Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

quyền được chăm sóc, giáo dục của trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.84 KB, 42 trang )

QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Trẻ em có vai trò quan trọng đối với gia đình và xã hội. Người Việt Nam vốn có
truyền thống yêu thương gắn bó với con cháu, con cháu không chỉ là nguồn hạnh
phúc mà còn là niềm mong ước, là nơi gửi gắm những ước mơ, niềm tin và sự hãnh
diện. Vì vậy, ngay từ thời xa xưa, các nhà nước phong kiến đã đề ra những quy
định bằng pháp luật để bảo vệ trẻ em; nhân dân cũng tự hình thành các quan hệ đạo
đức nhằm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã tích cực xây dựng và từng bước hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, kịp thời điều
chỉnh mọi quan hệ xã hội phát sinh,trong đó có pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em, đồng thời từng bước làm hài hoà với pháp luật quốc tế, phù hợp
với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế. Đó là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tạo cơ hội cho trẻ em phát triển toàn diện về
thể chất và trí tuệ, tinh thần, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước.
Để trẻ em có thể nhận thức đầy đủ quyền lợi, những bổn phận và những việc trẻ
em không được làm thì trách nhiệm đầu tiên phải thuộc về gia đình. Gia đình có
trách nhiệm, nghĩa vụ nuôi dạy con cái, giúp các em thực hiện những bổn phận của
mình và tránh xa những tệ nạn của xã hội. Chính vì những lý do đó, nhóm chúng
em xin chọn đề tài “ Quyền được chăm sóc, giáo dục của trẻ em” làm bài tiểu
luận nhóm. Thông qua bài viết này, chúng em muốn làm rõ được quyền chăm sóc,
giáo dục của trẻ em và trách nhiệm cua gia đình, xã hội trong việc giúp cho trẻ em
thực hiện những quyền đó.
NHÓM 5

1




QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM
2.

Bố cục đề tài

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì đề tài có bố cục gồm 3 chương:
Phần mở đầu
Phần nội dung
-

Chương 1: Lý luận chung về trẻ em và quyền trẻ em

-

Chương 2: Quyền được chăm sóc giáo dục của trẻ em

-

Chương 3: Liên hệ thực tiễn và một số kiến nghị, giải pháp
Phần kết luận

NHÓM 5

2


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRẺ EM VÀ QUYỀN TRẺ EM
1.1. Khái niệm trẻ em
Theo Từ điển Xã hội học, trẻ em đó là nhóm ở trong quá trình xã hội hóa (tiếp
nhận những kỹ năng và tri thức để có thể tham gia hoạt động xã hội độc lập), nói
đúng hơn đó là nhóm ở trong giai đoạn đầu tiên của xã hội hóa. Về luật pháp người
ta coi đó là vị thành niên.
Tuy nhiên, tùy theo các giác độ tiếp cận khác nhau về trẻ em mà có những định
nghĩa khác nhau:
Tiếp cận theo giác độ phát triển thì trẻ em là một giai đoạn phát triển trong cuộc
đời của một người (từ lúc sinh ra đến khi chết). Trẻ em và người lớn là những giai
đoạn phát triển khác nhau của đời người. Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ
lại. Trẻ em vận động và phát triển theo qui luật riêng của mình. Tâm lý học lứa tuổi
lại xác định những giai đoạn khác nhau trong lứa tuổi trẻ em như: tuổi sơ sinh, tuổi
hài nhi, tuổi mẫu giáo nhỏ, tuổi mẫu giáo lớn, tuổi nhi đồng, tuổi thiếu niên, tuổi
thanh niên mới lớn.
Tiếp cận theo cơ cấu xã hội - văn hóa có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em, bởi vì văn hóa vừa là môi trường vừa là nội dung của
quá trình xã hội hóa trẻ em. Mỗi đứa trẻ là con đẻ của một nền văn hóa nhất định,
một vùng văn hóa xác định trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Trẻ em lớn
lên, xã hội hóa trong những môi trường xã hội văn hóa cụ thể: văn hóa gia đình,
văn hóa nhà trường, văn hóa địa bàn dân cư (làng, xã, phố phường); khiến không

NHÓM 5

3


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

chỉ mỗi thời đại có trẻ em riêng của nó mà hơn thế, trong cùng một thời đại, mỗi

vùng văn hóa, mỗi môi trường văn hóa, có trẻ em mang tính cách riêng của nó.
Trẻ em là một nhóm trong cơ cấu xã hội - dân số - nhân khẩu nhưng trẻ em cũng
đồng thời là điểm hội tụ giao thoa của các lớp, các lát cắt khác trong cơ cấu xã hội
tổng thể, không có một thành tố nào, không có một quan hệ nào lại không có quan
hệ đến trẻ em, đặt dấu ấn lên quá trình xã hội hóa trẻ em. Trẻ em là một phạm trù
xã hội lịch sử cụ thể, cũng là một phạm trù phức hợp. Trẻ em có những đặc điểm
tâm sinh lý khá đặc thù do chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ, dễ tổn
thương, dễ thay đổi, dễ thích nghi, dễ uốn nắn, dễ tự ái, tự ti, hiếu thắng, thiếu kiên
nhẫn. Xu hướng muốn tự khẳng định, được đánh giá, được tôn trọng, nhiều hoài
bão và nhìn chung còn thiếu thực tế, thiếu kinh nghiệm.
1.2. Khái niệm quyền trẻ em
Quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một cách
lành mạnh và an toàn.Quyền trẻ em nhằm đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người
tiếp nhận thụ động lòng nhân từ của người lớn mà các em là những thành viên
tham gia tích cực vào quá trình phát triển.
Công ước về quyền trẻ em quy định về các nhóm quyền trẻ em:
Quyền sống còn bao gồm quyền trẻ em được sống cuộc sống bình thường và đáp
ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại và phát triển thể chất.Đó là mức sống đủ
có nơi ở, ăn uống đủ chất, được chăm sóc sức khỏe. Trẻ em phải được khai sinh
ngay sau khi ra đời.

NHÓM 5

4


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

Quyền được phát triển, gồm những điều kiện để trẻ em có thể phát triển đầy đủ
nhất về cả tinh thần và đạo đức, bao gồm học tập, vui chơi, tham gia các hoạt động

văn hóa, tiếp nhận thông tin, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Trẻ em
cần có sự yêu thương và cảm thông của cha mẹ để có thể phát triển hài hòa.
Quyền được bảo vệ, bao gồm những quy định như trẻ em phải được bảo vệ chống
tất cả các hình thức bóc lột lao động, bắt buộc và xâm hại tình dục, lạm dụng ma
túy, sao nhãng và bị bỏ rơi, bị bắt cóc và buôn bán. Trẻ em còn được bảo vệ khỏi
sự can thiệp vô cớ vào thư tín và sự riêng tư. Quyền được bảo vệ bao gồm cả
không bị tra tấn, đánh đập và lạm dụng trong trường hợp trẻ am làm trái pháp luật
hay bị giam giữ.
Quyền được tham gia: tạo mọi điều kiện cho trẻ em được tự do bày tỏ quan điểm
và ý kiến về vấn đề có liên quan đến cuộc sống của mình. Trẻ em còn có quyền kết
bạn, giao lưu và hội họp hòa bình, được tạo điều kiện tiếp cận các nguồn thông tin
và chọn lựa thông tin phù hợp.
Trong Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em (1989) mà Việt Nam đã phê chuẩn
năm 1990 xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng
với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn (Điều 1).
Như vậy, pháp luật Việt Nam và Công ước số 182 của Tổ chức Lao động quốc tế
về việc cấm và những hành động tức thời để loại bỏ những hình thức lao động trẻ
em tồi tệ nhất, nếu xét cả công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, thì tất cả
những người dưới 18 tuổi đều được coi là trẻ em. Dù có gọi người chưa thành niên
hoặc trẻ em vị thành niên thì vẫn gọi là trẻ em. Tuy nhiên, trong pháp luật Việt
Nam, tùy theo từng lĩnh vực, phân biệt trẻ em và người chưa thành niên theo độ
NHÓM 5

5


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

tuổi khác nhau: 14, 15, 16, để xác định chế độ pháp lý, sự bảo vệ thích hợp cho
từng lứa tuổi. Ví dụ, theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định thì

“Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Ở Việt Nam, các quyền cơ bản của trẻ em được quy định trong Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15
tháng 6 năm 2004, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2005.
Luật này nhấn mạnh nhiệm vụ của xã hội đối với sự bảo vệ, chăm sóc trẻ em, yêu
cầu trừng phạt nghiêm khắc đối với vi phạm quyền trẻ em. Luật đã quy định các
quyền của trẻ em Việt Nam như sau:
1.

Được khai sinh và có quốc tịch (Điều 11).

2.

Được chăm sóc, nuôi dưỡng (Điều 12).

3.

Được sống chung với cha mẹ (Điều 13).

4.

Được tôn trọng và bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự
(Điều 14).

5.

Được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe (Điều 15).

6.


Được học tập (Điều 16).

7.

Được vui chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao,
du lịch (Điều 17).

NHÓM 5

6


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM
8.

Được phát triển năng khiếu (Điều 18)

9.

Được có tài sản (Điều 19).

10.

Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã
hội (Điều 20).

Mọi hành vi vi phạm quyền trẻ em, làm tổn hại đến sự phát triển bình thường của
trẻ em đều bị nghiêm trị (Điều 6). Luật cấm sử dụng lao động trẻ em trái quy định
pháp luật có hại cho sự phát triển bình thường của trẻ em (Điều 7).


1.3. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền trẻ em
Nhiều thập kỷ qua, việc chăm sóc trẻ em ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đã
được quan tâm ở những mức độ khác nhau, song do các yếu tố chủ quan và khách
quan như thiên tai, mất mùa, chiến tranh, hoặc do trình độ dân trí thấp… trẻ em
vẫn còn phải gánh chịu những nỗi đau, những thiệt thòi, trẻ em vẫn bị đói rét và
vẫn bị giết hại trong những cuộc chiến, thậm chí vẫn bị bắt buộc cầm súng ra trận,
hoặc phải tự lao động để nuôi thân, hoặc bị mua bán xâm hại…
Đặc biệt là sau hai vụ thảm sát của phát xít Đức gây ra ở làng Liđisơ - Tiệp Khắc
ngày 10/6/1942 và làng Ôrađua - Pháp ngày 10/6/1944, hàng trăm em thiếu nhi của
hai làng bị giết hại, đã gây ra sự chấn động dư luận.
Vì vậy nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên và nhi đồng là trách
nhiệm của toàn xã hội. Ngày 10/2/1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua
NHÓM 5

7


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

và tuyên bố nghị quyết số 217A về Quyền con người. Tại điều 25, Liên hợp quốc
đã thông báo rằng: “Trẻ em có quyền được chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt, tất cả trẻ
em trong hay ngoài giá thú đều được hưởng sự bảo trợ xã hội như nhau”.
Tháng 2/1949 Hội phụ nữ châu Á họp ở Bắc Kinh đã có sáng kiến đề nghị Hội Phụ
nữ dân chủ thế giới chọn một ngày thiếu nhi quốc tế để kêu gọi toàn thế giới đấu
tranh chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, bảo vệ nhi đồng và là ngày đoàn kết
thiếu nhi quốc tế. Trong một phiên họp đã quyết định chọn ngày 1/6 hàng năm là
ngày “Quốc tế bảo vệ thiếu nhi” và nhắc nhở mọi người tưởng nhớ vụ thảm sát
man rợ ở Liđisơ và Ôrađua. Kể từ năm 1950 trở đi ngày 1/6 đã được tổ chức ở
khắp thế giới.
Tháng 4/1952, Hội nghị Bảo vệ thiếu nhi thế giới có 64 nước tham gia họp tại Viên

- Áo đã nhất trí chính thức lấy ngày 1/6 là ngày Quốc tế bảo vệ thiếu nhi, điều đó
khẳng định trẻ em là “đối tượng” được nhân loại toàn thế giới luôn quan tâm. Vì
vậy ngày 20/11/1989, Liên hợp quốc đã thông qua và phê chuẩn “Công ước về
quyền trẻ em” bao gồm 54 điều khoản có hiệu lực từ ngày 20/11/1990. Trong lời
mở đầu, công ước đã khẳng định: “Để phát triển đầy đủ và hài hòa nhân cách của
mình, trẻ em cần được lớn lên trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh
phúc, yêu thương và cảm thông… Trẻ em cần được chuẩn bị đầy đủ để sống cuộc
sống cá nhân trong xã hội và cần được nuôi dưỡng theo tinh thần các lý tưởng
được nêu ra trong hiến chương Liên hợp quốc, đặc biệt trong tinh thần hòa bình,
phẩm giá, khoan dung, tự do, bình đẳng và đoàn kết”.
Công ước cũng định nghĩa trẻ em có nghĩa là những người dưới 18 tuổi (trừ trường
hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó qui định tuổi thành niên sớm hơn). Có thể nói

NHÓM 5

8


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

Công ước về quyền trẻ em là một công ước đầy sự tiến bộ xã hội, với tinh thần
nhân đạo sâu sắc. Công ước đã chỉ ra tất cả những quyền lợi mà trẻ em ở bất kỳ nơi
nào trên thế giới đều được hưởng thụ để trưởng thành đúng nghĩa một con người.
Có thể điểm qua những quyền trẻ em rất cơ bản của công ước như: “Không phân
biệt đối xử” - điều 2; Công ước quan tâm đến “lợi ích tốt nhất của trẻ em” - điều 3;
Quyền “sống còn và phát triển” - điều 6; Đoàn tụ gia đình - điều 10; Công ước còn
quan tâm đến “mức sống” của trẻ em - điều 27; “Bảo vệ trẻ em không gia đình” điều 20; “Lao động trẻ em” - điều 22; “Lạm dụng ma túy” - điều 23; “Chống buôn
bán và bắt cóc” - điều 35… Điểm qua như vậy, chúng ta có thể thấy rất rõ tinh thần
cao đẹp, tiến bộ, cũng như sự cần thiết của công ước, nhằm bảo vệ và chăm sóc trẻ
em. Công ước nhắc nhở tất cả chúng ta hãy vì một tương lai tốt đẹp của trẻ em,

cũng chính vì một tương lai tốt đẹp của đất nước, của dân tộc, của nhân loại mà
hành động cho đúng đắn, hãy dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em.
Việt Nam là quốc gia phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em vào ngày 20/2/1990 và
Công ước đã được dịch, in ấn, phát hành rộng rãi bằng những cuốn sách nhỏ có thể
bỏ túi. Nội dung Công ước được tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông
tin đại chúng đã góp phần giác ngộ và giáo dục, bồi dưỡng một thái độ đúng đắn về
việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa có thể yên tâm về
những việc đã làm được mà phải thấy hết những mặt còn tồn tại. Vẫn còn không ít
trẻ em sống trong cảnh nghèo khó, thiếu thốn mọi bề, chưa được ăn no mặc ấm,
chưa được đi học, phải lao động quá sức mình, thậm chí có nơi có lúc còn xảy ra
tình trạng bạo hành hay buôn bán trẻ em. Đó là những tệ nạn xã hội hoàn toàn trái
ngược với bản chất tốt đẹp của chế độ ta.

NHÓM 5

9


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

Chừng nào trên trái đất còn trẻ em đói rét, còn trẻ em bị ngược đãi, bắn giết, chừng
nào trẻ em còn chưa được tạo mọi điều kiện tốt nhất để phát triển đúng cách thì
Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em vẫn là tiếng chuông báo hiệu, nhắc
nhở mọi người, nhắc nhở mọi quốc gia hãy hành động vì tương lai tốt đẹp của trẻ
em.
1.4. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền trẻ em
Trẻ em là đối tượng được quam tâm đặc biệt của mọi quốc gia. Và Việt Nam cũng
là quốc gia nằm trong quy luật chung đó. Việt Nam là quốc gia có kết cấu dân số
trẻ. Thanh thiếu niên Việt Nam chiếm tỉ lệ khá cao so với dân số của nước. Đồng
thời, trẻ em Việt Nam thông minh, hiếu học, dũng cảm vượt khó… Các em sẽ là

những người góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng của đất nước, làm rạng
ngời dân tộc Việt.
Xuất phát từ tinh thần nhân văn, nhân đạo và từ sự coi trọng con người, coi trọng
trẻ em, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng ghi nhận vấn
đề bảo vệ quyền trẻ em, đảm bảo điều kiện tốt nhất cho trẻ em phát triển về thể
chất, trí tuệ và đạo đức. Sự ghi nhận này mang lai có ý nghĩa rất to lớn:
Trước hết, nó thể hiện sự quan tâm sâu sác của Nhà nước ta đối với công tác bảo
vệ cũng như chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ, hướng đến mục tiêu điều chỉnh quan hệ
hôn nhân và gia đình, cụ thể hơn là đem lại các quyền lợi chính đáng cho con cái,
cho trẻ em.
Đây là cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo thực hiện quyền công dân, quyền con người
trong phạm vi quốc gia. Cơ sở pháp lý làm căn cứ xử lý các trường hợp vi phạm
NHÓM 5

10


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

đảm bảo ý thức chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đảm bảo sự thống nhất trong
việc áp dụng pháp luật. Qua đó điều chỉnh các quy định không đảm bảo tính khả
thi trong thực tế. Và thể hiện sự cam kết về mặt pháp lý của Việt Nam với cộng
đồng quốc tế trong việc bảo vệ quyền trẻ em. Từ đó đảm bảo cho trẻ em không chỉ
là người tiếp thu thụ động của người lớn mà trở thành những chủ thể có quyền, có
khả năng tạo dựng cuộc sống phù hợp;
Ngoài ra, thông qua các quy định pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em phản ánh bản
chất tiến bộ vượt bực của chế độ ta, của pháp luật XHCN. Trải qua các hình thái
kinh tế - xã hội, qua nhiều hệ thống pháp luật nhưng chỉ đến khi Nhà nước và pháp
luật XHCN ra đời ở Việt Nam, quyền lợi của cha mẹ và con cái mới được bảo vệ
thỏa đáng như những gì mà họ xứng đáng được hưởng.


NHÓM 5

11


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

CHƯƠNG 2: QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM
2.1. Những quy định của pháp luật về việc bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ
em
Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi nhất định
trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người”. Trẻ em là những người chưa
trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục (BVCSGD) đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp
lý trước cũng như sau khi ra đời.
Khái niệm trẻ em được quốc tế sử dụng thống nhất và đã được đề cập trong Tuyên
ngôn Giơ-ne-vơ năm 1924, Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm
1959, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1968, Công ước quốc tế về
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị năm 1966, Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989, Công
ước 138 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối thiểu làm việc năm 1976.
Ở Việt Nam, từ xưa Luật Hồng Đức là tên gọi thông dụng của bộ Quốc triều hình
luật thời Lê sơ hiện còn được lưu giữ đầy đủ trong đó có những quy định về quyền
NHÓM 5

12


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM


trẻ em. Tiếp theo phải kể tới Hiến pháp 2013, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em năm 2004, Bộ luật hình sự năm 2015 và các vấn đề liên quan tới trẻ em,
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Bộ luật lao động liên quan tới trẻ em, Nghị
định số 71/2011 NĐ - CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Có thể nói bảo vệ chăm sóc và giáo dục
trẻ em không chỉ là bổn phẩn đạo đức mà còn đựơc nâng lên thành các nghĩa vụ,
trách nhiệm pháp lý. Nếu như trách nhiệm này được thực hiện tốt ở các gia đình sẽ
giảm bớt những gánh nặng cho xã hội và điều quan trọng nhất sẽ hình thành nhân
cách tốt đẹp ở trẻ.
Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em luôn là mối quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà
nước ta. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, văn bản pháp luật trực tiếp hoặc
gián tiếp liên quan đến bảo vệ các quyền trẻ em. Từ các bản Hiến pháp, các Bộ
luật, Luật đến các văn bản dưới luật đã tạo thành một hệ thống pháp luật bảo vệ trẻ
em phù hợp với các công ước quốc tế và truyền thống văn hoá của dân tộc. Tư
tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh "Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm phải trồng người" đã trở thành quan điểm chỉ đạo, xuyên suốt trong hệ
thống pháp luật nước ta về trẻ em. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và thứ hai
trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em vào ngày 20/2/1990. Từ đó đến
nay, Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ trong việc đưa tinh thần và nội dung của Công
ước vào luật pháp quốc gia như: Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật
Giáo dục, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật Tố tụng Hình sự... được ban
hành hay sửa đổi, bổ sung đều quan tâm đến quyền lợi của trẻ em.
Xét về cấu trúc, pháp luật về trẻ em, có phạm vi rất rộng, liên quan đến nhiều lĩnh
vực quan hệ xã hội, nhiều ngành luật khác nhau. Mỗi một ngành luật có những đặc
NHÓM 5

13



QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

thù riêng về việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Luật Hiến pháp điều chỉnh
các quan hệ về trẻ em trên những vấn đề mang tính nguyên tắc, là cơ sở cho tất cả
các ngành luật khác. Ngành luật hình sự bảo vệ quyền trẻ em trên hai phương diện:
khi trẻ em cùng với các quyền của trẻ em là đối tượng bị xâm hại, và cả khi bản
thân trẻ em có hành vi phạm tội. Luật tố tụng hình sự lại điều chỉnh các quan hệ xã
hội về trẻ em theo cách riêng của mình. Đó là việc quy định cho các em những
quyền tố tụng để họ có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời quy định
những điều khoản nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
được khách quan, toàn diện và đúng pháp luật, không để xảy ra, hạn chế việc xử lý
oan sai. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có các quy định nghiêm cấm các
hành vi như cha mẹ bỏ rơi con, người giám hộ bỏ rơi trẻ em được mình giám hộ;
dụ dỗ, lôi kéo trẻ em đi lang thang, lợi dụng trẻ em lang thang để trục lợi ; cản trở
việc học tập của trẻ em; áp dụng biện pháp có tính chất xúc phạm, hạ thấp danh dự,
nhân phẩm hoặc dùng nhục hình đối với trẻ em vi phạm pháp luật vv…Nguyên tắc
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là không phân biệt đối xử, dành lợi ích tốt
nhất để trẻ em thực hiện quyền, bổn phận và phát triển toàn diện về thể chất, trí
tuệ, tinh thần và đạo đức, bảo đảm cho trẻ em được sống trong một môi trường an
toàn và lành mạnh. Đồng thời, Luật còn quy định về những việc trẻ em không được
làm: tự ý bỏ học, bỏ nhà sống lang thang; xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân
phẩm, danh dự, tài sản của người khác; sử dụng văn hoá phẩm có nội dung xấu
vv...
2.2.

Nội dung về quyền được chăm sóc, giáo dục của trẻ em
2.2.1. Quyền được khai sinh và có quốc tịch

Con người ai cũng mang trong mình những ước mơ, hoài bão. Những ước mơ đó
có thể được hình thành từ khi còn là trẻ nhỏ, giấy khai sinh có ỹ nghĩa vô cùng

NHÓM 5

14


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

quan trọng để đảm bảo cho những ước mơ đó trở thành hiện thực mà đầu tiên là
được đến trường. Khoản 1 Điều 11 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy
định “Trẻ em có quyền được khai sinh và có quốc tịch”. Theo quy định của pháp
luật thì “Cá nhân khi sinh ra có quyền được khai sinh" (Điều 29 Bộ Luật Dân sự
năm 2005).
Đăng ký khai sinh nhằm xác định họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh, giới
tính, dân tộc, quốc tịch, quan hệ cha, mẹ, con của một người mà được pháp luật
công nhận và làm căn cứ pháp lý chứng minh đó là một cá nhân, một chủ thể riêng
biệt trong xã hội. Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của một cá nhân. Mọi hồ sơ,
giấy tờ của cá nhân có nội dung ghi về họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh,
giới tính, dân tộc, quốc tịch, quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với Giấy khai sinh
của người đó.
Khoản 1 Điều 23 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Cha mẹ,
người giám hộ có trách nhiệm khai sinh cho trẻ em đúng thời hạn”. Theo quy định,
cha mẹ, người giám hộ là người chịu trách nhiệm chính về đăng ký khai sinh và
yêu cầu là việc khai sinh cho trẻ em phải đúng thời gian quy định.
Theo quy định của pháp luật, người có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đăng ký
khai sinh khá rộng, bao gồm cá nhân hoặc người được uỷ quyền và nếu người
được uỷ quyền là ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, anh chị em của người uỷ quyền thì
không cần phải có văn bản uỷ quyền (Nghị định 83/1998/NĐ-CP về đăng ký và
quản lý hộ tịch). Điều 14 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của
Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch thì “trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày
sinh con, cha mẹ có trách nhiệm đi khai sinh cho con; nếu cha, mẹ không thể đi

khai sinh, thì ông, bà hoặc những người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ em”.

NHÓM 5

15


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

Tuy nhiên, quyền được khai sinh của trẻ em có được thực hiện hay không, điều đó
không do trẻ em mà phụ thuộc vào người lớn có trách nhiệm phải khai sinh cho trẻ
em. Trên thực tế, vì nhiều lý do khác nhau mà đã có không ít đứa trẻ mất đi quyền
cơ bản đầu tiên này. Nhằm khắc phục tình trạng chậm đăng ký khai sinh, coi
thường thời hạn khai sinh cho trẻ em, thậm chí còn nhiều trường hợp trẻ em đã
được 05 tuổi nhưng vẫn chưa có giấy khai sinh ở một số địa phương, Luật bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em khẳng định việc khai sinh phải đúng thời hạn.
2.2.2.

Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng

Điều 12 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cụ thể hóa quy định tại Hiến
pháp năm 1992 về một trong các quyền cơ bản của trẻ em. Đó là “quyền được
chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức”. Trẻ em
được chăm sóc, nuôi dưỡng nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần ở mức
cao nhất có thể có, với mức sống ngày càng được nâng cao là quyền của trẻ em và
mục tiêu phấn đấu chung của gia đình, Nhà nước và xã hội. Điều 65 Hiến pháp
năm 2013 ghi nhận "Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục”.
Tuy nhiên cũng tồn tại những con số đáng buồn là tình trạng trẻ em dưới 5 tuổi bị
suy dinh dưỡng vẫn còn cao, trung bình gần 30% (nhất là tại các tỉnh Tây Nguyên

và miền núi phía Bắc). Số trẻ nhiễm HIV/AIDS, tính đến tháng 12-2007, trẻ dưới
13 tuổi chiếm 1,7% (khoảng 2.700 em); trẻ từ 13 - 19 tuổi chiếm 4,5% (khoảng
7.000 em); khoảng 22.000 trẻ mồ côi do bố, mẹ chết bởi HIV/AIDS. Tai nạn
thương tích trẻ em xảy ra do rất nhiều nguyên nhân, đặc biệt là tai nạn giao thông
(27%), chết đuối (23%) và ngộ độc Một số loại bệnh tật của trẻ em ở lứa tuổi học
đường như cận thị, cong vẹo cột sống, rối nhiễu tâm trí... chưa được các bậc phu
huynh chú ý Một số nhóm đối tượng trẻ em đặc biệt chưa được đưa vào Luật Bảo
NHÓM 5

16


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, như trẻ em bị lạm dụng, bạo lực, trẻ em bị tai nạn
thương tích, trẻ em bị ảnh hưởng từ các vụ ly hôn, con nuôi, trẻ em di cư, bị mua
bán, trẻ em sống trong các hộ nghèo...Vấn đề truyền thông giáo dục, việc phổ biến
kỹ năng bảo vệ và chăm sóc trẻ em ở một bộ phận gia đình còn thiếu chiều sâu,
đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.
2.2.3.

Quyền sống chung với cha mẹ

Điều 13 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Trẻ em có quyền
sống chung với cha mẹ. Không ai có quyền buộc trẻ em phải cách ly cha mẹ, trừ
trường hợp vì lợi ích của trẻ em”. Theo quy định của pháp luật thì cha mẹ có nghĩa
vụ và quyền sống chung với con. Như vậy, cả cha mẹ và con chưa thành niên đều
có quyền sống chung, trừ trường hợp vì lợi ích của trẻ em.
Quy định này hoàn toàn phù hợp và cụ thể hóa thêm các quy định tại Luật hôn
nhân và gia đình Việt Nam hiện hành. Theo các quy định đó thì: Quyền sống

chung với cha mẹ là quyền tự nhiên, tất yếu và bất khả xâm phạm của mọi trẻ em,
kể cả trong trường hợp trẻ em là con riêng của vợ hoặc chồng. Trong trường hợp
cha mẹ ly hôn, theo quy định tại điều 92 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014,
việc giao con chưa thành niên cho cha hoặc mẹ chăm nom, nuôi dưỡng, giáo dục
phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của trẻ em. Về nguyên tắc, trẻ em dưới ba
mươi sáu (36) tháng tuổi phải được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng.
Người không nuôi dưỡng có nghĩa vụ và quyền thăm nom, chăm sóc con và phải
có nghĩa vụ đóng góp nuôi dưỡng, giáo dục con.
Trường hợp trẻ em được nhận làm con nuôi, thì việc giao nhận con nuôi phải tuân
theo quy định của pháp luật và phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em được nhận
làm con nuôi. Việc nhận trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên làm con nuôi phải được sự
đồng ý của trẻ em đó. Khoản 2 Điều 25 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
NHÓM 5

17


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

quy định "Trường hợp trẻ em được nhận làm con nuôi thì việc giao, nhận trẻ em
làm con nuôi, đưa trẻ em ra nước ngoài hoặc từ nước ngoài vào Việt Nam phải
tuân theo quy định của pháp luật".
2.2.3.

Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, nhân phẩm, danh dự

Điều 14 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Trẻ em được gia
đình, Nhà nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và
danh dự”. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về các quyền này của công dân như
sau: Khoản 1 Điều 32 quy định "Cá nhân có quyền được bảo đảm an toàn về tính

mạng, sức khoẻ, thân thể" Điều 37 quy định “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”. Đây cũng là một trong những
quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận "Công dân có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm"
Các văn bản pháp luật có liên quan đã quy định các quyền được tôn trọng, bảo vệ
tính mạng, nhân phẩm, danh dự và các biện pháp chế tài để bảo đảm quyền này..
2.2.4.

Quyền được chăm sóc sức khoẻ

Khoản 1 Điều 15 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Trẻ em có
quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ”. Khoản 1 Điều 1 Luật bảo vệ sức khoẻ
nhân dân năm 1989 quy định “Công dân có quyền được bảo vệ sức khoẻ, nghỉ
ngơi, giải trí, rèn luyện thân thể; được bảo đảm vệ sinh trong lao động, vệ sinh
dinh dưỡng, vệ sinh môi trường và được phục vụ về chuyên môn y tế”.
Khoản 1 Điều 27 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Cha mẹ,
người giám hộ có trách nhiệm thực hiện những quy định về kiểm tra sức khoẻ,
tiêm chủng, khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em”. Quy định này khẳng định trách
NHÓM 5

18


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

nhiệm trước tiên thuộc về cha mẹ, người giám hộ và đòi hỏi cha mẹ, người giám
hộ phải có kiến thức, sự hiểu biết và thực hiện đầy đủ các hướng dẫn, quy định về
phòng bệnh và chữa bệnh cho trẻ em.
2.2.5.


Quyền được học tập

Khoản 1 Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Trẻ em có
quyền được học tập”. Pháp luật nước ta đã khẳng định "Học tập là quyền và nghĩa
vụ của công dân". Mọi công dân không phân biệt điều kiện và hoàn cảnh đều được
bình đẳng về cơ hội học tập, được tạo điều kiện để ai cũng được học hành.
Khoản 2 Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Trẻ em học
bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục công lập không phải trả học phí”. Theo quy
định của pháp luật, giáo dục tiểu học là bậc học bắt buộc đối với mọi trẻ em từ sáu
tuổi đến mười bốn tuổi (từ lớp 1 đến lớp 5). Vì vậy " Mọi công dân trong độ tuổi
quy định có nghĩa vụ học tập để đạt trình độ giáo dục phổ cập" (Khoản 2 Điều 11
Luật giáo dục năm 2005). Đến năm 2002, đã có 100 % số tỉnh, thành phố hoàn
thành giáo dục phổ cập bậc tiểu học và 19 tỉnh, thành phố đạt trình độ giáo dục
phổ cập bậc trung học cơ sở.
"Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện; có đạo
đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc" (Điều 2 Luật giáo dục năm 2005). Với ý nghĩa đó, trẻ em có quyền được
tiếp cận một nền giáo dục cơ bản, có chất lượng để trở thành công dân có đức, có
tài, nắm chắc khoa học kỹ thuật và công nghệ mới phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.

NHÓM 5

19


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM


Khoản 1 Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Gia đình,
Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học tập; học hết
chương trình giáo dục phổ cập; tạo điều kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao
hơn”.
Theo quy định, trách nhiệm trước tiên thuộc về gia đình mà trực tiếp là cha mẹ,
người giám hộ trong việc thực hiện ba nhiệm vụ cụ thể là bảo đảm điều kiện học
tập, học hết chương trình giáo dục phổ cập và điều kiện học ở trình độ cao hơn đối
với trẻ em.
Trách nhiệm của gia đình trong việc bảo đảm điều kiện học tập của trẻ như chăm
sóc, nuôi dưỡng (ăn, mặc, ở, đi lại cho trẻ em); xây dựng gia đình văn hoá (tinh
thần thoải mái cho trẻ em); các thành viên trong gia đình gương mẫu, giúp đỡ,
hướng dẫn trẻ em học tập; tạo điều kiện trực tiếp cho trẻ em học tập về bảo đảm
thời gian học tập ở lớp và tự học ở nhà, cung cấp đủ sách vở, dụng cụ học tập, bố
trí góc học tập, đóng góp các khoản chi phí học tập theo quy định và phối hợp chặt
chẽ với nhà trường trong việc giúp đỡ việc học tập, tu dưỡng đạo đức của trẻ em.
Bậc tiểu học là bắt buộc, đây là nghĩa vụ của mỗi công dân, cha mẹ, người giám
hộ có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em học hết chương trình giáo dục phổ cập.
Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát
triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ
bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
Tri thức là vô hạn, nên nhiệm vụ học, học nữa, học mãi luôn là nghĩa vụ của công
dân, đặc biệt là trẻ em để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta nhằm tạo
ra "một xã hội học tập". Vì vậy, gia đình với vai trò đặc biệt quan trọng phải có
trách nhiệm với khả năng cao nhất có thể được để tạo điều kiện cho trẻ em theo
học ở trình độ cao hơn. Việc học tập của trẻ em không chỉ học tập tri thức, kỹ năng
NHÓM 5

20



QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

mà cả học tập thẩm mỹ, truyền thống, đạo đức, niềm tin và pháp luật thông qua
giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Hiện nay, việc học tập của trẻ em được gia đình và xã hội đặc biệt quan tâm. Các
bậc phụ huynh đã nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của việc học tập đối với trẻ. Do
đó, cha mẹ đã tạo những điều kiện tốt nhất cho việc học tập của trẻ: cho trẻ đi lớp
từ khi còn rất nhỏ, theo học những lớp năng khiếu, mua đồ dùng trang thiết bị phục
vụ cho học tập của trẻ…Tuy nhiên, việc nhận thức tầm quan trọng của việc học đối
với trẻ, để từ đó tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ trong học tập chỉ được chú trọng tại
các thành phố, thị xã nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển; còn tại các vùng
nông thôn, vùng sâu vùng xa, kinh tế còn khó khăn, điều kiện vật chất còn thiếu
thốn thì nhiều gia đình vẫn coi nhẹ việc học tập của trẻ, không tạo điều kiện cho trẻ
đi học. Ở những vùng này trẻ em thường phải lao động từ khi còn nhỏ tuổi mà
không được đi học. Tâm lý của các bậc phụ huynh thường không muốn cho con đi
học vì theo họ, học cũng không để làm gì, chỉ phí cơm gạo ( đặc biệt là với trẻ em
gái). Chính vì vậy, công tác giáo dục ở vùng còn khó khăn cần được đề cao hơn
nữa, và có nhiều biện pháp để thúc đẩy, cũng như để đảm bảo việc thực hiện có
hiệu quả quyền học tập của trẻ.
2.2.6.

Quyền vui chơi, hoạt động văn hoá, thể thao

Điều 17 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Trẻ em có quyền vui
chơi, giải trí lành mạnh, được hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du
lịch phù hợp với lứa tuổi”. Vui chơi giải trí là nhu cầu của con người, song đối với
trẻ em thì được pháp luật thừa nhận là một quyền, điều này xuất phát từ đặc điểm
của trẻ em và xuất phát từ nhu cầu thực tiễn. Quyền vui chơi giải trí lành mạnh
không những là nhu cầu mà còn là điều kiện để trẻ em phát triển hài hoà về thể

chất và tinh thần. Thực hiện quyền vui chơi, giải trí lành mạnh của trẻ em đòi hỏi
NHÓM 5

21


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

phải thay đổi quan niệm cũ coi “vui, chơi, giải trí” là hoạt động của những kẻ “vô
công rồi nghề”, những trẻ “hư”, sang quan niệm mới coi vui chơi, giải trí lành
mạnh là một yếu tố để trẻ em khôn lớn, phát triển tốt hơn về thể chất và tinh thần.
Các quốc gia trên thế giới xác định rằng, trong thời đại văn minh trí tuệ thì mọi
người, kể cả trẻ em sẽ phải làm việc nhiều hơn bằng trí óc, làm việc bằng nội lực
nhiều hơn lao động chân tay, nên con người sẽ mỏi mệt hơn, căng thẳng hơn, dễ
dẫn đến stress hơn thì việc vui chơi, giải trí là liều thuốc bổ tạo nên sự thoải mái
về tinh thần, cân bằng về sức khoẻ. Vì vậy, thực hiện quyền vui chơi, giải trí của
trẻ em chính là chuẩn bị tâm lý, sự năng động, sự thích nghi trong một xã hội công
nghiệp với hoạt động trí óc là chủ yếu.
Vấn đề quan trọng để thực hiện quyền trẻ em về vui chơi, giải trí là việc tổ chức
vui chơi, giải trí một cách khoa học, có văn hoá để mọi trẻ em đều được "chơi mà
học, học mà chơi" để trẻ phát triển nhân cách toàn diện. Vui chơi, giải trí gắn liền
trong học tập, trong hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao ở mọi nơi,
mọi lúc phù hợp với từng lứa tuổi của trẻ em. Nâng cao đời sống văn hoá tinh thần
của trẻ em và thực hiện quyền trẻ em được hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục,
thể thao là mục tiêu, biện pháp quan trọng của chiến lược con người.
Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, vui chơi, giải trí phải hướng
vào mục tiêu bồi dưỡng về trí tuệ, thể lực, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống,
thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, hướng tới chân, thiện, mỹ. Phát huy
những giá trị di sản văn hoá, nghệ thuật của dân tộc, đồng thời giáo dục trẻ em
chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Phát hiện và bồi dưỡng kịp thời các

năng khiếu, tài năng của trẻ em về văn hoá, văn nghệ, thể thao
Các nhà khoa học trên thế giới đều nhất trí rằng, trẻ em phát triển và hình thành thể
chất, trí tuệ, nhân cách... một cách toàn diện một phần là nhờ tham gia các hoạt
NHÓM 5

22


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

động vui chơi - giải trí phù hợp. Điều 29 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
2004 đề cập đến trách nhiệm bảo đảm điều kiện vui chơi, giải trí, hoạt động văn
hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch như sau:
“Gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện để trẻ em được vui
chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với
lứa tuổi…”
Nói thế để thấy rằng quyền được vui chơi giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật,
thể dục, thể thao, du lịch của trẻ em là rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình phát triển nhân cách cũng như trưởng thành của trẻ. Đối với trẻ em, vui chơi
lành mạnh là điều kiện quan trọng và cần thiết giúp ác em phát triển trí tuệ, rèn
luyện kỹ năng sống. Tuy nhiên hiện nay sân chơi cho trẻ em là vấn đề nhức nhối.
Thực tế, không ít trẻ em đã chọn các internet làm sân chơi với các game bạo lực
hay những hình ảnh đồi trụy. Một số trẻ em khác lại chọn lòng đường, vỉa hè, sông
suối, ao hồ… làm nơi tổ chức những trò chơi có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Thực trạng cho thấy trẻ em Việt Nam đang thiếu những sân chơi lành mạnh, bổ ích
để có cơ hội phát triển toàn diện. Đã đến lúc trách nhiệm tạo ra sân chơi cho trẻ em
không chỉ dựa vào Nhà nước mà cần có sự tham gia của toàn xã hội.
2.2.7.

Quyền được phát triển năng khiếu


Điều 18 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định:“Trẻ em có quyền được
phát triển năng khiếu. Mọi năng khiếu của trẻ em đều được khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi để phát triển”. “Năng khiếu” được hiểu là khả năng vượt trội của trẻ em
như: năng khiếu nghệ thuật, năng khiếu học tập… ; không phải trẻ em nào cũng có
những năng khiếu này do đó nếu phát hiện ra năng khiếu của trẻ thì gia đình cần quan
tâm phát triển khả năng đó để trẻ em đạt được những thành tích cao nhất.

NHÓM 5

23


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM

Khả năng vượt trội của trẻ em phụ thuộc nhiều vào yếu tố gia đình (điều kiện kinh tế
của gia đình, ý thức của cha mẹ..); ví dụ cha mẹ hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật
như: điện ảnh, ca hát, múa… thì con cái cũng thường có những năng khiếu đó vì từ khi
còn rất nhỏ đã được tiếp xúc với những loại hình nghệ thuật này.
Điều 59 Hiến pháp năm 2013 quy định “Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã
hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng”. Điều 10 Luật giáo dục năm 2005 quy
định “… Nhà nước và cộng đồng … tạo điều kiện để những người có năng khiếu phát
triển tài năng”. Các văn bản pháp luật có liên quan quy định quyền được phát triển năng
khiếu trong lĩnh vực văn hoá, thể thao và trong các ngành lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Ngoài ra, Điều 30 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em còn quy định cụ thể trách
nhiệm bảo đảm quyền phát triển năng khiếu của gia đình: “Gia đình, nhà trường và xã
hội có trách nhiệm phát hiện, khuyến khích, bồi dưỡng, phát triển năng khiếu của trẻ
em….”. Như vậy, với những quy định này là sự khẳng định chủ trương, chính sách và
việc tổ chức thực hiện trong thực tiễn nhằm phát huy tốt nhất năng lực, sở trường của
trẻ em ngay từ nhỏ để hướng dẫn, bồi dưỡng và đào tạo để trở thành nhân tài phục vụ

đất nước.
Ngày nay, tương lai con trẻ được chú trọng một cách đặc biệt. Rất nhiều nhà văn hóa,
câu lạc bộ được mở ra cho các nhu cầu học tập và phát triển tài năng của trẻ. Vấn đề là
có bao nhiêu mầm non tương lai thực sự yêu thích các môn học, hay do sự thúc ép của
các bậc cha mẹ? Ngược lại, các em có năng khiếu, lòng say mê về một môn nào đó đã
được cha mẹ tạo điều kiện đúng hướng chưa? Ở Việt Nam, việc phát hiện và phát triển
những năng khiếu của trẻ em chủ yếu là từ phía gia đình; từ phía nhà trường là rất ít,
thường chỉ là những lớp chuyên, lớp chọn về một môn văn hóa nào đó như : toán, văn ,
anh… ; còn về các năng khiếu nghệ thuật như: hát, vẽ hay múa dường như ít được phát
hiện và bồi dưỡng.
NHÓM 5

24


QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SÓC, GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM
2.3.

Trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội trong việc thực hiện

chăm sóc, giáo dục trẻ em
Trẻ em là người chưa phát triển toàn diện về thể lực và trí lực, chưa đủ khả năng
để thực hiện các quyền của mình và đòi hỏi gia đình, Nhà nước và xã hội phải bảo
đảm điều kiện, tạo cơ hội để trẻ em thực hiện quyền của mình. Vì vậy, quyền của
trẻ em làm phát sinh nghĩa vụ của gia đình, Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, mỗi
chủ thể trong xã hội lại có vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau,
nên muốn bảo đảm cho trẻ em được hưởng các quyền cơ bản thì phải quy trách
nhiệm của từng chủ thể phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của họ.
Ngoài các chủ thể bảo đảm các nhóm quyền cơ bản của trẻ em, Luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc

thực hiện tuyên truyền, vận động, giáo dục, thực hiện các biện pháp phòng ngừa,
ngăn chặn trẻ em rơi vào tệ nạn xã hội; cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản; tham
gia trợ giúp trẻ em dưới các hình thức thích hợp; phát hiện, xử lý các hành vi vi
phạm quyền trẻ em. Việc thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức sẽ là cơ sở thuận lợi để trẻ em thực hiện quyền và bổn phận của trẻ
em.
Gia đình là một trong những nền tảng quan trọng nhất hình thành nên nhân cách
mỗi con người. Đặc biệt là với trẻ em, bởi như ai đó từng nói thì trẻ em như một tờ
giấy trắng mà chúng ta vẽ lên trang giấy đó hình ảnh gì thì nó sẽ hằn sâu vào suy
nghĩ và đi theo trẻ suốt cuộc đời. Vì thế, “ dạy con từ thuở còn thơ”, nhất là trong
việc để cho trẻ nhận thức và thực hiện bổn phận của một người con, người cháu,
một người anh, người chị, người em là một vai trò hết sức quan trọng của gia đình.
Trách nhiệm đó của gia đình thể hiện qua những khía cạnh sau :

NHÓM 5

25


×