Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Thực trạng xuất nhập khẩu của việt nam sau 25 năm đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.15 KB, 38 trang )

Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NGOẠI THƯƠNG

1.1. Khái niệm – vai trò của ngoại thương
1.1.1. Khái niệm
Ngoại thương là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối ngoại có liên quan
và tác động mạnh tới sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Điều kiện để
ngoại thương sinh ra, tồn tại và phát triển là:
+ Có sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hóa – tiền tệ, kèm theo đó là sự
xuất hiện của tư bản thương nghiệp.
+ Sự ra đời của nhà nước và sự phát triển của phân công lao động quốc tế
giữa các nước.
Ngoại thương thường được nghiên cứu dưới ba góc độ:




Quan điểm lợi ích toàn cầu: tìm ra quy luật, xu hướng và những vấn đề mang tính
chất chung của thế giới.
Quan điểm lợi ích của mỗi quốc gia: xem xét lợi ích quốc gia đó với phần còn lại
của thế giới.
Quan điểm lợi ích của doanh nghiệp: Xác định phương án kinh doanh quốc tế
nhằm tối đa hoá lợi nhuận của mình.
“Ngoại thương” hiểu một cách cơ bản là sự trao đổi dưới hình thức mua bán
hàng hóa và các dịch vụ kèm theo, lấy tiền tệ làm môi giới giữa các nước khác
nhau.
Theo quan điểm của hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển thì
ngoại thương được hiểu theo nghĩa rất rộng bao gồm mọi hoạt động kinh doanh
trên thị trường quốc tế từ thương mại hữu hình đến thương mại vô hình và thương


mại dịch vụ. Đó là phạm trù kinh tế phản ánh quan hệ giữa các quốc gia, lãnh thổ
khu vực với nhau.
Nội dung của ngoại thương bao gồm: hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu và tái
xuất.
1.1.2. Vai trò của ngoại thương
Thứ nhất, trong mỗi giai đoạn phát triển, ngoại thương bao giờ cũng có vai
trò quan trọng vì nó giúp mỗi quốc gia có được các loại hàng hóa mà nước đó
1
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

không sản xuất được hoặc không có, tăng cường quá trình chuyển giao công nghệ,
đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân…
Thứ hai, ngoại thương giúp phân bổ có hiệu quả các nguồn lực sản xuất của
thế giới, từ đó ngày càng làm tăng mức sống của các quốc gia nói riêng và của cả
thế giới nói chung.
Thứ ba, ngoại thương làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi nhất cho
mỗi quốc gia bắt nguồn từ trình độ phát triển kinh tế, nguồn lực và lợi thế của mỗi
quốc gia khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Thứ tư, ngoại thương giúp nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nhờ phân bổ có
hiệu quả các nguồn lực trong nước, làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tận
dụng triệt để lợi thế của quốc gia và sử dụng những nguồn đầu vào cạnh tranh của
thế giới.
Thứ năm, ngoại thương có mối liên hệ khăng khít với đầu tư trực tiếp nước
ngoài, một mặt ngoại thương có tác dụng thu hút FDI, mặt khác, FDI sẽ thúc đẩy
ngoại thương phát triển.
Thứ sáu, ngoại thương vô hình mà đặc biệt là việc nhập khẩu công nghệ
hiện đại sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, nhất là đối với các nước

đang phát triển khi họ chưa đủ khả năng tạo ra công nghệ mới.
1.2. Vai trò của xuất nhập khẩu đối với Việt Nam
1.2.1. Vai trò của xuất khẩu
+ Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn quan trọng để thỏa mãn nhu cầu nhập khẩu
và tích lũy phát triển sản xuất. Việt Nam đang đẩy nhanh công cuộc CNH, HĐH
đất nước - con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo đói, lạc hậu và chậm
phát triển. Máy móc, thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại… là động lực
của quá trình này. Để có thể nhập khẩu máy móc, thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến hiện đại chúng ta cần một số vốn rất lớn. Số vốn này có thể được hình thành từ
các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, dịch
vụ ngoại tệ, xuất khẩu lao động,... Nhưng vốn có được từ đầu tư nước ngoài hay từ
vay nợ sớm muộn đều phải trả bằng cách này hay cách khác. Nguồn thu từ du lịch,
dịch vụ chỉ đáp ứng được một phần nhỏ. Xuất khẩu lao động chủ yếu là để tạo
công ăn việc làm chứ không phải để thu ngoại tệ. Do đó, nguồn vốn quan trọng
nhất để nhập khẩu, để CNH đất nước là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô
và tốc độ tăng của nhập khẩu.Thực tế cho thấy, xuất khẩu là phương tiện, nhập
khẩu là mục đích. Xuất khẩu để phục vụ nhập khẩu các thiết bị, công nghệ hiện
đại, nhằm đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Xuất khẩu là yếu tố quan trọng để kích thích tăng trưởng kinh tế, mở rộng
quy mô sản xuất, nhiều ngành nghề mới ra đời phục vụ cho hoạt động xuất khẩu và
sẽ kéo theo nhiều ngành nghề có quan hệ với nhau phát triển.
+ Xuât khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô
2
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện

đại. Có 2 quan điểm về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
• Theo quan điểm thứ nhất, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa
do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc
hậu và chậm phát triển như nước ta hiện nay, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu
dùng nếu chỉ chờ vào sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé và
tăng trưởng chậm chạp.
• Quan điểm thứ hai, coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng
quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều này có tác động tích cực đến chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động đến sản xuất thể hiện
ở chỗ:
Một là, xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển
thuận lợi.
Hai là, xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho
sản xuất phát triển ổn định. Khi khả năng sản xuất đã được mở rộng, thị trường
trong nước trở nên nhỏ hẹp thì thị trường ngoài nước là nơi tiêu thụ, đem lại ngoại
tệ đồng thời hướng sản xuất theo yêu cầu thoả mãn nhu cầu của thị trường đó.
Ba là, xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Bốn là, xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng
cao năng lực sản xuất trong nước. Bởi vì xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo
ra vốn và kỹ thuật thu hút công nghệ từ bên ngoài vào Việt Nam.
Năm là, thông qua xuất khẩu, hàng hoá nội địa sẽ tham gia vào cuộc cạnh
tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi
trong nước phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi và
đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới.
Sáu là, xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn
thiện công tác quản lý kinh doanh.
Qua những tác động kể trên ta thấy quan điểm này cần được quán triệt đối
với một nền kinh tế như nước ta.

+ Xuất khẩu có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm,tăng thu
nhập cho người lao động, cải thiện đời sống của nhân dân, góp phần xóa đói giảm
nghèo. Hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu là hàng thô và nguyên liệu
hoặc mới chỉ qua sơ chế. Tuy vậy, cũng đã có hàng triệu lao động được thu hút để
sản xuất những mặt hàng này. Tới đây, khi chúng ta tăng hàm lượng các mặt hàng
chế biến xuất khẩu, cho dù đã có sự hỗ trợ của máy móc, thiết bị công nghệ thì
một lượng không nhỏ người lao động sẽ có việc làm, góp phần tăng thêm thu
nhập, nâng cao mức sống cho người dân.
3
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

Đẩy mạnh xuất khẩu, tham gia vào thị trường thế giới tức là chúng ta đã đi
sâu hơn vào phân công lao động quốc tế, con đường tốt nhất để tạo công ăn việc
làm cho người lao động.
Đời sống của người lao động được cải thiện dần theo thu nhập ngày càng
tăng lên dựa vào đà tăng của kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước. Cần lưu ý rằng
không chỉ những người lao động tham gia một cách trực tiếp vào xuất khẩu mới
có thu nhập tăng lên. Những người lao động khác dù ở những ngành có hay không
liên quan đến xuất khẩu nếu không được hưởng những quyền lợi vật chất chẳng
hạn như lương cao thì cũng được hưởng những phúc lợi xã hội do sự đóng góp
của các doanh nghiệp xuất khẩu bằng cách này hay cách khác vào ngân sách Nhà
nước và xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu những vật phẩm tiêu dùng
thiết yếu nhưng hiện đại phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một
phong phú của nhân dân. Do đó cần phải nhận thức rõ vai trò của xuất khẩu, tập
trung sức lực để đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa
+ Xuất khẩu là để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất
khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Nó ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế

đối ngoại khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Xuất khẩu
tăng sẽ tạo đà cho các quan hệ kinh tế phát triển. Bạn bè thế giới sẽ biết đến nước
ta. Ngoài những người có nhu cầu tham quan du lịch, tìm hiểu văn hoá, phong tục
còn có những người tiến hành tìm kiếm thăm dò thị trường thông qua du lịch và
hoạt động này đã khiến ngành du lịch tăng trưởng và phát triển nhanh chóng. Khi
xuất khẩu nhiều lên, nhu cầu về vận tải, bảo hiểm tăng, quan hệ tín dụng cũng
phát triển theo. Và đầu tư cũng gia tăng bởi bạn hàng nước ngoài thấy được khả
năng phát triển của Việt Nam thông qua hoạt động xuất khẩu được đẩy mạnh.
Ngược lại, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại vừa kể trên cũng sẽ tạo tiền
đề cho mở rộng xuất khẩu trong khi ngành vận tải của Việt Nam chưa lớn mạnh,
ngành bảo hiểm còn non trẻ, những kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế còn
chưa nhiều.
1.2.2. Vai trò của nhập khẩu
+ Nhập khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam,
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất. Chúng ta phải nhập khẩu nhiều máy
móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất, qua đó tác động mạnh tới
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhập khẩu tạo ra sự chuyển giao công
nghệ, do đó tạo ra sự phát triển vượt bậc của sản xuất xã hội, tiết kiệm chi phí và
thời gian, tạo ra sự đồng đều về trình độ phát triển trong xã hội.
+ Nhập khẩu làm mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, cho phép tiêu
dùng một lượng hàng hoá lớn hơn khả năng sản xuất trong nước và tăng mức sống
của nhân dân. Nhập khẩu làm đa dạng hoá mặt hàng về chủng loại, quy cách, mẫu
mã cho phép thoả mãn nhu cầu trong nước, tạo điều kiện nâng cao đời sống vật
4
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

chất của người lao động. Ngoài ra, việc nhập khẩu hàng tiêu dùng và văn hóa phẩm

góp phần cải thiện đời sống nhân dân và trình độ dân trí.
+ Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại, tạo ra động
lực bắt buộc các nhà sản xuất trong nước phải không ngừng vươn lên, đổi mới
khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm tạo ra
sự phát triển xã hội và sự cạnh tranh của hàng hóa, doanh nghiệp và nền kinh tế
Việt Nam.
+ Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế đóng,
chế độ tự cấp, tự túc. Nhập khẩu giải quyết những nhu cầu đặc biệt (hàng hoá hiếm
hoặc quá hiện đại mà trong nước không thể sản xuất được). Nhập khẩu là cầu nối
thông suốt nền kinh tế, thị trường trong và ngoài nước với nhau, tạo điều kiện phân
công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh của đất nước trên
cơ sở chuyên môn hoá.

5
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

Chương 2
TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM TỪ SAU ĐỔI MỚI ĐẾN
NAY

2.1. Tổng quan về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam
Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã mang lại những thay
đổi tích cực cho nền kinh tế Việt Nam trong tất cả các lĩnh vực, đưa nền kinh tế
thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, nền kinh tế liên tục đạt tốc độ tăng
trưởng cao, tăng cường cơ sở vật chất và tạo tiền đề cho công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, sớm đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng kém phát
triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện

đại. Trong thành quả chung đó, không thể không kể đến những thành tựu của hoạt
động xuất nhập khẩu.
Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu
chính là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Nó còn là yếu tố quan trọng nhằm phát huy mọi nguồn nội lực, tạo thêm vốn đầu
tư để đổi mới công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Trong 25 năm đổi mới, lĩnh vực xuất nhập khẩu của Việt Nam đã giành
được nhiều thành tựu đáng kể:
+ Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước ngày một tăng, năm sau cao hơn
năm trước. Nếu như năm 1991, nước ta xuất khẩu đạt 2087 triệu USD thì đến năm
2000 đã đạt tới 14308 triệu USD, gấp 7 lần, trong đó kim ngạch xuất khẩu nông
sản đạt 4300 triệu USD, tăng hơn năm 1991 là 3,9 lần và chiếm 30% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, năm 2007 sau khi VN chính thức là thành
viên của tổ chức WTO kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 48 tỷ USD tăng 20,5% so
với năm 2006, vượt 3,1% so với kế hoạch Chính phủ đặt ra là 17,4%, năm 2010
tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 71,63 tỷ USD, tăng 25,5% so với mức thực hiện
năm 2009, đồng thời là mức tăng trưởng cao, vượt xa chỉ tiêu Quốc hội đề ra.

6
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

+ Kim ngạch xuất khẩu tính trên đầu người bình quân năm 1991 là 30 USD,
năm 1995 là 76 USD và đến năm 2000 đạt 180 USD (đây là mức của các quốc gia có
nền ngoại thương phát triển bình thường), năm 2007 là 473 USD.
+ Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng được cải thiện theo chiều hướng đa
dạng hóa, giảm tỷ trọng hàng nông, lâm, thủy sản, giảm tỷ trọng các loại hàng hóa

chưa qua chế biến.
+ Năm 1991 kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy sản chiếm tới 52,6%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, còn hàng hóa ngành công nghiệp nặng và
khoáng sản là 33,4% và tỷ trọng hàng công nghiệp nhẹ - tiểu thủ công nghiệp là
14%. Đến năm 2000 tỷ trọng các loại hàng hóa đã thay đổi với cơ cấu tương ứng là
30,1% hàng nông nghiệp, 35,6% hàng công nghiệp nặng và 34,3% hàng công
nghiệp nhẹ. Năm 2007 tỷ lệ này là 23%; 34,4%; 42,6% , đến năm 2010 thì tỷ trọng
này là 23,3% ; 27,8% ; 45,1% và xuất khẩu vàng phi tiền tệ chiếm 3,8%. Như vậy
là đã có sự thay đổi về mặt hàng và về chất của quá trình xuất khẩu theo hướng tích
cực.
+ Về xuất khẩu mặt hàng nông sản, từ chỗ thiếu lương thực nghiêm trọng
phải nhập khẩu hàng triệu tấn lương thực, đến năm 1989 cùng với chính sách ‘Đổi
mới” Việt Nam đã có thể xuất khẩu trong năm đó 1.370.000 tấn gạo, lượng gạo
xuất khẩu tăng dần, năm 1999 Việt Nam xuất khẩu 4.560.000 tấn gạo và kể từ đó
bắt đầu được xem là nước xuất khẩu gạo thứ nhì thế giới chỉ sau Thái Lan, tiếp đến
là cà phê ,hạt điều và cao su, hồ tiêu, các loại rau quả vv….
+ Thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam càng ngày càng mở rộng và
thay đổi về cơ cấu thị trường. Sau khi hệ thống XHCN tan rã, thị trường này không
còn nữa thì các nước châu Á đã nhanh chóng trở thành các bạn hàng xuất
khẩu chính của ta. Trong số các nước ở châu Á thì Nhật Bản và ASEAN đóng vai
trò lớn, tuy nhiên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của ta sang các nước đó
cũng đã thay đổi theo hướng giảm dần và tăng ở các nước khối EU và châu Mỹ.
Thị trường xuất khẩu giai đoạn 2006-2010, châu Á đứng đầu với 45,6% tổng kim
ngạch xuất khẩu, Châu Mỹ tiếp tục tăng mạnh và ở vị trí thứ hai với 23%; châu Âu
chiếm 20,8%; châu Đại Dương chiếm 6,2%; châu Phi tuy chiếm tỷ lệ nhỏ nhất với
2,7% nhưng đã gấp 3,8 lần so với thời kỳ 5 năm trước.
2.2. Thành tựu của hoạt động xuất nhập khẩu từ sau Đổi mới
7
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2



Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

2.2.1. Về hoạt động xuất khẩu
2.2.1.1. Quy mô tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu
Năm 1988, lần đầu tiên trong lịch sử kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của
nước ta đạt tới cột mốc 1 tỷ USD, đến năm 1995 đạt 5 tỷ USD và năm 1999 thì đạt
cột mốc là 10 tỷ USD. Trong vòng ba năm, từ 2000 đến 2003 kim ngạch xuất khẩu
đạt ngưỡng 20 tỷ USD. Đến năm 2007 thì đạt ngưỡng là 48 tỷ USD và vượt kế
hoạch đề ra là 3,1%.
Trong giai đoạn 2006 – 2010, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 56 tỷ
USD/năm, bằng 2,5 lần so với thời kỳ 2001 - 2005 vàtrung bình tăng
17,2%/năm. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng ngày càng tăng, từ 4 mặt hàng có
kim ngạch trên 3 tỷ USD năm 2006 tăng lên 8 mặt hàng vào năm 2010.
Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của nước ta đạt 32,44 tỷ USD,
tăng 22,5% so với năm 2004. Cùng với những năm trước đó, việc tiếp tục tăng kim
ngạch xuất khẩu năm 2005 đã góp phần đưa tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá
giai đoạn 2001-2005 đạt 110,83 tỷ USD, gấp hơn 2 lần giai đoạn 1996-2000, tổng
kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2006 -2010 là 280,36 tỷ USD gấp 2,5 lần thời kỳ
2001-2005 và bình quân mỗi năm tăng 17,2%. Như vậy có thể thấy, qua từng thời
kỳ kim ngạch xuất khẩu của nước ta luôn tăng trưởng ở mức độ cao.
Qua từng năm tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cũng luôn giữ mức ổn định,
từ năm 2005 đến năm 2010 tốc độ tăng của năm sau so với năm trước luôn ở mức
trên 20 %. Năm 2007 là năm diễn ra với 3 sự kiện hội nhập kinh tế quốc tế quan
trọng: Việt Nam trở thành thành viên WTO; hoàn thành cắt giảm thuế quan theo
Chương trình thu hoạch sớm trong khu vực ASEAN – Trung Quốc; bắt đầu thực
hiện cắt giảm thuế quan trong khu vực ASEAN – Hàn Quốc. Tác động này đã tạo
ra những chuyển biến rất tích cực thể hiện :kim ngạch xuất khẩu năm 2007 là 48,6
tỷ USD tăng 21,9% so với năm 2006, trong năm 2008 kim ngạch xuất khẩu đạt
62,7 tỷ USD tăng tới 29,1 % so với năm 2007.


8
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

BẢNG 2.1: KIM NGẠCH VÀ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG XUẤT KHẨU
HÀNG HÓA GIAI ĐOẠN 1995 - 2010
Đơn vị: Triệu USD
Kim ngạch xuất khẩu

Mức tăng tuyệt đối

Tốc độ tăng

1995

5449

-

-

1996

1806,9

33,16%


1997

7255,9
9185

1929,1

26,59%

1998

9360,3

175,3

1,91%

1999

11541,4

2181,1

23,3%

2000

14482,7

2941,3


25,5%

2001

15029,2

546,5

3,77%

2002

16706,1

1676,9

11,16%

2003

20149,3

3443,2

20,61%

2004

26485


6335,7

31,44%

2005

32447,1

5962,1

22,51%

2006

39826,2

7379,1

22,74%

2007

48561,4

8735,2

21,93%

2008


62685,1

14123,7

29,08%

2009

57096,3

-5588,8

-8,91%

2010

72191,9

15095,6

26,43%

Nguồn: Tổng cục thống kê
Tuy nhiên do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kim ngạch xuất
khẩu năm 2009 đạt 57,1 tỷ USD, giảm 8,9% so với năm 2008, nhưng vẫn cao hơn
mức kim ngạch xuất khẩu năm 2006 là 45,8%. Nếu so với thương mại toàn cầu với
tổng giá trị năm 2009 giảm tới 31% so với 2008 và thấp hơn so với 2006, thì tình
hình xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn tương đối khả quan.
Năm 2010 kim ngạch xuất khẩu được xem là mảng sáng nhất trong nền kinh

tế của đất nước.Cụ thể xuất khẩu năm 2010 của Việt Nam đã tăng trưởng ngoạn
9
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

mục khi đã gấp 4,2 lần so với chỉ tiêu dự kiến ban đầu là 6% và nếu so với mức
tăng GDP thì gấp 3,8 lần, đây thực sự là bước tiến thần kỳ của xuất khẩu, kim
ngạch xuất khẩu năm này là 72,2 %, tăng tới 25,5% so với năm 2009. Cùng đó,
xuất khẩu bình quân đầu người tăng, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP cũng
đạt cao, tương đương như hồi năm 2008 và đó cũng là tỷ lệ cao nhất từ trước tới
nay.
Xuất khẩu năm 2010 đã “lội ngược dòng”, khi mà chỉ mới năm trước, tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu là âm tới 9,7%. Nhờ đó, nhập siêu cả năm 2010 đã được kéo
thấp xuống.
Như vậy, quy mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
giai đoạn mở cửa hội nhập luôn được duy trì ở mức cao.
2.2.1.2.Về chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu
Cơ cấu hàng xuất khẩu đã được cải thiện theo hướng tăng các mặt hàng chế
biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo ra một số mặt hàng có khối lượng lớn và
thị trường tương đối ổn định. Tỷ trọng sản phẩm chế biến đã tăng từ 8% vào năm
1991 lên khoảng 40% vào năm 2000 và 50 % vào năm 2003. Năm 1991 mới có
bốn mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD là dầu thô, thủy sản, gạo và
hàng dệt may. Đến năm 2000 có thêm tám mặt hàng nữa là cà phê, cao su, hạt điều,
giày dép, than đá, điện tử, thủ công mỹ nghệ và rau quả, có mức xuất khẩu trên 100
triệu USD.
Từ bảng cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu, có thể thấy rằng tỷ trọng các nhóm
mặt hàng về nông lâm thủy sản giảm dần qua các năm từ 46,3% năm 1995 đến
năm 2010 chỉ còn 23,3%, nhóm hàng CN nhẹ và TTCN thay đổi theo hướng ngược

lại từ 28,4 % năm 1995 thì đến năm 2010 tăng lên là 45,1%. Từ năm 2008 trở đi
thì ta còn xuất khẩu cả nhóm hàng phi tiền tệ, mặc dù với tỷ trọng còn rất khiêm
tốn nhưng đây cũng là tín hiệu khả quan cho thấy sự đa dạng hóa mặt hàng xuất
khẩu của ta. Như vậy cơ cấu hàng hoá xuất khẩu đã có những chuyển dịch tích cực
theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, nhóm hàng có hàm
lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần xuất khẩu hàng thô.
Bảng 2.2: CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU GIAI ĐOẠN 1995 - 2010

10
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

Đơn vị: %
Tổng số
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008

2009
2010

100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0

Hàng CN
nặng và
khoáng sản
25,3
28,7
28,0
27,9
31,3
37,2
34,9

31,8
32,2
36,4
36,1
36,1
34,4
37,0
30,9
27,8

Hàng CN
nhẹ và
TTCN
28,4
29,0
36,7
36,6
36,7
33,9
35,7
40,6
42,7
41,0
41,0
41,2
42,6
39,8
44,8
45,1


Hàng nông,
Vàng phi
lâm, thủy
tiền tệ
sản
46,3
42,3
35,3
35,5
32
28,9
29,4
27,6
25,1
22,6
22,9
0,0
22,6
0,0
23
0,0
22,6
0,6
22,9
1,4
23,3
3,8
Nguồn: Tổng cục Thống kê

Năm 2007 ta đã có 10 mặt hàng xuất khẩu đạt giá trị trên 1 tỷ USD là: Dầu

thô 8,5 tỷ USD, dệt may 7,8 tỷ USD, giày dép gần 4 tỷ USD, thủy sản 3,8 tỷ USD,
tăng 12,9%; sản phẩm gỗ 2,4 tỷ USD, tăng 22,3%; điện tử máy tính 2,2 tỷ USD,
tăng 27,5%; cà phê 1,8 tỷ USD, tăng 52,3%; gạo 1,4 tỷ USD, tăng 13,9%; cao su
cũng đạt 1,4 tỷ USD, tăng 8,8%; than đá trên 1 tỷ USD, tăng 11,3%. Trong giai
đoạn 2006-2010 có một số mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu cao. Hàng dệt
may đứng đầu với bình quân 8,6 tỷ USD/năm, tăng mạnh so với 3,5 tỷ USD/năm
của giai đoạn trước. Giày dép đạt 4,3 tỷ USD/năm, tăng so với 2,3 tỷ USD/năm
của thời kỳ trước. Hải sản đạt 4,2 tỷ USD/năm, giai đoạn trước là 2,2 tỷ USD/năm.
Kim ngạch gạo xuất khẩu tăng mạnh với mức tăng 17,9%/năm. Riêng dầu
thô xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010 giảm đáng kể do tăng nguồn nguyên liệu cung
cấp cho nhà máy lọc dầu Dung Quất, thay thế dần hàng nhập khẩu. Kim ngạch
xuất khẩu dầu thô giai đoạn này chiếm 13,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm
nhiều so với 21% của thời kỳ trước.
11
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

Năm 2010 nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã đạt kim ngạch cao như hàng
dệt may đạt 11,17 tỷ USD, tăng 23,2% so với năm trước và chiếm 15,5% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước; hai mặt hàng da giày, thuỷ sản đều đạt khoảng 5 tỷ
USD, lần lượt vượt 14% và 9% mục tiêu xuất khẩu đặt ra từ đầu năm. Mặt hàng
gạo đạt kim ngạch hơn 3 tỷ USD và vượt 10%, cao su đạt 2,38 tỷ USD, vượt 80%
Bên cạnh các mặt hàng truyền thống nêu trên, nhiều mặt hàng xuất khẩu mới như
máy móc thiết bị, phụ tùng, phương tiện vận tải, hóa chất, sản phẩm hóa chất, sản
phẩm cao su, sản phẩm thủy tinh... kim ngạch xuất khẩu đã tăng mạnh, điều này đã
khẳng định chủ trương phát triển mặt hàng xuất khẩu mới từng bước phát huy hiệu
quả trong năm qua, đồng thời phản ánh năng lực sản xuất hàng xuất khẩu của nền
kinh tế ngày càng được mở rộng.

2.2.1.3. Về xuất khẩu dịch vụ
Về xuất khẩu dịch vụ, từ chỗ chỉ có số dịch vụ đếm trên đầu ngón tay và chỉ
do doanh nghiệp Nhà nước độc quyền kinh doanh, thậm chí có ngành được đặt
trong sự giám sát đặc biệt, ngày nay đã có nhiều doanh nghiệp của các thành phần
kinh tế tham gia, trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), đã tạo diện mạo mới cho dịch vụ và xuất khẩu dịch vụ.
Danh mục sản phẩm dịch vụ đã kéo dài, trong đó có sự xuất hiện và bứt phá
của những ngành có hàm lượng chất xám cao, thừa hưởng được thành quả của sự
bùng nổ công nghệ thông tin. Hiện có tới khoảng 70 loại hình dịch vụ đã được xuất
khẩu, cơ sở dịch vụ được nâng cấp, xây mới khang trang, trang bị kỹ thuật tiên
tiến,
hướng
dần
tới
trình
độ
khu
vực,
quốc
tế.
Xuất khẩu dịch vụ của nước ta (du lịch, vận tải, bưu chính viễn thông, tài chính…)
thời gian gần đây đã đạt được một số kết quả đáng chú ý.
Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam đã tăng gần như liên tục qua các
năm, chỉ bị ngắt quãng vào năm 2009, chủ yếu do tác động tiêu cực của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu (năm 2006 tăng 19,6%, năm 2007 tăng 26,7%, năm
2008 tăng 8,5%, năm 2009 giảm 17,7%; ước năm 2010 tăng 29,4%); bình quân
trong thời kỳ 2006- 2010 đạt 11,83%, cao hơn gấp rưỡi tốc độ tăng GDP do nhóm
ngành dịch vụ tạo ra (7,73%).

Biểu đồ 1: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU DỊCH VỤ GIAI ĐOẠN 2005-2010


12
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

Nguồn: Niên giám Thống kê
Trong tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ, dịch vụ du lịch chiếm tỷ trọng lớn
nhất. Năm 2005 đạt 2,3 tỷ USD, chiếm 53,93%; năm 2009 đạt 3,05 tỷ USD, chiếm
52,9%; ước năm 2010 đạt 4.450 triệu USD, chiếm 59,65%; bình quân 6 năm qua
đạt 3.388,3 triệu USD/năm, chiếm 56,38%. Tốc độ tăng bình quân mỗi năm của
dịch vụ du lịch trong 5 năm qua đạt 14,11% , cao hơn tốc độ tăng chung của xuất
khẩu dịch vụ.
Xuất khẩu dịch vụ du lịch đạt được kết quả tích cực như trên nhờ lượng
khách quốc tế đến Việt Nam gần như liên tục tăng lên qua các năm. Năm 2009, số
khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 5 triệu lượt người. Như vậy, dịch vụ du lịch
đã phục hồi về lượt khách và đang có xu hướng phục hồi về mức chi tiêu của
khách trước khủng hoảng. Đây là tín hiệu khả quan để tăng lượng khách quốc tế
đến Việt Nam trong các năm tới và tăng với tốc độ cao hơn về số ngoại tệ thu được
từ khách do khách đến chi tiêu nhiều hơn, ở lại dài ngày hơn. Đây cũng là thời cơ
cho ngành du lịch Việt Nam trong thời gian tới.
Một dịch vụ khác có quy mô và tỷ trọng lớn thứ 2 là dịch vụ vận tải: năm
2005 đạt 1,167 tỷ USD, năm 2009 đạt 2,062 tỷ USD, ước năm 2010 đạt 2,306 tỷ
USD.
2.2.1.4. Về thị trường xuất khẩu

13
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2



Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

Cơ cấu thị trường xuất khẩu hiện nay đã có sự chuyển hướng khá tích cực.
Kim ngạch xuất khẩu không chỉ tăng vào thị trường Hoa Kỳ như năm 2003, mà
xuất khẩu vào thị trường EU, Nhật Bản và TQ cũng tăng khá mạnh.
Cụ thể, năm 2004 so với năm 2003, xuất khẩu vào thị trường TQ tăng 57%,
EU tăng gần 34%, Nhật Bản tăng 20%, Mỹ đạt 27%. Đặc biệt, tại thị trường châu
Á, nhất là khu vực ASEAN, kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm dần trong vài
năm gần đây và dịch chuyền sang thị trường châu Âu và EU. Nếu năm 2001, xuất
khẩu vào Châu Á chiếm tỉ trọng 60,5%, ASEAN chiếm 17% thì năm 2004 tỉ lệ này
giảm xuống còn 47,7% và 13,9%. Kể từ khi gia nhập vào tổ chức WTO thì cơ cấu
thị trường xuất khẩu của ta đã có sự thay đổi mạnh và có sự mở rộng thị trường,
thể hiện thị trường bên ngoài trở nên đa dạng hơn và Việt Nam đã thâm nhập sâu
hơn vào các thị trường trọng yếu trên thế giới như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu,
Trung Quốc, Nhật Bản. Gia nhập WTO là yếu tố tác động tích cực đến thương mại,
theo đó xuất khẩu trong năm 2007 và 2008 tăng trên tất cả các thị trường và ít có
biểu hiện chuyển hướng thương mại dưới tác động của các khu vực mậu dịch tự
do.
Tự do hóa thương mại trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
tuy bắt đầu với Chương trình thu hoạch sớm từ năm 2004, nhưng chỉ mang lại tác
động mạnh mẽ đối với xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc trong năm đầu
tiên (2004)và năm 2008 (năm đầu tiên sau khi kết thúc Chương trình thu hoạch
sớm). Các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc lớn nhất là
nguyên, nhiên liệu thô (than đá, dầu thô, sợi bông, cao su) và nông sản (các loại
củ, quả, hạt).
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Hàn Quốc tuy bắt đầu muộn hơn (năm
2007) nhưng tác động lại rõ nét hơn, theo đó xuất khẩu của Việt Nam vào Hàn
Quốc tăng đột biến trong năm 2007 và 2008 (xem bảng dưới).


14
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

Bảng 2.3: TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
SANG MỘT SỐ ĐỐI TÁC THƯƠNG MẠI LỚN VÀ TỐC ĐỘ TĂNG
TRƯỞNG NHẬP KHẨU CỦA CÁC NƯỚC NÀY THỜI KÌ 2004 - 2009
Đơn vị: %

ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu vẫn là các
bạn hàng lớn nhất và cũng là các thị trường chính cho các mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam như nông sản, thủy sản, dệt may và giày dép. Các thị trường
này chiếm tới hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Thời kỳ 20042009, tỷ trọng kim ngạch vào 5 thị trường lớn này giảm nhẹ từ 77,4% năm 2004
15
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

xuống 72,3% năm 2009, cho thấy có sự chuyển dịch về cơ cấu xuất khẩu sang các
thị trường mới sau khi gia nhập WTO.
Tỷ trọng xuất khẩu sang các nước còn lại tăng không đáng kể, trừ gia tăng
mạnh mẽ xuất khẩu thủy sản sang Nga và tăng xuất khẩu giầy dép sang một số
bạn hàng mới như Mê-xi-cô. Riêng mặt hàng xe đạp và giày mũi da tiếp tục gặp
khó khăn do Liên minh Châu Âu áp thuế chống bán phá giá. Thị trường châu Phi
hiện vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ với tổng kim ngạch năm 2009 là 1,1 tỷ USD (chiếm
1,9% tổng kim ngạch xuất khẩu) nhưng lại có tiềm năng lớn, đặc biệt là với các
mặt hàng sử dụng công nghệ thấp và trung bình.

Tuy hàng chế biến chủ yếu được xuất sang các nước công nghiệp, còn hàng
thô chủ yếu xuất sang các nước trong khu vực, đã có thay đổi về tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu hàng chế biến trên tổng kim ngạch xuất khẩu theo nước bạn
hàng. Trong khi tỷ trọng các mặt hàng đã qua chế biến và hàng tinh chế trong
tổng kim ngạch xuất sang Trung Quốc, ASEAN và Hoa Kỳ tăng từ 14,1%, 32,6%
và 72,6% năm 2004 lên tới 25,6%, 38,4% và 79,2% năm 2008; thì tỷ trọng các
mặt hàng qua chế biến trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang Châu Âu và Nhật
Bản lại giảm tương ứng từ 80,2% và 60% năm 2004 xuống còn 73,1% và 55,6%
năm 2008. Việc gia nhập WTO đã làm các sản phẩm thuộc nhóm hàng nguyên
liệu thô tiếp cận thị trường châu Âu dễ dàng hơn.
Việc gia nhập WTO cũng góp phần làm tăng tính cạnh tranh của các mặt
hàng xuất khẩu của Việt Nam. Thời kỳ 2007-2008, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
của Việt Nam vào các nước bạn hàng chính luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng nhập
khẩu của các nước này. Năm 2009, mức giảm xuất khẩu của Việt Nam vào các
quốc gia này nhỏ hơn mức giảm nhập khẩu của họĐiều này cho thấy sức cạnh
tranh của hàng hóa Việt Nam đã được cải thiện và thị phần của hàng Việt Nam
trên các thị trường lớn này đã gia tăng.
Nếu không kể sự đột biến của 2 thị trường In-đô-nê-xia (do nước này đã
sản xuất đủ lương thực và không còn nhu cầu nhập khẩu gạo từ Việt Nam kể từ
năm 2007) và Phi-lip-pin (do thiên tai thường xuyên dẫn đến sản xuất lúa gạo gặp
nhiều khó khăn và nhu cầu nhập khẩu gạo tăng mạnh), tăng trưởng xuất khẩu của
Việt Nam vào Hoa Kỳ cao hơn rất nhiều so với tăng trưởng nhập khẩu của nước

16
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

này. Hàng hóa Việt Nam đã bắt đầu có chỗ đứng trên thị trường lớn nhất và khó

tính nhất thế giới.
Đặc biệt, năng lực cạnh tranh (Tiếng Anh là revealed comparative
advantage (RCA). Mặt hàng được coi là có năng lực cạnh tranh nếu chỉ số RCA
≥ 1.) của hàng Việt Nam trên các thị trường trọng yếu cũng tăng đáng kể.
Bảng 2.4: SỐ LƯỢNG MẶT HÀNG VIỆT NAM CÓ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH (RCA 1) TẠI CÁC THỊ TRƯỜNG CHÍNH

Sau khi gia nhập WTO, năng lực cạnh tranh của các hàng hóa sử dụng
công nghệ thấp tiếp tục tăng, trong khi các ngành sử dụng nhiều nguyên liệu và
các sản phẩm nguyên liệu thô lại giảm đáng kể. Điều này cho thấy Việt Nam tiếp
tục phát huy được lợi thế cạnh tranh (giá nhân công rẻ) của mình. Năng lực cạnh
tranh của các hàng hóa sử dụng công nghệ cao và trung bình của Việt Nam cũng
đã tăng lên đáng kể từ khi gia nhập WTO, mặc dù nhìn về tổng thể tính cạnh
tranh của các mặt hàng này vẫn còn thấp. Sau khi gia nhập WTO, năng lực cạnh
tranh thực của các mặt hàng cũng như số lượng các mặt hàng có tính cạnh tranh
(kể cả các mặt hàng sử dụng công nghệ cao) ở các thị trường lớn như Hoa Kỳ,
châu Âu, Nhật Bản đã tăng khá nhanh.
17
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

2.2.2. Về hoạt động nhập khẩu
2.2.2.1. Về quy mô và tốc độ nhập khẩu
Nhập khẩu về cơ bản đã phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi
mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa đáp
ứng nhu cầu cần thiết của đời sống. Tư liệu sản xuất chiếm 95% kim ngạch nhập
khẩu, trong đó 26 -27% là máy móc, 68% là nguyên nhiên liệu. Hàng tiêu dùng chỉ
chiếm khoảng 5% (năm 1990 là 15%). Nhập siêu giảm cả về giá trị tuyệt đối lẫn

tương đối: Năm 1996 nhập siêu gần 4 tỷ USD, năm 1999 chỉ còn khoảng 0,2 tỷ
USD. Tuy nhiên, từ năm 2001 nhập siêu lại từng bước tăng lên, từ 1188 triệu USD
năm 2001 lên 3039,5 triệu USD tới năm 2007 lên 14203.3 triệu USD tới năm 2010
là 12609,3 triệu.
Bảng 2.5: KIM NGẠCH NHẬP KHẨU HÀNG HÓA VÀ TỐC ĐỘ TĂNG
GIAI ĐOẠN 1995 - 2010
Đơn vị: Triệu USD

1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010

Kim ngạch nhập
Mức tăng tuyệt đối Tốc độ tăng (%)
khẩu
8155.4 11143.6
2988.2

36.64
11592.3
448.7
4.03
11499.6
-92.7
-0.8
11742.1
242.5
2.06
15636.5
3894.4
33.16
16218.0
581.5
3.72
19745.6
3527.6
21.75
25255.8
5510.2
27.91
31968.8
6713
26.58
36761.1
4792.3
14.99
44891.1
8130

22.11
62764.7
17873.6
39.81
80713.8
17949.1
28.59
80713.8
-10765
-13.33
84801.2
14852.4
22.23
Nguồn: Tổng cục Thống kê

18
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2005 đạt 36,76 tỷ USD, tăng 4,79 tỷ
USD hay 14,99% so với năm 2004. Tuy nhiên, đây là năm có tốc độ tăng nhập
khẩu hàng hóa thấp nhất kể từ năm 2002, thấp hơn nhiều mức tăng trung bình 18,5
%/năm trong giai đoạn 2001-2005. Kim ngạch nhập khẩu năm 2005 tăng chủ yếu
do giá nhập khẩu tăng trung bình 11,5% đã khiến kim ngạch nhập khẩu tăng 3,52
tỷ USD (chiếm tới 71,4% phần tăng thêm của kim ngạch nhập khẩu). Trong khi đó,
lượng nhập khẩu tăng 4,7% làm kim ngạch nhập khẩu tăng 1,41 tỷ USD (chỉ
chiếm 28,6% phần tăng thêm của kim ngạch nhập khẩu).
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tăng mạnh trong thời kỳ 2006-2010, đặc biệt

trong 2 năm đầu khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Kim ngạch hàng
hóa nhập khẩu đạt bình quân 68,5 tỷ USD/năm trong thời kỳ này, bằng 2,6 lần thời
kỳ 5 năm trước và tăng bình quân 18%/năm. Đáng chú ý là nhập khẩu của khu vực
FDI tăng cao, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch nhập
khẩu, thường chiếm trên 34%.
Một tác động được nhìn nhận từ trước khi mở cửa thị trường trong nước ở
mức độ lớn hơn, nhưng chưa được đánh giá đúng mức, là sự gia tăng nhập khẩu và
nhập siêu. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2007 đạt 62,8 tỷ USD, tăng
39,8% so với năm 2006; nhập siêu 14,2 tỷ USD. Kim ngạch nhập khẩu nửa đầu
năm 2008 lên tới 44,5 tỷ USD, tăng 60,3% so cùng kỳ năm 2007; nhập siêu tới
14,5 tỷ USD. Với các biện pháp quyết liệt của Chính phủ, nhập khẩu và theo đó là
nhập siêu đã giảm vào nửa cuối 2008. Nhập khẩu và nhập siêu cả năm 2008 tương
ứng là 80,7 tỷ USD và 18,0 tỷ USD. Nhập khẩu nguyên liệu sản xuất trong các
tháng cuối năm 2008 giảm mạnh còn do suy thoái kinh tế thế giới đã có ảnh hưởng
tiêu cực đến đầu tư và sản xuất ở Việt Nam và giá cả trên thị trường thế giới. Các
ảnh hưởng này còn kéo dài đến qua năm 2009. Nhập khẩu và nhập siêu năm 2009
tương ứng là khoảng 70 tỷ USD và 12,8 tỷ USD, đồng thời tốc độ nhập khẩu năm
2009 cũng giảm 13,33 % so với năm 2008 điều này cho thấy khủng hoảng kinh tế
mà nỗi bật là khủng hoảng tài chính ảnh hưởng lớn không chỉ đến hoạt đông xuất
khẩu mà còn ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu. Năm 2010 kim ngạch nhập
khẩu là 84,8 USD tăng 22,23 % so với năm 2009.

19
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

Kim ngạch xuất
khẩu


Kim ngạch nhập
khẩu

Nhập siêu

1995

5449

8155.4

2706.1

1996
1997
1998
1999

7255.9
9185
9360.3
11541,4

11143.6
11592.3
11499.6
11742.1

3887.7

2407.3
2139.3
200.7

2000
2001

14482,7
15029,2

15636.5
16218.0

1153.8
1188.8

19745.6

3039.5

2002

16706,1
2003
20149,3
25255.8
2004
26485
31968.8
2005

32447,1
36761.1
2006
39826,2
44891.1
2007
48561,4
62764.7
2008
62685,1
80713.8
2009
57096,3
69948.8
2010
72191,9
84801.2
Bảng 2.6 Tình hình xuất nhập khẩu qua các năm

5106.5
5483.8
4314
5064.9
14203.3
18028.7
12852.5
12609.3

ĐVT: triệu USD


Nguồn: Tổng cục thống kê.

2.2.2.2 Về cơ cấu mặt hàng.
Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu cũng có những chuyển biến đáng lưu ý.
Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng máy móc - thiết bị - phụ tùng năm 2005 đạt
9,285 tỷ USD, chiếm 25,3% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng 0,84% so với

20
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

2004. Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu đạt gần 23663,9
triệu USD, chiếm 64,4% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng 14,7%. Lưu ý là một số
mặt hàng là đầu vào sản xuất có kim ngạch nhập khẩu giảm mạnh so với năm 2004
là urê (giảm 40%), phân bón các loại (giảm 21,7%), bông (giảm 14,7%). Kim
ngạch nhập khẩu nhóm hàng tiêu dùng ước đạt 994 triệu USD, giảm tới 50,5% so
với năm 2004 và chỉ chiếm tỷ trọng là 2,7% trong tổng kim ngạch nhập khẩu.
Giai đoạn 2006- 2010 Cơ cấu hàng nhập khẩu trọng tâm là tư liệu, nguyên liệu cho
sản xuất do sản xuất trong nước phát triển khá, đặc biệt là sản xuất hàng xuất khẩu
nhưng vẫn phụ thuộc hàng nhập khẩu là chủ yếu, cụ thể là: Nhập khẩu xăng dầu
bình quân giai đoạn 2006-2010 tăng 2,7%/năm và tăng 19,7% so với giai đoạn
trước.Sắt thép nhập khẩu bình quân tăng 15,7%/năm và tăng 71% so với giai đoạn
trước. Vải nhập khẩu bình quân tăng 16,8%/năm và tăng 140% so với giai đoạn
trước. Linh kiện điện tử nhập khẩu bình quân tăng 25,8% năm và tăng 226,3% so
với giai đoạn trước. Nhập khẩu ô tô nguyên chiếc giai đoạn 2006-2010tăng 174%
so với giai đoạn trước.
Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, thời kỳ 2006-2010 là thời kỳ mức nhập
siêu tăng mạnh, bình quân 12,5 tỷ USD/năm, bằng 3,3 lần thời kỳ trước và chiếm

22,3% kim ngạch xuất khẩu bình quân năm, cao hơn mức 17,3% của thời kỳ 20012005.
Từ sau năm 2007,nhập khẩu chủ yếu tập trung vào các mặt hàng nguyên nhiên
vật liệu và máy móc phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, tỷ
trọng hàng tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đã tăng từ khoảng
7,7% giai đoạn 2001-2006 lên 8,1% năm 2007 và khoảng 8,8% năm 2008. Hơn
nữa, trong khi nguyên liệu sản xuất có xu hướng giảm mạnh trong giai đoạn
khủng hoảng kinh tế toàn cầu (từ giữa năm 2008) thì kim ngạch nhập khẩu hàng
tiêu dùng lại có xu hướng tăng. Trên thực tế, nhập khẩu hàng tiêu dùng có thể cao
hơn nhiều do không thể tính được hàng nhập lậu cũng như do vấn đề phân loại
hàng nhập cho sản xuất và tiêu dùng.
Một ví dụ là trong năm 2007 kim ngạch nhập khẩu ô tô nguyên chiếc lên tới 579
triệu USD (hơn 30 nghìn chiếc), tăng 171,8% so với năm 2006. Năm 2008 tuy
tăng thấp hơn so với năm 2007 (78,7%), nhưng vẫn lên tới 1 tỷ USD (50,4 nghìn
21
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

chiếc). Thậm chí trong năm 2009, khi toàn bộ nền kinh tế thế giới gặp khủng
hoảng và nhiều hãng xe lớn đứng ở bờ vực phá sản do nhu cầu tiêu thụ xe trên
toàn thế giới giảm mạnh thì lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu vào Việt Nam đạt
mức kỷ lục với gần 80,6 nghìn chiếc, tăng 57,8% so với năm 2008 và gấp 6,5 lần
so với năm 2006.
Tương tự, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng linh kiện và phụ tùng ô tô tuy có
giảm so với năm 2008 nhưng tốc độ giảm thấp hơn nhiều so với tốc độ giảm nhập
khẩu chung.
Nhập khẩu tăng mạnh năm 2007 và nửa đầu năm 2008 được giải thích do tăng
trưởng cao, nhu cầu đầu tư lớn (nhất là vào kết cấu hạ tầng và các công trình
trọng điểm quốc gia), nguồn vốn FDI nhiều và bản thân cơ cấu kinh tế đòi hỏi đầu

vào nhập khẩu lớn cho xuất khẩu và sản xuất nói chung. Giá cả hầu hết các mặt
hàng nguyên nhiên vật liệu (như bông, sắt thép, phân bón, xăng dầu) trên thị
trường thế giới tăng cũng là một nguyên nhân.
Nhập khẩu hàng tiêu dùng ‘bùng phát’ là do thu nhập tăng (nhìn chung) cộng với
hiệu ứng thu nhập từ tài sản tăng cùng việc cắt giảm thuế quan đối với một số mặt
hàng tiêu dùng nhập khẩu. Tuy nhiên, cần phân tích nguyên nhân nhập khẩu tăng
đột biến một cách thấu đáo hơn, xét cả về chủ thể nhập khẩu, đối tượng phục vụ và
cơ cấu mặt hàng, và cả trong mối quan hệ với diễn biến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô
như tỷ giá, lạm phát, thuế quan và chu chuyển vốn. Quán tính và kỳ vọng sai về sự
phát triển mạnh tiếp tục của nền kinh tế cùng yếu tố đầu cơ (tạo ra ‘cơn sốt’ nhập
khẩu một số mặt hàng như ô tô, thép, và kim loại quý như vàng,...) cũng được xem
là những nguyên nhân rất đáng lưu ý tạo ra mức nhập siêu kỷ lục trong những
tháng đầu năm 2008.

22
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

Bảng 2.7: Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu giai đoạn 1995-2010
ĐVT: %

liệu
sản
xuất
(1+2)
1995 84.8

Máy móc,

thiết bị,
dụng cụ,
phụ tùng
(1)
25.7

Nguyên
nhiên,
vật liệu
(2)

Hàng tiêu Lương
dùng
thực(3
(3+4+5+6) )

Thực
phẩm(4
)

Hàng y
tế(5)

Hàng
Vàn
khác(6) phi
tiền
tệ

59.1


15.2

3.5

0.9

10.8

1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010

27.6
30.3
30.6
29.9
30.6

30.6
29.8
31.6
28.8
25.3
24.6
28.6
28.0
29.3
29.6

60.0
59.6
61.0
61.7
63.2
61.6
62.3
60.6
64.5
64.4
63.4
61.9
60.9
60.9
60.8

12.4
10.1
8.5

8.4
6.2
7.9
7.9
7.8
6.7
8.2
7.8
7.4
7.8
9.3
8.8

2.9
2.1
2.4
2.5
1.9
3.0
2.5
2.4
2.4
3.0
2.8
2.5
2.7

1.9
3.1
2.8

2.3
2.2
2.0
1.8
1.6
1.4
1.4
1.3
1.2
1.1

7.6
5.0
3.2
3.6
2.1
3.0
3.6
3.8
2.9
3.7
3.7
3.7
4.0

87.6
89.9
91.5
91.6
93.8

92.1
92.1
92.2
93.3
89.6
88.0
90.5
88.8
90.2
90.0

0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0



1.5

Nguồn: Niên giám thống kê

2.2.2.3 Về thị trường nhập khẩu.
Năm 2005 cơ cấu thị trường nhập khẩu theo châu lục có sự chuyển dịch
ngược lại so với năm 2004. Năm 2005, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu từ thị trường
Châu Á, khoảng 29,7 tỷ USD, tăng 17,6%, trong đó, chỉ riêng thị trường ASEAN

đã chiếm tới 25,4% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng 20,7%. Tỷ trọng nhập khẩu từ
các châu lục còn lại, trừ Châu Phi, đều giảm đáng kể. Riêng 13 thị trường quốc gia,
vùng lãnh thổ nhập khẩu lớn nhất (có kim ngạch nhập khẩu trên 600 triệu USD) đã
23
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2

2.2
4.2
2.1
3.4
0.5
1.2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

chiếm tới 84,1% kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của cả nước, với tổng kim ngạch
là 31 tỷ USD. Vị trí xếp hạng về thị phần nhập khẩu của 5 thị trường nhập khẩu
chính của Việt Nam về cơ bản vẫn như năm 2004, lần lượt là: Trung Quốc
(15,4%), Xingapo (12,7%), Đài Loan (11,7%), Nhật Bản (11,1%) và Hàn Quốc
(10%).
Xét theo đối tác thương mại, nước ta nhập siêu chủ yếu từ các nước châu Á,
đặc biệt là Trung Quốc, Hàn Quốc và ASEAN. Đa số nguyên nhiên phụ liệu, vật tư
và thiết bị máy móc được nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Xinhga-po, và Thái Lan do lợi thế về vận tải, giá cả và tính phù hợp. Đặc biệt, ASEAN
và Trung Quốc vẫn là những đối tác cung ứng lớn nhất cho nước ta, với tỷ trọng
trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam tăng từ khoảng 31,9% năm 1995
lên 45,3% năm 2007, 43,4% năm 2008 và 43% năm 2009. Riêng tỷ trọng của
Trung Quốc đã tăng từ 14,2% giai đoạn 2001-2006 lên trên 19% năm 2007 và năm
2008, và vọt lên tới 23,2% trong năm 2009.
Trung Quốc là nhà cung cấp lớn nhất các mặt hàng thuộc nhóm máy móc,

thiết bị, dụng cụ và phụ tùng, các mặt hàng thuộc nhóm máy tính, sản phẩm điện tử
và linh kiện và một số nhóm hàng khác. Nhập khẩu từ Hoa Kỳ, Nhật Bản, Liên
minh Châu Âu chủ yếu là máy móc thiết bị công nghệ nguồn và một số nguyên vật
liệu phụ trợ, nhưng lượng nhập còn khiêm tốn và tỷ trọng có xu hướng giảm.
Rõ ràng, tiếp cận công nghệ nguồn tiên tiến chưa phải là điều phổ biến ở
nước ta và điều này có ảnh hưởng không tốt đến khả năng cạnh tranh trong dài hạn
của nền kinh tế. Hơn nữa, mức nhập siêu với các đối tác trong khu vực Đông Á có
xu hướng tăng trong những năm gần đây. Điều này cho thấy trong chừng mực nhất
định, nước ta đã không tận dụng được cơ hội do các khu vực mậu dịch tự do mang
lại như các đối tác trong khu vực.

24
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


Thực trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam sau 25 năm đổi mới.

Biểu đồ 2: nguồn nhập khẩu theo nhóm bạn hàng chính.

2.2.2.4 Nhập khẩu dịch vụ
Trong năm đầu tiên gia nhập WTO, nhập khẩu tất cả các ngành dịch vụ đều
tăng, trong đó tăng cao nhất là bưu chính – viễn thông (50%), tiếp đó là bảo hiểm
(31,3%), vận tải hàng hải (19,0%), vận tải hàng không (17,1%), du lịch (16,2%)
vàdịch vụ tài chính (11,1%).
Đóng góp của khu vực ĐTNN trong nhập khẩu dịch vụ của Việt Nam là đáng kể vì
trên thị trường dịch vụ của Việt Nam đã có hiện diện thương mại của các công ty
cung ứng dịch vụ nước ngoài trong các lĩnh vực như khách sạn – nhà hàng, hàng
không, bảo hiểm, ngân hàng.
Năm 2008, mức tăng trưởng nhập khẩu dịch vụ giảm xuống còn 10,3%,
trong đó dịch vụ tài chính và vận tải hàng không bị giảm tương ứng là 23,3% và

2,4%, còn lại các dịch vụ khác vẫn duy trì tăng trưởng dương.
Tuy nhiên, sang năm 2009, cũng giống như xuất khẩu, nhập khẩu dịch vụ
cũng bị giảm 14,1%. Chỉ có 2 dịch vụ là bưu chính viễn thông và dịch vụ chính
phủ là duy trì tăng trưởng dương, còn lại các ngành đều bị tăng trưởng âm, trong

25
Nhóm sinh viên thực hiện: nhóm 2


×