Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Giải Pháp Tăng Cường Hoạt Động Huy Động Vốn Của Sở Giao Dịch I - Ngân Hàng Công Thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (872.63 KB, 87 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến
mạnh mẽ, tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức, mức tăng trưởng
kinh tế trên 6,23%/năm. Để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và quá
trình hội nhập của đất nước, ngành Ngân hàng Việt Nam đã và đang chuyển
mình theo một xu hướng mới. Là một Ngân hàng có bề dày hoạt động, Ngân
hàng Công thương Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công và đang tiếp
tục đổi mới nhằm nâng cao hơn nữa vị thế của Ngân hàng trên cả nước cũng
như trong khu vực.
Hoạt động trên địa bàn Thủ đô, trung tâm văn hóa, chính trị của cả
nước, nơi hội tụ của nhiều doanh nghiệp lớn, nhiều tổ chức tài chính Ngân
hàng hoạt động, Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam có nhiều
cơ hội để phát triển song cũng phải đương đầu nhiều khó khăn thách thức. 20
năm hoạt động, khoảng thời gian chưa dài so với bề dày lịch sử của ngành,
nhưng cũng đủ để khẳng định rằng Sở giao dịch I tạo được dấu ấn đậm nét
bởi những thành quả to lớn đã đạt được và những đóng góp vào sự phát triển
của Ngân hàng Công thương Việt Nam, của kinh tế thủ đô và đất nước.
Những năm tới Sở giao dịch I sẽ phát triển hơn nữa để chuẩn bị cho mình
những tiền đề quan trọng bước vào hội nhập cùng thế giới.
Hiện nay trong hoạt động kinh doanh, các Ngân hàng luôn đòi hỏi phải
đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy, giải pháp để tăng cường nguồn vốn của Ngân
hàng thương mại nói chung được đặt ra rất bức thiết, góp phần vào thành
công của Ngân hàng. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác huy động
vốn, với những kiến thức đã học và qua thời gian thực tập tại Sở giao dich I Ngân hàng Công thươngViệt Nam, em xin chọn đề tài " Giải pháp tăng
cường hoạt động huy động vốn của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công
thương Việt Nam “


Nội dung chuyên đề thực tập gồm ba chương:
• Chương I: Lý luận chung về nghiệp vụ huy động vốn của Ngân hàng
thương mại.


• Chương II: Thực trạng huy động vốn của Sở giao dịch I – Ngân hàng
Công thương Việt Nam.


Chương III: Đề xuất, kiến nghị các giải pháp tăng cường huy động vốn
tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam.


NỘI DUNG
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Các vấn đề căn bản về Ngân hàng thương mại
1.1. Khái quát chung về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Theo luật của Quốc hội số 20/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004
về một sửa đổi bổ sung một số điều của luật các tổ chức Tín dụng, định nghĩa:
Ngân hàng thương mại loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan.
Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy
định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động Ngân
hàng.
Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ
Ngân hàng với nội dung tjhường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng tiền này
để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
1.1.2. Phân loại Ngân hàng thương mại
Thứ nhất, dựa vào hình thức sở hữu gồm:
• Ngân hàng thương mại nhà nước là ngân hàng thương mại do Nhà nước
đầu tư vốn, thành lập và tổ chức hoạt động kinh doanh, góp phần thực
hiện mục tiêu kinh tế của Nhà nước. Quản trị ngân hàng thương mại
Nhà nước là Hội đồng quản trị do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước bổ

nhiệm, miễn nhiệm sau khi có thỏa thuận với Ban tổ chức – cán bộ của
Chính phủ. Điều hành hoạt động của ngân hàng thương mại là Tổng
giám đốc. Giúp việc cho Tổng giám đốc có các phó tổng giám đốc, kế
toán trưởng và bộ máy chuyên môn nghiệp vụ.


• Ngân hàng thương mại cổ phần là ngân hàng thương mại được thành
lập dưới hình thức công ty cổ phần, trong đó có các doanh nghiệp Nhà
nước, tổ chức tín dụng, tổ chức khác, và cá nhân cùng góp vốn theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước.
• Ngân hàng liên doanh là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của
bên Việt Nam và bên nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Ngân
hàng liên doanh là một pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt
Nam, hoạt động theo giấy phép thành lập và theo các quy định liên
quan của pháp luật.
• Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng
nước ngoài, được ngân hàng nước ngoài đảm bảo chịu trách nhiệm đối
với mọi nghĩa vụ và cam kết của chi nhánh tại Việt Nam. Chi nhánh
ngân hàng nước ngoài có quyền và nghĩa vụ do pháp luật Việt Nam quy
định, hoạt động theo giấy phép mở chi nhánh và các quy định liên quan
của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, dựa vào chiến lược kinh doanh gồm:
• Ngân hàng bán buôn là ngân hàng chỉ giao dịch và cung ứng dịch vụ
cho đối tượng khách hàng công ty chứ không giao dịch với khách hàng
cá nhân. Đại đa số các chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài
như ABN-AMRO Bank, Deutsche Bank, The Chase Manhattan Bank,
… hoạt động theo loại hình này.
• Ngân hàng bán lẻ là loại ngân hàng giao dịch và cung ứng dịch vụ cho
đối tượng khách hàng cá nhân. Loại hình này thường thấy ở các ngân
hàng thương mại cổ phần nông thôn, chẳng hạn như Ngân hàng Mỹ

Xuyên (An Giang), Ngân hàng An Bình (TP.HCM).
• Ngân hàng vừa bán buôn vừa bán lẻ là loại ngân hàng giao dịch và
cung ứng dịch vụ cho cả khách hàng công ty lẫn khách hàng cá nhân.


Hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam đều thuộc loại hình ngân
hàng này.
Thứ ba, dựa vào quan hệ tổ chức gồm:
Dựa vào tiêu thức quan hệ tổ chức, có thể chia ngân hàng thương mại
thành ngân hàng hội sở, ngân hàng chi nhánh (cấp 1 và cấp 2) và phòng giao
dịch. Ngân hàng hội sở là nơi tập trung quyền lực cao nhất và là nơi cung cấp
đầy đủ hơn các dịch vụ ngân hàng trong khi ngân hàng chi nhánh và phòng
giao dịch nhỏ hơn và cung cấp không đầy đủ tất cả các giao dịch mà chỉ tập
trung vào các giao dịch cơ bản như huy động vốn, thanh toán và cho vay.
1.2. Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và
quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. Hoạt động này mang lại nguồn
vốn để Ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động khác như cấp tín dụng và
cung cấp các dịch vụ Ngân hàng cho khách hàng. Nhìn vào bảng cân đối tài
sản của Ngân hàng thương mại chúng ta thấy rằng nghiệp vụ huy động vốn
được phản ánh bên phần tài sản nợ. Do vậy, huy động vốn còn được gọi là
nghiệp vụ tài sản nợ.
Theo Nghị định 49/2000/NĐ – CP ngày 12/09/2000 của Chính phủ về
tổ chức và hoạt động của Ngân hàng thương mại nhằm cụ thể hóa việc thi
hành luật các tổ chức tín dụng, Ngân hàng thương mại được huy động vốn
dưới các hình thức sau đây:
• Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác
dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại
tiền gửi khác.



• Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy
động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
• Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của
tổ chức tín dụng nước ngoài.
• Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước
• Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước.
1.2.2. Hoạt động tín dụng
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới
các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo
lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước. Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng
và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
• Cho vay: Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay
vốn dưới các hình thức sau:
- Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, đời sống.
- Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
• Hoạt động bảo lãnh: Ngân hàng thương mại được bảo lãnh vay, bảo
lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các
hình thức bảo lãnh Ngân hàng khác bằng uy tín và bằng khả năng tài
chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với một


khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một Ngân hàng thương mại
không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của Ngân hàng thương mại.

• Hoạt động chiết khấu: Ngân hàng thương mại được chiết khấu thương
phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và
có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
• Hoạt động cho thuê tài chính: Ngân hàng thương mại được hoạt động
cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính
riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài
chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động
của công ty cho thuê tài chính.
1.2.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Để thực hiện các hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân qũy Ngân hàng
thương mại phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nơi Ngân
hàng thương mại đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt
buộc theo quy định. Ngoài ra, chi nhánh của Ngân hàng thương mại được mở
tài khoản tiền gửi tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi đặt
trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của Ngân
hàng thương mại bao gồm các hoạt động sau:
• Cung ứng các phương tiện thanh toán.
• Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
• Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
• Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước.


• Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước
cho phép.
• Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
• Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán
liên Ngân hàng trong nước. Việc tham gia các hệ thống thanh toán quốc
tế phải được Ngân hàng Nhà nước cho phép.

1.2.4. Các hoạt động khác
Ngoài các hoạt động chính bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng và
cung cấp dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, Ngân hàng thương mại có thể thực
hiện một số hoạt động khác, bao gồm:
Góp vốn và mua cổ phần – Ngân hàng thương mại được dùng vốn điều
ệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức
tín dụng khác trong nước theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Ngân hàng
thương mại còn được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với Ngân hàng
nước ngoài để thành lập Ngân hàng liên doanh.
Tham gia thi trường tiền tệ - Ngân hàng thương mại được tham gia thị
trường tiền tệ, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, thông qua các hình
thức mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ.
Kinh doanh ngoại hối – Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp
kinh doanh hoặc thành lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và
vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
Ủy thác và nhận ủy thác – Ngân hàng thương mại được ủy thác, nhận
ủy thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động Ngân hàng, kể
cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
theo hợp đồng ủy thác, đại lý.


Cung ứng dịch vụ bảo hiểm – Ngân hàng thương mại được cung ứng
dịch vụ bảo hiểm, được thành lập công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh
doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
Tư vấn tài chính – Ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ
tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc
thành lập công ty tư vấn trực thuộc Ngân hàng.
Bảo quản vật quý giá – Ngân hàng thương mại được thực hiện các dịch
vụ bảo quản vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ
khác có liên quan theo quy định của pháp luật.

2. Huy động vốn của Ngân hàng thương mại
2.1. Khái niệm về vốn và huy động vốn
2.1.1. Khái niệm về vốn
Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng
thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực
hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của Ngân
hàng thương mại, quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng bao gồm:
• Vốn tự có của Ngân hàng thương mại (NHTM) là những giá trị tiền tệ
do Ngân hàng tạo lập được, thuộc sở hữu của Ngân hàng. Nó mang tính
ổn định và căn cứ để quyết định đến khả năng và khối lượng vốn huy
động của Ngân hàng.
• Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ
các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội và được dùng làm vốn để
kinh doanh. Vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau,
Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng và phải hoàn trả đúng gốc và lãi khi
đến hạn. Nguồn vốn này luôn biến động, tuy nhiên nó đóng vai trò rất
quan trọng đối với mọi hoạt động của Ngân hàng.
• Vốn đi vay là phần vốn các Ngân hàng đi vay để bổ sung vào vốn hoạt
động của mình trong trường hợp tạm thiếu vốn khả dụng. Nó có chi phí


tương đối cao cho nên chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của
Ngân hàng.
• Vốn khác là phần vốn phát sinh trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ
thanh toán.
2.1.2. Khái niệm về huy động vốn
Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản của các Ngân hàng hay còn gọi là
nghiệp vụ tạo vốn với nhiều hình thức đa dạng, phong phú nhằm thu hút vốn
từ các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế để phục vụ mục đích kinh doanh của
mình.

2.2. Vai trò của huy động vốn
Nghiệp vụ huy động vốn tuy không mang lợi nhuận trực tiếp cho Ngân
hàng đóng vai trò sống còn trong hoạt động của Ngân hàng thương mại.
Nghiệp vụ này có ý nghĩa rất quan trọng đối với Ngân hàng cũng như đối với
khách hàng trong các hoạt động kinh doanh như cấp tín dụng và các dịch vụ
Ngân hàng khác.
2.2.1. Đối với Ngân hàng thương mại
Nghiệp vụ huy động vốn góp phần mang lại nguồn vốn cho Ngân hàng
thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Không có nghiệp vụ huy động vốn,
Ngân hàng thương mại sẽ không có đủ nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của
mình. Mặt khác, thông qua nghiệp vụ huy động vốn Ngân hàng thương mại
có thể đo lường được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với
Ngân hàng. Từ đó, Ngân hàng thương mại có các biện pháp không ngừng
hoàn thiện hoạt động huy động vốn để giữ vững và mở rộng quan hệ với
khách hàng. Có thể nói nghiệp vụ huy động vốn góp phần giải quyết “đầu
vào” của Ngân hàng.
Vốn huy động quyết định đến uy tín và khả năng thanh toán của Ngân hàng
trên thương trường. Các Ngân hàng hoạt động dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, do
vậy uy tín của Ngân hàng là một yếu tố rất quan trọng. Uy tín được thể hiện ở khả


năng sẵn sàng chi trả cho khách hàng của Ngân hàng. Khả năng thanh toán của
Ngân hàng càng cao thì chứng tỏ vốn khả dụng của Ngân hàng càng lớn. Vì vậy,
khả năng thanh toán của Ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của Ngân hàng nói chung
và vốn khả dụng của Ngân hàng nói riêng. Với khả năng huy động vốn cao, Ngân
hàng ngày càng mở rộng được quy mô hoạt động kinh doanh, tiến hành các hoạt
động cạnh tranh có hiệu quả, góp phần giữ được chữ tín, nâng cao vị thế của Ngân
hàng trên thương trường.
Ngoài ra, vốn chính là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng.
Thực tế cho thấy: quy mô vốn, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại

là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn, và nguồn vốn lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho Ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế.
Điều này giúp Ngân hàng mở rộng kinh doanh trên thị trường, phân tán rủi ro, đẩy
mạnh công tác huy động vốn, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của Ngân hàng.
2.2.2. Đối với khách hàng
Nghiệp vụ huy động vốn không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với Ngân
hàng mà nó còn có ý nghĩa quan trọng đối với khách hàng. Đối với khách
hàng, nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho họ một kênh tiết kiệm và đầu tư
nhằm làm cho tiền của họ sinh lợi, tạo cơ hội cho họ có thể gia tăng tiêu dùng
trong tương lai. Mặt khác, nghiệp vụ huy động vốn còn cung cấp cho khách
hàng một nơi an toàn để họ cất trữ và tích lũy vốn tạm thời nhàn rỗi. Cuối
cùng nghiệp vụ huy động vốn giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận với các
dịch vụ khác của Ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng và
dịch vụ tín dụng khi khách hàng cần vốn cho sản xuất, kinh doanh hoặc cần
tiền cho tiêu dùng.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới huy động vốn
2.3.1. Các nhân tố chủ quan
2.3.1.1. Quan điểm của lãnh đạo Ngân hàng về huy động vốn


Huy động vốn giữ vị trí rất quan trọng trong chính sách của các nhà
lãnh đạo Ngân hàng. Công tác huy động vốn đạt hiệu quả cao khi các nhà
lãnh đạo Ngân hàng hiểu được tầm quan trọng của vốn huy động, đưa ra được
các chính sách huy động tiền gửi hợp lý, có các quyết định phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của thị trường Ngân hàng. Trái lại, các nhà lãnh đạo chưa
ý thức được vai trò quyết định của huy động vốn, chưa chú trọng công tác
nghiên cứu thị trường, khảo sát thị hiếu khách hàng gửi tiền sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến công tác huy động vốn của Ngân hàng. Có thể nói, quan điểm của nhà
lãnh đạo Ngân hàng chi phối hầu hết công tác huy động vốn.
2.3.1.2. Các hình thức huy động vốn

Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trước hết phải đa
dạng hình thức huy động vốn. Hình thức huy động vốn của Ngân hàng ngày
càng phong phú, linh hoạt và thuận tiện bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn từ
nền kinh tế càng lớn bấy nhiêu. Điều này xuất phát từ sự khác nhau trong nhu
cầu và tâm lí của các tầng lớp dân cư. Chính sự đa dạng hoá các hình thức huy
động vốn của Ngân hàng đã giúp cho mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp tìm được
cho mình một hình thức đầu tư hợp lý nhất. Do vậy, các NHTM thường cân
nhắc rất kĩ lưỡng trước khi đưa vào áp dụng một hình thức mới.
Khi các Ngân hàng thương mại đưa ra các hình thức huy động vốn ngày
càng đa dạng và hợp lý, cùng với việc mở rộng hệ thống mạng lưới hoạt động, và
nâng cao chất lượng hoạt động các dịch vụ Ngân hàng, từ đó thu hút ngày càng
nhiều khách hàng đến với Ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng trong
việc huy động vốn. Ngược lại khi các hình thức huy động vốn của Ngân hàng
chưa đa dạng, phong phú, chất lượng hoạt động dịch vụ chưa cao, hệ thống mạng
lưới còn ít, chưa thuận lợi cho khách hàng trong việc giao dịch với Ngân hàng, thì
nó sẽ ảnh hưởng không tốt tới huy động vốn của Ngân hàng.
2.3.1.3. Chính sách lãi suất cạnh tranh


Lãi suất huy động là tỉ lệ phần trăm của số tiền có được so với số tiền
gốc mà người gửi tiền nhân được từ Ngân hàng. Các cá nhân, tổ chức kinh tế
muốn tham khảo đầu tiên khi gửi tiền vào Ngân hàng đó là lãi suất. Vì vậy,
chính sách lãi suất là một trong những chính sách quan trọng nhất tác động tới
chính sách huy động vốn của Ngân hàng.
Việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh giữa các Ngân hàng với nhau đã
trở nên cực kỳ quan trọng trong việc thu hút các khoản tiền gửi mới và duy trì
tiền gửi hiện có. Điều này đặc biệt đúng khi lãi suất thị trường đã ở vào mức
tương đối cao. Các Ngân hàng cạnh tranh giành vốn không chỉ với các Ngân
hàng khác mà còn với các tổ chức tiết kiệm khác, các thị trường tiền tệ và với
những người phát hành các công cụ tài chính khác nhau trong thị trường tiền

tệ. Khi lãi suất tối đa bị loại bỏ trong quá trình nới lỏng các quy định, việc
duy trì mức lãi suất cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Đặc biệt trong giai đoạn
khan hiếm tiền tệ, những khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy
người gửi tiền tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ Ngân hàng này sang
Ngân hàng khác hay từ công cụ này sang công cụ khác.
Tuy nhiên, không phải Ngân hàng đưa ra mức lãi suất cao là có thể thu
hút được nhiều vốn. Vấn đề ở chỗ với mức lãi suất cụ thể do Ngân hàng đưa
ra sẽ đem lại cho người gửi tiền mức lợi tức thực tế là bao nhiêu. Điều này có
nghĩa là mức lãi suất mà Ngân hàng đưa ra phải luôn lớn hơn tỉ lệ lạm phát.
Do đó Ngân hàng phải dự đoán chính xác tỉ lệ lạm phát của nền kinh tế trong
năm để đưa ra mức lãi suất huy động hợp lí. Lãi suất ở mức huy động hợp lí
cũng phải là mức tiền không bị thay đổi. Có nghĩa là phải cộng thêm vào đó
những yếu tố biến động của tỉ giá.
Để giải quyết vấn đề này, Ngân hàng phải rất khéo léo mới có thể có
được một chính sách lãi suất hợp lí, linh hoạt phù hợp với tình hình thị trường
và mong muốn của Ngân hàng về qui mô và chất lượng nguồn vốn của Ngân


hàng. Đảm bảo lợi ích của người gửi tiền, lợi ích của Ngân hàng, giúp Ngân
hàng đạt hiệu quả cao trong công tác huy động vốn.
2.3.1.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật của Ngân hàng
Cơ sở vật chất hiện đại, công nghệ tiên tiến mang lại thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng. Tạo điều kiện để mở rộng thị phần kinh doanh,
và củng cố niềm tin cho khách hàng. Do đó Ngân hàng sẽ phát huy được tốt hơn
công tác huy động vốn. Ngược lại, nếu cơ sở vật chất của Ngân hàng còn hạn
chế thì sẽ ảnh hưởng đến việc mở rộng thị phần kinh doanh, khó thu hút,
không tạo niềm tin để khách hàng gửi tiền.
Trình độ công nghệ Ngân hàng ngày càng cao, khách hàng sẽ cảm thấy
hài lòng về dịch vụ được Ngân hàng cung ứng và yên tâm hơn khi gửi tiền tại
các Ngân hàng. Đây là một yếu tố rất quan trọng giúp Ngân hàng cạnh tranh

phi lãi suất, với cùng một lãi suất huy động như nhau, Ngân hàng nào cải tiến
chất lượng dịch vụ tốt hơn, tạo sự thuận tiện hơn cho khách hàng thì sức cạnh
tranh sẽ cao hơn.
Việc ứng dụng máy tính là một cuộc cách mạng trong hoạt động của
Ngân hàng. Áp dụng hệ thống tin học hiện đại, Ngân hàng có thể thu thập
thông tin khách hàng, thị trường nhanh chóng và đầy đủ. Từ đó, có thể hoạch
định ra các hình thức huy động, thời gian huy động, hình thức trả lãi... Mặt
khác, với hệ thống thông tin tốt nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả huy động
vốn của Ngân hàng.
2.3.1.5. Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ
công nhân viên
Trong các hoạt động của Ngân hàng, yếu tố con người luôn được đặt
lên hàng đầu. Các nhân viên Ngân hàng là những người mang hình ảnh cho cả
Ngân hàng. Do đó, để tăng cường huy động vốn thì điều quan trọng là các
nhân viên Ngân hàng phải có đủ những tiêu chí của một nhân viên Ngân hàng
chuyên nghiệp: Hiểu biết khách hàng, Hiểu biết nghiệp vụ, Hiểu biết quy


trình, Hoàn thiện phong cách phục vụ.
Về phương diện quản lí, nếu Ngân hàng có trình độ quản lí tốt sẽ có
khả năng tư vấn phù hợp cho khách hàng, thu hút được khách hàng đến với
mình. Mặt khác, quản lí tốt sẽ đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín, tạo điều
kiện tốt cho công tác huy động vốn của Ngân hàng.
Về trình độ nghiệp vụ của cán bộ Ngân hàng ảnh hưởng rất lớn tới chất
lượng phục vụ và việc thu hút vốn của Ngân hàng. Trình độ nghiệp vụ của cán
bộ Ngân hàng càng cao, mọi thao tác nghiệp vụ thực hiện nhanh chóng, chính xác,
có hiệu quả. Đồng thời, thái độ phục vụ , tác phong làm việc của cán bộ Ngân
hàng tốt, nhiệt tình, cởi mở sẽ tạo thuận lợi và gây được ấn tượng tốt đối với
khách hàng như vậy thu hút được nhiều khách hàng hơn. Thái độ phục vụ của cán
bộ Ngân hàng đối với khách hàng có ảnh hưởng rất lớn đến việc huy động vốn

cho Ngân hàng. Do đó , để thu hút khách hàng gửi tiền, đi đôi với việc trau dồi
kiến thức, nghiệp vụ, cán bộ Ngân hàng phải chú ý đến thái độ phục vụ của mình
sao cho đáp ứng được yêu cầu của khách hàng và nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế
thị trường.
2.3.1.6. Chính sách quảng cáo, khuyến mại và các dịch vụ Ngân
hàng cung ứng
Chính sách quảng cáo, khuyến mại và các dịch vụ Ngân hàng cung ứng
có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
Một Ngân hàng có chất lượng dịch vụ tốt hiển nhiên lợi thế hơn so với
Ngân hàng có các dịch vụ hạn chế. Những Ngân hàng có giao dịch mặt đường
trên các phố chính, có hệ thống rút tiền tự động làm việc ngày đêm, có cán bộ
giao dịch chuyên nghiệp, có trách nhiệm, tạo được niềm tin cho khách hàng là
lợi thế đáng quan tâm của các NHTM. Đối với cạnh tranh lãi suất, cạnh tranh
về dịch vụ Ngân hàng không giới hạn, do vậy đây chính là điểm mạnh để các
Ngân hàng phát huy thế mạnh của mình trong cạnh tranh.


Bên cạnh đó, chính sách quảng cáo cũng có vai trò rất lớn. Trong hoạt
động Ngân hàng hiện đại, quảng cáo luôn được đề cao và cần phải có một chi
phí nhất định cho công tác này. Đồng thời Ngân hàng cũng phải có chiến lược
quảng cáo đặc biệt không chỉ trên truyền hình mà nên dùng cả Pano, áp phích,
tờ rơi nhằm huy động tiền gửi.
Các Ngân hàng thương mại hiện nay đang từng bước cải thiện và ứng dụng
nghệ thuật thông tin quảng cáo, các hình thức khuyến mãi, dịch vụ… Mặc dù việc
đầu tư cho công tác này còn hạn chế, nhưng đây cũng là mặt mạnh của ngành
Ngân hàng trong việc cạnh tranh để huy động tiền gửi. Đòi hỏi các nhà quản trị
Ngân hàng phải có các chiến lược phù hợp để tăng cường công tác huy động vốn.
2.3.2. Các nhân tố khách quan
2.3.2.1. Môi trường pháp lý
Lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng thương mại vô cùng quan trọng

trong nền kinh tế, vì vậy các hoạt động của Ngân hàng luôn được Nhà nước
quản lý chặt chẽ bằng các văn bản pháp quy.
Nghiệp vụ huy động vốn của các NHTM chịu sự điều chỉnh rất lớn của
môi trường pháp lý. Có những Bộ Luật tác động trực tiếp thường thấy, cụ thể
là Luật các tổ chức tín dụng (1997), Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng
và công ty tài chính (1990), Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1998), các
văn bản pháp luật khác như: chỉ thị, thông tư... Những Luật này qui định tỉ lệ
huy động vốn của Ngân hàng so với vốn tự có, qui định về việc gửi và sử
dụng tài khoản tiền gửi, quy định về số tiền huy động của Ngân hàng không
được lớn hơn 20 lần vốn chủ sở hữu. Có những Bộ Luật tác động gián tiếp
đến hoạt động Ngân hàng như Luật đầu tư nước ngoài hoặc các NHTM không
được nhận tiền gửi hoặc cho vay bằng cách tăng giảm lãi suất, mà phải dựa
vào lãi suất do NHNN đưa ra và chỉ được xê dịch trong biên độ nhất định mà
NHNN cho phép. Hay thông qua tỷ lệ dự trữ bắt buộc chính phủ điều chỉnh
việc cung ứng tiền cho nền kinh tế. Việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay


lãi suất tái chiết khấu là tuỳ theo định hướng phát triển của từng thời kỳ…
Bên cạnh những bộ luật đó thì chính sách tài chính tiền tệ của một quốc gia
cũng ảnh hưởng rất lớn tới nghiệp vụ tạo vốn của NHTM. Nó được thể hiện ở
mục tiêu của chính sách tiền tệ, chẳng hạn khi nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà
nước có chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút
tiền ngoài xã hội thì lúc đó NHTM huy động vốn dễ dàng hơn. Như vậy, môi
trường pháp lí là nhân tố khách quan có tác động rất lớn tới quá trình huy
động vốn của NHTM. Mục tiêu hoạt động của NHTM được xây dựng vào các
qui định, qui chế của Nhà nước để đảm bảo an toàn và nâng cao niềm tin từ
khách hàng.
2.3.2.2. Môi trường kinh tế xã hội
Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước cũng có tác động không
nhỏ đến quá trình huy động vốn của Ngân hàng thương mại. Hoạt động huy

động vốn và sử dụng vốn luôn bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng, thu
nhập, tình trạng thất nghiệp, lạm phát… tác động trực tiếp. Khi nền kinh tế tăng
trưởng hay suy thoái thì nó đều ảnh hưởng tới nghiệp vụ tạo vốn của NHTM.
Mọi biến động của nền kinh tế bao giờ cũng được biểu hiện rõ trong việc
tăng, giảm nguồn vốn huy động từ bên ngoài của Ngân hàng. Nền kinh tế tăng
trưởng, sản xuất phát triển, từ đó tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn, do đó tạo
môi trường cho việc thu hút vốn của NHTM thuận lợi. Ngược lại, khi nền
kinh tế suy thoái, lạm phát tăng làm cho môi trường đầu tư của Ngân hàng bị thu
hẹp khiến quá trình tạo vốn của Ngân hàng gặp khó khăn.
Nhân khẩu học cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới nguồn vốn thông qua
việc phân bổ dân cư, trình độ, lứa tuổi. Ngân hàng cũng nên xem xét yếu tố này
trong hoạt động huy động vốn.
Các chính sách kinh tế, chính trị – xã hội của Nhà nước, sự tăng trưởng
phát triển của nền kinh tế, phong tục tập quán của đất nước đều ảnh hưởng
mạnh mẽ tới hoạt động huy động vốn của các Ngân hàng. Vì vậy, nhà quản trị


Ngân hàng phải dự đoán được diễn biến của thị trường, nắm bắt được thời cơ
để đưa ra các kế hoạch chiến lược phát triển trong từng thời kì, giai đoạn và
kế hoạch phát triển lâu dài.
2.3.2.3. Tâm lý, thói quen khách hàng
Tập quán tiêu dùng của người dân có ảnh hưởng rất quan trọng đối với
việc huy động vốn của Ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, thói quen thanh
toán khi mua hàng hoá cũng góp phần làm tăng hay giảm nguồn vốn huy
động của Ngân hàng. Ở nhiều nước phát triển, việc thanh toán không dùng
tiền mặt là phổ biến, hầu hết người dân đều có tài khoản trong Ngân hàng.
Ngược lại, ở một số nước, thói quen thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn đa số
thì nguồn vốn huy động của Ngân hàng sẽ gặp khó khăn. Do đó để mở rộng
nguồn huy động, các Ngân hàng phải nỗ lực hết mình trong cải cách quy
trình, thủ tục, phát triển chính sách khách hàng...

Ở khoản mục tiền gửi tiết kiệm có hai yếu tố quan trọng tác động vào là
thu nhập và tâm lý của người gửi tiền. Thu nhập ảnh hưởng đến nguồn vốn
tiềm tàng mà Ngân hàng có thể huy động trong tương lai. Còn yếu tố tâm lý
ảnh hưởng đến sự biến động ra vào của các nguồn tiền. Tâm lý tin tưởng vào
tương lai của khách hàng có tác dụng làm ổn định lượng tiền gửi vào, rút ra
và ngược lại nếu niềm tin của khách hàng về đồng tiền trong tương lai sẽ mất
giá gây ra hiện tượng rút tiền hàng loạt vốn là mối lo ngại lớn của mọi Ngân
hàng. Một đặc điểm quan trọng của đối tượng khách hàng là mức độ thường
xuyên của việc sử dụng các dịch vụ Ngân hàng. Mức độ sử dụng càng cao,
Ngân hàng càng có điều kiện mở rộng việc huy động vốn.
2.3.2.4. Sự canh tranh từ các đối thủ
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một qui luật tất yếu, Ngân
hàng là một ngành có mức độ cạnh tranh cao. Những năm qua, thị trường tài
chính ngày càng rộng do sự tham gia của nhiều loại hình Ngân hàng và các tổ


chức tài chính phi Ngân hàng. Trong khi đó, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư
và các tổ chức kinh tế là có giới hạn. Do đó, cạnh tranh có xu hướng gia tăng
mạnh, làm giảm đi sự khác biệt giữa Ngân hàng thương mại với các tổ chức tài
chính phi Ngân hàng.
Cạnh tranh về tiền gửi diễn ra dưới nhiều hình thức. Các Ngân hàng có thể
áp dụng những điều kiện giống nhau cho tất cả các khách hàng gửi tiền. Vì lý do
này, các sản phẩm dịch vụ liên quan đến tiền gửi được mở rộng và được phổ biến
nhanh chóng. Thêm vào đó, nhiều tổ chức tài chính phi Ngân hàng có thể huy
động tiền gửi có kỳ hạn , thậm chí còn cung cấp các tài khoản không kỳ hạn.
Hình thức cạnh tranh không đa dạng như các ngành, các lĩnh vực khác.
Các NHTM chủ yếu cạnh tranh bằng hai hình thức là lãi suất và dịch vụ Ngân
hàng. Hiện nay, ở nước ta các Ngân hàng chủ yếu cạnh tranh bằng hình thức
lãi suất, còn hình thức cạnh tranh bằng dịch vụ thì chưa phổ biến. Do đó, mỗi
Ngân hàng phải xác định được mức lãi suất thế nào là hợp lí nhất, hấp dẫn

nhất, kết hợp với danh tiếng và uy tín của Ngân hàng để tăng thị phần huy
động vốn của đơn vị mình. Điều này là rất khó khăn vì nếu lãi suất huy động
cao thì lãi suất cho vay cũng phải tăng lên, lãi suất huy động thấp thì không
hấp dẫn khách hàng.
2.4. Các nghiệp vụ huy động vốn
2.4.1. Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi
Huy động vốn qua tài khoản là hình thức huy động vốn cổ điển và
mang tính đặc thù riêng có của Ngân hàng thương mại. Do vậy đây cũng là
điểm khác biệt giữa Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phi Ngân
hàng. Chính vì đặc thù này mà Ngân hàng thương mại thường được coi là tổ
chức nhận ký thác (Depository institutions) trong khi các tổ chức tín dụng phi
Ngân hàng được gọi là tổ chức không nhận ký thác (Non – depository
institutions).


Do nhu cầu và động thái gửi tiền của khách hàng rất đa dạng và khác
nhau nên để thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền, Ngân hàng thương mại
phải thiết kế và phát triển thành nhiều loại sản phẩm tiền gửi khác nhau.
2.4.1.1. Tiền gửi thanh toán
a. Đối tượng khách hàng và tình huống sử dụng
Tiền gửi thanh toán là hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương
mại bằng cách mở cho khách hàng tài khoản gọi là tài khoản tiền gửi thanh
toán. Tài khoản này mở cho các đối tượng khách hàng, cá nhân hoặc tổ chức,
có nhu cầu thực hiện thanh toán qua Ngân hàng.
Thanh toán qua Ngân hàng là một loại dịch vụ thanh toán, theo đó
Ngân hàng thực hiện việc trích chuyển tiền từ tài khoản của đơn vị phải trả,
bằng cách ghi nợ vào tài khoản, sang tài khoản của đơn vị thụ hưởng, bằng
cách ghi có vào tài khoản. Để thực hiện được nghiệp vụ thanh toán này, đòi
hỏi khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán ở Ngân hàng. Số dư có
trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng có thể hình thành từ hai

nguồn: Do khách hàng nộp tiền mặt vào và do khách hàng nhận tiền chuyển
khoản từ các đơn vị khác. Số dư này nhằm duy trì khả năng thanh toán và chi
trả của khách hàng ở bất cứ thời điểm nào.
Tuy nhiên, không phải lúc nào khách hàng cũng huy động số dư tài
khoản tiền gửi thanh toán của họ vào thanh toán. Do vậy, đôi khi số dư này
nhàn rỗi tạm thời cho đến khi được huy động vào thanh toán. Những lúc tạm
thời nhàn rỗi số dư này trở thành nguồn vốn của Ngân hàng, do đó, Ngân
hàng có thể sử dụng cho hoạt động của mình. Tuy nhiên, do tài khoản tiền gửi
là loại tài khoản không kỳ hạn, khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào mà
không cần báo trước cho Ngân hàng, nên Ngân hàng rất khó kế hoạch hóa
việc sử dụng loại tiền gửi này. Chính vì vậy, đối với loại tiền gửi này thường
Ngân hàng trả lãi suất thấp, hoặc thậm chí không trả lãi cho khách hàng. Do
không được hưởng lãi cao nên khách hàng thường duy trì số dư tài khoản tiền


gửi thanh toán không nhiều, chỉ đáp ứng nhu cầu chi trả hằng ngày của họ.
Mặc dù số dư tài khoản tiền gửi của từng khách hàng thường không lớn,
nhưng do là trung tâm tập trung tiền tệ và cung cấp dịch vụ thanh toán, nên
Ngân hàng thương mại có số lượng khách hàng rất đông khiến cho tổng số
vốn huy động qua tiền gửi thanh toán của tất cả khách hàng trở nên lớn đáng
kể.
b. Thủ tục mở tài khoản
Hiện nay hầu hết các Ngân hàng thương mại đều khuyến khích và tạo
điều kiện thuận lợi cho khách hàng, kể cả khách hàng cá nhân và khách hàng
tổ chức, được mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng. Để mở tài
khoản tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng thương mại, khách hàng cần làm các
thủ tục sau đây:
• Đối với khách hàng cá nhân chỉ cần điền vào mẫu giấy đề nghị mở tài
khoản tiền gửi cá nhân, đăng ký chữ ký mẫu, xuất trình và nộp bản sao
giấy chứng minh nhân dân.

• Đối với khách hàng tổ chức chỉ cần điền vào mẫu giấy đề nghị mở tài
khoản tiền gửi thanh toán, đăng ký mẫu chữ ký và mẫu con dấu của
người đại diện, xuất trình và nộp bản sao các giấy tờ chứng minh tư
cách pháp nhân của tổ chức, và các giấy tờ chứng minh tư cách đại diện
hợp pháp của chủ tài khoản.
• Đối với khách hàng là đồng chủ tài khoản cần tiền và nộp giấy đề nghị
mở tài khoản đồng sở hữu, các giấy tờ chứng minh tư cách đại diện hợp
pháp của người đại diện cho tổ chức tham gia tài khoản đồng sở hữu,
văn bản thỏa thuận quản lý và sử dụng tài khoản chung của các đồng
chủ tài khoản.
c. Tính lãi tiền gửi thanh toán
Theo thông lệ ở các nước phát triển, Ngân hàng không trả lãi cho khách
hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán vì mục đích của khách hàng khi sử


dụng tài khoản này là để thực hiện thanh toán qua Ngân hàng chứ không phải
để hưởng lãi. Hơn nữa Ngân hàng còn yêu cầu khách hàng phải duy trì một số
dư tối thiểu (Compensation balance) để được hưởng các dịch vụ Ngân hàng,
nếu không có đủ số dư này thì khách hàng phải trả phí cho Ngân hàng.
Ở Việt Nam do dân chúng chưa có thói quen sử dụng tài khoản và tiền
gửi vào Ngân hàng nên để thu hút khách hàng, Ngân hàng phải trả lãi đối với
tài khoản tiền gửi thanh toán, tuy nhiên mức lãi suất áp dụng thường rất thấp,
khoảng 2.4%/ năm, so với lãi suất của những loại tiền gửi tiết kiệm khác. Lãi
tiền gửi thanh toán có thể tính theo định kỳ hàng tháng hoặc quý theo phương
pháp tích số và lãi được nhập vào số dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng.
2.4.1.2. Tiền gửi tiết kiệm
a. Tiết kiệm không kỳ hạn
Sản phẩm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn được thiết kế dành cho đối
tượng khách hàng cá nhân hoặc tổ chức, có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn gửi
Ngân hàng vì mục tiêu an toàn và sinh lợi nhưng không thiết lập được kế

hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. Đối với khách hàng khi chọn lựa hình
thức tiền gửi này thì mục tiêu an toàn và tiện lợi quan trọng hơn là mục tiêu
sinh lợi. Đối với loại tiền gửi không kỳ hạn khách hàng muốn rút bất cứ lúc
nào cũng được nên Ngân hàng phải đảm bảo tồn quỹ để chi trả và khó lên kế
hoạch sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng. Do vậy, Ngân hàng thường trả lãi rất
thấp cho loại tiền gửi này (khoảng 2.4%/năm).
Thủ tục mở số tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn rất đơn giản. Chỉ cần
khách hàng đến bất cứ chi nhánh nào của Ngân hàng điền vào mẫu giấy đề
nghị gửi tiết kiệm không kỳ hạn có kèm theo giấy chứng minh nhân dân và
chữ ký mẫu. Nhân viên sẽ hoàn tất thủ tục nhận tiền và cấp sổ tiền gửi ngay
cho khách hàng.
Với số tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, khách hàng có thể gửi tiền và
rút tiền bất cứ lúc nào trong giờ giao dịch. Tuy nhiên, khác với hình thức tài


khoản tiền gửi cá nhân mỗi lần giao dịch khách hàng phải xuất trình sổ tiền
gửi và chỉ có thể thực hiện được các giao dịch ngân quỹ như là gửi tiền và rút
tiền chứ không thể thực hiện được các giao dịch thanh toán như trong trường
hợp tiền gửi thanh toán.
b. Tiết kiệm định kỳ
Khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm định kỳ
được thiết kế dành cho khách hàng cá nhân và tổ chức có nhu cầu gửi tiền vì
mục tiêu an toàn, sinh lợi và thiết lập kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai.
Đối tượng khách hàng chủ yếu của loại tiền gửi này là các cá nhân muốn có
thu nhập ổn định và thường xuyên, đáp ứng cho việc chi tiêu hàng tháng hoặc
hàng quý. Đa số khách hàng thích lựa chọn hình thức gửi tiền này là công
nhân, viên chức hưu trí. Mục tiêu quan trọng của họ khi chọn lựa hình thức
tiền gửi này là lợi tức có được theo định kỳ. Do vậy, lãi suất đóng vai trò quan
trọng để thu hút được đối tượng khách hàng này. Dĩ nhiên, lãi suất trả cho loại
tiền gửi tiết kiệm định kỳ cao hơn lãi suất trả cho loại tiền gửi không kỳ hạn.

Ngoài ra mức lãi suất còn thay đổi tùy theo loại kỳ hạn gửi (3, 6, 9 hay 12
tháng), tùy theo loại đồng tiền gửi tiết kiệm (VND, USD, EUR hay Vàng), và
tùy theo uy tín và rủi ro của Ngân hàng nhận tiền gửi.
Về thủ tục mở sổ, theo dõi hoạt động và tính lãi cũng tiến hành tương
tự như tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, chỉ khác ở chỗ khách hàng chỉ được
rút tiền gửi theo đúng kỳ hạn đã cam kết, không được phép rút tiền trước hạn.
Tuy nhiên, để khuyến khích và thu hút khách hàng gửi tiền đôi khi Ngân hàng
cho phép khách hàng được rút tiền gửi trước hạn nếu có nhu cầu, nhưng khi
đó khách hàng bị mất tiền lãi hoặc chỉ được trả lãi theo lãi suất tiền gửi không
kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn có thể phân chia thành nhiều loại. Căn cứ vào
thời hạn có thể chia thành tiền gửi kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng,
12 tháng và trên 12 tháng. Căn cứ vào phương thức trả lãi có thể chia thành:


• Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi đầu kỳ
• Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi cuối kỳ
Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi theo định kỳ (tháng hoặc quý).



Việc phân chia tiền gửi kỳ hạn thành nhiều loại khác nhau làm cho sản
phẩm tiền gửi của Ngân hàng trở nên đa dạng và phong phú có thể đáp ứng
được nhu cầu gửi tiền đa dạng của khách hàng.
c. Các loại tiết kiệm khác
Ngoài hai loại tiền gửi tiết kiệm chính là tiết kiệm không kỳ hạn và tiết
kiệm định kỳ hầu hết các Ngân hàng thương mại đều có thiết kế những loại
tiền gửi tiết kiệm khác như tiết kiệm tiện ích, tiết kiệm có thưởng, tiết kiệm an
khang với nét đặc trưng riêng nhằm làm cho sản phẩm của mình luôn được
đổi mới theo nhu cầu của khách hàng và tạo ra rào cản dị biệt để chống lại sự

bắt chước của các đối thủ cạnh tranh.
2.4.2. Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá
Ngoài việc huy động vốn qua tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản
tiết kiệm, các tổ chức tín dụng nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng
còn có thể huy động vốn bằng cách phát hành giấy tờ có giá.
Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy
động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời
hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức
tín dụng và người mua. Một giấy tờ có giá thường kèm theo các thuộc tính
sau đây:
• Mệnh giá – Là số tiền gốc được in sẵn hoặc ghi trên giấy tờ có giá phát
hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi trên giấy chứng nhận quyền sở
hữu đối với giấy tờ có giá phát hàng theo hình thức ghi sổ.
• Thời hạn giấy tờ có giá – là khoảng thời gian từ ngày tổ chức tín dụng
nhận nợ đến hết ngày cam kết thanh toán toàn bộ khoản nợ.


• Lãi suất được hưởng – là lãi suất được áp dụng để tính lãi cho người
mua giấy tờ có giá được hưởng.
Giấy tờ có giá có thể phân thành nhiều loại khác nhau. Căn cứ vào
quyền sở hữu có thể chia giấy tờ có giá thành giấy tờ có giá ghi danh và giấy
tờ có giá vô danh. Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành theo
hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô
danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ không ghi tên người
sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ nó.
Căn cứ vào thời hạn, giấy tờ có giá có thể chia thành hai loại, tương
ứng với thời hạn huy động vốn: giấy tờ có giá ngắn hạn và giấy tờ có giá dài
hạn.
2.4.2.1. Huy động vốn ngắn hạn
Để huy động vốn ngắn hạn, các tổ chức tín dụng có thể phát hành giấy

tờ có giá ngắn hạn. Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới
12 tháng, bao gồm kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Muốn phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn, tổ
chức tín dụng phải lập hồ sơ đề nghị phát hành, bao gồm:
• Đề nghị phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn trong năm tài chính.
• Kế hoạch phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn trong đó nêu rõ mục đích
phát hành, phương án sư dụng, tổng số giấy tờ có giá ngắn hạn đầu năm
tài chính, tổng số mệnh giá phát hành giấy tờ có gía ngắn hạn trong
năm tài chính, số đợt và thời điểm dự kiến phát hành, tên gọi giấy tờ có
giá và đồng tiền phát hành.
• Các báo cáo tài chính của 2 năm liên tục gần nhất tính đến thời điểm đề
nghị phát hành.
• Kế hoạch kinh doanh trong năm tài chính.


×