ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA VẬT LÝ
------
BÀI TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: LÍ LUẬN DẠY HỌC HIỆN ĐẠI
CHƯƠNG I. CƠ SỞ TÂM LÍ HỌC HIỆN ĐẠI
Giảng viên hướng dẫn : PGS. TS. Lê Văn Giáo
Học viên thực hiện
: Trần Trọng Công
Lê Thị Hồng Cẩn
Nguyễn Trần Thảo Dung
Đỗ Mạnh Đạt
Lớp
: LL&PP DHBM Vật lý
Khóa
:
Huế, tháng 4 năm 2015
K23
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Có thể nói dạy học là hoạt động đặc trưng chỉ có ở con người. Trải qua
hàng nghìn năm, hoạt động dạy học không ngừng được cải tiến. Khó có thể nói
đâu là điểm dừng hay đâu là đỉnh của việc cải tiến dạy học. Thế nhưng, thực tế
cuộc sống cho thấy đến thời điểm hiện nay dạy học hiện đại đã đạt được những
thành tựu rất đáng nể. Đó chính là những thành tựu làm phát huy tối đa vai trò
của người học, làm tối ưu hóa hoạt động của người dạy hướng về người học, là tổ
chức hoạt động dạy học theo định hướng hiệu quả nhất trong những điều kiện tối
ưu nhất. Để có thể thực hiện những yêu cầu ấy, đạt được những thành tựu lý
tưởng ấy đòi hỏi việc dạy học phải dựa trên những cơ sở khoa học nhất định mà
những cơ sở về mặt Tâm lý học là điều không thể thiếu.
Sau khi được sự phân công của thầy PGS. TS. Lê Văn Giáo và của
lớp nhóm một đi nghiên cứu phần “cơ sở của tâm lý học hiện đại” của học phần
Lí luận dạy học hiện đại. Nội dung bài tiểu luận gồm các phần sau:
1. Lý thuyết hoạt động
2. Động cơ và hứng thú
3. Lý thuyết cân bằng của J. Piaget
4. Lý thuyết vùng phát triển gần của L. Vưgốtxki
5. Dạy học và phát triển
Chúng tôi hy vọng rằng với nội dung được trình bày ở trên có thể khái quát
lên một phần nội dung cơ bản của cơ sở của tâm lý học hiện học.
Em xin cảm ơn thầy giáo PGS. TS. Lê Văn Giáo và các thành viên
trong lớp đã tận tình đóng góp ý kiến giúp đở nhóm trong quá trình báo cáo trên
lớp và làm bài tiểu luận này. Trong quá trình làm tiểu luận này chắc chắn sẽ có
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-2-
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
những sai sót nên nhóm rất mong sự góp ý xây dựng của thầy và các bạn để bài
tiểu luận trở nên hoàn thiện hơn.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ TÂM LÍ HỌC HIỆN ĐẠI
1. Lý thuyết hoạt động (tâm lý học hoạt động)
1.1. Sự ra đời và nội dung của thuyết
Xuất phát từ quan điểm của Mác: “Cái tinh thần chẳng qua là cái vật chất
chuyển vào trong đầu mỗi người và được cải biến trong đó”.
Các dòng tâm lí học đều tự gọi là khách quan song đều bỏ qua các mối quan
hệ bản chất của con người, đánh mất con người cụ thể, sống và hoạt động trong
xã hội nhất định. Cho nên các dòng phái ấy đều không đạt được mong muốn chân
thành của họ là xây dựng khoa học khách quan về thế giới tâm lí con người.
Tâm lí học hoạt động là trường phái tâm lí được xây dựng và phát triển
mạnh mẽ ở Liên Xô và các nước Đông Âu cũ với tư cách là trường phái tâm lí
học chủ yếu, then chốt của nền tâm lí học Xô Viết, tâm lí học Nga, hay là tâm lí
học Macxit.
Theo A.N Leonchiev: “ hoạt động được hiểu là một tổ hợp các quá trình con
người tác động vào đối tượng nhằm đạt mục đích thỏa mãn một nhu cầu nhất
định và chính kết quả của hoạt động là sự cụ thể hóa nhu cầu của chủ thể.”
Mỗi hoạt động được đều có động cơ thúc đẩy, mục đích để hướng tới sử
dụng phương tiện, công cụ nhất định và do chủ thể tiến hành. Hoạt động được
hiểu gồm hai quá trình diễn ra đống thời, bổ sung thống nhất với nhau:
+ S → O: Quá trình đối tượng hóa (khách thể hóa chủ thể - xuất tâm):
chuyển năng lực, tâm lí, ý thức của con người vào sản phẩm hoạt động, sản phẩm
lao động.
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-3-
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
+ O → S: Quá trình chủ thể hóa (chủ thể hóa khách thể - nhập tâm): trong
quá trình hoạt động con người phản ánh vật thể, phát hiện và tiếp thu đặc điểm
của vật thể chuyển thành năng lực, ý thức, tâm lí..của chính mình.
Hoạt động của con người bao gồm các quá trình con người tác động vào
khách thể. Đó có thể là sự vật, tri thức..gọi chung là các quá trình bên trong; Các
quá trình tinh thần trí tuệ…gọi chung là các quá trình bên ngoài. Như vậy hoạt
động bao gồm cả hành vi lẫn tâm lí, công việc chân tay lẫn công việc trí não.
* Vai trò của hoạt động:
+ Là phương thức tồn tại của con người trong xã hội
+ Nơi nảy sinh tâm lí cũng là nơi tâm lí vận hành.
Tóm lại: Lí thuyết hoạt động cho rằng tâm lí và hoạt động thống nhất,
không tách rời. Không có hoạt động thì không có tâm lí, tâm lí chính là hoạt
động. Chính vì vậy phải nghiên cứu cũng như hình thành tâm lí thông qua hoạt
động.
* Đặc điểm của hoạt động:
+ Hoạt động bao giờ cũng có đối tượng . Đối tượng của hoạt động là cái
mà chủ thể cần tác động để chiếm lĩnh lấy nó.
+ Hoạt động bao giờ cũng do chủ thể tiến hành. Chủ thể mạng tính tự giác,
tích cực. Chủ thể có khi là một người, hay là một số người.
+ Hoạt động vận hành theo nguyên tắc giao tiếp, trong đó công cụ lao động
và công cụ tâm lí đều giữ chức năng trung gian trong hoạt động và tạo tính chất
gián tiếp của hoạt động.
+ Hoạt động bao giờ cũng có mục đích nhất định: Đây là đặc điểm để phân
biệt hành động của con người và hành vi của con vật.
Mục đích của hoạt động học thường là tạo sản phẩm có liên quan trực tiếp
hoặc gián tiếp với việc thỏa mãn nhu cầu của cơ thể.
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-4-
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
Tính mục đích gắn với tính đối tượng. Có đối tượng hoạt động chủ thể theo
đó mà nhắm
1.2. Phương pháp tiếp cận hoạt động dạy học và vận dụng vào dạy học
* Nguyên tắc của phương pháp tiếp cận hoạt động
+ Tâm lí và ý thức được hình thành và phát triển bởi hoạt động
+ Hoạt động vừa tạo ra tâm lí, vừa sử dụng tâm lí làm khâu trung gian của
hoạt động tác động vào đối tượng. Đó chính là sự thống nhất ý thức và hoạt
động( S.L. Rubinstein)
+ Tất cả các quá trình tâm lí, các chức năng tâm lí- kể cả ý thức nhân cách
phải được nghiên cứu trong cấu trức của hoạt động, nghĩa là khi nghiên cứu các
quá trình chức năng tâm lí phải xem nó được thúc đẩy bởi động cơ nào, nhằm
mục đích gì và được vận hành bằng phương tiện công cụ nào.
* Hoạt động dạy :
+ Hoạt động dạy thực hiện theo cơ chế di sản xã hội, nghĩa là thế hệ trước
truyền cho thế hệ sau tiếp tục các kinh nghiệm lịch sữ xã hội( tri thức, kĩ năng,
thái độ, giá trị…). Nếu không có cơ chế di sản xã hội sẽ không có tiến bộ xã hội,
con người cũng không tồn tại với tư cách con người
* Hoạt động học: Nhằm tiếp thu những điều của hoạt động dạy truyền thụ và
biến những điều đó thành “ năng lực thể chất và năng lực tinh thần”, thành phẩm
chất, thành nhân cách.
Tóm lại: Hoạt động học và hoạt động dạy cùng thực hiện cơ chế di sản xã
hội. Như vậy vận dụng cơ chế phương pháp tiếp cận hoạt động vào dạy học,
trước hết phải làm sao để cả trò và thầy cùng thực sự trở thành chủ thể của hoạt
động dạy và học, cùng thực hiện mục đích của hoạt động dạy dọc: hình thành và
phát triển nhân cách thế hệ trẻ.
2. Động cơ và hứng thú
2.1. Động cơ
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-5-
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
Động cơ là yếu tố tâm lý phản ánh đối tượng có khả năng thỏa mãn nhu
cầu của chủ thể, nó định hướng, thúc đẩy và duy trì hoạt động của chủ thể nhằm
chiếm lĩnh đối tượng đó.
Động cơ học tập là yếu tố tâm lý phản ánh đối tượng có khả năng thỏa mãn
nhu cầu của người học, nó định hướng, thúc đẩy và duy trì hoạt động học tập của
người học nhằm chiếm lĩnh đối tượng đó.
2.1.1. Vai trò của động cơ trong quá trình học tập
Động cơ học tập là lực thúc đẩy, yếu tố tác động quan trọng đến chất lượng
hoạt động học tập. HS có động cơ học tập đúng đắn sẽ tập trung, chú ý cao độ, và
có khả năng kiên trì thực hiện nghĩa vụ học tập và sẵn sàng tự nguyện trở lại với
nhiệm vụ học tập.
Động cơ học tập tác động bởi nhiều yếu tố.
Học sinh có động cơ học tập cảm thấy có hứng thú, có nghị lực học bài, làm
bài để thể hiện mục đích nhận được kiến thức qua bài làm, bài học. Nguồn sinh
lực nào thúc đẩy thái độ học tập của học sinh? Đó chính là nhu cầu học tập, sáng
kiến cá nhân, mục đích học tập, áp lực xã hội, tự tin, óc tò mò, nhận định được
thành công và thất bại, lòng tin tưởng, hiểu được giá trị của giáo dục, kỳ vọng
vào tương lai,… Một số nhà tâm lý giáo dục đã nhận định động cơ là thái độ đặc
biệt bẩm sinh hay cá tính. Học sinh có khả năng bẩm sinh tự nhiên đặt nhiều nỗ
lực vào việc học tập để hoàn thành nhiệm vụ. Một số nhà tâm lý khác nhận định
động cơ là một thái độ đối phó với lý bài vở sắp đến hay với khuyến khích của
giáo viên, phụ huynh. Như vậy, một số người học có sẵn động cơ thúc đẩy để tiếp
nhận kiến thức, một số khác có động cơ vì lý do ngoại cảnh
2.2.2. Phân loại
2.2.2.1. Động cơ học tập bên ngoài
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-6-
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
Động cơ học tập xuất phát từ bên ngoài hoạt động học tập,có tác dụng thúc
đẩy việc học của học sinh, chúng là những cũng cố của môi trường có tác dụng
thúc đẩy học sinh học để hình thành những phản ứng phù hợp.
Ưu điểm
+ Đa dạng, phong phú và dễ hình thành.
+ Ảnh hưởng một cách tức thì đến hoạt động học tập.
Nhược điểm
+ Một số động cơ( xuất phát từ cũng cố âm tính) có thể gây “sức ép tâm lí”
cho học sinh.
+ Học sinh dễ đi xa khỏi mục đích chính của viêc học.
+ Học sinh có thể quá phụ thuộc vào giáo viên mà không có tính tự giác
trong việc học.
Lưu ý đối với giáo viên khi hình tành động cơ học tập bên ngoài
+ Khen thưởng học sinh đúng lúc, đúng cách.
+ Tìm hiểu xuyên thay đổi loại cũng cố, tránh những cũng cố âm tính.
2.2.2.2. Động cơ học tập bên trong
Hình thành khi chính bản thân học sinh nhận thức ý nghĩa, giá trị việc học,
hi vọng khám phá tri thức, mong muốn tiến bộ.
Ưu điểm
+ Giúp học sinh nhận thức việc học là hoàn toàn có ý nghĩa.
+ Bền vững và có tác dụng lâu dài.
+ Ít tạo ra cá sức ép không đáng có.
Nhược điểm
+ Giáo viên rất khó hình thành cho học sinh.
+ Đòi hỏi thời gian và cần có sự cố gắng cao của người giáo viên.
Lưu ý đối với giáo viên khi hình thành động cơ học tập bên trong
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-7-
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
+ Hiểu rõ trình độ hiểu biết, năng lực, sở thích, hứng thú … của từng học
sinh.
+ Xây dựng hệ thống nhiệm vụ học tập phù hợp từng học sinh để có thể
kích thích việc hình thành động cơ học tập bên trong.
+ “ Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh”
+ GV trỏ thành mẫu mực trong việc học và hình thành động cơ học tập bên
trong.
Tóm lại
Trong hoạt động dạy học, mỗi loại động cơ học tập đều rất cần thiết cho HS.
GV cần chú ý đến động cơ học tập bên trong.
GV cần đầu tư nhiều công sức, thời gian cho các phương pháp dạy học phù
hợp, hình thành các động cơ học tập bên trong và động cơ học tập bên ngoài cho
học sinh.
2.2. Hứng thú
2.2.1. Khái niệm, cấu trúc của hứng thú
Theo từ điển bách khoa Việt Nam: “Hứng thú là hình thức biểu hiện tình
cảm và nhu cầu nhận thức của con người nhằm ý thức một cách hào hứng về
mục đích hoạt động, nhằm tìm hiểu sâu hơn, phản ánh đầy đủ hơn đối tượng
trong đời sống hiện thực. Hứng thú phản ánh thái độ quan tâm đặc biệt của chủ
thể đối với đối tượng do tính hấp dẫn hoặc do ý thức được tầm quan trọng. Hứng
thú được tạo nên ở chủ thể khát vọng được tiếp cận và đi sâu vào đối tượng, làm
nảy sinh cảm xúc tích cực, nâng cao sức tập trung chú ý và khả năng làm
việc…”
Hứng thú là một thuộc tính tâm lý của nhân cách, là một hiện tượng tâm lý
phức tạp được thể hiện khá rộng rãi trong cuộc sống của mỗi cá nhân cũng như
trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-8-
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
Hứng thú là biểu hiện của nhu cầu, làm cho chủ thể tìm cách thỏa mãn, tạo
cảm giác thích thú. Nói đến hứng thú là nói đến một mục tiêu mà chủ thể cần
phải huy động sinh lực cơ thể để thực hiện. Có những hứng thú đòi hỏi thõa mãn
trước mắt, cũng có những hứng thú gián tiếp thông qua một hoạt động khác
thường. Hứng thú gây chú ý làm chủ thể cố gắng hành động.
Hứng thú là thái độ đặc biệt của mỗi cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa
có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại hưng phấn cho cá nhân
trong quá trình hoạt động.
Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, ở bề rộng, và chiều
sâu của hứng thú. Hứng thú được nảy sinh chủ yếu do sự hấp dẫn về mặt cảm xúc
của nội dung hoạt động. Vì vậy, hứng thú làm tăng hiệu quả hoạt động, cùng với
nhu cầu, hứng thú làm nên động cơ của nhân cách.
Như vậy, hứng thú có nghĩa quan trọng trong đời sống và hoạt động của con
người. Hứng thú có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển nhân cách. Nếu không
có hứng thú thì không có sự phát triển nhân cách một cách toàn diện. Do đó, một
trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là phải hình thành hứng thú
phong phú ở HS.
Trong những nghiên cứu khác nhau, các nhà khoa học nhận thấy rằng cần
phải xác định sự khác biệt của hứng thú với những khái niệm gần nó bằng việc
phân tích được cấu trúc của hứng thú, các giai đoạn phát triển khác nhau của
hứng thú của con người.
Phân tích cấu trúc tâm lý của hứng thú, nhà tâm lý học N.G.Manôzôva đã
nêu ra ít nhất có ba yếu tố đặc trưng cho hứng thú như sau:
1. Có xúc cảm đúng đắn đối với hoạt động
2. Có niềm vui trong hoạt động nhận thức.
3. Có động cơ trực tiếp xuất phát từ bản thân hoạt động, tức là hoạt động tự
nó lôi cuốn và kích thích, không phụ thuộc vào các động cơ khác.
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-9-
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
Ba yếu tố trên có quan hệ chặt chẽ với nhau trong hứng thú nhận thức cá
nhân. Tùy vào các giai đoạn phát triển khác nhau của hứng thú mà mà mỗi yếu tố
có thể nổi lên mạnh mẽ ít hay nhiều. Bất kỳ các yếu tố nào cũng bao hàm sự nhận
thức, thái độ của cá nhân đối với đối tượng ở một mức độ nào đó. Đặc biệt, khi ta
thích thú một sự vật, hiện tượng nào đó ta càng muốn tìm hiểu, nghiên cứu nó
một cách kỹ càng và sâu sắc hơn. Do đó, nếu không có yếu tố nhận thức thì
không so hứng thú. Ngược lại hứng thú là điều kiện để nhận thức đối tượng một
cách cơ bản và sâu sắc hơn.
Cách phân tích của A.A. Xmiêcnôp được rất nhiều nhà tâm lý học tán thành.
Quan trọng nhất là ông đã gắn tâm lý với hoạt động. Tuy nhiên, cách phân tích
này quá chú trọng đến mặt cảm xúc của hứng thú mà xem nhẹ mặt nhận thức.
Tác giả đã nhấn mạnh thái độ xúc cảm của nhận thức “niềm vui tìm hiểu và nhận
thức” mà chưa nói đến nội dung đối tượng trong hứng thú.
Chúng ta có thể hiểu rằng: “Hứng thú là sự kết hợp giữa nhận thức, xúc cảm
và hành vi”. Khi nói đến mặt nhận thức thì chỉ là mặt nhận thức của con người
đối với đối tượng. Khi nói đến mặt hành vi thì chỉ là đề cập đến hình thức bên
ngoài mà chưa nói đến nội dung tâm lý của hành vi. Nhận thức luôn là tiền đề, là
cơ sở cho việc hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động với đối tượng.
Như vậy, hứng thú phải là sự kết hợp giữa nhận thức, xúc cảm và hành vi,
nghĩa là có sự kết hợp giữa sự hiểu biết đối tượng, sự thích thú đối tượng và tính
tích cực hoạt động đối với đối tượng. Nhận thức, xúc cảm và hành vi có quan hệ
mật thiết với nhau và tương tác lẫn nhau trong cấu trúc của hứng thú. Sự tồn tại
riêng của từng yếu tố trên không có ý nghĩa đối với hứng thú. Có những đối
tượng ta biết rất có ý nghĩa, rất cần thiết nhưng vì một lý do nào đó ta không
thích thì không thể nó ta hứng thú đối với đối tượng đó. Ngược lại, có những đối
tượng ta thích nhưng chỉ thoáng qua, không nhất thiết phải đi sâu, không có nhu
cầu hoạt động tìm hiểu đối tượng nghĩa là không hứng thú. Chỉ có những đối
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-
- 10
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
tượng nào mà chủ thể nhận thức được ý nghĩa của nó và ý nghĩa đó lại phù hợp
với chính nhu cầu của chủ thể mới tạo ra hứng thú.
Qua những phân tích trên cho thấy, muốn hình thành và phát triển hứng thú
cá nhân thì phải tác động toàn diện đến ba mặt: Nhận thức, xúc cảm và hành vi.
Kết quả của sự tác động giữa ba yếu tố trên sẽ tạo nên hứng thú.
Ta có thể khái quát khái niệm hứng thú bằng sơ đồ sau:
2.2.2. Đặc điểm của hứng thú
Khi nói về đặc điểm của hứng thú, P.A. Rudich cho rằng, đặc điểm của
hứng thú như là các nét tiêu biểu của xu hướng cá nhân, bao gồm những đặc
điểm sau:
Tính hạn chế của hứng thú
Tính hạn chế của hứng thú được quy định bởi một phạm vi khá hẹp các kiến
thức và hình thức hoạt động nhất định.
Tính hạn chế của hứng thú ở đây có ý nghĩa là mỗi cá nhân có thể hứng thú
về một lĩnh vực nào đó (ví dụ như y học, quân sự...), nhưng trong mỗi lĩnh vực
rộng lớn này lại nảy sinh hứng thú đối với một lĩnh vực chuyên môn hẹp hơn,
hoặc có người theo ngành xây dựng nhưng anh ta chỉ là kiến trúc sư chuyên thiết
kế các bản vẽ... Chính vì tính hạn chế đó mà con người có điều kiện đi sâu vào
một lĩnh vực mà mình yêu thích, họ trở nên đam mê và tìm hiểu nó, trên cơ sở
đam mê đó mà họ mới phát huy hết khả năng trí lực của mình cho hoạt động
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-
- 11
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
nhận thức.
Tính đa dạng của hứng thú
Ở một người nào đó, hứng thú nhận thức được tập trung vào một lĩnh vực
chuyên môn hẹp thì ở người khác các hứng thú lại bao trùm các lĩnh vực kiến
thức và hình thức hoạt động khác nhau. Chỉ khi một người có hiểu biết rộng và
sâu sắc về nhiều lĩnh vực thì tính đa dạng của hứng thú mới được thể hiện một
cách rõ nét. Cùng một lúc người ta có thể hứng thú với nhiều lĩnh vực khác nhau
như: thời trang, thể thao, âm nhạc... họ đam mê và mong muốn tìm hiểu, khám
phá càng nhiều lĩnh vực càng tốt.
Hứng thú cá nhân không chỉ bó hẹp trong một lĩnh vực nào đó mà cùng với
sự phát triển của kinh tế, tri thức con người ngày càng trở nên năng động hơn,
nhanh nhạy hơn và chuyên sâu hơn. Vì vậy, hứng thú của mỗi người ngày càng
đa dạng hơn. Tuy nhiên, trong nhiều hứng thú thì chỉ có một hứng thú đóng vai
trò trung tâm, chủ đạo.
Như vậy, ở phần này thể hiện tính hạn chế của hứng thú, nhưng ở phần khác
thì thể hiện tính đa dạng của hứng thú.
Tính bền vững của hứng thú
Mỗi người có thể xuất hiện nhiều hứng thú trong nhiều lĩnh vực. Các hứng
thú đều tồn tại bền vững. Tính bền vững của hứng thú thể hiện ở chỗ, một khi
con người đã có hứng thú thì cho dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, hứng thú đó vẫn
không thay đổi.
Chính vì tính bền vững của hứng thú mà trong cuộc sống, chúng ta thấy có
rất có nhiều người tâm huyết với nghề nghiệp mình đã chọn, dù có khó khăn đến
đâu họ vẫn cố gắng vượt qua.
Tính di chuyển của hứng thú
Khác với tính bền vững, tính di chuyển của hứng thú thể hiện ở chỗ, nếu có
một cá nhân hứng thú về một đối tượng hay một lĩnh vực nào đó còn hời hợt,
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-
- 12
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
chưa sâu sắc thì dễ thay đổi khi gặp một đối tượng hay lĩnh vực nào khác có sức
hấp dẫn, lôi cuốn hơn. Ví dụ, có người thích kiểu áo mới, nhưng nếu sau đó có
những kiểu mốt khác tốt hơn, đẹp hơn thì họ sẽ không còn hứng thú với kiểu áo
cũ nữa.
Tính ưu tiên
Khi đã xuất hiện hứng thú con người có thể dành toàn bộ thời gian, trí tuệ và
công sức cho hoạt động trong lĩnh vực đó. Họ đặt ra chỉ tiêu, mục đích và tích
cực hoạt động để đạt được chỉ tiêu, mục đích đó. Khi đã có hứng thú, tất nhiên
hiệu quả hoạt động sẽ cao hơn, năng suất lao động sẽ tăng lên so với lĩnh vực
không có hứng thú. Điều này rất cần thiết trong học tập, bởi vì khi đã có hứng thú
với môn học nào đó, tất nhiên HS sẽ tích cực học tập, tích cực tìm hiểu, khám
phá nhứng tri thức về môn học đó. Việc học tập trên lớp và ở nhà của HS sẽ trở
nên tự giác, chăm chỉ hơn.
Ngoài ra, hứng thú còn biểu hiện ở một số đặc điểm khác sau đây:
Mở rộng và đào sâu kiến thức của cá nhân về một lĩnh vực chuyên
môn nào đó; phát triển ở người đó những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo tương
ứng.
Tích cực hóa hoạt động không chỉ các quá trình nhận thức mà cả
những nỗ lực sáng tạo của cá nhân.
Thỏa mãn cảm xúc đặc biệt nhằm kích thích thực hiện lâu dài một
hoạt động tương ứng.
2.2.3. Sự hình thành và phát triển của hứng thú
Sự hình thành hứng thú diễn ra theo hai con đường: tự phát và tự giác. Có
thể bắt đầu từ sự hấp dẫn của đối tượng làm nảy sinh thái độ cảm xúc tích cực
của chủ thể. Do những cảm xúc tích cực này mà chủ thể đi sâu nhận thức đối
tượng, hiểu rõ ý nghĩa của đối tượng mà hình thành hứng thú. Ngược lại, cũng có
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-
- 13
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
thể bắt đầu từ việc hiểu rõ tầm quan trọng của đối tượng mà đi sâu nhận thức đối
tượng. Trên cơ sở nhận thức mà hình thành thái độ nhận thức, càng hiểu rõ đối
tượng càng cảm thấy thích thú. A.G.Côvaliôp cũng nhận xét rằng: “Hứng thú có
thể được hình thành một cách tự phát không có ý thức, do sự hấp dẫn về tình
cảm, sau đó mới dẫn đến nhận thức ý nghĩa đối tượng đó. Quá trình hình thành
hứng thú có thể theo hướng ngược lại: từ chỗ có ý thức nhận thức nghĩa đối
tượng đến chỗ bị đối tượng hấp dẫn”. Nghĩa là hứng thú có thể được hình thành
một cách tự phát hoặc tự giác.
Dù bằng con đường nào thì trong hứng thú cũng có sự kết hợp giữa nhận
thức và xúc cảm để dẫn đến hành vi. Sự thống nhất giữa nhận thức, xúc cảm và
hành vi là quá trình vận động và phát triển của hứng thú.
Cũng như các hiện tượng tâm lý khác, hứng thú được hình thành trong mối
quan hệ tương tác giữa các điều kiện khách quan và chủ quan. Mối quan hệ giữa
các đặc điểm của đối tượng và những phẩm chất của chủ thể trong môi trường xã
hội nhất định. Các yếu tố của môi trường như: dư luận xã hội, ý kiến của những
người thân, điều kiện vật chất... đều có ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành
và phát triển hứng thú.
Do đó, khi chúng ta xem xét sự hình thành và phát triển hứng thú thì chúng
ta phải tính đến sự ảnh hưởng của các yếu tố sau:
- Đặc điểm của đối tượng.
- Đặc điểm của chủ thể.
- Tác động của môi trường.
- Sự tác động qua lại của ba yếu tố trên.
2.2.4. Các loại hứng thú
Hứng thú của con người rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Do đó, dựa
vào những căn cứ khác nhau, người ta có thể chia hứng thú thành nhiều loại khác
nhau.
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-
- 14
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
Căn cứ vào đối tượng của hứng thú và phạm vi hoạt động gắn với hứng thú,
ta có thể chia hứng thú thành các loại sau đây:
- Hứng thú vật chất: Biểu hiện như thích thú có chỗ ở, đầy đủ tiện nghi...
- Hứng thú nhận thức: Hứng thú học tập được coi như là biểu hiện đặc biệt
của hứng thú nhận thức. Hứng thú khoa học có tính chất chuyên môn như hứng
thú toán học, văn học, sinh học, công nghệ thông tin... cũng thuộc về hứng thú
nhận thức. Hứng thú nhận thức có ảnh hưởng quan trọng trong dạy học.
- Hứng thú lao động - nghề nghiệp: Biểu hiện của hứng thú lao động nghề
nghiệp như thích thú, tận tâm với công việc mình đang làm.
- Hứng thú chính trị - xã hội: Có hứng thú với công tác xã hội, nhất là hoạt
động tổ chức, lãnh đạo, hứng thú với các vấn đề chính trị...
- Hứng thú thẩm mỹ: Bao gồm hứng thú hội họa, điện ảnh, sân khấu...
Căn cứ vào chiều hướng của hứng thú, ta có thể chia hứng thú thành các loại
sau đây:
- Hứng thú trực tiếp: Là những hứng thú của bản thân trong quá trình nhận
thức, quá trình lao động và sáng tạo.
- Hứng thú gián tiếp: Hứng thú đối với kết quả hoạt động. Ví dụ: Hứng thú
muốn có kết quả học vấn, có nghề nghiệp, có chức vụ...
Căn cứ vào hiệu lực của hứng thú, ta có các loại hứng thú sau:
- Hứng thú chủ động tích cực: Là loại hứng thú khi con người không chỉ
quan sát đối tượng mà còn tiến hành hoạt động để tìm hiểu đối tượng. Hứng thú
tích cực là nguồn kích thích sự phát triển nhân cách, hình thành các kỹ năng, kỹ
xảo, năng lực và và tính cách, là nguồn gốc của sự sáng tạo.
- Hứng thú thụ động: Là loại hứng thú khi con người chỉ dừng ở sự thích thú
quan sát, nhìn ngắm đối tượng mà không đi sâu tìm hiểu bản chất đối tượng.
Căn cứ vào khối lượng hứng thú, ta chia hứng thú thành hai loại sau đây:
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-
- 15
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
- Hứng thú rộng: Là loại hứng thú bao gồm nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, nhiều
ngành khác nhau.
- Hứng thú hẹp: Trên cơ sở hứng thú rộng, hứng thú đưa con người đi sâu
vào một ngành, một lĩnh vực cụ thể nào đó.
Căn cứ vào tính bền vững của hứng thú, ta cũng có thể chia hứng thú thành
hai loại sau:
- Hứng thú bền vững: Thường gắn với năng lực cao và sự nhận thức sâu sắc
của cá nhân về nghĩa vụ và thiên hướng của mình.
- Hứng thú không bền vững: Thường bắt nguồn từ sự nhận thức hời hợt về
đối tượng hứng thú, loại hứng thú này thường có ở trẻ em.
Ngoài ra, ta còn một số cách phân loại khác như hứng thú sâu sắc và hứng
thú bề ngoài... Trong thực tế, mỗi cá nhân có thể kết hợp các loại hứng thú này
theo những cách riêng, tiêu biểu cho cá nhân đó. Trong luận văn này, chúng tôi
chỉ tập trung làm rõ hứng thú nhận thức của HS, đặc biệt là hứng thú học tập của
HS.
2.2.5. Điều kiện gây ra hứng thú
Một sự vật, hiện tượng nào đó chỉ có thể trở thành đối tượng của hứng thú
khi chúng thoả mãn 2 điều kiện sau đây:
Điều kiện I:
Có ý nghĩa với cuộc sống của cá nhân, điều kiện này quyết định nhận thức
trong cấu trúc của hứng thú, đối tượng nào càng có ý nghĩa lớn đối với cuộc sống
của cá nhân thì càng dễ dàng tạo ra hứng thú. Muốn hình thành hứng thú, chủ thể
phải nhận thức rõ ý nghĩa của đối tượng với cuộc sống của mình, nhận thức càng
sâu sắc và đầy đủ càng đặt nền móng vững chắc cho sự hình thành và phát triển
của hứng thú.
- Điều kiện II:
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-
- 16
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
+ Có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân. Trong quá trình hoạt
động với đối tượng, hứng thú quan hệ mật thiết với với nhu cầu. Khoái cảm nảy
sinh trong quá trình hoạt động với đối tượng, đồng thời chính khoái cảm có tác
dụng thúc đẩy cá nhân tích cực hoạt động, điều đó chứng tỏ hứng thú chỉ có thể
hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động của cá nhân. Biện pháp quan
trọng nhất, chủ yếu nhất để gây ra hứng thú là tổ chức hoạt động, trong quá trình
hoạt động và bằng hoạt động với đối tượng, mới có thể nâng cao được hứng thú
của cá nhân.
+ Cũng như những chức năng cấp cao khác, hứng thú được quy định bởi
những điều kiện xã hội lịch sử. Hứng thú của cá nhân được hình thành trong hoạt
động và sau khi đã được hình thành chính nó quay trở lại thúc đẩy cá nhân hoạt
động. Vì lý do trên hứng thú tạo nên ở cá nhân khát vọng tiếp cận và đi sâu vào
đối tượng gây ra nó, khát vọng này được biểu hiện ở chỗ cá nhân tập trung chú ý
cao độ vào cái làm cho mình hứng thú, hướng dẫn và điều chỉnh các quá trình
tâm lý theo một hướng xác định, do đó tích cực hóa hoạt động của con người
theo hướng phù hợp với hứng thú của nó dù phải vượt qua muôn ngàn khó khăn
người ta vẫn thấy thoải mái và thu được hiệu quả cao.
Hứng thú trong công việc hoàn toàn khác với làm việc tùy hứng, hứng thú
trong công việc là một phẩm chất tố đẹp chủa nhân cách, còn làm việc tùy hứng
là biểu hiện của tính tùy tiện của một tính cách không được giáo dục chu đáo.
2.2.6. Biểu hiện của hứng thú
Hứng thú biểu hiện ở 2 mức độ của nó:
+ Mức độ I: Chủ thể mới dừng lại ở việc nhận thức về đối tượng. Chưa có
xúc cảm tình cảm với đối tượng đó, chưa tiến hành hoạt động để chiếm lĩnh đối
tượng đó.
+ Mức độ II: Đối tượng hứng thú thúc đẩy chủ thể hoạt động.
2.2.7. Hứng thú nhận thức và hứng thú học tập
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-
- 17
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
2.2.7.1. Hứng thú nhận thức
Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo
thế giới khách quan vào trong đầu óc con người. Hứng thú là một xu hướng nhận
thức riêng biệt của cá nhân đối với những đối tượng và hiện tượng của thực tế.
Hứng thú nhận thức là loại hứng thú nhằm hướng tới những tri thức mới mà cá
nhân chưa biết hoặc biết nhưng chưa đầy đủ. Hứng thú nhận thức có quan hệ trực
tiếp với hoạt động nhận thức của con người. Con đường nhận thức đã được V.I.
Lênin khái quát: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng để nhận thức chân lý, nhận
thức thực tại khách quan”. Việc đạt tới tri thức khoa học trong quá trình nhận
thức thực tiễn diễn ra theo những cấp độ khác nhau, từ nhận thức cảm tính đến
nhận thức lý tính, từ nhận thức kinh nghiệm đến nhận thức lý luận, từ nhận thức
thông thường đến nhận thức khoa học và mục đích chính là hướng đến là chân lý
được kiểm nghiệm trong thực tiễn.
Nhận thức, thái độ, hành vi là những biểu hiện khi chủ thể hứng thú nhận
thức với một đối tượng nào đó. Ta có thể nhận biết được đối tượng nào đang gây
hứng thú và chủ thể nào đang hứng thú. Chính vì lý do này mà nhiều người cho
rằng hứng thú nhận thức là xúc cảm, đồng nghĩa với xúc cảm (K .Jzard) hay cho
đó là kết hợp của cảm xúc, ý chí với quá trình nhận thức (W.James). Rõ ràng
trong hứng thú nhận thức có sự tham gia của xúc cảm, có vai trò của ý chí và
những yếu tố của nhận thức. Xúc cảm là yếu tố quan trọng, là biểu hiện rõ nét
nhất của hứng thú nhận thức. Tuy nhiên, xúc cảm mang tính quá trình còn hứng
thú nhận thức là một thuộc tính bền vững mang tính xu hướng nhận thức của
nhân cách. Hứng thú nhận thức chỉ nảy sinh một cách đúng đắn khi những xúc
cảm được củng cố theo một hướng nhất định và chủ thể ý thức được vai trò quan
trọng của đối tượng hứng thú nhận thức đối với xã hội và bản thân. Như vậy, khi
nói đến hứng thú nhận thức là phải nói đến các mối quan hệ giữa hứng thú nhận
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-
- 18
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
thức với nhiều lĩnh vực khác nhau cúa hoạt động nhận thức. Hứng thú nhận thức
không thụ động mà luôn luôn mang tính tích cực, chính vì vậy hứng thú nhận
thức không chỉ liên quan đến nội dung đối tượng mà còn liên quan đến bản
thân hoạt động.
Tóm lại, hứng thú nhận thức là khuynh hướng lựa chọn của cá nhân nhằm
vào việc nhận thức được hoặc một số lĩnh vực khoa học nhằm vào mặt nội dung
và quá trình hoạt động của nó. Trong quá trình này cá nhân không chỉ dừng lại
nhưng đặc điểm bên ngoài của sự vật, hiện tượng, mà có xu thế đi sâu vào cái
chất bên trong của sự vật, hiện tượng muốn nhận thức.
Hứng thú nhận thức là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng của hứng thú, nên
nó có đầy đủ những đặc điểm của hứng thú nói chung. Tuy nhiên, hứng thú nhận
thức vẫn mang những đặc điểm khác biệt của nó.
Theo G.I.Sukina, hứng thú nhận thức có những đặc điểm sau đây:
- Khuynh hướng trí tuệ của sự tim tòi cái mới trong đối tượng, muốn làm
quen đối tượng gần hơn, tìm hiểu nó sâu sắc và toàn diện .
- Thái độ có ý thức cúa con người đối với đối tượng thích thú của mình và
đối với nhiệm vụ đặt trước họ trong sự nhận thức đối tượng ấy .
- Sắc thái xúc cảm hứng thú bao giờ cũng liên quan đến ý muốn tìm hiểu
một cái gì đó, với niềm vui sướng tìm tòi, đau buồn khi thất bại và vui mừng
khi khám phá.
- Sự biểu hiện trong hành động ý chí, nhu cầu hướng sự nỗ lực của con
người tới chỗ khám phá những khía cạnh của dấu hiệu mới của đối tượng.
Trong nhà trường, đối tượng của nhận thức cúa học sinh là nội dung các
môn học và việc tiếp thu những nội dung đó chính là quá trình học tập. Như vậy,
không chỉ có kiến thức mà người học tiếp thu thuộc phạm vi hứng thú nhận thức
mà còn cả quá trình nhận thức nói chung, qua đó học sinh tiếp thu được những
biện pháp nhận thức cần thiết và làm cho người học tiến bộ không ngừng. Tính
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-
- 19
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
chất lựa chọn của hứng thú nhận thức thể hiện sự thống nhất giữa chủ thể và
khách thể. Trong hứng thú tồn tại một sự kết hợp hữu cơ giữa các quá trình trí tuệ
với quá trình tình cảm ý chí. Hứng thú nhận thức còn có một đặc điểm quan trọng
là nhiệm vụ nhận thức đòi hỏi con người phải hoạt động tích cực, tìm tòi hoặc
sáng tạo mà không đòi hỏi sự định hướng vào cái mới, cái bất ngờ thường là
trung tâm của hứng thú.
Qua tổng hợp của nhiều tác giả, có thể thấy hứng thú nhận thức biếu hiện
qua những dấu hiệu sau:
- Những dấu hiệu về hành vi và hoạt động của học sinh trong quá trình học
tập ở trong và ngoài lớp học.
- Dấu hiệu về xúc cảm, tình cảm (thờ ơ, say mê, miễn cưỡng thích thú ...)
của học sinh trước một đối tượng hay hoạt động nào đấy.
Hứng thú được biểu hiện trong một quá trình, thể hiện qua trạng thái cảm
xúc tích cực và hành vi hoạt động mang tính tích cực của con người.
2.2.7.2. Hứng thú học tập
Có nhiều nhà tâm lý học cũng như nhiều công trình đã nghiên cứu đồng nhất
hứng thú học tập với hứng thú nhận thức. Nhưng có những ý kiến cho rằng hứng
thú học tập chỉ là một dạng của hứng thú nhận thức. Hứng thú học tập có đối
tượng hẹp hơn so với hứng thú nhận thức. Khái niệm học tập được hiểu theo
nghĩa rộng là việc lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử, xã hội nói chung, nghĩa là
nó gần với hứng thú nhận thức. Khái niệm học tập theo đúng nghĩa của tâm lý
học là hoạt động học tập được tổ chức ở nhà trường với nội dung, phương pháp
và hình thức tổ chức chuyên biệt.
Vậy, hứng thú học tập là loại hứng thú gắn với các môn học trong nhà
trường, nó là thái độ đặc biệt của người học với các môn học mà người học cảm
thấy có ý nghĩa, có khả năng đem lại sự thích thú, hưng phấn trong quá trình học
tập bộ môn.
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-
- 20
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
Bản chất của hứng thú học tập
Đối tượng của hứng thú học tập là các môn khoa học và hoạt động học để
lĩnh hội kiến thức. Nội dung các môn học bao gồm hệ thống các tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo tương ứng. Hoạt động học bao gồm các hành động học tập để lĩnh hội tri
thức nhân loại và hình thành các kỹ năng, kỹ xảo tương ứng.
Hứng thú học tập bao gồm cả thái độ lựa chọn của cá nhân với tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo và thái độ đối với các hành động học tập để đạt tới tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo đó. Do đó, khi nói đến hứng thú học tập thì chúng ta phải nói đến hứng
thú với nội dung môn học và hứng thú học tập bộ môn.
Dấu hiệu của mọi hứng thú là xúc cảm tích cực và tính tích cực hoạt động.
Hứng thú học tập là sự thích thú với các môn học và tính tích cực hoạt động trong
học tập bộ môn. Xúc cảm tích cực là dấu hiệu rõ ràng nhất, đặc trưng nhất của
hứng thú học tập, nhưng không thể đồng nhất xúc cảm tích cực với hứng thú.
Xúc cảm là quá trình tâm lý nảy sinh trong những tình huống cụ thể của quá trình
học tập, còn hứng thú là thuộc tính tâm lý tương đối ổn định của cá nhân, xúc
cảm chỉ là dấu hiệu của hứng thú.
Một dấu hiệu đặc trưng của hứng thú học tập là tính tích cực hoạt động học
tập bộ môn. Hứng thú là nguồn kích thích mạnh mẽ tính tích cực cá nhân. Do sự
tác động mạnh mẽ này mà tất cả các quá trình tâm lý diễn ra với tốc độ nhanh và
có hiệu quả cao. Khi có hứng thú học tập, HS sẽ tích cực hoạt động học tập hơn,
thái độ học tập sẽ được biểu hiện rõ ràng, kết quả học tập sẽ được nâng cao dần
dần. Nhà tâm lý học Mỹ Brunơ nói: “Sự kích thích tốt nhất đối với học tập là sự
hứng thú học tập đối với tài liệu học tập”.
Các giai đoạn hình thành hứng thú học tập
Như đã trình bày ở trên, hứng thú là một thuộc tính tâm lý phức tạp, được
hình thành và phát triển trong hoạt động. Hứng thú học tập cũng được hình thành
và phát triển cùng với sự phát triển nhân cách mà trong đó cá nhân là chủ thể
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-
- 21
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
thực sự của đối tượng nhận thức. Mặt khác, sự phát triển hứng thú gắn liền với sự
phát triển của lứa tuổi.
Do cách xác định bản chất hứng thú khác nhau nên việc phân tích sự hình
thành và phát triển hứng thú cũng khác nhau. Trên cơ sở khẳng định nguồn gốc
cơ bản của hứng thú nằm trong nội dung và tài liệu và hoạt động học tập của
người học, G.I. Sukina đã đưa ra con đường, cách thức để hình thành hứng thú
học tập bằng cách chú ý đến việc lựa chọn, cải tiến tài liệu học tập và tổ chức
hoạt động độc lập của người học.
Một số nhà tâm lý khác lại coi việc dạy học nêu vấn đề là biện pháp cơ bản
để hình thành và phát triển hứng thú học tập. N.G. Marôzôva cho rằng hứng thú
được tạo thành bằng con đường là tạo ra những quan hệ có ý thức với đối tượng.
Hứng thú được hình thành và phát triển qua các giai đoạn khác nhau. Theo
N.G. Marôzôva, quá trình hình thành và phát triển hứng thú trải qua ba giai đoạn
chủ yếu:
- Giai đoạn 1. Thái độ nhận thức có xúc cảm với đối tượng được xuất hiện
với những rung động định kỳ. Lúc này, cá nhân chưa có hứng thú thật sự. Bản
chất của những rung động định kỳ này chính là sự kích thích hứng thú mang tính
chất tình huống do những điều kiện cụ thể, trực tiếp của các tình huống trong quá
trình học tập tạo ra.
- Giai đoạn 2. Trong giai đoạn này, những rung động định kỳ được lặp lại
nhiều lần và được khái quát, nó trở nên bền vững và trở thành thái độ nhận thức xúc cảm tích cực với đối tượng, thúc đẩy người học quan tâm đến những vấn đề
đặt ra trong cả giờ học và khi giờ học đã kết thúc. Hay nói cách khác, người học
đã có thái độ tích cực khi nhận thức môn học.
- Giai đoạn 3. Nếu thái độ tích cực đó được duy trì, củng cố, khả năng tìm
tòi ở người học thường xuyên được khơi dậy thì thái độ hứng thú trở thành xu
hướng của cá nhân. Ở giai đoạn này, hứng thú nhận thức khiến cho toàn bộ quá
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-
- 22
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
trình hoạt động của người học biến đổi. Người học sẽ dành thời gian rảnh rỗi của
mình để tìm hiểu những vấn đề mà mình hứng thú: đọc sách, tham quan... Hứng
thú bền vững là giai đoạn cao nhất của sự phát triển hứng thú.
Nắm được sự hình thành và phát triển hứng thú của người học ta có thể chủ
động tạo cho HS sự hứng thú khi học tập. N.G. Marôzôva và G.I. Sukina thống
nhất ý kiến trong việc phân tích các mức độ phát triển của hứng thú. Họ coi tò
mò, tính ham hiểu biết, xúc cảm với đối tượng, với hoạt động mà chủ thể đã lựa
chọn là những dấu hiệu ban đầu của hứng thú. Những biểu hiện này có từ thời
mẫu giáo, khi trẻ đã được tiếp xúc với môi trường xung quanh, nhưng đây chỉ là
tiền đề, cơ sở để hình thành và phát triển hứng thú trong các giai đoạn sau.
Việc tổ chức hoạt động nhận thức nhằm hình thành và phát triển hứng thú
cho HS không thể không chú ý đến mức độ phát triển của nó. Mặt khác, nắm
vững các mức độ của hứng thú học tập có thể giúp cho các nhà giáo dục nắm
được sự phát triển hứng thú học tập của HS. Muốn hình thành và phát triển hứng
thú học tập của HS, đòi hỏi người GV phải tạo được những điều kiện nhất định.
N.G. Marôzôva và các cộng sự của ông đã vạch ra một số điều kiện sau:
- Người GV phải tạo được ở HS sự phát triển bình thường về nhận thức, HS
phải có được những tri thức, kỹ năng bước đầu đối với việc học tập.
- Việc tổ chức hoạt động nhận thức của người học phải gây được ở họ thái
độ tích cực với hoạt động học tập.
- Hứng thú học tập chỉ thực sự bền vững khi chủ thể có ý thức sâu sắc về ý
nghĩa của đối tượng và hoạt động đối với xã hội nói chung và đối với cá nhân
nói riêng.
- Người dạy phải có phương pháp, có hính thức phù hợp để giáo dục hứng
thú học tập cho người học.
- Ngoài ra, một số yếu tố khác như tài liệu học tập tốt, đồ dùng dạy học phù
hợp, việc bố trí lớp học, đồ dùng học tập thuận lợi... cũng tạo điều kiện cần thiết
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-
- 23
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
để hình thành và phát triển hứng thú của người học.
Biểu hiện của hứng thú học tập
Đi học đầy đủ, đúng giờ, chú ý nghe giảng và tích cực phát biểu trong giờ
học… là dấu hiệu đầu tiên của hứng thú học tập. Hoạt động học tập là hoạt động
căng thẳng, kéo dài nên nếu chỉ có ý thức nghĩa vụ và ý thức tổ chức kỷ luật thì
không đủ để bắt người học chú ý thường xuyên và lâu dài được. Chỉ có hứng thú
thì người học mới có thể tập trung chú ý kéo dài vào đối tượng được. Cũng chỉ có
hứng thú thì người học mới có nhu cầu hiểu biết sâu về bài học nên tích cực phát
biểu để thỏa mãn nhu cầu của mình.
Khi có hứng thú học tập, người học thường thích thú và làm bài tập đầy đủ.
Ở đây thể hiện mối quan hệ hữu cơ giữa hứng thú và năng lực, hứng thú là dấu
hiệu của năng lực và chính năng lực là tiền đề cho sự hình thành và phát triển
hứng thú học tập. Ngược lại, khi làm thành công các bài tập sẽ tạo ra niềm vui trí
tuệ, kích thích sự phát triển và hình thành hứng thú học tập.
Hứng thú thể hiện nhu cầu nhận thức đã phát triển cao. Khi có hứng thú học
tập, con người thường có nhu cầu tìm hiểu nhiều hơn nên thường không thỏa mãn
với những gì mình đã biết mà thường tìm đọc thêm các tài liệu tham khảo để mở
rộng vốn kiến thức của mình.
Hứng thú học tập không chỉ dừng ở mức độ nhận thức hay thích thú ban đầu
mà phải tích cực hoạt động, tìm tòi, khám phá để hiểu sâu hơn kiến thức hoặc
ứng dụng trong thực tiễn. Như vậy, hứng thú học tập cũng có đầy đủ ba yếu tố:
Nhận thức, xúc cảm (thích thú) và hành vi.
Từ những yếu tố trên, ta có thể khái quát một số những biểu hiện sự hứng
thú của HS trong giờ học, tức là khi đó HS sẽ tích cực hoạt động nhằm chiếm
lĩnh kiến thức như sau:
- HS hăng hái tự nguyện tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập.
- HS nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề GV trình bày mà
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-
- 24
Lí luận dạy học hiện đại
GVHD: PGS. TS. LÊ VĂN GIÁO
các em chưa rõ.
- HS hiểu bài ghi nhớ tốt những điều đã học.
- HS hứng thú, có ý chí quyết tâm vượt qua khó khăn trong học tập.
- HS chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng đã học để nhận
thức vấn đề mới.
- HS mong muốn đóng góp với thầy, với bạn những thông tin mới lấy từ
những nguồn khác nhau, có khi vượt ra ngoài phạm vi bài học môn học.
Tùy vào việc huy động chủ yếu những chức năng tâm lý nào mà tính tích
cực hoạt động nhận thức của HS thể hiện ba mức độ từ thấp đến cao như sau:
- Bắt chước: HS bắt chước hành động, thao tác của giáo viên, của bạn cùng
học. Trong hành động bắt chước HS cũng phải chú ý quan sát, nhận xét, phân
tích, tổng hợp thông tin để sau đó tái hiện lại
- Tìm tòi: HS tìm kiếm trong vốn kiến thức và phương pháp của mình để tự
lực giải quyết một hoặc một số vấn đề cụ thể được GV nêu ra.
- Sáng tạo: HS phát hiện vấn đề cần giải quyết hoặc tìm được cách giải mới
khác hơn, hay hơn, độc đáo hơn. Đây là mức độ tích cực cao nhất. Dĩ nhiên, mức
độ sáng tạo của mỗi HS là có giới hạn nhưng đó chính là nền tảng để phát triển
óc sáng tạo về sau này.
Tính tích cực nhận thức biểu hiện sự nỗ lực của chủ thể khi tương tác với
đối tượng trong quá trình học tập, nghiên cứu; thể hiện sự nỗ lực của hoạt động
trí tuệ, sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lí (như hứng thú, chú ý, ý
chí...) nhằm đạt được mục đích đặt ra với mức độ cao. Đã chỉ ra rằng: Hứng thú
có vai trò quan trọng trong học tập và hoạt động nghiên cứu khoa học cũng như
các hoạt động thực tiễn của con người. Thực tế đã chỉ ra rằng, muốn đạt được kết
quả cao trong bất kỳ hoạt động nào thì bên cạnh trí tuệ và nghị lực, con người
phải có sự say mê, có hứng thú nhất định về hoạt động ấy.
Trong học tâp, hứng thú sẽ tạo ra xúc cảm, tình cảm dễ chịu, say sưa lĩnh
THỰC HIỆN: NHÓM 1
-
- 25