Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG TỔ CHỨC THU MUA LÚA GẠO TẠM TRỮ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.74 KB, 30 trang )

MỤC LỤC


ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG TỔ CHỨC THU MUA LÚA GẠO
TẠM TRỮ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Chương 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1 Đặt vấn đề
Trong suốt quá trình lịch sử hình thành và phát triển đất nước, thì nền
kinh tế Việt Nam chủ yếu là dựa vào nền kinh tế nông nghiệp. Ở nông thôn
Việt Nam lại có tới 73% lực lượng lao động xã hội làm trong lĩnh vực nông
nghiệp, đặc biệt ngành nông nghiệp lúa nước…Vì vậy mà chúng ta cần xây
dựng một nền nông nghiệp mạnh và phát triển bền vững (về kinh tế, xã hội và
sinh thái), sử dụng khoa học công nghệ để từng bước hiện đại hóa trong sản
xuất nông nghiệp tăng sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường
thế giới và cả trong nước. Từ đó làm tăng lợi ích và góp phần nâng cao đời
sống của nông hộ nông thôn.
Trong đó việc sản xuất lúa, gạo cũng đang là một vấn đề nóng bỏng đặt
ra cho ngành nông nghiệp của nước ta hiện nay. Vấn đề đầu ra cho hạt gạo
Việt Nam là điều khiến nhiều người đau đầu, đứng đầu là ngành nông nghiệp.
Với tổng sản lượng lúa vụ đông – xuân năm 2014 - 2015 là 11,33 triệu tấn lúa,
sản lượng gạo hàng hóa khoảng 4,3 triệu tấn. Hiện đang vào vụ thu hoạch rộ
cho nên nguồn cung có thể dư thừa tới 3,6 triệu tấn gạo. Giá lúa đang có xu
hướng giảm do quy luật cung cầu trên thị trường, cùng với đó là tình hình xuất
khẩu gạo lại gặp nhiều khó khăn đặt ra yêu cầu cấp bách phải tiêu thụ nhanh,
kịp thời lúa, gạo cho nông dân. Và giải quyết tình trạng ứ động lúa quá nhiều
như hiện nay. Nhưng chính sách thu mua tạm trữ một triệu tấn gạo chỉ giải
quyết được khoảng 25% sản lượng trong lúa của vụ đông xuân. Đây chỉ là
chính sách mang tính tạm thời, trước mắt. Cũng theo thứ trưởng Bộ NN và
PTNT Vũ Văn Tám cho rằng: “Thu mua tạm trữ chỉ là giải pháp can thiệp thị
trường, ngăn ngừa giá lương thực giảm khi vào thu hoạch rộ, bảo đảm lợi ích
cho người trồng lúa”.


Chính những điều kiện thực tế như vậy, mà Chính phủ đã quyết định thu
mua tạm trữ lúa, gạo với mục đích giúp ổn định thị trường cho loại sản phẩm
này. Và qua sáu năm triển khai chính sách thu mua lúa, gạo tạm trữ. Chúng ta
đã nhìn thấy được chính sách này đã và đang bộc lộ những khuyết điểm. Trên
thực tế, đã qua nhiều năm tình trạng đầu vụ giá lúa lên xuống liên tục, vào thời
điểm thu hoạch rộ thì giá rớt xuống rất thấp và cuối vụ lại tăng lên khi nông
dân không còn lúa để bán, khiến nguồn ngân sách nhà nước đổ vào để thu mua
tạm trữ lúa, gạo chỉ là giải pháp tình thế mà chưa hề có một cuộc đánh giá, so
2


sánh thiệt hơn nhằm tìm ra giải pháp khả thi, bền vững nhất. Chính vì vậy làm
thế nào để chính sách này phát huy hiệu quả đối với ngành nông nghiệp nói
chung và người nông dân nói riêng?.

1.2

Sự cần thiết của vấn đề
Trong những năm vừa qua, các chính sách của Chính phủ đối với ngành
lúa, gạo nhằm nâng cao quyền lợi của người nông dân và sức cạnh tranh
của ngành lúa gạo, nhưng nó chưa tác động một cách toàn diện lên chuỗi
giá trị mà chỉ tập trung vào một vài tác nhân cụ thể khiến tính hiệu quả
của chính sách còn rất là hạn chế, tạo ra cơ chế thị trường với nhiều bất
cập.
Các chính sách liên quan đến ngành lúa, gạo chỉ hướng đến giải quyết
một khía cạnh cụ thể nào đó hoặc xem xét đến lợi ích trực tiếp của một
chủ thể trong nền kinh mà ít tính toán đến lợi ích toàn diện và đặc biệt
nhất là lợi ích của nông dân. Việc tồn tại quá nhiều tác nhân trung gian
thiếu tính hợp tác trong chuỗi giá trị gạo tại Đồng bằng sông Cửu Long
dẫn đến hiệu quả kinh tế của chuỗi giá trị là không cao, do chi phí cao và

giá trị gia tăng phân chia không hợp lý, làm cho giá lúa gạo mua của
nông dân thấp nhưng giá lúa gạo trên thị trường nội địa lại cao, làm giảm
năng lực cạnh tranh của lúa, gạo trên thị trường trong nước.
Vì vậy làm cách nào để các tác nhân trung gian này cùng hợp tác khi
tham gia vào chuỗi giá trị này? Để các chính sách của Chính phủ mang
lại lợi ích lớn nhất cho toàn ngành và trực tiếp cho người nông dân cũng
như mang lại giá trị cao hạt gạo của Việt Nam? Chính vì thế chúng ta cần
xây dựng một chuỗi hệ thống thu mua lúa, gạo một cách chặt chẽ và hiệu
quả. Có quy định rõ ràng về vai trò và trách nhiệm của những người có
liên quan đến chuỗi giá trị này.

1.3

Mục tiêu nghiên cứu

1.3.1 Mục tiêu chung

Đề tài này tập trung phân tích thực trạng của việc tổ chức thu mua lúa,
gạo tạm trữ trên cơ sở nghiên cứu các chính sách mà chính phủ đã sử dụng để
thúc đẩy việc tổ chức thu mua tạm trữ tại khu vực Đồng Bằng Sông Cửu
Long. Từ đó, đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện và phát huy hiệu quả của
việc thu mua lúa, gạo tạm trữ của Nhà nước.
1.3.2 Mục tiêu cụ thể

Phân tích thực trạng của hệ thống tổ chức thu mua lúa, gạo tạm trữ tại
Đồng Bằng Sông Cửu Long.
3


Đề xuất một số giải pháp giúp hoàn thiện hơn hệ thống tổ chức thu mua

lúa, gạo tạm trữ ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.
1.3Phạm vi nghiên cứu

Nội dung nghiên cứu là hệ thống tổ chức thu mua lúa, gạo tạm trữ.
Địa điểm nghiên cứu: tập trung là khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long
gồm 13 tỉnh.
Thời gian nghiên cứu: từ ngày 25/5/2015 –5/7/2015.
Đối tượng nghiên cứu: các chính sách thu mua lúa, gạo tạm trữ của
Chính phủ.
1.4Lược khảo tài liệu

Theo ông Đào Thế Anh Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển hệ
thống nông nghiệp trong những năm vừa qua các chính sách của Chính phủ
đối với ngành lúa, gạo nhằm nâng cao vị thế của người nông dân và sức cạnh
tranh của ngành chưa tác động toàn diện lên chuỗi giá trị mà chỉ tập trung vào
một vài tác nhân cụ thể khiến tính hiệu quả còn rất hạn chế, tạo ra cơ cấu thị
trường với nhiều bất cập. Các chính sách cho ngành lúa, gạo chỉ hướng đến
giải quyết một khía cạnh cụ thể hoặc xem xét lợi ích trực tiếp của một chủ thể
mà ít tính toán đến lợi ích toàn cục và đặc biệt là lợi ích của nông dân. Việc
tồn tại quá nhiều tác nhân trung gian thiếu tính hợp tác trong chuỗi giá trị gạo
tại ĐBSCL dẫn đến hiệu quả kinh tế của chuỗi thấp, chi phí cao và giá trị gia
tăng phân chia bất hợp lý, làm giá gạo mua của nông dân thấp trong thị trường
nội địa cao, làm giảm năng lực cạnh tranh của lúa gạo trên thị trường. Các
chính sách mà bài viết đã đề cập đến là (1) Chính sách bảo vệ quỹ đất lúa để
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia: giúp người nông dân Việt Nam có thêm
quyền chọn lựa loại cây trồng, qua đó sẽ có thêm năng lực mặc cả trong việc
định giá lúa gạo với các công ty thu mua. Đây sẽ là chính sách giúp Việt Nam
có thể điều tiết được nguồn cung trồng lúa một cách linh hoạt theo biến động
của nhu cầu tiêu thụ gạo trên thị trường thế giới. (2) Chính sách quy định giá
sàn thu mua lúa, đảm bảo nông dân lãi ít nhất 30%: Chính sách này có mục

tiêu tốt đối với người nông dân nhưng trên thực tế lại tác động ngược gây hại
cho người nông dân. Việc xác định giá thành sản xuất lúa khá phức tạp về
thống kê và phí tổn thời gian để đảm bảo tính chính xác, và mang tính đại diện
cho sản xuất lúa phổ biến của một vùng. (3) Chính sách trợ cấp tín dụng thu
mua tạm trữ: hiệu quả của chính sách này không thực sự rõ ràng và người
nông dân Việt Nam không được hưởng lợi trực tiếp từ chính sách này. (4)
Chính sách quy định điều kiện doanh nghiệp xuất khẩu gạo: các doanh nghiệp
4


xuất khẩu lớn hiện đầu tư rất ít vào tăng cường năng lực tiếp thị và tìm kiếm
thị trường mới, nguyên nhân cũng do chính sách tập trung đầu mối xuất khẩu
hiện không tạo động lực cho họ. (5) Chính sách hỗ trợ sản xuất: tập trung vào
khuyến cáo người nông dân tập trung sản xuất các loại giống nhằm nâng cao
chất lượng lúa gạo.
Theo Xuân Thân của tờ báo VOV.VN cũng nói đến chính sách quy định
giá sàn trong thu mua lúa, gạo và đảm bảo nông dân lãi ít nhất 30% có dụng
tốt đối với người nông dân, nhưng trên thực tế lại gây thiệt cho người nông
dân. Việc xác định giá thành sản xuất lúa khá phức tạp về thống kê và phí tổn
thời gian để đảm bảo tính chính xác, mang tính đại diện cho sản xuất lúa phổ
biến của một vùng. Sự biến động nhanh của thị trường các yếu tố đầu vào như
phân bón, thuốc trừ sâu, hay giá lao động,…sẽ làm cho việc xác định chi phí
tại mỗi thời điểm liên tục biến đổi. Do đó các doanh nghiệp xuất khẩu lúa, gạo
có xu hướng đàm phán bán gạo với giá thấp cho nước ngoài và quay trở lại ép
giá người nông dân. Vì vậy người nông dân sẽ không mặn mà với việc trồng
các loại lúa, gạo có chất lượng cao do giá thành trồng các loại giống lúa này
cao hơn. Chính sách này đã làm phá hoại chính sách khuyến khích nông dân
chuyển dịch sang trồng các loại lúa gạo có chất lượng cao.
Ông Đặng Kim Sơn Viện trưởng Viện Chính sách chiến lược phát triển
nông nghiệp nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho rằng bản

thân chúng ta bị nuông chiều, thị trường dễ tính và chính sách tạm trữ đã đóng
góp một phần. Cả hai bên sản xuất và tiêu thụ, cộng với chính sách Nhà nước
đã “ tiếp tay ” cho thị trường tiêu thụ lúa gạo giá rẻ, chất lượng thấp, khuyến
khích các doanh nghiệp đợi hỗ trợ để mua của dân, đợi nhà nước chỉ đạo ký
hợp đồng liên Chính phủ. Như vậy, Việt Nam đang sản xuất gạo cho thị trường
chính sách chứ không phải bán cho thị trường thương mại. Để xử lý tận gốc
vấn đề này cần phải tái cơ cấu cho ngành lúa gạo. Đầu tiên cần phải chuyển
hướng vào thị trường có giá trị, chất lượng cao. Thị trường mà cả chính sách
trong nước và nước ngoài không cần phải can thiệp.
Theo Bích Hồng cuả tờ báo TTXVN/VIETNAM+ nói rằng Chính phủ ra
quyết định thu mua tạm trữ lúa gạo với mục tiêu nhằm kích thích, giảm nguồn
cung tạm thời trên thị trường, đảm bảo lợi nhuận cho nông dân trồng lúa.
Nhưng chính sách này sau nhiều năm triển khai vẫn bị những kẻ trục lợi “hớt
váng”, còn nông dân vẫn ngóng chờ giá lúa lên và trông chờ vào sự hỗ trợ từ
Chính phủ. Nếu có thì vẫn chỉ là các doanh nghiệp được, nhất là các doanh
nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp không tham gia vào trực tiếp sản xuất có
cơ hội tham gia vào “hớt váng” và nông dân được xem như đỡ khổ.

5


Chương 2. TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU, ĐỐI TƯỢNG
NGHIÊN CỨU

2.1 Tổng quan về Đồng Bằng Sông Cửu Long
2.1.1 Vị trí địa lý và dân số
Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất màu mỡ ở phía Tây
Nam của Việt Nam, do phù sa sông Cửu Long bồi đắp, còn gọi là miền Tây
Nam Bộ hay gọi tắt là Miền Tây. Diện tích tự nhiên toàn vùng là 40.572 km 2;
dân số tính đến năm 2013 đạt 17.478,9 nghìn người, chiếm khoảng 20% dân

số của cả nước. ĐBSCL là khu vực có dân cư đông đúc đứng thứ 2 của cả
nước, sau Đồng Bằng Sông Hồng. Dân cư sinh sống tập trung vùng ven sông
Tiền, sông Hậu và thưa hơn ở các vùng sâu vùng xa trong nội đồng như vùng
U Minh, Đồng Tháp Mười,…
Dân cư sinh sông ở vùng ĐBSCL bao gồm nhiều dân tộc khác nhau,
trong đó có 4 dân tộc chính là: Kinh (Việt), Hoa, Chăm và Khmer. Người kinh
chiếm đại đa số, sống ở hầu hết các nơi trong vùng. Người Hoa tập trung
nhiều ở các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trang. Người Chăm sống chủ yếu ở
An Giang. Người Khmer có mặt đông ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng và An
Giang.
Đồng bằng sông Cửu Long có bờ biển dài trên 700km với khoảng
360.000km2 khu vực đặc quyền kinh tế. Phía Tây Bắc giáp với Campuchia.
Phía Đông Bắc tiếp giáp với vùng Đông Nam Bộ. Phía Đông giáp với biển
Đông. Phía Nam giáp với Thái Bình Dương. Phía Tây giáp với vịnh Thái Lan.
Đây là vị trí thuận lợi trong việc phát triển kinh tế biển, đặc biệt là khai thác và
nuôi trồng thủy hải sản phục vụ cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước và
xuất khẩu. ĐBSCL là 1 trong 7 vùng kinh tế của Việt Nam, thế mạnh của vùng
là sản xuất nông nghiệp. Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2014 đạt 829,3
nghìn tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2010), tăng 3,58% so với năm 2013. Tỷ
trọng giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản xuất của ngành đã tăng từ 57% năm
2010 lên 67,8% năm 20141. ĐBSCL nằm tiếp giáp với Thành phố Hồ Chí
Minh, nơi có tốc độ phát triển rất nhanh của cả nước, các tỉnh của vùng Đông
Nam Bộ, có đường biên giới giáp với Campuchia và ba mặt đều giáp biển là
Đông, Tây, Nam. Ví thế nằm trong khu vực có đường giao thông hàng hải và
hàng không quốc tế quan trong giữa khu vực Nam Á, Đông Á, Châu Úc và rất
gần các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Singapore, Philippin, Indonesia,…
1 Tổng cục Thống kê năm 2014

6



2.1.2 Kinh tê – xã hội

Đơn vị hành chính: vùng gồm có 13 tỉnh thành trực thuộc Trung Ương
là: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc
Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ.
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đóng vai trò rất quan trọng trong
phát triển nền kinh tế của cả nước. Ngành kinh tế chính ở ĐBSCL là nông
nghiệp, thủy sản và công nghiệp chế biến. Trong những năm gần đây kinh tế ở
ĐBSCL có những bước chuyển biến đáng kể, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tích cực (giảm dần tỷ trọng Nông – lâm – ngư nghiệp, tăng dần tỷ trọng
ở khu vực Công nghiêp – Xây dụng và dịch vụ). ĐBSCL chuyển từ nền kinh
tế sản xuất thuần nông sang nền kinh tế thị trường, sản xuất nông nghiệp với
chất lượng cao và đang hướng tới nền kinh tế công nghiệp và dịch vụ.
Một số kết quả đạt được trong năm 2010 như sau:
- Tổng giá trị GDP toàn vùng (theo giá cố định 1994) đạt 161.049,3 tỷ
đồng.
- Cơ cấu GDP chuyển biến tích cực: khu vực I chiếm 34,45%, khu vực II
chiếm 29,23% và khu vực III là 36,32%.
- Tăng trưởng kinh tế năm 2010 đạt 11,93%.
- Giá trị sản xuất nông nghiệp (giá so sánh 94) 56.078,8 tỷ đồng, tăng 4,3%
so với năm 2009; Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 94): 79.985,1 tỷ
đồng, tăng 15,54% so với năm 2009.
- Sản lượng lúa đạt 21,6 triệu tấn, với năng suất 41,6 tấn/ha , tăng 6,1% về
năng suất so với 2009.
- Sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 1.940.181 tấn; cá nuôi 1.509.963 tấn
chiếm 73,35 % sản lượng cá nuôi cả nước. Sản lượng tôm nuôi 341.117 tấn
chiếm 75,74% so với cả nước.
- Tổng mức bán lẻ hàng hóa toàn vùng đạt 277.487,9 tỷ đồng( giá thực tế);
chiếm 17,99% cả nước.

- Kim ngạch xuất khẩu toàn vùng đạt :6.869,6 triệu USD; Nhập khẩu:
2.523,7 triệu USD (Nguồn Sở công thương các tỉnh 2010).
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giáy phép (lũy kế các dự án còn hiệu
lực đến 31/12/2010) là 565 dự án với 9.439,9 triệu đôla Mỹ. Năm 2010,
ĐBSCL cấp phép 98 dự án với 1.821,5 triệu đôla Mỹ.
- Tổng số Doanh nghiệp (DN) là 23.220 doanh nghiệp; Số DN có lao động
trên 200 người là 170 DN; Tổng số lao động tham gia 667,3 nghìn người trong
doanh nghiệp lao động nữ chiếm 281,8 nghìn; Vốn sản xuất kinh doanh bình

7


quân hàng năm của DN 281.873 tỷ đồng với giá trị tài sản cố định và đầu tư
dài hạn 231.454 tỷ đồng (tính đến 31/12/2009)2.

2.2 Khái quát về tình hình sản xuất lúa, gạo ở ĐBSCL
Trong vụ đông xuân 2014 – 2015 vừa qua khu vực ĐBSCL đã tiến
hành gieo sạ 1.557.904(ha) đất, giảm 4.856(ha) so với vụ trước đó; với năng
suất là 7,16 (tấn/ha) và sản lượng lúa thu hoạch của cả vụ là 11.14.935(tấn).
Sản lượng lúa hàng hóa [= tổng sản lượng thu hoạch – (tiêu dùng tại chỗ +
suất khẩu) + số lượng tồn kho trước đó] là 11,5 triệu tấn. Trong đó số lượng
tồn kho trước đó là 4,3 triệu tấn lúa, còn sản lượng lúa của vụ Đông Xuân
2014 là 7,2 triệu tấn. Chính vì do sản lượng lúa hàng hóa còn lại là quá lớn,
cộng với việc ĐBSCL đã bước vào thời gian thu hoạch rộ. Cho nên giá lúa
liên tục giảm là điều đương nhiên.
Cụ thể là trong thời gian thu hoach một số loại lúa như IR50404 nông
dân bán tại ruộng dao động ở mức giá 4.300 - 4.350 đồng/kg, lúa có chất
lượng cao có giá vào khoảng 4.400 - 4.500 (đồng/kg), lúa thơm có cao hơn
từ 4.700 - 4.750 (đồng/kg). So với vụ thu đông của năm 2013, bình quân giá
lúa các loại đều giảm từ 600 - 700 (đồng/kg) và thấp hơn cùng thời điểm năm

ngoái từ 400 – 500 (đồng/kg).
Nhìn chung vụ này có năng suất cao hơn so với các năm trước và có
những tín hiệu tốt. Các giống lúa có chất lượng cao như (IR 64, VND 95-20,
OMCS 2000, OM 2517, OM 2718, OM 3536) cũng được một số tỉnh trồng
trong vụ này để phục vụ cho xuất khẩu. Giá thành sản xuất ra 1kg lúa trung
bình vào khoảng 3.417 đồng cộng thêm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và 30%
mức lãi tối thiểu (chính sách quy định giá sàn, đồng thời nông dân lãi ít nhất
30%) thì giá thành sản xuất 1 kg lúa sẽ vào khoảng 4.500 đồng, như vậy giá
mua tối thiểu của lúa khô sẽ vào 5.000 đồng/kg là phù hợp. Nhưng nhìn chung
sau thu hoạch nông dân gần như không có lãi, nhiều khi còn thua lỗ. Kèm theo
đó là tình hình xuất khẩu gạo gặp khá nhiều khó khăn, hiện các nước nhập
khẩu đã biết vùng ĐBSCL đang vào vụ thu hoạch lúa nên chưa vội mua nhiều
gạo, mà chờ đến khi thu hoạch rộ, tồn đọng nhiều,… để đưa ra mức giá mua
thấp. Khiến cho giá lúa ngày càng xuống thấp mà vẫn khó tiêu thụ.

Bảng thống kê các chỉ tiêu vụ lúa Đông Xuân 2014 – 2015
Stt

Chỉ tiêu

Vụ Đông Xuân 2014 - 2015

2 Can Tho promotion (trung tâm xúc tiến đầu tư – thương mại – du lịch thành phố Cần Thơ)

8


1

Diện tích lúa (ha)


1.557.904

2

Năng suất (tấn/ha)

3

Sản lượng lúa thu hoạch (tấn)

4

Sản lượng lúa hàng hóa (triệu tấn)

5

Giá thành (đồng/kg)

7,16
11.154.953
11,5 (4,3 + 7,2)
3.417

Nguồn: Cục trồng trọt (Bộ NN&PTNT)

2.3 Khái quát về thu mua lúa, gạo tạm trữ
2.3.1 Thế nào là thu mua tạm trữ

Thu mua tạm trữ: có thể hiểu là Chính Phủ bỏ tiền ra để triển khai một số

gói hỗ trợ cho doanh nghiệp, để doanh nghiệp tiến hành thu mua lúa, gạo của
nông dân, thông qua doanh nghiệp để giúp đỡ người nông dân. Giúp cho giá
lúa, gạo ổn định không bị rớt giá vào độ thu hoạch rộ. Sau khi thị trường đã ổn
định trở lại thì các doanh nghiệp tìm kiếm đầu ra cho số lúa, gạo đã mua trước
đó. Theo thứ trưởng Bộ NN và PTNT, Vũ Văn Tám nói “Thu mua tạm trữ chỉ
là giải pháp can thiệp thị trường, ngăn ngừa giá lương thực giảm khi vào thu
hoạch rộ, đảm bảo lợi ích cho người trồng lúa”.
2.3.2 Chính sách thu mua tạm trữ

2.3.2.1 Chính sách trợ cấp tín dụng thu mua tạm trữ
a. Trợ cấp tín dụng
Trong tổ chức Thương mại thế giới (WTO), trợ cấp được hiểu là bất kỳ
hỗ trợ tài chính nào của Nhà nước hoặc một tổ chức công (trung ương hoặc địa
phương) dưới một trong các hình thức sau mang lại lợi ích cho doanh
nghiệp/ngành sản xuất:
1. Hỗ trợ trực tiếp bằng tiền chuyển ngay (ví dụ cấp vốn, cho vay, góp cổ

phần) hoặc hứa chuyển (ví dụ bảo lãnh cho các khoản vay).
2. Miễn hoặc cho qua những khoản thu lẽ ra phải đóng (ví dụ ưu đãi thuế,

tín dụng).
3. Mua hàng, cung cấp các dịch vụ hoặc hàng hoá (trừ cơ sở hạ tầng

chung).
4. Thanh toán tiền cho một nhà tài trợ hoặc giao cho một đơn vị tư nhân

tiến hành các hoạt động nêu trên theo cách thức mà Chính phủ vẫn làm.
b. Nội dung của chính sách trợ cấp tính dụng

9



Theo Thông tư của Bộ Tài Chính đã hướng dẫn hỗ trợ lãi suất tiền vay
ngân hàng để mua tạm trữ lúa, gạo vụ Đông Xuân 2014 – 2015. Chính sách
này quy định ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ 100% lãi suất tiền vay của các
ngân hàng thương mại cho các thương nhân tham gia thu mua tạm trữ lúa, gạo.
Lãi suất hỗ trợ là lãi suất mà các thương nhân phải chịu khi vay ngân hàng
thương mại theo hợp đồng tín dụng nhưng tối đa không vượt quá 7%/năm.
Khác với các chính sách thu mua tạm trữ của Thái Lan và Ấn Độ, nơi
các doanh nghiệp nhà nước thu mua lúa ở mức giá tối thiểu trực tiếp từ nông
dân, thì ở Việt Nam, các doanh nghiệp thu mua lúa, gạo tạm trữ thông qua
thương lái. Vì vậy, chính sách hỗ trợ này chỉ mang lại lợi ích gián tiếp cho
người nông dân nếu như giá lúa, gạo tăng trở lại. Mặt khác, chính sách cũng
chưa tính đến việc hỗ trợ trực tiếp khắc phục tình trạng thiếu hụt về hệ thống
sấy và tạm trữ lúa.
Vì vậy, tác động từ chính sách này chưa làm tăng đáng kể lượng lúa thu
mua. Giá thu mua vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng ký được các hợp
đồng xuất khẩu của doanh nghiệp với các nước. Và đó chính là lý do tại sao
trong bốn lần thu mua tạm trữ trước đó từ năm 2009 đến 2012 (vụ hè thu vào
các năm 2009, 2010; vụ đông xuân vào các năm 2011 và 2012) thì có đến hai
lần thất bại, bởi vì giá lúa thu mua tiếp tục giảm thay vì tăng trở lại3.
Chính phủ nên sửa đổi chính sách này: khi giá lúa trên thị trường
xuống thấp hơn giá lúa do Ủy ban Giá Lúa, gạo công bố, Nhà nước nên cho
các hợp tác xã nông nghiệp vay tiền để đầu tư vào hệ thống máy sấy và kho
trữ lúa và theo khối lượng lúa của các xã viên đang tạm trữ. Họ cũng cần được
ứng trước một số tiền để đáp ứng cho các nhu cầu cấp bách của nông hộ. Đến
khi giá lúa tăng trở lại thì họ sẽ bán lúa và trả lại tiền tạm ứng cho Nhà nước.
Số lượng lúa tạm trữ của các hợp tác xã sẽ được hỗ trợ tối đa 100% về lãi suất
thay vì hỗ trợ cho doanh nghiệp thu mua. Như thế người nông dân sẽ hưởng
trực tiếp chính sách hỗ trợ này của nhà nước.

2.3.2.2 Chính sách quy định điều kiện doanh nghiệp xuất khẩu gạo
Trước đây, xuất khẩu gạo theo cơ chế tự do nên các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia vào thị trường xuất khẩu. Do vậy
nảy sinh tình trạng nhiều doanh nghiệp nhỏ thiếu vốn chẳng liên quan gì tới
ngành này, không có kho bãi, nhà máy chế biến, nhưng cũng tiến hành thu
mua gạo và xuất khẩu. Năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị định 109/NĐ CP/2010 đặt ra những điều kiện được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật; có ít nhất 1 kho chuyên dụng với sức chứa tổi thiểu là
3Những chính sách thiếu hiệu quả trong ngành lúa, gạo (tạp chí tia sáng bộ khoa học và công nghệ)

10


5.000tấn lúa; có ít 1 cở sở xay, xát lúa, gạo với công suất 10 tấn lúa/giờ; kho
và cở sở xay xát phải thuộc sở hữu của thương nhân và nằm trên địa bàn tỉnh;
….các quy định trên đã giúp siết chặt hơn đối với hoạt động kinh doanh xuất
khẩu gạo nhằm giảm bớt số lượng các đầu mối xuất khẩu, tránh hiện tượng
tranh nhau mua và bán. Hệ quả của chính sách này là chỉ tập trung việc xuất
khẩu vào một số doanh nghiệp lớn có đủ điều kiện, loại bỏ các doanh nghiệp
nhỏ vì khó có thể đáp ứng được các điều kiện nói trên. Tuy nhiên, chính sách
này lại tạo ra khoảng cách giữa doanh nghiệp xuất khẩu với nông dân, thay
vào đó là sự xuất hiện thêm tầng lớp thương lái làm cầu nối giữa nông dân với
các doanh nghiệp xuất khẩu.
Chính vì việc chỉ tập trung xuất khẩu vào một số ít doanh nghiệp lớn
khiến các doanh nghiệp lớn này có xu hướng tìm các thị trường xuất khẩu lớn,
béo bở với các loại gạo có chất lượng thấp và dẫn theo đó là giá cũng rẻ theo.
Thay vì tìm kiếm xuất khẩu tại các thị trường khác khó tính hơn với yêu cầu là
các loại gạo có chất lượng cao và giá bán cũng cao hơn. Chính sách này cũng
đã gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có sự liên kết với
nông dân sản xuất các giống lúa có chất lượng cao, lúa hữu cơ, đặc sản địa
phương, có thị trường đầu ra ổn định, lợi nhuận cao và đặc biệt có tính cạnh

tranh rất cao trên thi trường, nhưng lại không thể trực tiếp xuất khẩu ra bên
ngoài do không đủ điều kiện về kho chứa, hệ thống xấy. Chính sách này đang
làm tăng tính độc quyền và hạn chế sự năng động của các doanh nghiệp tư
nhân, đồng nghĩa với giảm sự cạnh tranh theo hướng chất lượng cao. Không
những thế trong nghị định này không hề đề cập đến lợi ích của người nông
dân, giá xuất khẩu không được niêm yết dẫn tới việc tự động tăng giá xuất
khẩu, vì vậy chỉ có nhà xuất khẩu mới nhận được nhiều lợi ích và nông dân thì
không tiếp cận được nguồn thông tin nào.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp lớn chỉ lo tìm kiếm những hợp đồng lớn
với giá trị rất cao, lại bỏ qua các hợp đồng nhỏ dễ dàng suất khẩu hơn. Do đó
việc ứ đọng lúa lại trong kho của doanh nghiệp cũng đã là rất lớn, cộng với
việc thu hoạch rộ của nông dân ở khu vực khiến mặt hàng này cứ loay hoay
không kiếm được đường ra. Dẫn đến sự rớt giá mạnh là chuyện đương nhiên
và cuối cùng nông dân là người chịu thiệt trong khi họ phải bỏ công sức nhiều
rất để tạo ra từng hạt lúa, hạt gạo. Nhưng kết quả đem lại cho họ là không đủ
để chăm lo cuộc sống của gia đình trên mảnh đất quê hương với cái nghề đã
gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước, là kinh nghiệm của cha ông từ xa
xưa để lại. Nuôi sống biết bao nhiêu con người.

11


2.3.2.3 Chính sách quy định giá sàn thu mua lúa
Giá sàn là mức giá tối thiểu được Chính phủ áp đặt lên một sản phẩm
nào đó. Nó khác với giá trần ở chỗ, là nó được tạo ra để ngăn không cho giá
của sản phẩm đó xuống quá thấp.
Chính sách quy định giá sàn trong thu mua nhằm hướng tới người nông
dân nhưng trên thực tế thì nó lại tác động ngược gây hại cho người nông dân.
Việc xác định giá thành trong sản xuất lúa là khá phức tạp về thống kê và phí
tổn thời gian để đảm bảo tính chính xác và mang tính đại diện chung cho

những người sản xuất lúa của cả một vùng. Sự biến động mạnh của thị trường
các yếu tố đầu vào như phân bón, thuốc trừ sâu, hay giá lao động,…Cũng sẽ
làm cho việc xác định chi phí tại mỗi thời điểm luôn biến đổi liên tục.
Hơn nữa ở ĐBSCL, các doanh nghiệp chủ yếu thu mua lúa, gạo thông
qua trung gian là thương lái, nên mức giá mà người nông dân trực tiếp được
hưởng luôn thấp hơn mức giá thu mua của công ty đưa ra. Nếu cứ dựa vào các
con số đã công bố thì mức giá thành sản xuất lúa tại các tỉnh ở ĐBSCL nằm
trong một khoảng rất là rộng, chẳng hạn từ 3.742 – 4.908 đồng/kg như đã áp
dụng đối với vụ hè thu năm 2014, các doanh nghiệp gần như cầm chắc phần
lợi khi thu mua lúa của người nông dân ở trên mức giá thành mang tính kỹ
thuật này cộng với 30% “lãi” như kỳ vọng của chính sách. Với mức giá thành
kỳ vọng thu mua được như vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu lúa, gạo có xu
hướng đàm phán bán gạo với giá thấp cho nước ngoài và quay trở lại định giá
mua thấp với nông dân. Người nông dân vì thế luôn chỉ được hưởng mức lãi
thấp do bị doanh nghiệp thu mua ép giá. Hơn nữa, người nông dân sẽ không
còn mặn mà với việc trồng các loại lúa, gạo có chất lượng cao do giá thành
trồng các giống lúa này cao hơn các giống lúa thường. Mức giá sàn này vô
hình trung tạo ra một “chuẩn” thu mua lúa bất lợi cho những người nông dân
trồng các loại lúa có chất lượng cao theo hợp đồng nông sản với các doanh
nghiệp xuất khẩu gạo4.
Như vậy, chính sách này không những không đem lại lợi nhuận kỳ
vọng nhiều hơn cho người nông dân mà còn làm ảnh hưởng đến chính sách
khuyến khích nông dân chuyển dịch cơ cấu cây trồng, trồng các giống lúa, gạo
có chất lượng cao. Để thay đổi tình trạng này, việc ấn định giá lúa gạo phải đại
diện cho tiếng nói của người trồng lúa.

4 Những chính sách thiếu hiệu trong ngành lúa gạo (tạp chí tia sáng bộ khoa học và công nghệ)

12



Chương 3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG TỔ CHỨC
THU MUA LÚA GẠO TẠM TRỮ Ở ĐBSCL
3.1 Thực trạng tổ chức hệ thống thu mua lúa, gạo tạm trữ
3.1.1 Các khâu trong hệ thống thu mua lúa, gạo
3.1.1.1 Nông dân
Trong chuỗi sản xuất lúa, gạo khâu chọn giống và sử dụng giống xác
nhận được xem là vô cùng quan trọng quyết định đến năng suất, sản lượng, chi
phí đầu tư và đầu ra của sản phẩm lúa hàng hóa. Nhưng nông dân ở ĐBSCL
chủ yếu là sản xuất lúa nhỏ lẻ theo từng hộ gia đình với phương pháp truyền
thống, chưa có áp dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật nhiều. Do việc sản
xuất không đồng bộ theo từng địa phương đã dẫn đến tình trạng là sự phát
triển phức tạp của nhiều loài sâu bệnh trên cây lúa, nhưng lại rất khó chữa trị
và nhanh chóng phát triển thành dịch trên địa bàn rộng lớn. Chính vì vậy mà
người nông dân ở đây chủ yếu trồng các giống lúa có chất lượng thấp như
IR50404, OM 576,… do những giống lúa này ít bị nhiễm bệnh và năng suất
lại cao so với những giống lúa có chất lượng cao. Những đặc biệt là giống lúa
này không đem lại giá trị kinh tế cao, đồng thời cũng không được thị trường
trong nước và trên thế giới ưa chuộng. Chúng ta lại chỉ có thể xuất khẩu những
giống lúa này sang các thị trường hiếm hoi, có nhu cầu nhập khẩu lúa gạo cao.
Một khi những thị trường này ngừng không nhập thì thị trường lúa, gạo trong
nước gần như chết đứng. Hằng năm Cục trồng trọt và các địa phương đều
khuyến cáo về các giống lúa chủ lực được nông dân chọn lựa canh tác. Tuy
nhiên tình trạng nông dân chọn giống lúa để canh tác theo thị hiếu vẫn diễn ra.
Họ sử dụng một giống qua nhiều vụ cộng với việc sử dụng giống chéo của
nhau. Vì giá của những giống lúa đã được xác nhận khá cao, người nông dân
cũng khó tiếp cận được.
Nông dân vẫn chưa thấy được tác dụng khi tham gia vào mô hình cánh
đồng mẫu lớn. Không tự tạo mối liên kết giữa doanh nghiệp và bản thân họ.
Với mô hình cánh đồng mẫu lớn sẽ cho phép tập trung cơ giới hóa và áp dụng

khoa học kỹ thuật nâng cao chất lượng, hạ giá thành và làm tăng sức cạnh
tranh của thương hiệu gạo Việt Nam. Doanh nghiệp sẽ cung cấp đầu vào và
đảm bảo đầu ra cho nông dân. Do nông dân và doanh nghiệp không gặp nhau,
mới dẫn đến sự xuất hiện của thương lái. Nông dân bị ép giá nhưng không làm
gì được.
Việc sản xuất manh mún và tiêu thụ lúa, gạo như hiện nay của nông dân
làm tăng chí phí đầu vào, chất lượng và khả năng cạnh tranh thấp, sản xuất
13


hao hụt nhiều,…Nguyên nhân chủ yếu là do xuất phát điểm của Việt Nam là
khá thấp, cở sở hạ tầng thì còn hạn chế; hệ thống cơ chế chính sách chưa tạo ra
sự công bằng giữa các thành phần kinh tế, một số chính sách vĩ mô chưa tạo
điều kiện thuận lợi cho sản xuất. Mặt khác, trong thời gian qua Việt Nam trông
chờ quá nhiều vào các thị trường dễ tính và cạnh tranh bằng giá rẻ, do đó chất
lượng gạo chưa cao.
Theo Bộ NN và PTNT, chỉ có 25% nông dân tiếp cận được với các thông
tin thị trường, hiện có tới 90% sản phẩm nông nghiệp được bán ra ở dạng thô
và 60% sản phẩm bị ép bán với giá thấp. Ngoài 2 yếu tố trên, khó khăn vùng
lúa ĐBSCL đang gặp phải còn ở qui mô mỗi hộ gia đình có khoảng 1ha, trồng
ba vụ lúa/năm thì lợi nhuận không đủ để trang trải chi tiêu cho gia đình 4-5
người. Trong khi đó, số hộ có diện tích đất dưới 0,5 ha/hộ ngày càng tăng. Bên
cạnh, nguồn nhân lực nông thôn giảm và ngày càng nhiều lao động trẻ có học
vấn rời bỏ quê hương. Tất cả những điều trên kết hợp với vấn nạn trình độ dân
trí thấp sẽ cản trở lớn đối với sự phát triển của ĐBSCL.
Trước khi tín hiệu giá có thể đến được với người nông dân, tiền hỗ trợ
từ những chính sách của Chính phủ đến được tay người nông dân thì phải trải
qua rất nhiều tầng lớp trung gian như ngân hàng, doanh nghiệp và thương lái.
Điều kiện ngân sách thì hạn hẹp đã khiến việc thu mua tạm trữ phải thông qua
nhiều giai đoạn lòng vòng.

3.1.1.2 Thương lái
Chính việc sản xuất manh mún của nông dân đã dẫn đến việc không có
đầu ra cho sản phẩm. Người nông dân ở vào thế bị động trong khâu tiêu thụ
sản phẩm, sản xuất xong mới tìm đầu ra cho hạt lúa. Với số lượng ít nên các
doanh nghiệp lớn không trực tiếp đến mua lúa, gạo của nông dân sản xuất với
quy mô nhỏ. Đồng thời các doanh nghiệp cũng không có điều kiện để đến
từng hộ nông dân để thu gom sản phẩm. Nông dân cũng không có máy sấy,
máy bơm, phương tiện để vận hàng hóa của mình đến các doanh nghiệp để
bán trực tiếp. Do nông dân và doanh nghiệp không thể gặp được nhau, vì vậy
đã dẫn đến sự xuất hiện của người thứ ba đó là thương lái. Thương lái giúp
nông dân và doanh nghiệp gặp được nhau một cách dễ dàng hơn.
Thương nhân, thương lái đóng vai trò quan trọng trong quá trình tiêu
thụ lúa, gạo ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Thực tế cho thấy bà con
nông dân ở khu vực miền Tây Nam Bộ chủ yếu trữ lúa tại nơi sản xuất. Tức là
trên cánh đồng của họ, ít có trường hợp gặt lúa xong rồi đưa về tập trung ở
kho bãi. Do đó việc tiêu thụ lúa, gạo cũng phải trông vào các lực lượng là
thương lái bởi các doanh nghiệp xuất khẩu gạo chưa có đủ điều kiện để đi tới
14


tất cả các ngõ ngách, vùng sâu, vùng xa của khu vực đồng bằng sông Cửu
Long.
Đa số thương lái đều có xuất thân từ những nông dân nhưng họ lại có
kinh nghiệm trong lĩnh vực mua bán nhỏ, họ biết đánh giá chất lượng sản
phẩm tốt hay xấu; biết giao dịch với nông dân trên từng sản phẩm, cánh đồng;
nhà máy nào làm ăn tốt lại nhanh nhậy trước thị trường;…Phương thức mua
bán của họ nhanh gọn, đơn giản, trả tiền ngay. Với những hộ nghèo cần mua
vật tư, hàng hóa phục vụ đời sống thì họ sẵn sàng cho vay ngay, đáp ứng kịp
thời nhu cầu của nông hộ có thể trả trước theo mức thỏa thuận hoặc vay không
lãi với điều kiện bán lúa cho họ với giá thấp hơn,… trong khi đó ngân hàng,

doanh nghiệp khó có thể đáp ứng được vì còn quá nhiều thủ tục. Bên cạnh
những mặt tích cực đó thì thương lái còn tồn tại những vấn đề: (1) thứ nhất, là
hành vi ứng xử của thương lái nói chung hoàn toàn phụ thuộc theo tín hiệu của
thị trường, dễ dẫn đến tình trạng “được mùa mất giá và mất mùa được giá” đối
với nông dân; (2) thứ hai, có nhiều thương lái không quan tâm đến chất lượng
gạo nên mua tất cả dù chất lượng tốt hay xấu. Điều này làm cho gạo sản xuất
ra không đồng đều về chất lượng, là một trong những nguyên nhân khiến giá
gạo xuất khẩu thấp.
Ngoài ra, việc thương lái tham gia vào ngành lúa, gạo nói riêng cũng
chỉ với mục đích là kiếm được lợi nhuân từ hoạt động mua đi bán lại của
mình. Chính vì vậy họ dùng những lợi thế của mình để ép giá của nông dân
xuống càng thấp thì họ càng có lợi nhất. Do nông dân không thể bán lúa, gạo
trực tiếp cho doanh nghiệp nên buộc họ phải tiến hành hoạt động mua bán với
đối tượng là thương lái. Với nhu cầu và điều kiện như vậy đã khiến thương lái
ép nông dân bán với giá rẻ. Cộng với các khoản chi phí về nhân công, phương
tiên vận chuyển của mình, khi hàng hóa đến được chỗ của doanh nghiệp thì họ
lại muốn bán lại với mức giá cao nhất. Một khi khoảng chênh lệch giữa mua
và bán càng lớn thì càng thúc đẩy hoạt động này của thương lái phát triển. Suy
cho cùng thì người nông dân vẫn là người chịu thiệt nhất.
3.1.1.3 Doanh nghiệp
Trong những tháng đầu năm 2015, tình hình xuất khẩu gạo của các
doanh nghiệp xuất khẩu diễn ra khá trầm lắng do các nước nhập khẩu gạo
chưa tăng cường nhập khẩu gạo. Dẫn đến nhiều doanh ngiệp trong nước vì thế
cũng lo ngại việc đẩy mạnh việc thu mua lúa, gạo. Thị trường xuất khẩu gạo
lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc, dự báo năm 2015 sẽ phải nhập khẩu tới
4 triệu tấn, đến thời điểm này vẫn đang “án binh bất đông” đợi giá giảm tiếp.
Trong năm 2015 Trung Quốc sẽ có nhiều thay đổi về chính sách nhập khẩu
15



gạo sẽ làm khó cho gạo xuất khẩu của Việt Nam. Trung Quốc kiểm soát và
ngăn chặn chặt chẽ việc nhập khẩu theo hình thức mậu biên qua biên giới,
tăng cường nhập khẩu gạo theo đường chính thức từ nhiều cung cấp với giá
thấp như Ấn Độ, Pakistan,… Philippines trong năm 2014 nhập khẩu khoảng
1,4 triệu tấn gạo của Việt Nam những đến nay cũng chưa thấy thông báo sẽ tổ
chức đấu thầu lại. Đối với thị trường nhập khẩu gạo của Philippines,
Indonesia, gạo xuất khẩu của Việt Nam lại phải cạnh tranh gay gắt về giá với
gạo của các nước như Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan… theo hình thức đấu thầu.
Ngoài ra còn thị trường Cuba và một số thị trường khác mức tiêu thụ gạo của
Việt Nam còn hạn chế. Trước mắt, gạo xuất khẩu của Việt Nam muốn hay
không vẫn phải dựa vào thị trường Trung Quốc5.
Việc thu mua tạm trữ còn phụ thuộc vào các yếu tố mang tính tâm lý
của người mua ở đây là doanh ngiệp, trong đó yếu tố quan trọng hơn cả là sự
phân tích, tính toán của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp yếu tố quyết
định tình hình thu mua là họ có bán được gạo hay không và điều này thì còn
phụ thuộc vào thị trường thế giới. Nếu thấy khả năng bán được họ sẽ mua,
thậm chí mua hơn cả mức tạm trữ đã được quy định hiện tại. Nếu thấy tình
hình xuất khẩu khó khăn họ sẽ không mua. Có lẽ cũng chính vì thế nên việc
tạm trữ lúa, gạo trong những ngày đầu thực hiện chính sách đã diễn ra rất
chậm chạp.
Bên cạnh đó, tiến độ thu hoạch lúa xong toàn vùng là rất lớn nên vượt
sức tổ chức thu mua của doanh nghiệp, đồng thời Chính phủ đưa ra chủ trương
đúng thời điểm, đúng lúc nhưng doanh nghiệp lại chưa có kế hoạch mở rộng
thị trường xuất khẩu, tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm khiến tiến độ thu mua
diễn ra chậm. Một số doanh nghiệp thu mua tốt lại gặp vấn đề là chưa tiếp cận
được nguồn vốn vay từ các ngân hàng thường mại, vì vậy những doanh nghiệp
này đã trả lại chỉ tiêu mua tạm trữ đã được giao cho.
Qua khảo sát thì vẫn còn một số doanh nghiệp chưa thể tiếp cận được
nguồn vốn vay theo chương trình của Chính phủ, về hỗ trợ cho doanh nghiệp
tham gia thu mua tạm trữ từ các ngân hàng thương mại, đã có doanh nghiệp

phải trả lại chỉ tiêu mua tạm trữ. Trong số 128 doanh nghiệp được phân bổ chỉ
tiêu tạm trữ, có hai đơn vị không thể thực hiện và trả lại chỉ tiêu tạm trữ. Có
mười đơn vị được phân bổ mua 37.000 tấn nhưng chưa được ngân hàng giải
ngân. Bên cạnh đó một số doanh nghiệp có tình hình tài chính kém, không có
đủ các tiêu chuẩn của doanh nghiệp thu mua nhưng vẫn được xếp vào danh
sách thu mua lúa, gạo. Vì vậy ngân hàng không cho các doanh nghiệp này vay,
5 Can Thơ promotion, khó khăn xuất khẩu gạo 2015

16


vì vậy doanh nghiêp không thể mua lúa, gạo được. Từ nguồn vốn vay ít, các
doanh nghiệp nhỏ rất khó khăn trong việc quay nhanh đồng vốn để thực hiện
tạm trữ và đến nay khó khăn trên vẫn chưa có hướng giải quyết. Trong khi các
doanh nghiệp có năng lực tài chính nhưng chỉ vì thiếu “một vài tiêu chí” nên
bị gạt ra ngoài. Vướng mắc nhất hiện nay vẫn là vấn đề về thủ tục. Khi hoàn
tất được thủ tục, doanh nghiệp cũng phải mất từ 10 – 15 ngày để được giải
ngân. Do đó, nếu doanh nghiệp có vốn sẽ thực hiện ngay được, nếu doanh
nghiệp có nhu cầu vốn ngân hàng sẽ phải chờ đợi lâu hơn.
3.1.1.4 Ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại được yêu cầu chủ động trong việc cân đối
nguồn vốn để đáp ứng kịp thời nhu cầu vay của các doanh nghiệp kinh doanh
lương thực, phục vụ cho thu mua lúa, gạo xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
Theo thống kê, tổng dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn trên cả nước đến
nay vào khoảng 231 nghìn tỷ đồng; riêng khu vực ĐBSCL là 71 nghìn tỷ đồng
(chiếm 30,6%). Trong khi đó, huy động vốn của cả khu vực chỉ đạt xấp xỉ 115
nghìn tỷ đồng, chưa đáp ứng được nhu cầu vốn tại chỗ đang ngày một tăng. Vì
vậy chúng ta có thể nhận thấy rằng: nhu cầu vay vốn của người nông dân và
các doanh nghiệp vùng ĐBSCL rất lớn, nhưng khả năng tiếp cận vốn vay ngân
hàng của nông dân bị hạn chế do lãi suất và cơ chế cho vay vốn còn nhiều

điểm chưa phù hợp với điều kiện thực tế của nông dân. Những quy định “rằng
buộc” khiến người nông gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn. Ví dụ
như: quy định chỉ hỗ trợ lãi suất khi vay vốn mua máy móc thiết bị sản xuất
trong nước; Ngân hàng tuân thủ quy định: quan hệ giữa ngân hàng và nông
dân vẫn dựa trên nguyên tắc chủ đạo là hợp đồng tín dụng. Mà đã là hợp đồng
tín dụng thì phải đảm bảo tính hiệu quả và có thế chấp. Do không có tài sản
thế chấp hoặc chưa trả hết nợ cũ, nên người dân không vay được vốn; quy
định khi vay vốn ngân hàng yêu cầu nông dân phải có hóa đơn, chứng từ mua
hàng,… Bên cạnh đó một số doanh nghiệp lại đang đứng trước khó khăn lớn
về vốn trong thu mua lúa, gạo tạm trữ cho xuất khẩu. Do hầu hết doanh nghiệp
chưa ký kết được hợp đồng với đối tác nước ngoài, nên đều chưa thể vay vốn
ngân hàng.
3.1.2 Cơ quan tham gia quản lý hệ thống thu mua lúa, gạo
3.1.2.1 Vai trò của Hiệp hội Lương thực Việt Nam
Khi thị trường gạo trên thế giới trầm lắng và hạt gạo đang bị ép giá, thì
việc thu mua tạm trữ và giãn tiến độ xuất khẩu gạo hiện nay để giữ giá gạo
không xuống quá thấp là điều cần thiết. Tuy nhiên, việc thu mua lúa, gạo tại
ĐBSCL lại đang gặp phải những khó khăn như về vốn và giá, khiến nông dân
17


tiếp tục bị thiệt thòi. Điều này cho thấy vai trò quản lý, điều hành xuất khẩu
gạo của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) chưa được thưc hiện tốt.
Hiệp hội Lương thực Việt Nam đã chỉ đạo 30 doanh nghiệp thành viên
(chủ yếu là các doanh nghiệp xuất khẩu gạo có hệ thống kho chứa đủ điều
kiện) mua tạm trữ lúa quy đổi ra là 1 triệu tấn gạo trong tháng 3 và 4/2015 vừa
qua, đang là mối quan tâm hàng đầu của nông dân trồng lúa hàng hóa và
doanh nghiệp thu mua tạm trữ gạo để xuất khẩu. Doanh nghiệp lo lắng, nếu
thu mua lúa, gạo tạm trữ lâu sẽ phải chịu lãi suất ngân hàng rất cao. Bên cạnh
đó là sự hoài nghi của doanh nghiệp về vai trò điều hành của VFA trong thời

gian qua, bởi vẫn còn xảy ra tình trạng bán phá giá của nhiều doanh nghiệp,
khiến những doanh nghiệp thực hiện tốt quy định về giá sàn bị thiệt thòi.
Vụ Đông Xuân 2014 - 2015, các doanh nghiệp và thành viên Hiệp hội
lương thực Việt Nam thu mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo, nhưng do áp lực vào vụ
thu hoạch đồng loạt, tình trạng thiếu lò sấy lúa ngày càng tăng, các doanh
nghiệp không đủ phương tiện thu mua, vận chuyển lúa hàng hóa của nông dân.
Đây là một điều đáng lo ngại. Hơn nữa có một thực tế là doanh nghiệp lớn dễ
tiếp cận với nguồn tín dụng, còn doanh nghiệp nhỏ khó tiếp cận vốn để mua
lúa, gạo tạm trữ bởi ngân hàng rất dè dặt với doanh nghiệp nhỏ.
Hiện tại, việc thu mua lúa, gạo tạm trữ vụ Đông Xuân 2014 – 2015 ở
ĐBSCL đã hoàn thành, thu mua với tỷ lệ quy đổi lúa : gạo là 2 : 1; bao gồm
các loại lúa, gạo (kể cả gạo tẻ, nếp, thơm, tấm các loại). Theo như phương
thức thu mua: Hiệp hội lương thực Việt Nam tổ chức việc phân giao cho các
thương nhân trực tiếp sở hữu kho chứa lúa, gạo đúng quy chuẩn theo quy định
thực hiện mua số lúa, gạo tạm trữ trên, đồng thời phối hợp với UBND các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương ở vùng ĐBSCL trong việc phân bổ chỉ
tiêu mua tạm trữ và chỉ đạo, hướng dẫn việc tổ chức mua tạm trữ lúa, gạo. Với
nguyên tắc là các thương nhân tham gia thực hiện mua lúa, gạo tạm trữ theo
cơ chế thị trường đồng thời tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh.
3.1.2.2 Các vấn đề tồn tại trong hệ thống tổ chức thu mua
Lâu nay, chính sách thu mua tạm trữ lúa gạo đã được thực hiện với mục
tiêu hướng đến nâng cao thu nhập, nâng cao vị thế của người nông dân Việt
Nam trong chuỗi giá trị của ngành lúa, gạo. Nhưng năm trở lại đây việc thu
mua tạm trữ gạo hầu như năm nào cũng được triển khai. Tuy nhiên trong tất cả
những lần Chính Phủ thực hiện việc thu mua lúa, gạo trước đây thì mục tiêu
hướng đến đối tượng chính là người nông dân hầu như không có hiệu quả. Mà
ngược lại người được hưởng lợi nhiều chủ yếu thuộc về đối tượng trung gian
là thương lái.
18



Chính sách thu mua tạm lúa, gạo được thực hiện song hành với chính
sách đảm bảo rằng người nông dân có lời ít nhất 30%. Nhưng Nhà nước không
có đủ nguồn vốn để thực hiện thu mua tạm trữ nên việc dự trữ chủ yếu do các
doanh nghiệp thực hiện với sự hỗ trợ về lãi suất của Nhà nước. Tuy nhiên
phân tích sâu xa hơn, cơ chế thu mua này đang không phù hợp với các doanh
nghiệp do phải sử dụng vốn kinh doanh vào việc thu mua, làm tăng chi phí
( phí thu mua, phí bảo quản,…). Các chi phí này sau đó lại được tính vào giá
thành, khiến cho sức cạnh tranh của hạt gạo Việt Nam trên thị trường bị giảm
mạnh. Do vậy, chúng ta cần cải thiện hệ thống thu mua lúa gạo, hạn chế các
khâu trung gian, để giảm thiểu chi phí, tăng sức cạnh trang với các doanh
nghiệp xuất khẩu gạo của nước ngoài, đồng thời người nông dân cũng được
hưởng lợi và gia tăng thu nhập.
Qua các lần thực hiện tạm trữ, việc phân bổ chỉ tiêu mua tạm trữ giữa
các địa phương và doanh nghiệp là vấn đề rất khó do phần lớn các địa phương
và doanh nghiệp đều muốn được phân bổ nhiều, nhất các địa phương có diện
tích và sản lượng lúa lớn. Tuy nhiên, khi được phân bổ chỉ tiêu lại có không ít
trường hợp doanh nghiệp thực hiện thu mua không hoàn thành chỉ tiêu được
giao đã gây ảnh hưởng chung đến việc thực hiện chỉ tiêu phân bổ của địa
phương và hiệu quả tạm trữ. Từ thực tế đó, năm nay đã có nhiều địa phương
thống nhất là không xin chỉ tiêu thu mua dựa vào diện tích và sản lượng lúa
của từng địa phương mà xét đến yếu tố năng lực thu mua của các doanh
nghiệp tại địa phương và khả tiêu thụ lúa của cả vùng. Trong đó, nhiều địa
phương đã kiến nghị với VFA tăng chỉ tiêu phân bổ cho các doanh nghiệp có
năng lực và tích cực thực hiện việc liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa cho nông
dân thông qua mô hình “cánh đồng lớn”. Sau đó, VFA đã công bố việc phân
bổ chỉ tiêu thu mua căn cứ dựa trên bốn tiêu chí như sau: doanh nghiệp có
đăng ký chỉ tiêu mua tạm trữ vụ đông xuân 2014-2015; có thành tích trong
thực hiện mua tạm trữ 1 triệu tấn quy ra gạo vụ đông xuân 2013-2014; có năng
lực xuất khẩu, khả năng tiêu thụ hết lượng lúa, gạo thu mua tạm trữ và có thực

hiện liên kết trong mô hình cánh đồng lớn.
3.2 Chính sách thu mua tạm trữ lúa, gạo Đông Xuân năm 2014 – 2015
3.2.1 Quá trình thực hiện
Căn cứ vào các tiêu chí của VFA, dự kiến chỉ tiêu phân bổ đối với các
tỉnh, thành phố ĐBSCL thu mua tạm trữ 1 triệu tấn quy ra gạo trong vụ Đông
Xuân 2014-2015. Cụ thể như sau: thành phố Cần Thơ thu mua tạm trữ hơn
175.000 tấn, Cà Mau 2.400 tấn, Sóc Trăng 26.000 tấn, Hậu Giang 18.000 tấn,
Vĩnh Long 28.000 tấn, Kiên Giang 79.000 tấn, Long An 118.000 tấn, Bến Tre
19


13.000 tấn, Trà Vinh 13.000 tấn, An Giang hơn 250.000 tấn, Đồng Tháp
khoảng 155.000 tấn, Bạc Liêu 8.000 tấn và Tiền Giang khoảng 83.000
tấn6. Mỗi tỉnh sẽ phân bổ chỉ tiêu trên cho các doanh nghiệp đóng trên địa bàn
tiến hành thu mua tạm trữ7.
Để đảm bảo rằng các doanh nghiệp tham gia thu mua tạm trữ lúa, gạo
hoàn thành chỉ tiêu được giao. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quyết
định thành lập đoàn kiểm tra liên ngành việc mua tạm trữ lúa, gạo vụ Đông
Xuân 2014 – 2015. Theo kế hoạch từ ngày 29/3 đến ngày 9/4 đoàn thanh tra
liên ngành sẽ lần lượt kiểm tra, giám sát việc mua tạm trữ lúa, gạo của các
doanh nghiệp trên địa bàn các tỉnh, thành phố bao gồm Thành phố Hồ Chí
Minh, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ, An Giang và
Đồng Tháp. Nội dung kiểm tra sẽ tập trung vào việc thực hiện mua tạm trữ của
các doanh nghiệp cũng như làm rõ hiệu quả từ chính sách mua tạm trữ lúa,
gạo. Song song đó cũng kiểm tra việc thực hiện vai trò giám sát, chỉ đạo của
ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc biệt cấp huyện, xã trong việc thu
mua tạm trữ lúa gạo.
Trong tháng 3 có hai đợt kiểm tra về tình hình thu mua lúa, gạo tạm trữ
ở ĐBSCL vào ngày 15 và 30/3. Trong đợt kiểm tra ngày 15/3 nếu phát hiện
các doanh nghiệp nào không có ý thực hiện thì Hiệp hội Lương thực Việt Nam

sẽ rút chỉ tiêu của các doanh nghiệp này. Quá trình kiểm tra chủ yếu tập trung
vào năng lực kho chứa của doanh; kiểm tra số lượng mua, thời gian mua, thời
gian cho vay,… Nổi bật trong đợt này là kiểm tra việc doanh nghiệp có thực
hiện đúng Điều 13 trong Nghị định 109/2010 về kinh doanh xuất khẩu gạo.
Theo đó thì “Thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo có trách nhiệm thông
báo với UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương các điểm mua lúa, gạo
và công bố các điểm mua này để người dân biết; niêm yết giá mua theo chất
lượng, chủng loại lúa gạo hàng hóa để tạo điều kiện thuận lợi cho người nông
dân trực tiếp giao dịch. Trường hợp mua lúa, gạo hàng hóa qua thương nhân
khác hoặc từ các cơ sở chế biến, thương nhân và các cơ sở chế biến phải liên
kết, tổ chức thành hệ thống ổn định…”.
3.2.2 Kết quả đạt được
Hiệp hội Lương thực Việt Nam đã phân bổ chỉ tiêu cho 128 doanh
nghiệp tham gia thu mua với thời gian thực hiện từ 1/3 đến hết ngày
15/4/2015. Hiệp hội đã tiến hành điều chỉnh đến 3 lần về chỉ tiêu của từng
doanh nghiệp dựa trên tình hình mua thực tế. Sau đó số doanh nghiệp tham gia
6Quyết định số 241/QĐ-TTg ngày 24/02/2014 của Thủ tướng Chính phủ
7 Chinhphu.vn Triển khai mua tạm trữ lúa gạo

20


chỉ còn lại là 116 doanh nghiệp, có đến 12 doanh nghiệp đã trả lại chỉ tiêu
hoặc rút toàn bộ chỉ tiêu.
Trong công tác chỉ đạo thu mua tạm trữ lúa, gạo đã giúp giá lúa tăng từ
100 - 300 đồng/kg. Cụ thể, lúa khô hạt dài tại ruộng tăng từ 5.600 đồng/kg
trước khi triển khai tạm trữ lên 5.650 đồng/kg; lúa khô thường tại ruộng từ
5.300 đồng/kg lên 5.350 đồng/kg; lúa khô hạt dài tại kho từ 5.700 đồng/kg lên
5.750 đồng/kg; lúa khô thường tại kho từ 5.450 đồng/kg lên 5.525 đồng/kg.
Chủ trương phân bổ chỉ tiêu dựa trên năng lực của các doanh nghiệp là hợp lý.

Tính đến hết ngày 5/4/2015, các doanh nghiệp tại khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long đã tiến hành mua tạm trữ được 882.476 tấn quy ra gạo, đạt 88,25%
chỉ tiêu. Cho đến hết ngày 12/4, các thương nhân trong khu vực đã thu mua
được 981.728 tấn quy gạo, đạt 98,17%. Đến hết ngày 15/4 thì 116 doanh
nghiệp này đã hoàn thành chỉ tiêu mua đủ 1 triệu tấn gạo trên tổng số lượng
gạo hàng hóa của vụ Đông Xuân là 4,3 triệu tấn, đạt 100% kế hoạch đặt ra.
Nhiều doanh nghiệp đã hoàn thành 100% chỉ tiêu trước nửa tháng so
với kế hoạch. Đó là Công ty Lương thực Tiền Giang, Công ty trách nhiệm hữu
hạn Việt Hưng, Công ty trách nhiệm hữu hạn Phước Thành 2, Công ty Nông
sản thực phẩm Tiền Giang, Công ty cổ phần Mỹ Tường... trong đó, cao nhất là
Công ty Lương thực Tiền Giang thu mua tạm trữ được 32.000 tấn quy gạo
trong vụ Đông Xuân 2014-2015. Đây là những doanh nghiệp nhiều năm liền
tham gia chương trình thu mua tạm trữ, có năng lực, kinh nghiệm, hệ thống
kho bãi, sân phơi, khu vực chế biến,...
3.2.3 Đánh giá chung
3.2.3.1 Tác động tích cực
Chính sách thu mua tạm trữ lúa, gạo vụ Đông Xuân 2014 – 2015 của
Nhà nước đưa ra là giải pháp để bình ổn giá, đảm bảo cho nông dân có lời,
trước tình trạng lúa sụt giảm. Với sản lượng gần 11 triệu tấn lúa, trong đó có
khoảng 9 triệu tấn lúa hàng hóa nên áp lực tiêu thụ và giữ cho giá ổn định là
rất lớn. Sau khi thu mua tạm trữ giá lúa đã được duy trì ổn định ở khu vực
ĐBSCL, đặc biệt giá lúa trước và sau khi mua tạm trữ tăng nhẹ 50 đồng/kg.
Trong khoảng giữa giai đoạn tạm trữ giá tăng lên 200-300 đồng/kg đồng so
với trước tạm trữ.
Chính sách này giúp người nông dân tiêu thụ được lúa, gạo với lợi
nhuận tốt hơn. Bởi quá trình tạm trữ sẽ tạo ra lượng cầu tăng cao trong một
thời gian nhất định. Do nguồn cung bị giới hạn sẽ giúp cho giá cả tăng lên,
trong thời gian thu hoạch rộ lúa của nông dân, từ đó giúp cho nông dân có lợi
khi bán lúa gạo ra. Việc triển khai chính sách thu mua tạm trữ vào thời điểm
21



này là phù hợp và kịp thời với tình hình thực tế, bởi bà con nông dân đang
bước vào thời gian thu hoạch rộ vụ lúa Đông xuân, nếu không có chính sách
này chắc chắn nông dân sẽ bị thương lái ép giá.
Qua nhiều năm thực hiện chính sách này, thì năm nay Hiệp hội Lượng
thực Việt Nam đã triển khai việc thu mua tạm trữ và xuất hiện nhiều điểm mới
với so những lần thực hiện trước đó.
Một là, Bộ NN và PTNT đã đẩy mạnh chủ trương, tiến hành đề xuất
sớm với Chính phủ và Chính phủ đã đồng ý chủ trương này trước Tết Nguyên
Đán 2015. Ngay ngày đầu tiên làm việc sau Tết Nguyên Đán 24/2, Thủ tướng
đã có quyết định cho mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo quy ra từ lúa. Việc thu mua
sớm ngay từ đầu vụ để ổn định thị trường, không để giá lúa thay đổi liên tục
như các năm trước đầu vụ thì giá tăng, khi vào thời gian thu hoạch rộ thì giá
xuống quá thấp. Với chủ trương này thì các tỉnh, thành ở ĐBSCL và doanh
nghiệp có thời gian chuẩn bị chu đáo cho công tác thu mua tạm trữ ngay sau
đó.
Hai là, VFA công khai dự kiến chỉ tiêu thu mua tạm trữ tham khảo ý
kiến lãnh đạo các tỉnh, thành ĐBSCL với 4 tiêu chí là: ưu tiên cho các doanh
nghiệp có đăng ký tham gia chương trình thu mua tạm trữ; có thành tích thu
mua tạm trữ năm trước đó; có khả năng tiêu thụ và xuất khẩu lượng tạm trữ
của mình; và có tham gia mô hình liên kết cánh đồng lớn. Chứ không giống
như các lần thu mua trước đó là căn cứ vào quy mô, sản lượng của từng địa
phương.
Ba là, là năm đầu tiên ban hành quy chế kiểm tra, giám sát việc thu
mua. Để việc thu mua được đưa ra bàn bạc công khai, điều này được sự đồng
tình hưởng ứng mạnh của lãnh đạo các địa phương. Việc này giúp việc thu
mua diễn ra đúng tiến độ, điều chỉnh được những sai sót kịp thời.
3.2.3.2 Tác động tiêu cực
Xét ở góc độ kinh tế đây chỉ là giải pháp tạm thời, mang tính can thiệp

thì trường nên về lâu về dài, chúng ta cần có những biện pháp căn cơ khác.
Chính sách này đã bộc lộ những điểm tiêu cực của nó như sau:
- Chủ trương của Nhà nước là quy định giá sàn trong thu mua lúa, gạo
để đảm bảo cho nông dân có lời tối thiểu 30%. Với quy trình thu mua hiện nay
thì giá sàn thu mua này đang trở thành giá trần. Tức là giá mà hiệp hội đưa ra
và các công ty lương thực thành viên áp dụng đã trở thành giá trần. Chính vì
vậy thời gian trở đây dù có chuyện mua tạm trữ, nhưng nông dân nhiều nơi
vẫn kêu giá lúa thấp và giá ở mỗi nơi mỗi nơi lại khác.
22


- Thử phân tích cách mua tạm trữ như hiện nay, Hiệp hội tạm tính để
đưa ra giá thành sản xuất khi trước khi có giá thành sản xuất lúa do bộ Tài
chính đưa ra. Từ đó họ ấn định giá mua gạo, mà theo họ khi quy đổi ra giá lúa
thì đảm bảo mức lợi nhuân tối thiểu cho nông dân 30%. Căn cứ trên cách tính
giá mua gạo này, các nhà máy xay xát, thương lái mới tính toán và ấn định giá
mua lúa của nông dân. Thương lái tham gia vào trong chuỗi thu mua lúa, gạo
xuất khẩu hiện nay, xét cho cùng cũng là người làm mướn cho các công ty
lương thực. Do vậy, thương lái sẽ phải mua của nông dân với mức thấp hơn
mức ấn định của Hiệp hội đưa ra. Cộng với việc là nông dân khó có thể bảo
quản lúa được lâu và cần có tiền để tái đầu tư, sản xuất tiếp cho nên phải chấp
nhận bán lúa với giá thấp.
- Giá thành mà hiệp hội tạm tính, thực chất không mang yếu tố tạm
thời. Thực tế giao dịch giữa nông dân và thương lái là mua đứt, bán đoạn.
Chưa kể tới chuyện các địa phương phản ứng do giá không phản ảnh đầy đủ
chi phí sản xuất. Mỗi địa phương có điều kiện thổ nhưỡng khác nhau, do đó
chi phí sản xuất sẽ khác nhau. Những người dùng tiền mặt tự có để mua vật tư
nông nghiệp thì chi phí sẽ thấp hơn nhiều so với người mua vật tư bằng tiền
vay hoặc mua chịu từ đại lý.
- Chỉ tiêu thu mua còn quá ít (khoảng 25% sản lượng lúa) và chưa kịp

thời nên nhiều nông dân không được hưởng, nhất là khi thu hoạch trễ. Việc
phân bổ chỉ tiêu tạm trữ hiện nay là không phù hợp với khối lượng lúa, gạo
của từng tỉnh. Bên cạnh đó là thời gian tiến hành tạm trữ thì quá ngắn và
không đồng đều ở tất cả các địa phương, trong khi đó thời gian thu hoạch của
các tỉnh lại chênh lệch nhau rất xa.
- Doanh nghiệp thu mua tạm trữ lúa, gạo thường không quan tâm đến
đối tượng bán lúa gạo cho mình là ai. Trong khi đó người nông dân thường
không có điều kiện bán lúa, gạo trực tiếp đến các doanh nghiệp mà phải thông
qua một đối tượng nữa là thương lái. Vì vậy người nông dân trồng lúa sẽ
không được hưởng lợi trực tiếp từ chính sách thu mua tạm trữ của Nhà nước.
Phần lớn nông dân ở ĐBSCL sản xuất nhỏ lẻ, điều kiện vận chuyển không có,
do đó họ đều chấp nhận bán cho thương lái dù biết giá khá thấp so với thị
trường.

23


Chương 4. GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG TỔ CHỨC
THU MUA LÚA GẠO TẠM TRỮ
4.1 Giải pháp hoàn thiện
4.1.1 Đối với nông dân
Để người nông dân thực sự là đối tượng được hưởng lợi từ chính sách
hỗ trợ của Nhà nước, trước hết phải cắt bỏ các khâu trung gian (thương lái).
Doanh nghiệp phải có hệ thống thu mua riêng của doanh nghiệp mình. Để từ
đó trực tiếp thu mua từ người nông dân chứ không phải như hiện nay khi
doanh nghiệp ký được hợp đồng xuất khẩu thì mới thuê các thương lái đi thu
gom. Chính vì lý do này mà nông dân bán lúa cho thương lái với giá thấp,
doanh nghiệp mua lại của thương lái với giá cao. Bên cạnh đó cần đào tạo, tạp
huấn cho nông dân trở thành người nông dân chuyên nghiệp, có tri thức, có kỹ
năng để tự làm chủ đồng ruộng.

Phải tiến hành cải cách tổ chức nâng cao năng lực và sự chọn lựa của
người dân trong việc giảm giá thành sản xuất. Giải thích và đưa nông dân hiện
sản xuất nhỏ lẻ tham gia vào mô hình sản xuất cánh đồng mẫu lớn. Đây được
xem như một giải pháp quan trọng và lâu dài, góp phần tái cơ cấu ngành nông
nghiệp, nâng cao giá trị sản phẩm,…Nhằm từng bước tiến tới phát triển ngành
nông nghiệp theo hướng bền vững trong chuỗi sản xuất lúa, gạo. Đẩy mạnh
xây dựng các vùng nguyên liệu ổn định, trồng lúa theo tiêu chuẩn VietGAP
hay GlobalGAP. Khi tham gia vào cánh đồng mẫu lớn người nông dân được
tiếp cận với các giống lúa có năng suất cao, chất lượng tốt và thích nghi với
điều kiện sản xuất của từng địa phương. Ngoài ra sản phẩm nông dân sản xuất
ra được bao tiêu với giá ổn định và cao hơn.
4.1.2 Đối với ngân hàng
Các ngân hàng tham gia được quy định tham gia vào chính sách này,
cần có cơ chế cho vay vốn linh hoạt hơn, xác định những doanh nghiệp nào có
khả năng thu mua tốt cho dù không đủ tiêu chuẩn thu mua theo điều kiện của
Hiệp hội Lương thực Việt Nam đưa ra. Đồng thời việc xử lý thủ tục rút vốn
nhanh gọn giúp cho các doanh nghiệp tham gia thu mua tạm trữ lúa thực hiện
đúng tiến độ. Về tài sản thế chấp được các doanh nghiệp sử dụng để làm bảo
đảm cho các khoản vay này, cũng cần được xử lý một cách linh hoạt từ bất
động sản cho đến hàng hóa và các khoản phải thu khác của doanh nghiệp. Chủ
động lựa chọn hình thức thanh toán vốn vay cho phù hợp với đặc thù kinh
doanh của ngành lúa, gạo.

24


4.1.3 Đối với doanh nghiệp
Các doanh nghiệp cần chủ động chung tay hỗ trợ người nông dân tham
gia và thực hiện mô hình “cánh đồng mẫu lớn” góp phần đưa giá trị và thương
hiệu gạo của Việt Nam sẽ được nâng lên. Với cách làm này nông dân sẽ giảm

được nhiều chi phí sản xuất, bán được lúa với giá cao hơn so với tự làm bình
thường như trước đó, còn doanh nghiệp thì ổn định được vùng nguyên liệu thu
mua lúa với khối lượng lớn, chất lượng đồng đều, không phải qua nhiều khâu
trung gian, không phải tốn thêm chi phí vận chuyển, chế biến. Đồng thời
doanh nghiệp cũng chủ động tìm kiếm các hợp đồng có khả năng xuất khẩu
tốt, không phân biệt là hợp đồng có giá trị lớn hay nhỏ. Chủ yếu để giải quyết
vấn đề trước mắt là vấn đề tồn động lúa, gạo quá lớn như hiện nay.
4.1.4 Đối với thương lái
Chính phủ cần có các những quy định, điều kiện rằng buộc chung nhất
đối với các thương lái tham gia vào thị trường ngành lúa, gạo. Quy định giá
lúa đối với từng vùng, từng địa phương cụ thể dựa trên giá thành sản xuất của
từng vùng. Để căn cứ vào đó các thương lái đưa ra mức giá hợp lý cho việc
thu mua lúa từ nông dân, đảm bảo người dân có lời và không bị ép xuống quá
thấp. Và cũng để thương lái không phải là người được hưởng lợi lớn từ các
chính sách hỗ trợ cho nông dân của Nhà nước.
4.1.5 Một số giải pháp chung
Một là, việc thu mua tạm trữ thóc gạo là giải pháp mang tính can thiệp
thị trường chứ không phải chính sách hỗ trợ nông dân. Cho đến nay vẫn chưa
có giải pháp nào tốt hơn chính sách thu mua tạm trữ khi giá lúa thị trường thấp
hơn giá lúa định hướng. Đây cũng không phải giải pháp can thiệp cục bộ vào
từng địa phương, mà chỉ căn cứ vào doanh nghiệp tham gia tổ chức thu mua
tạm trữ lúa gạo để đạt được hiệu quả, yêu cầu đề ra. Song một bộ phận người
dân cho rằng, người nông dân vẫn chưa được hưởng lợi trực tiếp từ chính sách
thu mua tạm trữ lúa, gạo; Hiệp hội Lương thực Việt Nam phân bổ chỉ tiêu cho
cả doanh nghiệp đang thua lỗ, phân bổ chỉ tiêu chưa phù hợp với thực tế một
số tỉnh trong vùng… Về lâu về dài, cần chủ động đề xuất giải pháp mang tính
ổn định, hỗ trợ trực tiếp cho người nông dân. Hiệp hội Lương thực Việt Nam
cần lắng nghe thông tin, ý kiến của các địa phương để có những điều chỉnh
cho phù hợp.
Hai là, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương,

Hiệp hội Lương thực Việt Nam… cần tăng cường khâu dự báo sản lượng lúa
gạo và giá lúa gạo, chủ động đề xuất kế hoạch thu mua lúa gạo để các ngân

25


×