hoàn thiện được.
Chúng ta chưa chú ý toàn diện, đồng bộ trong xây dựng, hoàn thiện các mặt của quan hệ sản
xuất. Vẫn còn xu hướng nặng về thay đổi chế độ sở hữu hơn là cải tiến, đổi mới quan hệ quản lý
và phân phối sản phẩm. Chưa thể gọi quan hệ sản xuất hiện nay ở nước ta là quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa (theo đúng nghĩa của từ đó) bởi vì nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, đang thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa có lực lượng sản
xuất công nghiệp hiện đại làm cơ sở cho quan hệ sản xuất mới. Vì vậy không nên nóng vội trong
xây dựng quan hệ sản xuất, song cũng không được coi nhẹ việc xây dựng quan hệ sản xuất từng
bước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.


Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) và trong Hiến pháp năm 2013 đều xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay kinh tế nhà nước chưa thực sự giữ vai trò chủ đạo, bởi vì
nhìn chung năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp, chưa làm gương để dẫn dắt các thành phần kinh
tế khác, nhiều doanh nghiệp nhà nước rơi vào tình trạng sản xuất, kinh doanh thua lỗ, tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực, làm thất thoát tài sản nhà nước, gây nhiều bức xúc trong dư luận xã
hội. Doanh nghiệp nhà nước hiện chiếm tới 70% vốn đầu tư toàn xã hội, 50% vốn đầu tư nhà
nước, 60% tín dụng các ngân hàng thương mại và 70% vốn ODA,... nhưng khu vực này chỉ đóng
góp 37% - 38% GDP.
Các doanh nghiệp nhà nước có hệ số ICOR cao hơn nhiều so với khu vực tư nhân (trong giai
đoạn 2006 - 2010 nếu tính toán từ vốn đầu tư, hệ số ICOR của khu vực nhà nước là 9,68 còn khu
vực ngoài nhà nước là 4,01, tăng hơn giai đoạn 2000 - 2005 theo vị trí tương ứng là 6,94 (nhà
nước) và 2,93 (ngoài nhà nước). Suất sinh lời trên vốn của doanh nghiệp nhà nước thấp hơn
doanh nghiệp tư nhân.
Quản lý doanh nghiệp nhà nước còn nhiều lỏng lẻo, phân định không rõ thẩm quyền và trách
nhiệm của chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu, nhất là trong quản lý vốn, do đó thời gian qua

nhiều doanh nghiệp đầu tư tràn lan, ngoài ngành nhiều, bị “lợi ích nhóm” chi phối, vi phạm pháp
luật, nợ xấu tăng lên (tính đến cuối năm 2012, nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước chiếm 11,82%
tổng nợ xấu của các tổ chức hệ thống tín dụng và 5,05% dư nợ đối với doanh nghiệp nhà nước).
Khu vực kinh tế tập thể còn nhỏ bé, yếu kém, nhiều hợp tác xã trong nông nghiệp mang tính hình
thức, chỉ làm khâu dịch vụ đầu vào và đầu ra của sản xuất, quỹ không chia trong hợp tác xã rất
nhỏ bé, trình độ khoa học - công nghệ, quy mô và trình độ quản lý rất thấp, không cạnh tranh
được với các hộ sản xuất cá thể. Tỷ trọng của kinh tế tập thể trong GDP nhỏ bé, giảm liên tục từ
10,1% năm 1995 xuống còn 5,22% năm 2011.
Khu vực kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế, đóng góp
nhiều vào tăng trưởng GDP và giải quyết việc làm cho người lao động. Tuy nhiên các doanh
nghiệp tư nhân chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên gặp nhiều bất lợi về cạnh tranh, nguồn
vốn và cả bị phân biệt đối xử trong thực tế do cơ chế, chính sách. Trong những năm gần đây do
suy giảm kinh tế nên hàng vạn doanh nghiệp tư nhân, cá thể bị giải thể hoặc ngừng hoạt động.
Tiềm năng của kinh tế tư nhân rất lớn nhưng chưa được tạo điều kiện để phát triển mạnh và đóng
góp nhiều hơn cho xã hội.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế quan trọng trong đóng góp vào
tăng trưởng GDP, thu hút nguồn lao động. Tỷ trọng của khu vực FDI đã tăng liên tục từ 4,2%
năm 1991 lên 18,97% năm 2011. Tuy nhiên khu vực này cũng có những hạn chế, như chưa đầu
tư vào các lĩnh vực có công nghệ cao, công nghệ nguồn, phần lớn còn là công nghệ trung bình,


thậm chí lạc hậu, gia công, lắp ráp, ít đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực có
lợi nhuận kém hấp dẫn. Các doanh nghiệp FDI khai thác nguồn tài nguyên, thị trường, nhân lực
rẻ tại Việt Nam để phục vụ cho mục tiêu lợi nhuận của họ, thậm chí có cả hiện tượng “chuyển
giá”, hạch toán lỗ... nhằm trốn thuế, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
Những hạn chế, yếu kém trên đây của các thành phần kinh tế trong quan hệ sản xuất đã cản trở
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình trên đây có cả nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan.
Về khách quan, việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với đa hình thức sở hữu, quản lý, phân phối, đa thành phần kinh tế là mô

hình kinh tế chưa có tiền lệ trong lịch sử, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm.
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về kinh tế thị trường, về quan hệ giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện một nước lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới, hội nhập... còn rất nhiều hạn chế, bất cập, nhiều vấn đề phải
mò mẫm. Nhận thức trên một số vấn đề thuộc chủ trương, quan điểm tuy đã được khẳng định
trong nghị quyết của Đảng song vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau (chẳng hạn, vấn đề kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, vấn đề sở hữu và sử dụng đất đai, vấn đề quan hệ giữa Nhà nước và thị
trường, giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa...). Chính vì nhận thức còn khác
nhau ở tầm quan điểm nên trong việc thực hiện nghị quyết, chính sách còn ngập ngừng, không
nhất quán, không kiên quyết.
Bên cạnh đó, tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm đổi
mới; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể còn thiếu thống nhất; tổ chức thực hiện còn thiếu kiên
quyết, dễ làm khó bỏ; quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém; không thể chế hóa kịp thời các quan
điểm, chủ trương của Đảng thành các chính sách, biện pháp. Đồng thời có một số chủ trương
chưa đủ rõ hoặc chưa phù hợp, chưa có sự thống nhất và thông suốt ở các cấp, các ngành.
Một số cán bộ, đảng viên rơi vào suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng,
tiêu cực, “lợi ích nhóm”, năng lực và phẩm chất không đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi
mới.
Một số vấn đề đặt ra về lý luận và thực tiễn để tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa phát
triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp với
thực tiễn Việt Nam
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nhận thức và vận dụng quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta - vốn từ
một nước lạc hậu, có điểm xuất phát rất thấp đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.


Thứ hai, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về sở
hữu và các thành phần kinh tế, giải quyết những vấn đề còn vướng mắc, chưa rõ, ý kiến còn khác
nhau, nhằm phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, như vấn đề chế độ sở hữu và các

hình thức sở hữu ở nước ta; vấn đề vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; vấn đề sắp xếp, đổi
mới, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước; vai trò kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác; vai trò động
lực phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta; vai trò kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; vấn đề kinh
tế hỗn hợp, kinh tế cổ phần.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới tư duy và quan điểm phát triển hài hòa cả về lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất, chính trị, văn hóa, xã hội. Xây dựng tư duy mới về mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, về mở cửa, hội nhập, về phương thức phát triển kinh tế. Làm rõ vai trò
của Nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa Nhà nước và
thị trường, giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Đẩy mạnh cải cách toàn diện thể chế nhằm huy động
và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực; thực hiện cơ chế thị trường và giải quyết hài hòa quan hệ
giữa Nhà nước và thị trường trong phân phối các tư liệu sản xuất; bảo đảm bình đẳng thực sự
giữa các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh xã hội hóa các tổ chức trong cung ứng các dịch vụ công
(giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ). Thực hiện đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính
trị. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện luật pháp và chính sách kinh tế để kiến tạo sự phát triển bền
vững. Xây dựng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, nhất là trong bộ máy quản lý nhà nước.
Đổi mới thể chế nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách; phát huy dân chủ,
tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ các loại thị trường, bảo đảm
nguyên tắc thị trường trong sự vận hành nền kinh tế, hoàn thiện cơ chế vận hành các loại thị
trường.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế: hoàn thiện chế độ sở hữu và
các thành phần kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế; gắn kết chặt chẽ 5 trụ cột: kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội - môi trường
trong phát triển bền vững; tiếp tục đổi mới chế độ phân phối; thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân./.
------------------------------------------(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2011, tr. 73
(2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1973, t. 44, tr. 189
(3) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 58



Lê Hữu NghĩaGS, TS. Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương

BÀI LÀM
Câu 1: Phân tích cơ sở lý luận, nêu ra các yêu cầu phương pháp của nguyên tắc khách
quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang vận dung
nguyên tắc này như thế nào vào sự nghiệp cách mạng ở nước ta.
* Cơ sở lý luận:
Nguyên tắc khách quan trong xem xét được xây dựng dựa trên nội dung của nguyên lý về tính
thống nhất vật chất của thế giới. Yêu cầu của nguyên tắc này được tóm tắt như sau :khi nhận
thức khách thể (đối tượng), sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện thực – chủ thể tư duy phải nắm
bắt, tái hiện nó trong chính nó mà không được thêm hay bớt một cách tùy tiện .
- Vật chất là cái có trước tư duy. Vật chất tồn tại vĩnh viễn và ở một giai đọan phát triển nhất
định của mình nó mới sản sinh ra tư duy. Do tư duy phản ánh thế giới vật chất, nên trong quá
trình nhận thức đối tượng ta không được xuất phát từ tư duy, từ ý kiến chủ quan của chúng ta về
đối tượng.mà phải xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ bản chất của nó, không được ”bắt”
đối tượng tuân theo tư duy mà phải “bắt” tư duy tuân theo đối tượng. Không ép đối tượng thỏa
mãn một sơ đồ chủ quan hay một “Lôgíc” nào đó, mà phải rút ra những sơ đồ từ đối tượng, tái
tạo trong tư duy các hình tượng, tư tưởng- cái lôgíc phát triển của chính đối tượng đó.
- Toàn bộ “nghệ thuật” chinh phục bản chất của sự vật, hiện tượng được gói ghém trong sự tìm
kiếm, chọn lựa, sử dụng những con đường, cách thức, phương tiện thâm nhập hữu hiệu vào “thế
giới” bên trong của sự vật. “nghệ thuật” chinh phục như thế không mang đến cho sự vật, hiện
tượng một cái gì đó xa lạ với chính nó. Điều này đặt ra cho chủ thể một tình thế khó khăn. Làm
như thế nào để biết chắc chắn những suy nghĩ của chúng ta về sư vật là khách quan, là phù hợp
với bản thân sự vật? Nguyên tắc khách quan đòi hỏi được bổ sung thêm yêu cầu phát huy tính
năng động sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng .
- Khi nhận thức các hiện tượng xã hội chúng ta phải chú trọng đến mức độ quan tâm và năng lực
nhận thức của các lực lượng xã hội đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, đối với khuynh
hướng phát triển của các hiện tượng xã hội, đối với việc đánh giá tình hình xã hội … những đánh
giá có giá trị hơn, những cách giải quyết đúng hơn thường là những đánh giá, những cách giải
quyết thuộc về các lực lượng xã hội biết đứng trên lập trường của giai cấp tiên tiến, của những

lực lượng cách mạng của thời đại đó. Vì vậy tính khách quan trong xem xét các hiện tượng xã
hội nhất quán với nguyên tắc tính đảng. Việc xem thường nguyên tắc này dễ dẫn đến vi phạm
yêu cầu của nguyên tắc khách quan trong xem xét, dễ biến nó thành chủ nghĩa khách quan, cản
trở việc nhận thức đúng đắn các hiện tượng xã hội phức tạp.
* Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc khách quan trong xem xét:


Nguyên tắc khách quan trong xem xét có mối liên hệ mật thiết với các nguyên tắc khác của lôgíc
biện chứng. Nó thể hiện ở yêu cầu cụ thể sau:
+ Trong hoạt động nhận thức, Chủ thể phải:
- Một là: Xuất phát từ hiện thực khách quan, tái hiện lại nó như nó vốn có mà không được tùy
tiện đưa ra những nhận định chủ quan.
- Hai là: Phải biết phát huy tính năng động, sáng tạo của chủ thể, đưa ra các giả thuyết khoa học
có giá trị về khách thể, đồng thời biết cách tiến hành kiểm chứng các giả tuyết đó bằng thực
nghiệm.
+ Trong hoạt động thực tiễn, Chủ thể phải :
- Một là: Xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiện ra những quy luật chi phối nó.
- Hai là: Dựa trên các quy luật khách quan đó, chúng ta vạch ra các mục tiêu, kế họach, tìm kiếm
các biện pháp, phương thức để tổ chức thực hiện. Kịp thời điều chỉnh, uốn nắng họat động của
con người đi theo lợi ích và mục đích đã đặt ra.
Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức có nghĩa là phát huy vai trò tri thức, tình cảm, ý
chí, lý trí… tức là phát huy vai trò nhân tố con người trong họat động nhận thức và họat động
thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan, vươn lên làm chủ thế giới.
* Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng như thế nào vào sự nghiệp cách mạng của Việt
Nam:
Phải tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định của vật chất. Cụ thể là:
- Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để họach định các đường lối,
chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước.
- Biết tìm kiếm, khai thác và sử dụng những lực lượng vật chất để hiện thực hóa đường lối, chiến
lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước.

- Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đòan kết tòan dân tộc là động lực chủ yếu
để phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các lợi ích khác nhau (lợi ích kinh tế, lợi ích chính
trị, lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội...) thành động
lực mạnh mẽ thúc đẩy công cuộc đổi mới.
- Đảng ta rút ra những bài học kinh nghiệm từ những sai lầm, thất bại trước đổi mới, Đảng ta kết
luận: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách
quan”.


Câu 2: Phân tích cơ sở triết học (lý luận và phương pháp luận) trong khẳng định của Đảng
cộng sản Việt Nam "Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn
trọng qui luật khách quan".
Ngay từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư
tưởng và vận dụng tư tưởng lý luận đó vào thực tế cách mạng nước ta để đề ra đường lối, chủ
trương, chính sách qua từng thời kỳ. Một trong những vận dụng cơ sở lý luận của triết học
Mác Lênin vào công cuộc đổi mới đất nước mà Đảng đã khởi xướng bắt đầu từ Đại hội Đảng
lần thứ IV là nguyên tắc khách quan, một nguyên tắc được rút ra từ mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức. Đảng cộng sản Việt Nam "Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải
xuất phát từ thực tế, tôn trọng qui luật khách quan". Việc tìm hiểu quy luật khách quan trên
cơ sở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức để vận dụng đúng đắn quy luật này vào thực tiễn là
vấn đề hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học. Phạm trù vật chất và
mối liên hệ giữa vật chất và ý thức đã được các nhà triết học trước Mác quan tâm với nhiều quan
điểm khác nhau và luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật
trong suốt lịch sử của triết học .
Quan điểm Mácxit cho rằng chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật
chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan có trước và độc lập với ý thức con người. Lênin –
người đã bảo vệ và phát triển triết học Mác đã nêu ra định nghĩa “vật chất là một phạm trù triết
học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại để làm cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại ,chụp lại ,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.

Vật chất là một phạm trù triết học: Đó là một phạm trù rộng và khái quát nhất , không thể
hiểu theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật chất thường dùng trong các lĩnh vực khoa học cụ thể
hoặc đời sống hàng ngày. Thuộc tính cơ bản nhất của vật chất là “thực tại khách quan” , “tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”, đó cũng chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất và cái
gì không phải là vật chất.
Vật chất quyết định ý thức, vật chất quyết định nội dung ý thức. Cả ý thức thông thường
và ý thức lý luận đều bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định . Phong tục, tập quán ,
thói quen nầy nẩy sinh trên những điều kiện vật chất nhất định đó là thực tiển xã hội –lịch sử.
Chủ nghĩa xã hội khoa học đời cũng dựa trên mảnh đất hiện thực là những tiên đề về kinh tế
chính trị xã hội, về khoa học tự nhiên và sự kế thừa tinh hoa tư tưởng , văn hoá nhân loại cùng
với thiên tài của MÁC và Ăngghen .
Do thực tại khách quan luôn luôn biến động vận động nên nhận thức của nó củng luôn
luôn biến đổi theo, nhưng xét đến cùng thì vật chất bao giờ củng quyết định ý thức . Nhưng ý
thức đã ra đời thì nó có tác động lại vật chất . Với tính độc lập tương đối của mình ý thức tác
động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiển của con người .


Quán triệt quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của triết học Mác xit. Trong nhận
thức và thực tiễn , chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn
cứ cho mọi hoạt động của mình . Đồng thời phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát
huy vai trò nhân tố của con người trong việc nhận thức, tác động cải tạo thế giới. Quan điểm
khách quan trên giúp ta ngăn ngừa và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí.
Bệnh chủ quan duy ý trí là xuất phát từ việc cường điệu tính sáng tạo của ý thức, tuyệt
đối hoá vai trò nhân tố chủ quan của ý chí, bất chấp qui luật khách quan, xa rời hiện thực, phủ
nhận xem nhẹ điều kiện vật chất .
Ở nước ta , trong thời kỳ trước đổi mới. Đảng ta đã nhận định rằng chúng ta mắt bệnh chủ
quan duy ý chí trong việc xác định mục tiêu và bước đi trong việc xây dựng vật chất kỹ thuật và
cải tạo xã hội chủ nghĩa ; về bố trí cơ cấu kinh tế; về việc sử dụng các thành phần kinh tế ….Trong
cải tạo xã hội chủ nghĩa ,sử dụng các thành phần kinh tế , đã có hiện tượng nóng vọi muốn xoá bỏ
ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa , nhanh chống biến kinh tế tư bản tư nhân thành

quốc doanh trong khi đúng ra là phải duy trì thực hiện phát triển các thành phần kinh tế theo từng
bước đi thích hợp , phù hợp với thời kỳ quá độ trong một thời gian tương đối dài để phát triển lực
lượng sản xuất.
Nguyên nhân của căn bệnh chủ quan duy ý chí trên là do sự lạc hậu, yếu kém về lý luận, do
tâm lý của người sản xuất nhỏ và do chúng ta kéo dài chế độ quan liêu bao cấp.
Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu lên bài học :”Đảng ta luôn luôn
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan". Chúng ta biết rằng quan
điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ bản thân sự vật
hiện tượng, phải thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các qui luật tự nhiên và
xã hội, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan.
Bài học mà Đảng ta đã nêu ra , trước hết đòi hỏi Đảng nhận thức đúng đắn và hành động
phù hợp với hệ thống qui luật khách quan. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là xây dựng CNXH bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài nhiều chặn đường, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ .
Mổi chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước phải xuất phát từ thực tế khách quan
của đất nước và phù hợp qui luật . Chúng ta biết rằng ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
trong quá trình con người cải tạo thế giới . Do đó càng nắm bắt thông tin về thực tế khách quan
chính xác , đầy đủ trung thực và sử lý các thông tin ấy một cách khoa học thì quá trình cải tạo thế
giới càng hiệu quả .Đồng thời cần thấy rằng sức mạnh của ý thức là ở năng lực nhận thức và vận
dụng tri thức củng như các qui luật của thế giới khách quan .
Xuất phát từ mối quan hệ biên chứng giữa vật chất và ý thức . Đảng ta xác định "Mọi
đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng qui luật khách quan” là


xác định vai trò quyết định của vật chất (thế giới khách quan). Như vậy , từ chủ nghĩa Mác-Lênin
về mối quan hệ vật chất và ý thức, củng như từ những kinh nghiệm thành công và thất bại trong
quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng ta đả rút ra bài học trên.
Bài học ấy có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất nước. Hiện nay, trong
tình hình đổi mới của cục diện thế giới và của cách mạng ở nước ta đòi hỏi Đảng ta không ngừng

phát huy sự hiệu quả lảnh đạo của mình thông qua việc nhận thức đúng, tranh thủ được thời cơ do
cách mạng khoa học công nghệ, do xu thế hội nhập và toàn cầu hoá đem lại, đồng thời xác định rỏ
những thách thức mà cách mạng nước a trãi qua.
Câu 3: Bằng lý luận và thực tiễn chứng minh rằng "Ý thức con người không chỉ phản ánh
thế giới mà còn góp phần sáng tạo ra thế giới ?
Ý thức của con người theo triết học duy vật biện chứng không phải là một hiện tượng thần bí,
tách rời khỏi vật chất mà là đặc tính của một dạng vật chất có tổ chức đặc biệt là bộ óc của con
người, là sự phản ánh sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài vào bộ óc của con người trên nền
tảng của hoạt động lao động sáng tạo và được hiện thực hóa bằng ngôn ngữ. Ý thức là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức con người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc tự nhiên: Triết học DVBC chỉ ra rằng, phản ánh là thuộc tính chung của mọi vạn vật
chất. Đó là năng lực giữ lại, tái hiện lại của 01 hệ thống vật chất này những đặc điểm của của
một hệ thống vật chất khác khi 02 hệ thống vật chất đó tác động lẫn nhau. Cùng với sự phát triển
của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng phát triển từ thấp lên cao. Như vậy ý thức
là thuộc tính của 01 dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người. Não người và sự phản ánh của
thế giới khách quan vao não người chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức
Nguồn gốc xã hội:
Triết học DVBC chỉ ra rằng, chính lao động và ngôn ngữ là 02 nguồn gốc
xã hội Quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của ý thức Chính lao động đóng vai
trò Quyết định trong sự chuyển biến từ vượn thành người, làm cho con người khác với tất cả
động vật khác. Lao động giúp con người cải tạo thế giới và hoàn thiện chính mình. Thông qua
lao động não người càng ngày càng hoàn thiện, phát triển giúp tư duy trừu tượng phát triển.
Chính lao động là cơ sở hình thành, phát triển của ngôn ngữ . Sự ra đời của ngôn ngữ sẽ giúp con
người phản ánh sự vật khái quát hơn. Điều này càng thúc đẩy tư duy trừu tượng phát triển . Đây
là 02 yếu tố quan trọng để phát triển ý thức. Lao động và ngôn ngữ là “hai sức kích thích chủ
yếu” để bộ não vượn thành bộ não người, phản ánh tâm lý động vật thành phản ánh ý thức.
Về bản chất của ý thức: Các Mác đã chỉ ra rằng ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được di
chuyển vào trong bộ óc của con người và được cải biến đi ở trong đó. Như vậy bản chất của ý
thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Có nghĩa là nội dung của ý thức là do thế

giới khách quan quy định, nhưng khi phản ánh thì nó mang dấu ấn chủ quan của con người.


- Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào óc người nhưng đó là phản ánh sáng tạo. Tính
sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo
ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế. ý thức có thể tiên
đoán, dự báo tương lai, có thể tạo ra những huyền thoại, những giả thuyết ...
- Phản ánh của ý thức là tích cực, chủ động: con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn, chủ động
tác động vào sự vật hiện tượng làm cho chúng bộc lộ tính chất, thuộc tính, đặc điểm → hiểu
biết vận dụng tri thức để nhận thức và cải tạo TGKQ.
- Ý thức mang bản chất xã hội
Khi thừa nhận vật chất tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức, quyết định ý thức thì sự nhận thức
thế giới không thể xuất phát từ ý thức con người, mà phải xuất phát từ thế giới khách quan.Trong
hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan. Lênin đã nhiều
lần nhấn mạnh rằng không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, lấy ý chí áp đặt
cho thực tế vì như vậy sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật đồng
thời vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng to lớn của ý thức đối với vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Quan hệ giữa vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều. Không thấy điều
đó sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm thường và bệnh bảo thủ, trì trệ trong nhận thức và hành
động.
Nói tới vai trò của ý thức thực chất là nói tới vai trò của con người, vì ý thức tự nó không trực
tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. Do đó, muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng
thực tiễn. Nghĩa là con người muốn thực hiện quy luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng
đúng đắn những quy luật đó, phải có ý chí và phương pháp để tổ chức hành động. Vai trò của ý
thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt động của con người, có thể quyết định làm cho con người hành động
đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định. Do đó,
con người càng phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới có hiệu
quả "Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo ra thế giới". Vì
vậy, phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác
động, cải tạo thế giới khách quan.

Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức ta thấy không được
xem nhẹ quan điểm khách quan, tính năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phải phát
huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan. Bởi vì quá trình đạt tới tính khách
quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong việc tìm ra những biện pháp,
những con đường để từng bước thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật, trên cơ sở đó con người
thực hiện sự biến đổi từ cái “vật tự nó” (tức thực tại khách quan) thành cái phục vụ cho nhu cầu
của con người đồng thời sử dụng hiệu quả các điều kiện, sức mạnh vật chất khách quan, sức
mạnh của quy luật … để phục vụ cho các mục tiêu, mục đích khác nhau của con người.
Nếu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta tuyệt đối hóa, cường điệu hóa vai trò của
nhân tố chủ quan thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của xã hội và rơi vào bệnh bệnh


bảo thủ trì trệ. Đây là khuynh hướng sai lầm cực đoan do cường điệu hóa vai trò của vật chất, sùng
bái sức mạnh của quy luật, hạ thấp vai trò của nhân tố chủ quan. Khuynh hướng bảo thủ sẽ dẫn đến
tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay đổi, dựa dẫm, chờ đợi, thậm chí cản trở cái mới, bằng lòng
thỏa mãn với cái đã có.
Liên hệ thực tế: Bệnh bảo thủ trì trệ là một thực tế tồn tại trong thời kỳ khá dài trước đổi mới
(trước Đại hội lần VI tháng 12-1986). Trong giai đoạn này, tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội
ngày càng trầm trọng xuất phát từ bảo thủ có tác hại rất lớn. Bênh bảo thủ trì trệ được biểu hiện
qua việc “chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời”, trong công tác tổ chức thời kỳ này
“khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ
vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp còn theo quan niệm cũ kỹ và tiêu chuẩn không
đúng đắn, mang nặng tính hình thức..” Đảng ta đã “duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp” - một cơ chế "gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm
giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí".
Bệnh bảo thủ trì trệ có nguyên nhân từ sự yếu kém lạc hậu về tư duy lý luận, trí thức lý luận
không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Sự giản đơn yếu kém về lý luận thể hiện ở chổ: hiểu
và vận dụng chưa đúng nguyên lý, quy luật, phạm trù, chưa chú ý tiếp thu kế thừa những thành
tựu, kỹ thuật công nghệ mới của chủ nghĩa tư bản, của nhân loại, thậm chí còn có định kiến phủ
nhận một cách cực đoan những thành tựu đó, chưa chú ý tổng kết những cái mới từ sự vận động,

phát triển của thực tiễn theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nguyên nhân của bệnh chủ quan là kém lý
luận, lý luận là lý luận suông. Còn do nguồn gốc lịch sử, xã hội, giai cấp, tâm lý của con người
chi phối.
Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước ta, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân từng bước được ổn định và nâng
cao, chế độ XHCN ngày càng củng cố và đất nước đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội
và đang có những bước chuyển biến tích cực trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Tóm lại, từ những phân tích trên cho thắng lợi của công cuộc đổi mới có được là dựa trên một
nền tảng tư tưởng đúng, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà trong đó sự
quán triệt và vận dụng đúng quy luật, nguyên tắc khách quan là điều kiện đảm bảo sự dẫn dắt
đúng đắn của Đảng.

Câu 4: Anh/Chị hãy nêu những yêu cầu phương pháp luận và phân tích cơ sở lý luận của
nguyên tắc toàn diện. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì
trong hoạt động nhận thức và họat động thực tiễn?
Trả lời: (Tham khảo thêm sách TH - P2, trang 70).
a/ Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện: là nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.


MLHPB là mối liên hệ giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong mọi sự vật, trong mọi lĩnh
vực hiện thực.
MLHPB mang tính khách quan và phổ biến. Nó chi phối tổng quá sự tồn tại , vận động, phát
triển của mọi sự vật, quá trình xảy ra trong thế giới; và là đối tượng nghiên cứu của phép biện
chứng. Nó được nhận thức trong các cặp phạm trù (mặt đối lập- mặt đối lập; chất-lượng; cái cũcái mới; cái riêng-cái chung; nguyên nhân- kết quả; nội dung-hình thức; bản chất- hiện tượng; tất
nhiên- ngẫu nhiên; khả năng- hiện thực.
Nội dung nguyên lý:
Mọi sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn vật) trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên
hệ ràng buộc lẫn nhau. Mối liên hệ tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.
Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến. Mối
liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình vận

động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới.
b/ Những yêu cầu về Phương pháp luận:
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
Tìm hiểu, phát hiện càng nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố…)
đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật càng tốt.
Phân loại để xác định quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố…) nào là bên trong, cơ
bản, tất nhiên, ổn định…; còn những mối liên hệ nào là bên ngoài, ko cơ bản, ngẫu nhiên.
Dựa trên các MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố…) bên trong đế lý giải các
MLH, quan hệ còn lại. Qua đó, xây dựng hình ảnh về SV như sự thống nhất các MLH; phát hiện
ra đặc điểm, tính chất, quy luật (bản chất) của nó.
Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải:
Đánh giá đúng vai trò của từng MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố…) chi
phối SV.
Thông qua hoạt động thực tiễn sử dụng nhiều biện pháp thích hợp để biến đổi những MLH, đặc
biệt là những MLH bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng…
Nắm vững sự chuyển hóa các MLH, kịp thời đưa ra các biện pháp bổ sung để phát huy / hạn chế
sự tác động của chúng, lái SV theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta.
c/ Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn:


→ Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tác toàn diện sẽ khắc phục được chủ nghĩa phiến
diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện, ...trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của
chính mình.
+ Chủ nghĩa phiến diện: là cách xem xét chỉ thấy ở một mặt, một mối quan hệ, một tính chất hay
từ một phương diện nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối liên hệ nhiều tính chất cúa
sự vật.
+ Chủ nghĩa chiết trung: là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ nhưng ko rút
ra được bản chất, mối liên hệ cơ bản của sự vật mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách
vô nguyên tắc, tùy tiện

+ Chủ nghĩa ngụy biện: Cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ bản, cái chủ
yếu với cái thứ yếu… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách tinh
vi.
Trong đời sống XH, nguyên tắc toàn diện có vai trò cục kỳ quan trọng. Nó đòi hỏi chúng ta
không chỉ liên hệ nhận thức với nhận thức mà cần phải liên hệ nhận thức với thực tiễn cuộc sống,
phải chú ý đến lợi ích của các chủ thể khác nhau trong xã hội và biết phân biệt đâu là lợi ích cơ
bản và lợi ích ko cơ bản.
Câu 5: Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc toàn diện của
phép biện chứng duy vật. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế
gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?
A/ Cơ sở lý luận:
Mối liên hệ và MLH phổ biến:
Mối liên hệ là sự tác động ràng buộc, thâm nhập… lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng
hay quá trình (vạn vật) mà trong đó sự thay đổi của cái này mà tất yếu kéo theo sự thay
đổi của các kia. Đối lập với mối liên hệ là sự khác biệt. Sự tách biệt cũng là sự tác động
qua lại giữa các sự vật, hiện tượng hay quá trình nhưng sự thay đổi của cái này sẽ ko tất
yếu kéo theo sự thay đổi của cái kia. Do vậy mà vạn vật trong thế giới đều luôn tác động
lẫn nhau, nhưng có một số tác động dẫn đến sự thay đổi, tức còn nằm trong trạng thái ổn
định. Vạn vật vừa tách biệt vừa liên hệ, vừa là nó vừa ko là nó. Thế giới vật chất là một
hệ thống thống nhất mọi yếu tố, bộ phận của nó. Chính nhờ sự thống nhất vật chất mà
vạn vật luôn tác động qua lại lẫn nhau.
+ Mối liên hệ mang tính khách quan, tính phổ biến.
+ Mối liên hệ mang tính đa dạng. Nó có thể được chia ra thành: MLH bên trong và MLH
bên ngoài; MLH trong tự nhiên, MLH trong xã hội và MLH trong tư duy; MLH riêng,
MLH chung và MLH phổ biến;… Vai trò các MLH khác nhau là ko giống nhau.
MLH phổ biến là MLH giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong mọi sự vật, trong
mọi lĩnh vực hiện thực.


+ MLH phổ biến cũng mang tính khách quan và bổ biến. Nó chi phối tổng quát sự tồn tại,

vận động, phát triển của mọi sự vật, quá trình xảy ra trong thế giới; và là đối tượng
nghiên cứu của phép biện chứng.
+ MLH phổ biến được nhận thức trong các (cặp) phạm trù biện chứng như MLH giữa:
mặt đối lập - mặt đối lập; chất - lượng; cái cũ – cái mới; cái riêng – cái chung; nguyên
nhân - kết quả; nội dung – hình thức; bản chất - hiện tượng; tất nhiên - ngẫu nhiên; khả
năng - hiện thực.
Nội dung nguyên lý:
Mọi sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn vật) trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn
MLH ràng buộc lẫn nhau. MLH tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.
Trong muôn vàn MLH chi phối sự tồn tại của chúng có những MLH phổ biế. MLH phổ
biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình vận động,
phát triển của mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới.
B/ Yêu cầu phương pháp luận:
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
Tìm hiểu, phát hiện càng nhiều MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt,…) đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật càng tốt. Phải xem xét sự vật từ khắp
góc độ, từ nhiều phương diện càng tốt;
Phân loại để xác định những MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt…) nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định…; còn những MLH, quan hệ (hay
những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên,
không ổn định…;
Dựa trên những MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) bên trong,
cơ bản, tất nhiên, ổn định… để lý giải được những MLH, quan hệ (hay những đặc điểm,
tính chất, yếu tố, mặt…) còn lại. Qua đó xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự thống
nhất các MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…); phát hiện ra quy
luật (bản chất) của nó.
Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
Đánh giá đúng vai trò của từng MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt…) chi phối sự vật.
Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiểu công cụ, phương tiện, biện pháp

thích hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi
những MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) của bản thân sự vật,
đặc biệt là những MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) bên
trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng…. của nó.
Nắm vững sự chuyển hóa các MLH, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt…) của bản thân sự vật, kịp thời sử dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung


để phát huy hay hạn chế sự tác động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển
theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta.
C/ Việc tuân thủ và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc phục được chủ
nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện,… trong hoạt động thực tiễn và
nhận thức của mình.
Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất nào
đó mà ko thấy được nhiểu mặt, nhiều MQH, nhiều tính chất của sự vật; chỉ xem xét sự
vật ở một góc độ hay từ một phương diện nào đó mà thôi.
CN chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều MLH của sự vật nhưng ko
rút ra được mặt bản chất, ko thấy đc MLH cơ bản của sự vật; mà coi chúng như nhau, kết
hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.
CN ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái ko cơ bản, cái chủ yếu
với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách
tinh vi.
Câu 6: Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc
phát triển của phép biện chứng duy vật. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục
được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?
1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển của phép biện chứng duy vật:
Trước khi tìm hiểu nguyên tắc phát triển của phép biện chứng duy vật ta làm rõ
một số khái niệm liên quan đến nguyên tắc phát triển như sau:
Vận động là gì?. Vận động là một thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất,
vận động được hiểu như sự thay đổi nói chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất,

tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật
chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự
thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Phát triển là gì?. Là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao (thay đổi về lượng),
từ đơn giản đến phức tạp (thay đổi về chất), từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện (thay đổi
lượng – chất), do việc giải quyết mâu thuẫn trong bản chất sự vật gây ra, được thực hiện
thông qua bước nhảy về chất và diễn ra theo xu hướng phủ định của phủ định. Ở khía
cạnh khác, phát triển cũng được xem là một khuynh hướng vận động tổng hợp của một hệ
thống sự vật trong đó, sự vận động có thay đổi những quy định về chất (thay đổi – kết cấu
tổ chức) của hệ thông sự vật theo xu hướng tiến bộ giữ vai trò chủ đạo; còn sự vận động
có thay đổi những quy định về chất của hệ thông – sự vật theo xu hướng thoái bộ và sự
vận động chỉ có thay đổi những quy định về lượng của hệ thống – sự vật theo xu hướng
ổn định giữ vai trò chủ đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo trên. Theo cách hiểu này,
trong quá trình phát triển của hệ thông sự vật vật chất xảy ra trong thế giới, không chỉ là
sự thay đổi tiến bộ mà còn chứa trong mình những sự thay đôi thoái bộ tạm thời, không
chỉ là sự thay đổi mà còn chứa trong mình những sự ổn định tương đối.


Phát triển là quá trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ biến và đa
dạng. phát triển trong thế giới tự nhiên vô sinh, hữu sinh, phát triển trong xã hội phát triển
trong tư duy, tinh thần. Phát triển xảy ra khi có sự thay đổi/ chuyển hoá giữa các mặt đối
lập, giữa lượng và chất, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái riêng và cái chung, giữa nguyên
nhân và kết quả, giữa nội dung là hình thức, giữa bản chất và hiện tượng, giữa tất nhiên và
ngẫu nhiên, giữa khả năng và hiện thực.
Nội dung của nguyên lý phát triển là: Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều không
ngừng vận động và phát triển. Phát triển mang tính khách quan - phổ biến, là khuynh
hướng vận động tổng hợp tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện của một hệ thống vật chất, do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện
bước nhảy về chất gây ra theo xu thế phủ định của phủ định.
2. Những yêu cầu của nguyên tắc phát triển:

a) Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải:
- Phát hiện những xu hướng, khả năng biến đổi, chuyển hoá giữa những giai đoạn tồn tại của bản
thân sự vật trong sự tự vận động và phát triển của chính nó.
- Xây dựng được hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các xu hướng, những giai đoạn thay đổi
của nó, từ đó, phát hiện ra quy luật vận động và phát triển (bản chất) của sự vật hiện tượng.
b) Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải:
- Chú trọng đến mọi điều kiện, khả năng,.. tồn tại của sự vật để nhận định đúng các xu hướng,
những giai đoạn thay đổi có thể xảy ra với nó.
- Thông qua thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện thích hợp (mà trước hết là những
công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những điều kiện, phát huy hay hạn chế
những khả năng tồn tại của sự vật nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo hướng hợp quy
luật và có lợi cho ta.
3. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn:
Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc phát triển sẽ giúp chủ thể khắc phục được quan điểm
(tư duy) siêu hình, lối xem xét cứng nhắc, đầu óc bảo thủ, giáo điều,…trong hoạt động thực tiễn
và nhận thức của chính mình.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi chủ thể phải sử dụng các nguyên tắc kèm theo mới làm sáng tỏ bản
tính vận động và phát triển tự thâm của sự vật như nguyên tắc (phân tích) mâu thuẫn, nguyên tắc
phân tích lượng – chất, nguyên tắc phủ định biện chứng./.


Câu 7: Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển. Vì sao trong hoạt động nhận thức
và trong thực tiễn chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc phát triển? Vận dụng nguyên tắc này
vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Trả lời:
I. Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển
I.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển nguyên lý về sự phát triển
Nguyên tắc phát triển cũng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản,
quan trọng của hoạt động nhận thức thực tiễn. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nguyên

lý về sự phát triển của phép biện chựng duy vật.
Theo đó, sự phát triển là vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là trường hợp đặc biệt của sự vận động và trong
sự phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó, làm cho cơ
cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự việc, hiện tượng cùng chức năng của nó
ngày càng hoàn thiện hơn. Do vậy, để nhận thức được sự tự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng chúng ta phải thấy được sự thống nhất giữa sự biến đổi về lượng với sự biến đổi về chất
trong quá trình phát triển, phải chỉ ra được nguồn gốc và động lực bên trong, nghĩa là tìm ra và
biết cách giải quyết mâu thuẫn, phải xác định xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng do sự
phủ định biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề cho sự ra đời của sự vật hiện tượng mới.
Yêu cầu của nguyên tắc phát triển
- Nguyên tắc phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó
trong trạng thái vận động, biến đổi chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật,
hiện tượng trong trạng thái hiện tại mà còn thấy được khuynh hướng phát triển
của nó trong tương lai, nghĩa là phải phân tích để làm rõ những biến đổi của sự
vật, hiện tượng.
- Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải
qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm, tính
chất, hình thức khác nhau.
- Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp


quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ, phải chống lại
quan điểm bảo thủ, trì trệ ...Sự thay thế cái cũ bằng cái mới diễn ra rất phức
tạp bởi cái mới phải đấu tranh chống lại cái cũ, chiến thắng cái cũ.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu tôn trọng nguyên tắc phát triển sẽ mang lại
kết quả gì
Tuân theo những đòi hỏi đó của quan điểm phát triển sẽ góp phần khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ

và bệnh giáo điều trong tư duy cũng như trong hành động thực tiễn. Bệnh bảo thủ trì trệ là tình
trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay đổi, dựa dẫm, chờ đợi, thậm chí cản trở cái mới, bằng lòng
thỏa mãn với cái đã có. Đôi khi bệnh bảo thủ biểu hiện qua những định kiến. Bệnh bảo thủ trì trệ
cũng gắn liền với bệnh giáo điều, đó là khuynh hướng tuyệt đối hóa lý luận, coi thường kinh
nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý
chung trừu tượng, không chú ý đến những hoàn chỉnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận.
Bệnh giáo điều có 2 dạng : giáo điều lý luận và giáo điều kinh nghiệm. Bệnh giáo điều lý luận là
việc thuộc lòng lý luận, cho rằng áp dụng lý luận áp dụng vào đâu cũng được không xem xét
điều kiện cụ thể của mình. Ví dụ như theo Mác thì phải xóa bỏ tư hữu dẫn đến việc ta tiến hành
cải tạo XHCN xóa tất cả các thành phần kinh tế nhằm mục đích chỉ còn 2 thành phần kinh tế
quốc doanh và tập thể mà không thấy được rằng "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng
của thời kỳ quá độ", sự có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối quan hệ tác động qua lại
của nó sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này. Bệnh giáo điều kinh nghiệm
là việc áp dụng nguyên si rập khuôn mô hình của nước khác, của địa phương khác vào địa
phương mình mà không sáng tạo, chọn lựa … Ví dụ như trước đây ta bắt chước rập khuôn mô
hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà nước (ở Liên Xô có
bao nhiêu Bộ, Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ ngành), hoặc về công nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ
chú ý tập trung phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ … Bệnh
bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều cùng với bệnh chủ quan duy ý chí là những căn bệnh chung của
các nước XHCN và nó gây ra hậu quả tất yếu là làm cản trở, thậm chí kéo lùi sự phát triển của
kinh tế - xã hội, đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Ngược lại nếu ko tôn trọng nguyên tắc phát triển sẽ mang lại hậu quả gì
Nếu chúng ta tuyệt đối hoá nhận thức, nhất là nhận thức khoa học về sự vật hay hiện tượng nào
đó thì các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn sẽ không thể phát triển và thực tiễn sẽ
dậm chân tại chỗ. Chính vì thế, chúng ta cần phải tăng cường phát huy nỗ lực của bản thân trong
việc hiện thực hoá quan điểm phát triển vào nhận thức và cải tạo sự vật nhằm phục vụ nhu cầu,
lợi ích của chúng ta và của toàn xã hội.
Nguyên tắc phát triển gợi mở cho chúng ta điều gì trong công cuộc xây dựng và phát triển
đất nước ta hiện nay



×