Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Đề cương ôn tập Ngữ Văn 9:

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.34 KB, 15 trang )

Đề cơng ôn tập Ngữ Văn 9:
Đồng chí- Chính hữu:

Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926 quê ở huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Ông đã từng
tham gia trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Thơ ông chủ yếu viết về ng ời lính và
chiến tranh. Bài thơ Đồng chí là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông viết về đề tài ấy. Bài thơ in trong tập
Đầu súng trăng treo . Với cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ thơ cô đọng hám súc , cô đọng , bài thơ ca ngợi tình đồng chí
đồng đội của những ngời lính trong những năm kháng chiến chống Pháp .
Mở đầu bài thơ , là lời tâm sự của những ngời lính về nguồn gốc xuất thân của mình:
Quê hơng anh nớc mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Với hai thành ngữ nớc mặn đồng chua và đất cày lên sỏi đá đã khái quát đợc quê hơng của những ngời
lính. Họ ở hai miền quê khác nhau: một ngời ở mảnh đất vùng cao , còn một ngời ở vùng đồng chiêm trũng. Nhng cả
hai đều là những nơi nghèo khó, có cuộc sống lam lũ vất vả. Và trong gian khổ ấy họ nh gặp chính mình, cùng chia sẻ
và gần gũi nhau hơn:
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Những hình ảnh thơ chân thực giản dị Súng bên súng và Đầu sát bên đầu đã thể hiện đợc những tình
cảm cao đẹp của ngời lính bên nhau. Theo tiếng gọi của Tổ Quốc, họ lên đờng và trở thành quen nhau cùng chung
chí hớng ,chung nhiệm vụ và chung cả những khó khăn gian khổ, hiểu nhau nh hiểu chính mình. Và từ đó hai tiếng
Đồng chí đã vang lên. Đồng chí! Tình cảm bình dị mà thiêng liêng cao quí. Là nơi hội tụ của những trái tim , những
trí óc, nụ cời của những con ngời giàu lòng yêu nớc. Đồng chí- từ giai cấp mà lên, từ lí tởng mà có, từ lẽ sống mà
thành. Nó thấm đợm bao tâm tình để lại trong tâm hồn mỗi ngời một vẻ đẹp của tình ngời đợc hình thành qua những
thử thách gian nan.
Đất nớc còn trong cảnh đau thơng đớ gót giày xâm lợc . Những ngời lính phải xa quê hơng lên đờng chiến đấu
với kẻ thù. Họ đến với cuộc chiến bằng cả một tinh thần tự nguyện, với một thái độ dứt khoát, đầy quyết tâm:
Ruộng nơng anh gửu bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nớc gốc đa nhớ ngời ra lính
Hình ảnh ẩn dụ Giếng nớc gốc đa cùng biện pháp tu từ nhân hoá nhớ ngời ra lính đã gửi gắm tâm tình
của ngời hậu phơng với ngời ra trận. Đó là tình cảm vấn vơng , niềm thơng nhớ khôn dễ gì nguôi của những chàng trai


lần đầu đi vào quân ngũ. Và phải chăng chính tình yêu nỗi nhớ ấy sẽ là điểm tựa tinh thần cho ngời lính có thêm quyết
tâm chiến đấu chống kẻ thù?
Từ những cảm xúc sâu sắc về tình đồng chí, nhà thơ tiếp tục đa ta đến với hiện thực gian khổ của cuộc chiến
đấu mà ngời lính phải trải qua:
áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cời buốt gí
Chân không giày
Những hình ảnh sóng đôi đã thể hiện sự kề vai sát cánh, gian khổ có nhau của ngời lính nơi chiến trờng.
Những gian khổ mà họ phải trải qua cũng chính là những thiếu thốn của cách mạng lúc bấy giờ. Họ lại còn phải trải
qua những trận sốt rét rừng quái ác. Song điều đáng ngợi ca là họ vẫn luôn bên nhau, cùng vợt qua những gian nan vất
vả:
Miệng cời buốt gía
Thơng nhau tay nắm lấy bàn tay
Trong cái giá rét ốm đau vẫn ánh lên nụ cời đầy lạc quan tin tớng. Và trong gian khổ những ngời lính vẫn
đoàn kết bên nhau. Những Nụ cời trong giá buốt, những cử chỉ thơng nhau tay nắm lấy bàn tau áy chính là niềm
tin , tình yêu , là tinh thần đoàn kết một lòng của ngời lính. Và phải chăng chính những biểu hiện cao đẹp về đời sống
tinh thần ấy sẽ là nguồn động lực , là niềm tin giúp họ chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.
Bài thơ khép lại với những câu thơ khắc hoạ chân dung của ngời lính , giản dị mà vô cùng cao đẹp:
Đêm nay rừng hoang sơng muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Trong hoàn cảnh của núi rừng hoang vắng, những ngời lính ấy vẫn bên nhau chẳng thấy đau thơng, chỉ thấy
một phát hiện đầy thú vị bất ngờ Đầu súng trăng treo một hình ảnh vừa nh thực vừa nh ảo đầy chất thơ. Súng

1


và trăng tợng trng cho chất chiến sĩ và tâm hồn nghệ sĩ. Súng và trăng tợng trng cho cuộc chiến đấu để bảo vệ hoà
bình. ánh trăng lửng lơ trên đầu súng hay cuộc chiến đấu của dân tộc ta là cuộc chiến chính nghĩa , bảo vệ bầu trời

bình yên cho Tổ quốc Việt Nam?
Có thể nói với cảm xúc thực của một ngời lính nhà thơ đã ca ngợi tình cảm cao đẹp của những anh bộ đội cụ
Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp.Bài thơ là một bức tợng đài tuyệt đẹp về ngời lính, ở họ luôn toả sáng một tình
cảm chân thực mà cao quí thiêng liêng tình đồng chí đồng đội. Tình cảm ấy sẽ là mạch nguồn chảy mãi trong mỗi
thế hệ Việt Nam.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Phạm Tiến Duật.

Phạm Tiến Duật là một nhà thơ đồng thời cũng từng là ngời lính hoạt đông trên tuyến đờng Trờng Sơn . Ông
là cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. Thơ ông tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ với giọng thơ sôi nổi , trẻ trung , hồn nhiên tinh nghịch. Trong số đó phải kể đến bài thơ Bài
thơ về tiểu đội xe không kính đợc sáng tác năm 1969 in trong tập Vầng trăng quầng lửa. Bài thơ ca ngợi t thế hiên
ngang , tinh thần lạc qua dũng cảm , bất chập khó khăn gian khổ và ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam của những
ngời lính lái xe trên tuyến đờng Trờng Sơn thời chống Mĩ.
Mở đầu bài thơ nhà thơ giới thiệu với chúng ta về một hiện tợng thật độc đáo mà cũng rất thực, rất phổ bin
trong cuộc chiến khốc liệt lúc bấy giờ:
Không có kính không phải vì xe không có kính.
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Điệp từ không và từ bom đợc lặp đi lặp lại trong hai câu thơ là cách lí giải rất tự nhiên , rất giản đơn của
ngời lính về một hiện tợng không bình thờng xe không kính. Những chiếc xe do bom đạn của quân thù tàn phá đã
trở thành thô sơ trần trụi.Và điều đó càng chứng tỏ sự nguy hiểm và khốc liệt của cuộc chiến lúc bấy giờ.
Song điều đáng ngợi ca là từ trong sự hiểm nguy ấy những ngời lính lái xe vẫn ung dung , lạc quan tiến về
phía trớc với một t thế hiên ngang thoải mái:
Ung dung buồng lái ta ngồi.
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
Từ láy ung dung và điệp từ nhìn đã thể hiện thái độ thản nhiên bình tĩnh của các anh trên những chiếc xe
không kính. Phải chăng chính trong sự mất mát đó đã cho các anh có đợc cái nhìn thoải mái hơn? Và phải chăng chỉ
có các anh thế hệ thanh niên của thời đại mới , những ngời có trái tim yêu nớc mới có đợc thái độ tự tin và phong
thái ung dung lạc quan đến vậy!
Ngồi trên những chiếc xe không kính đang tiến về Nam, những ngời lính với tâm hồn nhạy cảm đã hớng ra bên
ngoài thả hồn hoà cùng thiên nhiên, cảm nhận đợc mọi khó khăn gian khổ nơi núi rừng:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đờng chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Nh sa nh ùa vào buồng lái
Những cảm giác của ngời lính đợc nhà thơ miêu tả rất chân thực mà ý nghĩa. Biết bao những hình ảnh thiên
nhiên đợc nhắc đến trong thơ gió, con đờng , sao trời, cánh chim... cùng vời nghệ thuật nhân hoá gió vào xoa mắt
đắng đã làm cho con ngời và thiên nhiên trở nên gần gũi gắn bó, càng chứng tỏ tâm hồn lãng mạn yêu đời của ng ời
lính lái xe. Hình ảnh con đờng chạy thẳng vào tim ngoài ý nghĩa tả thực còn gợi sự liên tởng về con đờng cách
mạng đang chảy trong trái tim giàu nhiệt huyết của các anh, thể hiện ý chí quyết tâm của các anh tiến về phía trớc
giải phóng Miền Nam thống nhất nớc nhà.
Gian khổ cứ tiếp nối gian khổ, khó khăn cứ chồng chất khó khăn, những ngời lính vẫn hiên ngang tiến về phía trớc:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng nh ngời già
..., ...
Không có kính ừ thì ớt áo
Ma tuôn ma xối nh ngoài trời
Tiếng ừ vang lên giữa những dòng thơ cùng với nghệ thuật nhân hoá nh ngời già nh ngoài trời chính là
bản lĩnh vững vàng, là nghị lực phi thờng vợt qua mọi khó khăn của ngời lính .Trớc sự nghiệp cứu nớc cao cả vinh
quang thì mọi gian khổ đó cũng chỉ là chuyện vặt . Có lẽ vì thế mà họ luôn cất lên những nụ c ời sảng khoái, họ còn
bắt tay nhau truyền cho nhau hơi ấm của tình đồng đội gắn bó keo sơn:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội

2


Gặp bạn bè suốt dọc đờng đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Chính từ trong bom rơihọ đã đến bên nhau tạo nên sức mạnh. Và cũng chính từ cửa kính vỡ rồi ấy mà
tình cảm họ dành cho nhau tự nhiên và thoải mái hơn. Cái cử chỉ bắt tay rất tự nhiên ấy đã tạo nên sức mạnh- sức

mạnh của tình đoàn kết yêu thơng cùng quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Tình cảm ấy còn đợc khẳng định
nh tình anh em ruột thịt:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đờng xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.
Những hình ảnh thơ chân thực , gân gũi mà đẹp đẽ bếp, võng, bát đũa, gia đình... Đẹp về tình cảm về
cách nhìn cách nghĩ của những ngời lính với nhau. Bao khăng khít nghĩa tình họ dành cho nhau đều đợc toả sáng từ
những hình ảnh đó . Để rồi chính gia đình ấy đã tiếp thêm cho các anh nghị lực niềm tin khi nhìn về phía trớc thấy
trời xanh nh mở rộng thêm ra . Hình ảnh Trời xanh thêm là một hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Trời xanh ấy là hoà bình
độc lập đang đến gần, là thắng lợi đang đợi các anh ở phía trớc. Niềm tin chiến thắng luôn dạt dào chảy trong trái tim
yêu nớc của các anh.
Kết thúc bài thơ, hình ảnh những chiếc xe không kính một lần nữa lại đợc nhắc lại nh một điệp khúc của sự
hiểm nguy để từ đó khẳng định một tình yêu cao đẹp:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xớc
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trớc
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Điệp từ không đợc lặp lại 3 lần trong thơ cùng với những hình ảnh chân thực đợc nhắc đến kính, đèn,
mui,thùng... để khẳng định sự mất mát do bom đạn quân thù. Những chiếc xe mang trên mình đầy vết thơng của
chiến tranh mà vẫn hiên ngang ra trận với một sức mạnh phi thờng. Mặc cho bom rơi đạn nổ, mặc cho khó khăn cứ
chồng chất ,những ngời chiến sĩ vẫn tiến về phía trớc theo tiếng gọi của Miền nam. Bởi trong họ luôn toả sáng một trái
tim yêu nớc. Hình ảnh trái tim là hình ảnh hoán dụ độc đáo đã hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những chiến
sĩ vận tải Trờng Sơn- những ngời lính của thời đại mới với một quyết tâm:
Xẻ dọc Trờng Sơn đi cứu nớc
Mà lòng phơi phới dậy tơng lai
Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật là một bài thơ tiêu biểu cho chất giọng trẻ
trung sôi nổi cho chất lính đợc bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mĩ mà chính
nhà thơ đã sống , đã trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh, sự linh hoạt của nhạc điệu , bài
thơ đã khắc hoạ, tôn vinh vẻ đẹp, phẩm giá con ngời , ngời chiến sĩ cua thời đại mới. Tất cả những thành công về nội

dung và nghệ thuật ấy đã đem đến thành công cho bài thơ này.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lng mẹ- Nguyễn khoa Điềm.

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến
chống Mĩ. Thơ ông thờng thể hiện những cảm xúc dồn nén, giàu chất suy t . Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn
trên lng mẹ là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Bài thơ đợc sáng tác năm 1971 in trong tập Đất và khát
vọng . Bài thơ là khúc hát yêu thơng , khúc ca đầy khát vọng của ngời mẹ Tà ôi trong những năm kháng chiến chống
Mĩ cứu nớc.
Bài thơ đợc mở đầu bằng điệp khúc nh tiếng gọi yêu thơng của nhà thơ với em bé đang ngủ ngon trên lng
mẹ:
Em Cu- tai ngủ trên lng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lng mẹ
Điệp khúc của lời thơ ấy đợc lặp đi lặp lại 3 lần trong toàn bài thơ tạo nên một giọng điệu trữ tình đặc sắc nh
một lời nhắn nhủ, là cử chỉ yêu thơng của nhà thơ vỗ về em bé ,để từ đó gợi cho em về hình ảnh ng ời mẹ vừa địu em
trên lng vừa tham gia sản xuất:
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lng đa nôi và tim hát thành lời

3


Công việc mẹ làm vất vả nhng thật ý nghĩa Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội. Tình cảm của mẹ không chỉ dành
cho con mà còn dành cho những ngời chiến sĩ đang tham gia chiến đấu. Những hình ảnh mồ hôi, má, vai ,lng , tim
vừa có ý nghĩa tả thực vừa là hình ảnh hoán dụ độc đáo tợng trng cho tấm lòng của mẹ dành cho con. Từng cử chỉ ,
mỗi động tác mẹ làm đã trở thành nhịp điệu ru con đa con vào giấc ngủ. Những giọt mồ hôi, hay nhịp đập từ trái tim
mẹ đã toả hơi ấm cho con . Và con đã ngủ ngon theo từng cử chỉ ấy . Và phải chăng tình mẫu tử thiêng liêng bền chặt
cũng đợc bắt nguồn từ đó? Và điều kì diệu là từ trên lng mẹ em xoa dịu những gian nan khó nhọc mà mẹ đang trải

qua.
Trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống tiếng hát yêu thơng con của ngời mẹ cứ đợc ngân lên và cũng từ đó hình
ảnh ngời mẹ đợc gợi lên cao đẹp hơn:
Ngủ ngoan a- kay ơi, ngủ ngoan a- kay hỡi
Mẹ thơng a- kay. mẹ thơng bộ đội
..., ...
Mẹ thơng a- kay. mẹ thơng làng đói
...,...
Mẹ thơng a- kay, mẹ thơng đất nớc
Điệp khúc yêu thơng cứ đều đặn đợc vang lên nh khẳng định tình mẫu tử đã trở thành qui luật. Song tình
cảm của mẹ thật đáng ngợi ca và cảm phục bởi tình yêu thơng con luôn đợc mẹ đặt chung với tình yêu buôn làng,đất
nớc. Và đó cũng chính là tình cảm cao đẹp luôn truyền chảy trong tâm hồn ngời phụ nữ Việt Nam.
Từ tiếng hát yêu thơng , bài thơ còn gửi gắm những khát vọng của mẹ về tơng lai cuộc sống của con cùng tơng lai cuộc sống cho dân tộc đồng bào:
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lng
Không gian bao la của núi rừng Thừa Thiên nh đợc mở ra với ánh sáng của mặt trời chiếu tỏ. Sự sống của
cỏ cây , của hạt bắp nhờ ánh sáng của mặt trời ấy mà đơm hoa kết trái. Còn cuộc đời của mẹ đợc thắp sáng bởi mặt
trời là con. Hình ảnh Mặt trời thứ hai là hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Con cũng giống nh mặt trời, con là tia sáng vĩnh
hằng trong cuộc đời mẹ. Con là sự sống niềm vui, là tơng lai hi vọng của mẹ trong cuộc đời. Mẹ chịu bao gian lao vất
vả nhng mẹ luôn hi vọng vào tơng lai và cuộc sống của con. Mẹ luôn mong cho con khôn lớn thành ngời. Cuộc đời
con sẽ nh mặt trời luôn toả sáng. Thế mới biết ớc mơ của mẹ gửi gắm vào con lớn lao biết nhờng nào. Và phải chăng
mẹ có thể vợt qua mọi gian nan vất vả bởi trong mẹ luôn nuôi hi vọng vào cuộc sống của con?
Song ớc mơ của mẹ đợc nhân lên bội phần khi ớc mơ ấy đợc mẹ đặt chung với ớc mơ cho dân tộc đồng
bào:
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân
..., ,,,
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mời Ka li
..., ...

Con mơ cho mẹ đợc thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn thành ngời tự do
Điệp khúc con mơ cho mẹ đợc lặp đi lặp lại hay chính là ớc mong tha thiết cho con lớn khôn để góp
phần xây dựng cuộc sống ! Những hình ảnh Hạt gạo trắng ngần, hạt bắp lên đều hay chính là mong ớc của mẹ cho
dân làng không còn nghèo đói? Sức khoẻ của con vung chày lún sân , phát mời Ka- li hay khát vọng của mẹ về
sự lớn mạnh của con ngời quê hong trong cuộc sống? Và còn ý nghĩa thiêng liêng hơn khi mẹ ớc đợc thấy Bác Hồ.
Bởi đợc gặp Bác là Bắc - Nam đợc thống nhất, mà đất nớc thống nhất là đân tộc đồng bào không còn bóng quân xâm
lợc thoả lòng Bác mong , nớc non này ngàn năm vững bền. Ngời mẹ ấy đã nói hộ niềm mong ớc của toàn thể nhân
dân, của muôn triệu trái tim yêu nớc Việt Nam đang ngày đêm mong chiến thắng kẻ thù.
Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lng mẹ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một sáng tác nghệ
thuật độc đáo. Cả bài thơ là lời ru yêu thơng của nhà thơ hoà cùng lời ru của mẹ. Âm điệu của lời thơ ngọt ngào chan
chứa, giọng thơ trìu mến thiết tha . Hình ảnh thơ vừa chân thực , cụ thể vừa có ý nghĩa khái quát giàu cảm xúc. Bài thơ
là một sáng tac trữ tình có sự kết hợp của nhiều yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm. Tất cả đã góp phần làm nên sự độc
đáo cho bài thơ giàu tình yêu thơng này.
Hình ảnh ng ời mẹ trong Khúc hát ru những em bé lớn trên l ng mẹ Nguyễn Khoa Điềm

4


Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lng mẹ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khắc hoạ
thành công hình ảnh ngời mẹ dân tộc Tà Ôi- một ngời mẹ vừa có tình yêu thơng con vừa có tình yêu bộ đội ,
yêu buôn làng và yêu đất n ớc. Trong cuộc sống lao động vất vả , mẹ luôn phải địu con trên lng đi làm nơng rẫy. Và
tiếng hát yêu thơng con từ trong hoàn cảnh ấy cứ đợc ngân lên. Mẹ thơng a- cay mẹ thơng bộ đội: mẹ thơng a-cay mẹ
thơng làng đói ; mẹ thơng a- cay mẹ thơng đất nớctình cảm của mẹ vừa thân thơng ấm áp vừa đẹp đẽ đáng ngợi
ca bởi tình yêu thơng con luôn đợc mẹ đặt với tình yêu dân tộc yêu đồng bào . Không những thế ngời mẹ ấy còn
là ngời có tinh thần kháng chiến . Hình ảnh ngời mẹ chuyến lán , đạp rừng, địu em đi để giành trận cuối là biểu
hiện của tinh thần bất khuất, kiên cờng là tình yêu nớc thiết tha . Sống trong hoàn cảnh vất vả khó khăn nhng ngời mẹ
Tà Ôi còn giàu những ớc mơ và khát vọng. Mẹ mong cho con Vung chày lún sân mẹ còn mong hạt bắp lên
đều và đợc thấy Bác Hồcho con đợc thành ngời tự do. Mọi ớc mơ khát vọng của mẹ đều cao đẹp bởi tình cảm
riêng cho con luôn đợc đặt trong tình cảm chung cho bản làng và cho dân tộc. Hình ảnh ngời mẹ với cuộc sống và

những vẻ đẹp tâm hồn trong bài thơ chính là vẻ đẹp của ngời phụ nữ Việt Nam: giàu tình yêu thơng con và cũng giàu
tình yêu đất nớc. Có thể nói với bài thơ Khúc hát ru Nguyễn khoa Điềm đã khắc hoạ thành công hình ảnh
ngời mẹ dân tộc yêu con yêu nớc thạt đáng ngợi ca.
Bếp lửa Bằng Việt

Nhà thơ Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trởng thành trong thời kì kháng chiến chốnh Mĩ . Thơ ông dung dị
nhẹ nhàng nhng hàm chứa những tình cảm rộng lớn , yêu thơng. Tiêu biểu cho hồn thơ ấy là bài thơ Bếp lửa sáng
tác năm 1963 khi nhà thơ đang còn là sinh viên du học ở nớc ngoài, đợc in trong tập Hơng cây Bếp lửa. Bài thơ
là dòng cảm xúc nhớ thơng của nhà thơ về kí ức tuổi thơ có hình ảnh Bếp lửa gần gũi gắn bó với ngời bà tần tảo đầy
yêu thơng.
Bài thơ đựơc mở đầu bằng bằng dòng cảm xúc nhớ thơng của nhà thơ khi đi xa nhớ về quê hơng, về hình
ảnh bếp lửa thân quen bình dị:
Một bếp lửa chờn vớn sơng sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đợm
Cháu thơng bà biết mấy nắng ma
Điệp ngữ Một bếp lửa mở đầu bài thơ cùng giọng điệu sâu lắng thiết tha nh điệp khúc của dòng chảy tâm hồn
gợi nhớ về kỉ niệm. Bếp lửa ấy cứ ẩn hiện trong khôn gian chờn vờn sơng sớm và vợt qua thời gian sởi ấm tâm
hồn tác giả ,đánh thức tình cảm thân thơng của quá khứ và cứ thế,tình bà cháu thiêng liêng ấm áp bỗng hiện về:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chi nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Những kỉ niệm tuổi thơ đã đa nhà thơ trở về với quả khứ đau thơng của toàn dân tộc. Quá khứ ấy có bóng đen
ghê rợn của nạn đói năm 45 Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ . Có cả cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi . Bao gian khổ đau thơng đè nặng lên làng xóm quê hơng và chính nhà thơ
cũng phải sống trong cảnh đời cơ cực.. Nghĩ mà thơng một tuổi thơ gian khó, một tuổi thơ lớn lên bên bếp lửa , bên
mùi khói quê hơng . Để mỗi lần nhớ lại thấy cay cay nơi sống mũi, thức dậy trong tâm hồn tình nghĩa quê h ơng , tình
bà cháu năm nào:
Tám năn ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu ba còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Trong dòng cảm xúc nhớ thơng ,âm thanh của tiếng chim tu hú đã vọng về . Tiếng tu hú kêu hay tiếng của quê
hơng , của hơi ấm tình thơng đang thức dậy trong lòng nhà thơ để cháu nhớ về bà với tất cả sự tảo tần chăm lo cho
cháu, bà dạy cháu làm, chăm cháu học . Bà chính là hiện hữu của bao vất vả lo toan, bà là ng ời phụ nữ đảm đang
kiên cờng giàu đức hi sinh chịu đựng .
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Háng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Mày có viết th chớ kể này kể nọ
Đỡ đần ba dựng lại túp lều tranh
Cứ bảo nhà vẫn đợc bình yên
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh

5


Điệp từ cháy đợc sử dụng trong câu thơ đầu đã gợi lên những mất mát đau thơng của xóm làng quê hơng và của
hai bà cháu do bom đạn quân thù gay nên. Song tè trong gian khổ , tình làng nghĩa xóm, tình đoàn kết yêu thơng của
con ngời đợc thể hiện Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh. Và cũng từ tong gian khổ ấy đã hiện lên những phẩm chất
cao đẹp của bà. Đó chính là sự quan tam lo lắng cho ngời con đang công tác chiến khu. Lời dặn của bà với cháu nh
muốn củng cố thêm niềm tin , tiếp thêm nghị lực và quyết tâm cho ngời đang chiến đấu . Bà sẵn sàng chịu đựng mọi
gian khổhi sinh cho ngời con luôn vững lòng ngoài mặt trận. Bà chính là hậu phơng lớn, vững chắc quan tâm lo lắng
cho tiền phơng. Tình cảm cao đẹp của bà chính là biểu hiện của tình yêu quê hơng đất nớc.Vẻ đẹp trong tam hồn bà
chính là vẻ đẹp của ngòi phụ nữ Việt Nam: yêu con yêu nớc và giàu đức hi sinh.
Những kỉ niệm của quá khứ nh mạch nguồn chảy mãi trong tâm hồn nhà thơ. Và cứ thế lời thơ nh lời kể tâm
tình của ngời cháu về những kỉ niệm cùng bà:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Hai khoảng thời gian sớm- chiều cứ lặp đi lặp lại cùng với ngọn lửa hồng đợc thắp lên dới bàn tay tảo tần của
bà. Bà là ngời nh thế, cả cuộc đời bên bếp lửa , nhóm lửa mà nuôi lớn tâm hồn cháu. Một cuộc đời bền bỉ dẻo dai ấy
đã khiến cháu không khỏi có sự liên tởng độc đáo về hình ảnh Bếp lửa là bà. Ngọn lửa ấy không chỉ luôn ủ sẵn
hơi ấm của tình yêu thơng , của đức hi sinh mà còn chứa niềm tin vào tơng lai cho con cho cháu, cho đất nớc thanh
bình.
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đợm
Nhóm niềm yêu thơng khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Điệp từ nhóm đợc lặp lại 4 lần trong thơ nh nhịp nhấn trong tâm hồn nhà thơ khi nhớ về bà. Từ hành động
nhóm bếp lửa mỗi sớm mỗi chiều ấy đã thức dậy trong cháu mọi hơng vị ngọt ngào của quê hơng . Những hình ảnh
quen thuộc của quê nhà khoai sắn, nồi xôi gạo mới thuở nào trào dâng trong lòng cháu để cháu thấy ấm áp, thân th ơng . Hơng thơm của nồi xôi gạo mới hay hơng vị ngọt ngào của quê hơng của tình yêu thơng đang thức dậy trong
tâm hồn? Để rồi trong niềm cảm xúc trào dâng , cháu đã cất lên tiếng nói từ trái tim mình:
Ôi kì lạ và thiêng liêng- Bếp lửa!
Hình ảnh Bếp lửa vẫn đợc hiện hữu bên bà đã trở thành biểu tợng thiêng liêng cho tình bà ấm áp. Đó là hình
ảnh ẩn dụ độc đáo, giàu ý nghĩa. Bếp lửa ấy không chỉ cho cháu cơm lo áo ấm, cho cháu đợc sởi ấm vào mỗi sớm mai,
mà cao đẹp hơn, Bếp lửa ấy còn cho cháu niềm tin, tình yêu thơng, sởi ấm tâm hồn cháu bằng hơi ấm của tình bà
để từ đó cho cháu một tơng lai tốt đẹp . Và nh thế, bà không chỉ là ngời nhóm lửa mà bà còn là ngời giữ lửa, ngời
truyền lửa, truyền niềm tin nghị lực cho cháu để cháu đợc khôn lớn thành ngời.
Bài thơ khép lại với cuộc sống sung túc của cháu ở thời hiện tại:
Giờ cháu đã di xa có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả
Nhng vẫn chẳng thể nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên cha?
Điệp từ Trăm lặp lại trong thơ là lời khẳng định về cuộc sống đầy đủ với bao niềm hạnh phúc. Thế nhng
những kỉ niệm về tình bà cháu thì vẫn luôn sống mãi trong tâm hồn, là sợi dây tâm tình nhắc nhở cho ng ời cháu xa
quê hơng luôn nhớ đến bà. Tình cảm thân thơng bền chặt ấy chính là biểu hiện của tình yêu quê hơng , yêu xóm làng
thân thuộc, là tình yêu đất nớc của mỗi ngời Việt nam.

Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt là sự kết hợp hài hoà giữa phơng thứ tự sự và trữ tình hoà quyện. Bài thơ còn
có nhiều yếu tố miêu tả, nghị luận xuất hiện giúp cho cảm xúc của nhà thơ trở nên chân thành sâu sắc. Giọng thơ
trong trẻo nhẹ nhàng mà tha thiết , ấm nồng. Hình ảnh Bếp lửa- ngời bà là một sáng tạo độc đáo vừa là điểm tựa
khơi gợi kỉ niệm của nhà thơ vừa là hình ảnh toả sáng chủ đề của tác phẩm. Tất cả đã góp phần thể hiện sâu sắc tấm
lòng thành kính biết ơn chân thành của nhà thơ với gia đình, và với quê hơng đất nớc.
Đoàn thuyền đánh cá- Huy Cận
Huy Cận từng là nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ Mới. Từ sau cách mạng tháng tám, nhờ ánh sáng cách mạng , hồn
thơ Huy Cận đã thực sự nảy nở và dạt dào niềm tin yêu cuộc sống mới. Năm 1958 trong chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ
Quảng Ninh , với cảm hứng về thiên nhiên đất nớc và niềm vui trớc cuộc sống mới, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã ra đời ,
đợc in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng. Bài thơ là bức tranh thiên nhiên tráng lệ, là cảnh lao động trên biển hăng say của

6


những ngời dân chài trên vùng biển Quảng Ninh , là bài ca lao động của những ngời lao động trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Miền Bắc.
Bài thơ đợc mở đầu với cảnh biển khi hoàng hôn xuống cùng khí thế lao động của đoàn thuyền trớc một ngày lao động sắp
bắt đầu:
Mặt trời xuống biển nh hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Ngày sắp tàn, màn đêm sắp đến, cả vũ trụ đang chuyển dần vào trạng thái nghỉ ngơi. Những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc
của biển đợc nhà thơ miêu tả qua nghệ thuật so sánh và nhân hoá Nh hòn lửa Sóng cà then Đêm sập cửa thật độc đáo.
Thiên nhiên nh đang hoà cùng nhịp sống của con ngời ở đó vũ trụ là một ngôi nhà lớn , màn đêm là tấm lới khổng lồ và những lợn sóng là then cửa. Sự liên tửơng của nhà thơ thật thú vị, làm cho cảnh và ngời nh đang chung một nhịp sống gắn bó quyện hoà.
Trong khoảng thiên nhiên ấy, con ngời cùng đoàn thuyền bắt đầu rời bến:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền ra khơi với tiếng hát căng trào phơi phới. Những hình ảnh đoàn thuyền, câu hát, cánh buồm, gió khơi đang
hoà vào nhau làm nên khí thế của đoàn thuyền. Con ngời và thiên nhiên cùng hăng say phơi phới . Tiếng hát cùng với sức gió
làm ăng cánh buồm đẩy con thuyền về phía trớc hay chính là khí thế của cả một tập thể ngời trớc một ngày lao động mới? Tiếng
hát ấy chính là niềm vui niềm lạc quan là tinh thần của ngời lao động.

Đứng trớc biển khơi bao la, tiếng hát của con ngời vẫn tiếp tục cất lên vừa lãng mạn bay bổng, vừa là niềm mong mỏi thu đợc những mẻ cá đầy:
Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông nh đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lới ta đoàn cá ơi
Bằng nghệ thuật so sánh cá thu biển đông nh đoàn thoi nhà thơ muốn ca ngợi sự phong phú đẹp đẽ của biển. Loài cá thu
ấy, chúng giống nh những con thoi đang vun vút lại qua dệt lên một tấm lới khổng lồ là biển khơi vô tận. Trớc sự giàu đẹp ấy ,
con ngời không khỏi vui mừng cất lên tiếng gọi Đến dệt lới ta đoàn cá ơi! . Đó chính là niềm mong ớc, là khát khao đánh đợc
những mẻ cá đầy.
Giữa không gian ba la của biển trời, cảm hứng của nhà thơ về thiên nhiên, về con ngời cứ trào dâng để từ đó có những liên
tởng thú vị và đẹp đẽ:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lớt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lới vây giăng
Hình ảnh thơ đẹp đẽ, kì vĩ tráng lệ thuyền, gió, trăng, mây cao, biển bằng cùng hành động ra đậu dặm xa và đà đan
thế trận của con ngời đã nâng tầm vóc của con ngời và đoàn thuyền lên cao hoà nhập cùng vũ trụ. Con thuyền giữa biển khơi
không hề lẻ loi mà có gió làm bánh lái, có trăng làm cánh buồm đang cùng con ngời hăng say làm việc. Sự liên tởng của nhà thơ
thật thú vị, và nh thế thiên nhiên với cuộc sống, con ngời với biển khơi càng trở nên gần gũi gắn bó thân thiêt hơn.
Với khí thế hăng say lao động , con ngời đã chinh phục đợc biển khơi, thu đợc nhiều thắng lợi, đó là những mẻ cá đầy:
Cá nhụ , cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở: sao lùa nớc Hạ Long
Bằng nghệ thuật liệt kê, nhân hoá những tính từ miêu tả giàu màu sắc, nhà thơ một lần nữa ca ngợi sự phong phú và giàu có
của các loài cá . Trong ánh sáng lung linh huyền ảo của trăng hay trong con mắt nhìn rất thơ của tác giả mà thế giới các loài cá
hiện lên thật rực rỡ huy hoàng. Chúng nh những ánh đuốc rực sáng trong màn đêm hay chính là niềm vui niềm phấn khởi của
con ngời khi thắng lợi? Hình ảnh nhân hoá Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé càng chứng tỏ sự yêu quí trân trọng của con ng ời trớc những sản phẩm do chính tay họ làm ra. Và trong cảm hứng rất thơ ấy, nhà thơ nh nghe thấy nhịp thở của màn đêm đang
hoà cùng niềm vui của con ngời qua nghệ thuật nhân hoá Đêm thở sao lùa nớc Hạ Long. Màn đêm , ánh sao và làn nớc vốn
cách xa nhau là thế bỗng trở nên gần gũi đến bên nhau cùng con ngời dệt lên một bức tranh muôn màu rực rỡ. Phải là ngời có

tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống , có tâm hồn lãng mạn phong phú lắm, nhà thơ mới có những liên tởng bất ngờ và thú vị đến
vậy.
Giữa không gian bao la của biển trời, tiếng hát của con ngời chính là niềm lạc quan , là tình yêu lao động:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Biển cho ta cá nh lòng mẹ
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Nuôi lớn đời ta tự buổi n
Ngời dân đi biển lớn lên là nhờ cá. Cuộc đời họ gắn liền với muối mặn của biển khơi, nên với họ biển nh ngời mẹ bao dung nhân
từ cho họ những mẻ cá đầy. Nghệ thuật so sánh Biển cho ta cá nh lòng mẹ là thể hiện thái độ biết ơn của ngời dân chài với
biển đã cho họ cuộc sống.Biển là ngời mẹ thứ hai giàu có mà cũg rất bao dung cho họ niềm vui, niềm tin yêu trong cuộc hành
trình lao động.
Rồi màn đêm cũng tàn, con ngời cung sắp kết thúc một ngày lao động. Và thắng lợi sau mỗi chuyến ra khơi là những
khoang thuyền đầy cá:
Sao mờ kéo lới kịp trời sáng
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông

7


Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Lới xếp buồm lên đón nắng hồng
Hành động kéo xoăn tay chùm cá nặng chính là kết quả lao động của con ngời sau một ngày làm việc. Từng chùm cá
chính là những chùm thắng lợi của con ngời sau một đêm trinh phục biển khơi. Và trong ánh bình minh hay trong niềm hân hoan
vui sớng mà những con cá có vẩy bạc đuôi vàng ?Những tính từ chỉ màu sắc bạc , vàng, hồng vừa làm tôn vẻ đẹp của thiên
nhiên, vừa là niềm vui trong ánh mắt hân hoan của con ngời lao động.
Bài thơ đợc kết thúc với cảnh trở về của đoàn thuyền khi một ngày mới đợc bắt đầu:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi

Vãn tiếng hát hăng say, vẫn khí thế hào hùng nh lúc mới bắt đầu, con ngời và đoàn thuyền trở về với mniềm vui thắng
lợi. Không chút mệt mỏi, con ngời lại chạy đua với thời gian đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời , họ quí trọng thời gian tranh
thủ thời gian để lao động để cống hiến. Với cách nói khoa trơng hình ảnh nhân hoá, một lần nữa nhà thơ muốn khẳng định niềm
vui chiến thắng của ngời lao động trong cuộc sống mới.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận mang một âm hởng hào hùng khoẻ khắn . Giọng thơ sôi nổi , nhịp thơ
khẩn trơng nh khí thế của con ngời lao động. Hình ảnh thơ đẹp đẽ kì vĩ. Bài thơ là sự kết hợp hài hoà giữa cảm hứng về thiên
nhiên và đất nớc, giữa vũ trụ và con ngời. Tất cả đã vẽ nên một bức tranh đẹp, một khúc ca hùng tráng về cuộc sống của ngời lao
động. Bài thơ đợc coi là sáng tác tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận sau năm 1945- một phong cách đầy niềm tin và tình yêu
cuộc sống.
Đoạn văn về hình ảnh cánh buồm trong hai đoạn thơ:
Cánh buồm giơng to nh mảnh hồn làng Và Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Rớn thân trắng bao la thâu góp gió
Lớt giữa mây cao với biển bằng
Cả hai đoạn thơ đều là sự cảm nhận của hai nhà thơ về hình ảnh Cánh buồn - con thuyền gắn với cuộc sống lao
động của những ngời dân chài khi ra khơi đánh cá. Chúng ta gặp trong hai câu thơ:
Cánh buồm giơng to nh mảnh hồn làng
Rớn thân trắng bao la thâu góp gió của nhà thơ Tế Hanh hình ảnh cánh buồm là hình ảnh
vừa có ý nghĩa so sánh vừa là hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Gửi trong cánh buồn ấy là hình ảnh con ngời quê hơng ra khơi, nó to
lớn đẹp đẽ và thiêng liêng nh mảnh hồn làng bởi nó là linh hồn là sức sống là niềm hi vọng của ngời dân làng chài . Còn ta
gặp trong hai câu thơ:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lớt giữa mây cao với biển bằng là hình ảnh ẩn dụ. Cánh buồm ấy đẹp đẽ thơ mộng đang hoà
trong trời đất bao la. Giữa không gian bao la của biển trời, con thuyền không hề lẻ loi mà có gió làm bánh lái và có trăng làm
cánh buồm. ánh trăng sáng lung linh chiếu vào cánh buồm toả sáng cả không gian, và có lẽ Buồm trăng trong thơ là nh thế!
Cái nhìn rất thơ của nhà thơ khiến con thuyền trở nên đẹp đẽ , và con ngời cũng thấy yêu đời hơn. Có thể nói tuy là hai nhà thơ
cảm nhận về hình ảnh cánh buồm gắn với cuộc sống của ng ời dân chài trong hai hoàn cảnh sống khác nhau nh ng chúng
ta đều cảm nhận đợc trong cảm xúc của cả hai nhà thơ là sự gắn bó yêu mến công việc và cuộc sống của ng ời dân chài, là
niềm vui và tự hào trớc sự cần cù, dũng cảm , trớc tinh thần lao động hăng say của ngời lao động .
ánh trăng. Nguyễn Duy


Nhà thơ Nguyễn Duy là một cây bút tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. Thơ ông dung dị nhẹ nhàng
nhng lại chứa đựng những bài học triết lí sâu xa. Bài thơ ánh trăng là một bài thơ tiêu biểu , đ ợc sáng tác năm 1978
in trong tập thơ cùng tên của tác giả. Bài thơ nh một lời tự nhắc về những năm tháng gian lao của cuộc đời ngời lính
gắn bó với thiên nhiên đất nớc từ đó gợi nhắc con ngời thái độ sống uống nớc nhớ nguồn ân nghĩa thuỷ chung
cùng quá khứ.
Bài thơ đợc mở đầu bằng những dòng cảm xúc của nhà thơ về những kỉ niệm của quá khứ ngọt ngào:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
Hai khoảng thời gian trong cuộc đời của con ngời đợc gợi lên trong thơ hồi nhỏ hồi chiến tranh. Nghệ
thuật liệt kê đồng, sông , bể đã gợi về những năm tháng tuổi thơ đẹp đẽ của nhà thơ với đầy ắp những kỉ niệm chan
hoà với thiên nhiên và có ánh trăng làm bạn. Đến lúc trởng thành, ánh trăng tuổi thơ lại theo dấu chân anh đến nơi
chiến trờng đầy bom đạn, chia sẻ cùng anh những gian nan khó nhọc, xoa dịu những vết thơng do bom đạn quân thù.
Và khi ấy với anh ,vầng trăng thành tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa. Có thể nói trong quá khứ của cuộc đời anh vầng
trăng đã soi tỏ từng ngõ ngách mỗi chặng đờng đời, hiểu anh và anh cũng thế, coi trăng nh ngời bạn không thể rời xa.
Rồi khi chiến tranh kết thúc, ngời lính trở về hậu phơng, sống nơi phồn hoa đô thị có cuộc sống sung túc giàu
sang. Một lận nữa vầng trăng lại xuất hiện, còn anh với trăng khi ấy là gì:
Từ ngày về thành phố

8


quen ánh điện cửa gơng
vầng trăng đi qua ngõ
nh ngời dng qua đờng
Cuộc sống của anh nơi phồn hoa có ánh điện, cửa gơng với bao điều tốt đẹp. Nhng thái độ của anh với trăng lại
hờ hững thờ ơ. Nghệ thuật nhân hoá nh ngời dng qua đờng đã nói lên điều đó. Phải chăng anh chính là con ngời
bội bạc? Và có lẽ anh sẽ không kịp nhận ra mình nếu nh trong cuộc sống của anh không có những biến đổi bất thờng
xảy ra:

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn- đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng rtăng tròn
Từ một hiện tợng bình thờng vẫn xảy ra trong cuộc sống của con ngời mất điện mà nhà thơ đã nói hộ biết bao
nghịch cảnh vẫn xảy ra trong cuộc sống của con ngời. Và khi rơi vào hoàn cảnh ấy, con ngời thờng có những hành
động cầu cứu, giải thoát. Ba động từ mạnh vội, bật , tung là hành động của anh khi ấy. Và điều gì đã đến với anh?
Đột ngột vầng trăng tròn từ láy biểu cảm đột ngột đã nói lên cảm xúc của anh, là sự bàng hoàng bối rối khi
nhìn thấy vầng trăng tròn vàng thắm của quá khứ năm nào đang đến bên anh , đem ánh sáng chiếu vào căn phòng tối
om và chiếu cả lên khuôn mặt đang ngửa lên nhìn trời nhìn trăng của anh nữa.
Lẽ thờng , trong phút bối rối ấy con ngời thờng có những hành động lảng tránh. Còn anh, dù đã từng vô tình lãng
quên trăng .Nhng anh đã đối diện với trăng, anh nhìn trăng nh gặp lại quá khứ năm nào:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cài gì rng rng
nh là đồng là bể
nh là sông là rừng
Cái cảm xúc rng rng ấy hay chính là sự day dứt hối hận về thái độ của anh trong những ngày đã qua? Có lẽ
lúc này khoé mắt anh đang ngấn lệ- những giọt lệ của ự sám hối , của nỗi niềm ân hận. Và chính trong t thế ngửa
mặt lên nhìn mặt ấy ánh trăng một lần nữa đã soi tỏ trong anh những kỉ niệm ngày nào. Nghệ thuật so sánh, liệt kê
đợc sử dụng độc đáo trong thơ nh là đồng là bể; nh là sông là rừng đã gợi nhắc về những tháng ngày của anh có
trăng làm bạn .Đó là những năm tháng tuổi thơ đẹp đẽ hay những tháng ngày anh phải sống gian khổ nơi núi rừng. Tất
cả đều có vầng trăng kia soi tỏ. ánh trăng in dấu mọi nẻo đờng trong cuộc sống của anh Vậy mà anh lỡ vô tình lãng
quên, để rồi lúc này anh tự thấy dằn vặt về hành động của mình. Anh đúng là một ngời dũng cảm, bởi anh đã dám
nhận ra những sai lầm và kịp thời sửa chữa những lỗi lầm do chính anh đã gây ra.
Bài thơ đợc kết thúc bằng hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa ẩn dụ độc đáo:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi ngời vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Những câu thơ gửi gắm bao niềm tâm sự của con ngời với trăng, Còn ánh trăng vẫn thế cứ tròn vành vạnh

không hề sứt mẻ, không hề đổi thay. Trăng vẫn đến bên anh , nhìm anh bằng con mắt trong trẻo, soi tỏ tâm hồn anh
bằng thứ ánh sáng dịu hiền. Trăng im phăng phắc không hề trách mắng cho dù anh đã có lúc lãng quên trăng. ánh
trăng ấy chính là quá khứ nghĩa tình trong cuộc đời của con ngời. Hai từ lấy tợng hình và tợng thanh vành vạnh,
phăng phắc giàu sắc thái biểu cảm thể hiện thái độ của bao dung độ lợng, lòng vị tha của quá khứ trớc những lỗi lầm
của con ngời. Và phải chăng chính sự bao dung độ lợng, chính sự im lặng không nói của trăng ấy cũng đủ giúp con
ngời tự nhận ra sai lầm của mình Đủ cho ta giật mình , đủ đánh thức tâm hồn con ngời khi họ có những biểu hiện
của sự bội bạc lãng quên.
Lời tâm sự trong thơ dờng nh không còn chỉ là của riêng nhà thơ nữa ,mà còn có ý nghĩa gợi nhắc vói bao ngời.
Bởi trong cuộc đời, ai chẳng có những lúc vô tình hay cố ý mà vội quên đi những gì là tốt đẹp của quá khứ đã quanhất là quá khứ nhọc nhằn gian khổ. Nhng điều đáng quí là sự thức tỉnh trong tâm hồn, , là thái độ nhận ra những sai
lầm đó để kịp thời sửa chữa từ đó có thái độ sống ân nghĩa thuỷ chung Uống n ớc nhớ nguồn. Đó cũng chính là bức
thông điệp mà nhà văn muốn gửi tới mỗi bạn đọc chúng ta
Bài thơ đợc sáng tác theo thể ngũ ngôn, giọng thơ nhẹ nhàng mà sâu sắc, giống nh một lời tâm sự về kỉ niệm
trong cuộc đời con ngời. Hình ảnh thơ đẹp đẽ mang ý nghĩa ẩn dụ độc đáo. Đọc bài thơ ánh trăng của Nguyễn
Duy,chúng ta có dịp đợc một lần đối diện với chính mình, có dịp suy nghĩ và nhận ra những việc mình đã làm để từ
đó hớng tâm hồn mình tới những điều tốt đẹp. Và nh thế ánh trăng của Nguyễn Duy đợc coi là một bài thơ giàu ý
nghĩa, ý nghĩa con ngời và ý nghĩa tình đời sâu sắc.

9


Nói với con- Y Phơng.

Y Phơng là một nhà thơ dân tộc Tày. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật , mạnh mẽ , trong sáng, cách t duy
hình ảnh của con ngời Miền Núi. Trong số đó phải kể đến bài thơ Nói với con một bài thơ tiêu biểu cho phong cách
thơ ấy. Với cảm xúc trữ tình sâu lắng, mợn lời ngời cha tâm sự với con, nhà thơ muốn gửi tới mỗi con ngời về cội
nguồn sinh dỡng, về sức sống bề bỉ mạnh mẽ của quê hơng để từ đó thêm yêu quí bản làng dân tộc.
Bài thơ đợc mở đầu bằng lời tâm tình của ngời cha với con trong một không khí gia đình hạnh phúc:
Chân phải bớc tới cha
Chân trái bớc tới mẹ
Một bớc chạm tiếng nói

Hai bớc tới tiếng cời
Những hình ảnh chân thực gần gũi chân phải, chân trái, một bớc, hai bớc đã miêu tả hành động tập đi của
con trẻ trong không khí một gia đình ngập tràn hạnh phúc. Mỗi bớc con đi, mỗi lời con nói đều trong vòng tay yêu thơng, sự nâng đỡ chở che của cha mẹ. Tuổi thơ của con lớn lên từ niềm hạnh phúc yêu thơng từ sự chăm lo của gia đình
là nh thế. Và cha mẹ luôn mong mỏi luôn hi vọng trong mỗi bớc trởng thành của con
Nhng điều ngời cha muốn nói với con còn nhiều hơn thế. Đó là mảnh đất quê hơng nghĩa tình chung thuỷ đã
dang rộng vòng tay che chở con từ khi con cất tiếng khóc chào đời:
Ngời đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đờng cho những tấm lòng
Cách nói ngời đồng mình nghe nhẹ nhàng gần gũi và giàu tình cảm tựa nh lời tâm tình cha muốn truyền
cho con về những ngời cùng sống chung một mảnh đất nơi vùng cao gian khổ nhọc nhằn. Hình ảnh đan lờ, vách
nhà chính là công việc và cuộc sống của họ, một cuộc sống còn nhiều gian khó. Nhng họ vẫn quấn quýt yêu thơng
vẫn lạc quan yêu đời và yêu lao động cài nan hoa, ken câu hát. Tiếng hát của con ngời quê hơng đợc cất lên từ gian
nan vất vả cũng là tiếng hát yêu đời mà cha muốn truyền cho con. Còn thiên nhiên thì cho tuổi thơ con những hoa
thơm trái ngọt, con đờng gập ghềnh nâng bớc chân con đi. Quê hơng đối với tuổi thơ của con là nh thế đấy! Con hãy
biết yêu quí trân trọng mảnh đất nghĩa tình đã nuôi lớn tâm hồn con cũng nh nuôi lớn bao con ngời.
Trong lời tâm sự của ngời cha với con về quê hơng , hình ảnh con ngời quê hơng đợc gợi lên với những phẩm
chất rất đáng tự hào:
Ngời đồng mình thơng lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống nh sôn nh suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Điệp ngữ ngời đồng mình đợc lặp đi lặp lại trong thơ với những cảm xúc khi vui khi buồn khi tự hào sâu

sắc. Giọng điệu câu thơ ngời đồng mình thơng lắm con ơi tựa nh một nỗi nghẹn ngào đầy xúc động . Đó là cảm
xúc yêu thơng trớc nỗi vất vả cực nhọc của con ngời quê hơng. Biện pháp nghệ thuật so sánh nh sông nh suối cách
sử dụng thành ngữ lên thác xuống ghềnh cùng các hình ảnh cao đo nỗi buồn sống trên đá gập ghềnh sống
trong thung nghèo đói đã nói lên cuộc sống vất vả lam lũ khó nhọc của con ngời quê hơng . Nơi họ sống vách đá treo
leo , đất cắn sỏi đá. Đói khổ lam lũ là tất cả những gì mà con ngời quê hơng phải đối diện. Cha tâm sự với con về
những cảnh đời cơ cực ấy để con hiểu, con cảm thơng và hãy trân trọng mảnh đất này. Bởi quê hơng ấy tuy nghèo về
vật chất nhng lại rất giàu về tình cảm, sống tình nghĩa yêu thơng , sống đầy ý chí niềm tin và nghị lực:
Ngời đồng mình tự đục đá kê cao quê hơng
Còn quê hơng thì làm phong tục
Nơi quê hơng đất cằn sỏi đá , thăm thẳm vực sâu nhng ngời dân quê hơng luôn cần cù chịu khó. Họ quyết tâm
bằng bàn tay khối óc xây dựng mảnh đất này cho quê hơng ngày thêm đổi mới làm nên những phong tục và truyền
thống tốt đẹp đáng tự hào. Ngời đồng mình là nh thế đấy! Giản dị thô sơ mà niềm tin và nghị lực thật phi thờng đáng
trân trọng biết bao!

10


Bài thơ đợc khép lại bằng một lời nhắn nhủ cho con khi con lên đờng xây dựng cuộc sống mới:
Con ơ tuy thô sơ da thịt
Lên đờng
Không bao giờ nhỏ bé đợc
Nghe con
Giọng tâm tình của ngời cha càng về cuối càng trở nên sâu lắng, đó là tình cảm thơng yêu , sự quan tâm mong
mỏi của ngời cha trớc tơng lai cuộc sốngcủa con. Lời cha nhắc nhở con không bao giờ nhỏ bé đợc là ớc muốn con
phải biết ngẩng cao đầu , biết tự hào về những gì mà quê hơng đã cho và đã nuôi con khôn lớn. Con hãy biết lấy quê
hơng làm niềm tin là sức mạnh giúp con tới mọi phơng trời .
Có thể nói lời ngời cha trong thơ cũng chính là lời của nhà thơ và của quê hơng tới mỗi ngời trong cuộc sống.
Ai trong cuộc đời chẳng có một quê hơng, và quê hơng với bất kì ai cũng là cội nguồn gốc rễ, là nơi sinh ra ta và nuôi
dớng ta khôn lớn thành ngời. Vậy mỗi ngời hãy biết nhớ, biết yêu, biết tự hào về bản làng dân tộc, hãy biết trân trọng
những gì là truyền thống tôt đẹp của quê hơng , và hãy biết sống có nghĩa tình chung thuỷ. Đó là đạo lí ngàn đời của

dân tộc Việt nam!
Bài thơ Nói với con của Y Phơng là sự kết hợp hài hoà của các yếu tố trữ tình, tự sự miêu tả. Giọng thơ
tâm tình tha thiết, nhẹ nhàng mà sâu lắng trong tâm hồn . Hình ảnh thơ giản dị mà hàm súc, giàu ý nghĩa. Bài thơ sử
dụng nhiều điệp khúc ngời đồng mình vừa có ý nghĩa nhấn mạnh cuộc sống và vẻ đẹp của con ngời quê hơng vừa
thể hiện tình cảm gắn bó yêu thơng của nhà thơ với ngời dân Miền Núi. Bài thơ giúp ta hiểu thêm sức sống và vẻ đẹp
tâm hồn của một dân tộc vùng cao từ đó gợi nhắc trong ta tình cảm gấn bó với quê h ơng với cội nguồn dân tộc và có
ý chí vơn lên trong cuộc sống tơng lai.
Con cò- Chế Lan Viên

Chế Lan Viên là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Thơ ông mang một phong
cách nghệ thuật độc đáo- phong cách suy tởng triết lí đậm chất trí tuệ và tính hiện đại. Bài thơ Con cò là một trong
những sáng tác tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật ấy. Bài thơ đợc sáng tác năm 1962 in trong tập Hoa ngày thờng
chim báo bão. Từ việc khai thác hình tợng con cò trong ca dao , bài thơ thể hiện những cảm xúc, những suy tởng sâu
xa của nhà thơ về tình mẹ và ý nghĩa của lời hát ru đối với mỗi con ngời.
Bài thơ đợc mở đầu bằng cảnh tợng của ngời mẹ ru con với những lời hát ru quen thuộc:
Con còn bế trên tay
Nhng trong lời mẹ hát
Con cha biết con cò
Có cánh cò đang bay.
Âm điệu của lời hát ru cứ nhẹ nhàng ngân lên tha thiết. Nhà thơ không trực tiếp dẫn lời mẹ ru con nh ng với
cảnh tợng : mẹ bế con trên tay cất tiếng hát có cánh cò trắng bay la bay lả, cũng đủ để ta hiểu ngời mẹ ấy đang hát
lên những tiếng hát ru con. Và trong tiếng hát ầu ơ của mẹ hình ảnh con cò trong ca dao dân ca cứ lần lợt hiện về:
Con cò bay la
Con cò ăn đêm
Con cò bay lả
Con cò xa tổ
Con cò cổng phủ
Cò gặp cành mền
Con cò Đồng Đăng
Cò sợ sáo măng

Hàng loạt hình ảnh con cò trong những bài ca dao xa đã đến với tuổi thơ con từ trong lời ru của mẹ. Với trẻ thơ
khi còn bế trên tay thì đâu hiểu đợc ý nghĩa của những bài ca dao ấy? Đâu hiểu đợc những vất vả nhọc nhằn của
cuộc sống mà cò phải trải qua? Nhng nhịp điệu ngân nga trầm bổng trong lời ru và những cử chỉ vỗ về âu yếm của
mẹ đã thấm vào tâm hồn con theo những bài ca dao ấy để con cảm nhận đợc tình mẹ chở che, tình yêu thơng đợc toả
ra từ trái tim của mẹ. Và phải chăng với tuổi thơ con , mẹ trở nên gần gũi gắn bó là nh thế ? Và cũng rất ngẫu nhiên
những làn điệu ngọt ngào của ca dao dân ca đã đến với tâm hồn con ngay từ khi còn ở trong nôi , hay từ khi vừa cất
tiếng khóc chào đời.
Từ trong vòng tay yêu thơng của mẹ, tuổi thơ con ngày một lớn khôn lên:
Ngủ yêu! Ngủ yên! Cò ơi chớ sợ!
Con cha biết con cò con vạc
Cành có mền mẹ đã sẵn tay nâng
Con cha biết những cành mền mẹ hát
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân
Với những câu thơ cảm thán Ngủ yên! đợc lặp đi lặp lại tạo nên nhịp điệu đều đặn của lời thơ cũng giống nh
cử chỉ vỗ về nhẹ nhàng của mẹ đa con vào giấc ngủ. Tuổi ấu thơ của con đợc êm đềm hạnh phúc, giấc ngủ của con
yên bình chẳng phân vân là vì con có mẹ. Mẹ nâng niu chăm sóc con, mẹ sẵn sàng che chở cho con. Tình mẫu tử
thiêng liêng , tấm lòng yêu thơng của mẹ luôn toả sáng bên con mỗi chặng đờng đời:
Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Rồi cò vào trong tổ
Cho cò trắng đến làm quen
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ

11


Cò đứng ở quanh nôi
Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi
Điệp ngữ Ngủ yên! một lần nữa lại đợc lặp lại nh muốn khẳng định tấm lòng của mẹ đang âu yếm vỗ về
con.Và hình ảnh con cò lúc này đã bay ra từ những bài ca dao và trở nên thân thiết gần gũi , gắn bó với cuộc đời con
Cò đứng quanh nôi. Cò vào trong tổ cò muốn hoà hợp cùng ớc mơ khát vọng đẹp đẽ của con. Cò ấy chính là mẹmột hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa. Và mẹ sẽ bên con, nâng đỡ con trong mỗi bớc đờng đời :

Mai khôn lớn con theo cò đi học
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân
Trớc hiên nhà và trong hơi mát câu văn
Những hình ảnh thơ Theo gót đôi chân và bay hoài không nghỉ vừa diễn tả đợc hành động cụ thể vừa khái quát
đợc tình mẹ đối với cuộc đời con. Đó là sự bền bỉ dẻo dai, sự quan tâm lo lắng , là những hành động dõi theo từng bớc
đờng trởng thành trong cuộc đời con. Mẹ đối với con là nh thế! Bởi con là niềm tin, là cuộc sống và cũng là niềm hạnh
phúc trong cuộc đời của mẹ . Và mẹ cũng trở thành nguồn cảm hứng sáng tác trong những vần thơ của con, là niềm
tin là nghị lực cho con trong cuộc sống.
Càng về cuối bài thơ, nhịp thơ càng ngắn và dồn dập hẳn lên. Và nh thế ý nghĩa biểu tợng của hình ảnh con cò
càng đợc nhấn mạnh:
Dù ở gần con
Cò sẽ tìm con
Dù ở xa con
Cò mãi yêu con
Lên rừng xuống bể
Điệp ngữ Dù ở đợc lặp lại cùng những hình ảnh đối lập gần- xa và thành ngữ lên rừng xuống bể , nghệ
thuật ẩn dụ trong thơ đã gợi lên bao hoàn cảnh trắc trở khó khăn, sự cách biệt về thời gian và không gian của tình
mẫu tử. Và cũng chính trong hoàn cảnh khó khăn ấy đã khẳng định đợc sức mạnh kiên cờng của mẹ. Mẹ sẵn sàng vợt
qua bao chông gai trắc trở của cuộc sống để đến bên con , để dành cho con tình yêu thơng thiết tha nhất. Từ tấm lòng
yêu thơng bất diệt của mẹ , nhà thơ đã khái quát lên một qui luật về tình mẫu tử muôn đời:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con
Câu thơ có ý nghĩa giống nh một triết lí bền vững , là lời khẳng định của nhà thơ về tình mẫu tử thứ tình cảm
thiêng liêng bền chặt nhất trong cuộc đời của mỗi con ngời. Ai trong cuộc đời chẳng có mẹ sinh ra! Và cuộc đời của
mỗi ngời con sẽ hạnh phúc khi đợc mẹ nâng niu vỗ về chăm sóc. Mẹ sinh ra ta nuôi dỡng ta khôn lớn trởng thành. Cả
cuộc đời mẹ là sự hi sinh cho cuộc sống và hạnh phúc của con. Sự hi sinh cao đẹp ấy của mẹ mỗi ngời con nên hiểu.
Có nh thế tình mẫu tử mới thêm giàu ý nghĩa và càng đợc khẳng định là thứ tình cảm đẹp đẽ, bền vững nhất trong
cuộc sống này.
Bài thơ đợc kết thúc bằng một lời đúc kết của nhà thơ về ý nghĩa của lời hát ru :

à ơi!
Một con cò thôi
Ngủ đi! Ngủ đi!
Con cò mẹ hát
Cho cánh cò cánh vạc
Cũng là cuộc đời
Cho cả sắc trời
Vỗ cánh qua nôi
Đến hát quanh nôi
Nhịp điệu của lời ru lại đợc ngân lên qua tiếng hát à ơi và qua cử chỉ vỗ về Ngủ đi! của mẹ. Chỉ với những
câu hát ru và những bài ca dao có cánh cò quen thuộc đã nuôi lớn tâm hồn con. Tuổi thơ của mỗi ngời con đều đợc
lớn khôn từ những lời hát ru ấy, Và theo lời ru ,cả làn điệu ngọt ngào của ca dao dân ca, cả thế giới bao la của cuộc
sống này đã đến với tâm hồn con để con thêm khôn lớn thành ngời. Phải chăng ý nghĩa của lời hát ru với mỗi con ngời là nh thế !
Bài thơ Con cò của nhà thơ Chế Lan Viên đã thực sự đi vào lòng ngời bởi nhà thơ đã vận dụng sáng tạo ca
dao dân ca vào những vần thơ hiện đại . Giọng điệu bài thơ giàu chất suy tởng, cùng với những câu thơ giàu tính triết
lí nh những nốt nhấn trong tâm hồn mỗi con ngời về tình mẫu tử và ý nghĩa của những lời ru. Hình tợng Con cò là
một hình tợng nghệ thuật có ý nghĩa ẩn dụ độc đáo, là biểu tợng đẹp đẽ của tình mẹ thơng con. Có thể nói nhà thơ
Chế Lan Viên với bài thơ Con cò đã thực sự để lại ấn tợng sâu đậm trong tâm hồn mỗi chúng ta bởi ý nghĩa nhân
văn khơi gợi trong lòng ngời thứ tình cảm thiêng liêng cao qúi- tình mẫu tử bền vững đến muôn đời.
Tóm tắt Truyện Kiều của nguyễn Du:

Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm bằng chữ Nôm gồm 3254 câu thơ lục bát dựa theo cốt
truyện Kim Vân Kiều truyệncủa nhà văn Trung Quốc. Truyện kể về nhân vật Thuý Kiều một ng ời con gái tài
sắc vẹn toàn nhng cuộc đời lại nhiều bất hạnh truân chuyên. Vì gia đình nàng bị vu oan nên nàng đã phải bán mình để
lấy tiền cứu cha và em. Nàng bị rơi vào tay Mã Giám Sinh, bị vào lầu xanh của mụ Tú Bà và bị chúng ép phải tiếp
khách làng chơi. Nàng đã tự tử nhng không chết. Nàng bị giam lỏng ở lầu Ngng Bích, bị Sở khanh lừa, bị Tú Bà đánh

12



đập... ở đây, Kiều gặp Thúc Sinh, đợc Thúc Sinh chuộc về làm vợ lẽ. Làm vợ Thúc Sinh, Kiều bị Hoạn Th vợ Thúc
Sinh đánh ghen, buộc nàng phải bỏ trốn vào chùa của s Giác Duyên. Kiều lại rơi vào tay của Bạc Bà, Bạc Hạnh, và bị
chúng bán vào lầu xanh ở Châu Thai. ở đây nàng đã gặp ngời anh hùng Từ Hải . Từ Hải đã cới nàng về làm vợ, giúp
nàng báo ân báo oán. Nhng rồi Kiều lại bị mắc lừa Hồ Tôn Hiến và Từ Hải đã bị hắn giết chết. Kiều bị hắn làm nhục,
bắt đánh đàn hầu rợu hắn rồi bị hắn gả cho viên thổ quan. Đau khổ vả nhục nhã, Kiều đã nhảy sông Tiền Đờng tự tử.
Nàng lại đợc s Giác Duyên cứu, và sau đó Kim Trọng tìm đến đón nàng về đoàn tụ với gia đình.
Đoạn thơ:

Ngày xuân con én đa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mơi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa ( có sử dụng yếu tố miêu tả)
Đoạn thơ trên trích trong văn bản Cảnh ngày xuân thuộc Truyện Kiều của Nguyễn Du. Trong đoạn thơ ,
nhà thơ đã sử dụng thành công nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên qua các biện pháp tu từ so sánh, đảo ngữ để
miêu tả bức tranh mùa xuân trong sáng nên thơ và tràn đầy sức sống. Bức tranh ấy có thiều quang, cỏ non, chân
trời, cành lê, bông hoalà những cảnh sắc thiên nhiên đẹp đẽ tơi non và đầy sức sống. Hai hình ảnh thơ con én đa
thoi và thiều quang là hai hình ảnh thiên nhiên tợng trng cho thời gian và không gian của mùa xuân. Thời gian ấy
nhanh nh con én đa thoi đã vào cuối xuân. Trong không gian đẹp đẽ của ánh bình minh, cảnh sắc mùa xuân đẹp đẽ
đã hiện lên. Có thảm cỏ xanh mợt trải rộng tận chân trời, có cành lê nở vài bông hoa trắng bừng sáng cả không
gian. Nghệ thuật đảo trật tự cú pháp trong câu thơ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa nhà thơ đã khéo léo
đa tính từ trắng lên tr ớc động từ điểm giống nh một điểm nhấn về màu sắc trong sáng tinh khôi và trong
trẻo của cảnh sắc thiên nhiên. Rõ ràng bức tranh thiên nhiên mùa xuân của Nguyễn Du không rực rỡ sắc màu, mà
chỉ có hai gam màu xanh , trắng nhng cũng đủ gợi trong tâm hồn ngời đọc một không gian vừa khoáng đạt vừa
trong sáng nên thơ , một cảnh sắc xanh tơi mơn mởn đầy sức sống . Tài năng tả cảnh của Nguyễn Du là nh thế , cảnh
đẹp cũng là bởi tình yêu thiên nhiên, bởi sự tinh tế trong tâm hồn của nhà thơ với mùa xuân của quê hơng là rất đẹp.
Đoạn thơ

:
Thanh minh tronh tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh

Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe nh nớc áo quần nh nêm
Đoan thơ trên đợc trích trong văn bản Cảnh ngày xuân thuộc Truyện Kiều của Nguyễn Du. Trong
đoạn thơ , nhà thơ đã sử dụng bút pháp tả cảnh thiên nhiên qua các biện pháp tu từ ản dụ so sánh và các từ
ngữ Hán Việt để miêu tả không khí của lễ hội mùa xuân- một lễ hội truyền thống của dân tộc. Hệ thống các từ ghép
Hán Việt thanh minh, tảo mộ, đạp thanh, yến anh, tài tử , giai nhân, bộ hành đ ợc sử dụng phong phú
trong thơ vừa diễn tả khung cảnh lễ hội , vừa gợi lên hình ảnh con ng ời đang tham gia trong lễ hội ấy . Trong
khung cảnh mùa xuân xanh tơi đầy sức sống là những hoạt động tảo mộ và vui chơi đạp thanh của con ngời .
Trong đó có các tài tử , giai nhân - những trai tài gái sắc và có cả chị em Thuý Kiều . Nghệ thuật ẩn dụ qua
hình ảnh yến anh chính là những trai tài gái sắc ấy. Họ nh chim yến chim oanh cứ ríu ra ríu rít. Phải chăng
chính sự xuất hiện của họ làm cho bức tranh mùa xuân thêm phong phú sinh động và hấp dẫn hẳn lên? Biện
pháp tu từ so sánh đợc sử dụng liên tiếp trong câu thơ ngựa xe nh nớc áo quần nh nêm diễn tả sự đông vui
tấp nập của con ngời tham gia lê hội. Ngời ngời nối đuôi nhau nh dòng chảy không ngừng và đông nh nêm cối... Có
thể nói chỉ với 6 câu thơ với bút pháp tả cảnh thiên nhiên tài tình , Nguyễn Du đã giới thiệu với chúng ta về lễ hội
truyền thống của dân tộc , qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên và niềm cảm xúc tự hào của nhà thơ về truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Đoạn thơ:

Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bớc lần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nớc uốn quanh

13


Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang

Đoạn thơ trên đợc trích trong văn bản Cảnh ngày xuân thuộc Truyện Kiều của nguyễn Du. Trong
đoạn thơ , nhà thơ đã sử dụng thành công bút pháp tả cảnh thiên nhiên qua các từ láy gợi hình biểu cảm để
miêu tả khung cảnh ngày xuân vào buổi chiều tà và tâm trạng của con ng ời ra về trong cảnh hoàng hôn ấy.
Nếu ta gặp một bức tranh xuân trong sáng khoáng đạt và nên thơ trong 4 câu thơ đầu thì cảnh lúc hoàng hôn nh thu
nhỏ nhạt dần và mang đầy tâm trạng. Các từ láy tà tà, thơ thẩn,thanh thanh, nao nao, nho nhỏ vừa có ý nghĩa
tả cảnh vừa miêu tả tâm trạng của con ng ời. Cảnh đẹp nhng buồn và lòng ngời cũng thơ thẩn nh lu luyến
không muốn chia tay.Trớc một ngày xuân sắp tàn, chị em Thuý Kiều ra về mà lòng đầy vơng vấn. Một thoáng buồn
bâng khuâng , một nỗi niềm tiếc nuối vì ngày hội vui đã sắp qua đi. Và nỗi buồn ấy của con ng ời cũng nh thấm vào
cảnh vật . Và nỗi buồn của Kiều đợc Nguyễn Du miêu tả trong thơ không chỉ là nỗi buồn của con ngời với cảnh mà
nhà thơ còn muốn dự báo về một nỗi buồn khác sắp đến với nàng. Đó là nỗi buồn khi nàng gặp nấm mồ vô chủ Đạm
Tiên, và nàng gặp chàng Kim để rồi nảy sinh mối tình đầu đầy dang dở. Có thể nói chỉ với 6 câu thơ với các từ láy
gợi hình biểu cảm, Nguyễn Du vừa giới thiệu với chúng ta về cảnh sắc thiên nhiên, vừa gợi tả tâm trạng con ng ời. Tài năng tả cảnh thiên nhiên của Nguyễn Du là ở đó, tả cảnh thiên nhiên cũng là gợi tả về tâm trạng con ng ời. Bởi Ngời buồn cảnh có vui đâu bao giờ .
Đoạn thơ : Tởng ngời dới nguyệt chén đồng
Xót ngời tựa cửa hôm mai
Tin sơng luống những dày trong mai chờ
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Sân Lai biết mấy nắng ma
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Có khi gốc tử đã vừa ngời ôm
Đoạn thơ trên đợc trích trong văn bản Kiều ở lầu Ngng Bích thuộc Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Trong đoạn thơ nhà thơ đã sử dụng thành công các thành ngữ, những điển tích, và hình ảnh ẩn dụ để miêu tả
tâm trạng buồn nhớ ngời yêu và nhớ cha mẹ của nàng Kiều khi đang bị giam lỏng ở lầu Ng ng Bích. Nhớ Kim
Trọng , nàng nhớ tới những kỉ niệm với chàng, nhớ cảnh 2 ngời cùng uống rợu hẹn ớc dới đêm trăng. Nàng thơng
chàng Kim vẫn ngày đêm tởng nhớ tới nàngkhông biết nàng đang lu lạc nơi chân trời góc bể. Hai thành ngữ Dới
nguyệt chén đồng và bên trời góc bể diễn tả tâm trạng và tình cảnh đáng th ơng của Kiều. Nàng đang trong
cảnh ngộ cô đơn lẻ loi với một tơng lai mờ mịt thế mà nàng vẫn nhớ vẫn thơng cho ngời yêu. Hình ảnh ẩn dụ tấm
son trong câu hỏi tu hừ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai? khẳng định tấm lòng thuỷ chung son sắc của
nàng dành cho Kim Trọng. Tình cảm ấy theo năm tháng sẽ chẳng thể phai mờ. Còn với cha mẹ, là tình cảm xót thơng của ngời con hiếu thảo. Nàng thơng cha mẹ ngày đêm tựa cửa ngóng chờ tin con. Các điển tích, thành ngữ
quạt nồng ấp lạnh, Sân Lai, Gốc tử đ ợc nhà thơ sử dụng liên tiếp để diễn tả tâm trạng lo lắng của Kiều. Nàng

thơng cha mẹ đã về già mà không đợc nàng chăm sóc phụng dỡng, nàng buồn vì không đợc nh lão Lai tử làm trò cho
cha mẹ vui... Rõ ràng trong hoàn cảnh đau khổ buồn thơng của bản thân nhng Kiều vẫn luôn lo cho ngời khác, đó là
ngời có tấm lòng nhân ái vị tha. Có thể nói chỉ với 8 câu thơ Nguyễn Du đã giới thiệu cho chúng ta thêm một vẻ
đẹp trong nhân cách của nàng Kiều, đó là tấm lòng chung thuỷ hiếu nghĩa vẹn toàn.
Đoạn thơ: Buồn trông cửa bể chiều hôm
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trụng ngọn nớc mới sa
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Đoạn thơ trên đợc trích trong văn bản Kiều ở lầu Ngng Bích thuộc Truyện Kiều của Nguyễn Du. Trong đoạn
thơ nhà thơ đã sử dụng thành công bút pháp tả cảnh ngụ tình qua các biện pháp tu từ: điệp ngữ, ẩn dụ nhân hoá, và hệ
thống các từ láy gợi hình biểu cảm để diễn tả tâm trạng lo lắng sợ hãi buồn thơng của nàng Kiều. Cảnh trớc lầu Ngng
Bích mênh mông hoang vắng, một mình nàng ngồi ngắm cảnh mang nặng nỗi buồn thơng:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Hình ảnh cánh buồm đang lênh đênh nơi cửa bể chiều hôm gợi trong nàng nỗi nhớ quê h ơng tha thiết. Có lẽ
nhìn cánh buồm mà nàng đang mong chờ ai đó đến cứu nàng ra khỏi chốn này? Câu hỏi tu từ thuyền ai...? là nỗi
chờ mong mòn mỏi ấy của nàng. Cánh buồm ấy cứ thấp thoáng rồi xa xa để nàng dõi theo với một nỗi chờ mong
vô vọng.
Buồn trôn ngọn nớc mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

14


Vẫn là câu hỏi tu từ đợc sử dụng liên tiếp trong thơ Hoa trôi man mác biết là về đâu? để diễn tả nỗi buồn thơng
trống trải của Kiều. Nhìn cánh hoa đang trôi dập vùi trong ngọn nớc mà nàng cứ liên tởng đến tơng lai của cuộc đời

nàng. Cũng giống nh cánh hoa kia, tơng lai cuộc đời nàng rồi sẽ đi về đâu giữa chốn đời đang có nhiều cạm bẫy? Và
nhìn xa hơn nữa nơi chân mây mặt đất cũng đang bao phủ một sắc màu mờ nhạt, ảm đạm không rõ ràng:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Màu sắc úa tàn ràu ràucủa cỏ , sắc màu xanh xanh nhạt nhoà nơi châm mây mặt đất hay chính là tuổi
xuân đang héo hon tàn tạ theo năm tháng của nàng? Còn xung quanh nàng, cái âm thanh dữ dội của gió cuốn, sóng
kêu khiến nàng càng thấy sợ hãi:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Trong cái biển trời mênh mông dữ dội ấy, tiếng gió cuốn sóng kêu hay chính là phong ba bão táp của cuộc đời
đang muốn bủa vây muốn nhấn chìm nàng xuống lớp bùn nhơ của xã hội?
Có thể nói đoạn thơ là sự vận dụng thành công của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình độc đáo. Nhà thơ tả cảnh nh ng để
diễn tả tâm trạng con ngời . Cảnh vật thiên nhiên làm nền cho sự vận động nội tâm của nhân vật. Điệp ngữ Buồn
trông đợc lặp đi lặp lại 4 lần trong đoạn thơ giống nh điệp khúc của nỗi buồn thơng đang trào dâng trong lòng Kiều.
Nỗi buồn ấy đang xoáy sâu , đang xoắn chặt lấy tâm can nàng khiến nàng nhìn đâu cũng chỉ thấy cảnh phủ một màu
ảm đạm. Hệ thống các từ láy thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu ràu, xanh xanh... vừa có ý nghĩa tả cảnh vừa gợi tả
tâm trạng nhân vật. Những hình ảnh con thuyền, cánh buồn , cánh hoa, ngọn nớc, nội cỏ... vừa là cảnh sắc thiên
nhiên vừa có ý nghĩa ẩn dụ tợng trng cho thân phận đang trôi nổi của Kiều.
Từ đoạn trích ta hiểu thêm về cảnh ngộ và cuộc đời của nhân vật Thuý Kiều , và ta còn đ ợc thêm một lần hiểu về
tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du khi miêu tả tâm trạng nhân , đó là sự tinh tế qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Bởi
với nhà thơ:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Ngời buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Nghệ thuật tả ngời của Nguyễn Du qua hai đoạn trích Chị em Thuý Kiều và Mã Giám...

Hai đoạn trích Chị em Thuý Kiều và Mã Giám Sinh mua Kiều là hai đoạn tiêu biểu cho bút pháp
tả ngời của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Đến với đoạn trích Chị em Thuý Kiều bút pháp nghệ thuật tả
ngời của nhà thơ là nghệ thuật ớc lệ tợng trng- lấy hình ảnh thiên nhiên làm chuẩn mực để miêu tả vẻ đẹp của
con ngời. Nhà thơ đã mợn hình ảnh thiên nhiên trăng , ngài , hoa , ngọc , mây, tuyết để giới thiệu vẻ đẹp của Thuý
Vân- ngời con gái đoan trang, phúc hậu. Cùng với việc sử dụng hai động từ nhờng, thua Nguyễn Du còn dự báo về

tơng lai hạnh phúc của nàng. Và khi miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều, nhà thơ cũng mợn hình ảnh thiên nhiên thu
thuỷ, xuân sơn, hoa liễu và điển tích nghiêng nớc nghiêng thành để vẽ nên một chân dung Thuý Kiều- một tuyệt
sắc giai nhân, một tài danh tột đỉnh. Nàng đẹp lại đa tài mà chữ tài liền với chữ tai một vần nên Nguyễn Du còn dự
báo về tơng lai đầy trắc trở của cuộc đời nàng. Còn đến với đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều thì nghệ thuật
tả ngời của nhà thơ lại đợc thành công qua bút pháp tả thực . Khi tả chân dung, cách đi đứng nói năng của nhân
vật này nhà thơ đã sử dụng hệ thống các từ láy, và các động từ mạnh có ý nghĩa gợi hình biểu cảm nhẵn nhụi, bảnh
bao, lao xao, ngồi tót sỗ sàng... Từ đó vẽ lên một con ngời với ngoại hình đỏm dáng, kệch cỡm, một kẻ vô học, một
tên lu manh. Có thể nói, với những nhân vật mà Nguyễn Du yêu mến, trân trọng thì nhà thơ đã sử dụng nhôn
ngữ mĩ lệ để miêu tả. Còn với những nhân vật mà nhà thơ muốn phê phán thì ông lại dùng ngôn ngữ tả thực
để bóc trần bản chất tính cách. Tài năng nghệ thuật tả ng ời của Nguyễn Du thành công là nh thế,tả mà luôn dự
báo về tơng lai cuộc đời, và tính cách của nhân vật.

15



×