Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tuyên ngôn thứ nhất của chủ nghĩa siêu thực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.09 KB, 15 trang )

Tuyên ngôn thứ nhất của chủ nghĩa
siêu thực
ANDRÉ BRETON

“Chỉ có trí nhớ là tự cho mình cái quyền cắt vụn giấc mơ...” (A. Breton)

Chúng ta vẫn còn sống dưới sự trị vì của tính hợp lý, dĩ nhiên, đó là điều mà tôi
muốn nói tới. Nhưng mọi cách thức hợp lý, trong thời đại chúng ta, chỉ còn được
dùng cho việc giải quyết các vấn đề có lợi ích phụ. Sự duy lý tuyệt đối vốn là thị
hiếu, chỉ cho phép xem xét các sự kiện thuộc riêng kinh nghiệm của ta. Nhưng
những cái đích hợp lý lại tuột khỏi tay ta. Vô ích khi thêm rằng ngay cả kinh
nghiệm cũng tỏ ra có giới hạn. Nó quay trong một cái lồng mà càng ngày càng
khó thoát ra. Kinh nghiệm cũng dựa vào tính hữu ích trực tiếp, và nó được giữ
gìn bằng lương tri. Dưới màu sắc văn minh, dưới cái cớ tiến bộ, người ta trừ bỏ
được khỏi tâm trí mọi thứ có thể là mê tín dị đoan, là ảo tưởng dù sai hay đúng;
cấm bỏ được mọi cách thức tìm kiếm sự thật không hợp với thói tục. Do rất ngẫu
nhiên, nhưng chỉ là bề ngoài mà mới đây một phần của thế giới tri thức, và theo
ý tôi là cái phần lớn nhất, được đưa ra ánh sáng mà người ta từng giả đò không
suy nghĩ về nó nữa. Cần phải biết ơn những khám phá của Freud. Dựa trên
niềm tin về những khám phá ấy, cuối cùng một trào lưu quan điểm đã hình
thành, nhờ đó một nhà thám hiểm nhân văn có thể đưa những tìm tòi đi xa hơn,
vì được phép không chỉ quan tâm tới những hiện thực sơ lược. Trí tưởng tượng
có thể sắp sửa giành lại quyền của mình. Nếu những chiều sâu trong trí óc
chúng ta bộc lộ những sức mạnh xa lạ có khả năng làm tăng lên những sức
mạnh thể hiện trên bề mặt, hay chiến thắng chúng, thì tất nhiên là cần nắm lấy
chúng, trước tiên là nắm lấy, để sau đó tìm cách chế ngự chúng theo sự điều
khiển của lý trí chúng ta, nếu có thể. Bản thân các nhà phân tích cũng có lợi.
Nhưng điều quan trọng là phải thấy rằng không có một phương tiện nào được
chỉ định làm cái tiên nghiệm cho việc thực thi công việc này, rằng để đạt tới trật
tự mới thì việc thực thi ấy có thể coi như là động lực của các nhà thơ cũng như
là các nhà thông thái và rằng thành công của nó không phụ thuộc vào những con


đường ít nhiều ngoắt ngoéo được chọn.
Freud phê bình giấc mơ là rất đúng. Quả là không thể chấp nhận được rằng
phần đáng kể ấy của hoạt động tâm lý (bởi vì ít nhất là từ khi sinh ra tới khi chết
đi của con người, tư duy không hề liên tục, tổng số các thời điểm mơ mộng – về
phương diện thời gian chỉ tính ngay giấc mơ thuần khiết tức là giấc mơ khi ta
ngủ – cũng không kém tổng số thời khắc của hiện thực, mà chúng ta hãy tạm gọi
là: các thời khắc thức) còn ít được chú ý như thế. Đối với người quan sát thông
thường, sự khác nhau tới cực hạn về tầm quan trọng, về sự nghiêm trọng được
thể hiện ở các sự kiện khi thức và các sự kiện khi ngủ, đều luôn làm tôi ngạc
nhiên. Vấn đề là khi ngừng ngủ con người trước hết là đồ chơi của trí nhớ mình,


và ở trạng thái bình thường, trí nhớ thích tái hiện một cách mờ nhạt tình huống
giấc mơ, tách bỏ giấc mơ khỏi mọi hậu quả hiện tại, và làm cho cái quyết
định duy nhất rời khỏi vị trí mà trong vài giờ trước con người tin là đã bỏ quên:
niềm hy vọng lớn lao này, nỗi băn khoăn ấy. Con người có ảo tưởng tiếp tục cái
gì đó rất đích đáng. Giấc mơ như thế là được dẫn vào một dấu ngoặc đơn, giống
như ban đêm vậy. Và không hơn gì ban đêm, nói chung giấc mơ không mang tới
lời khuyên. Tình trạng đặc biệt này dường như gợi cho tôi một vài suy tư:
1. Trong các giới hạn mà giấc mơ hoạt động (có thể coi như hoạt động), tùy theo
mọi biểu hiện thì giấc mơ là liên tục và thể hiện dấu vết có tính tổ chức. Chỉ có trí
nhớ là tự cho mình cái quyền cắt vụn giấc mơ, không đếm xỉa tới những đoạn
chuyển tiếp và cho chúng ta biết là một chuỗi giấc mơ chứ không phải là giấc
mơ. Tương tự như thế, trong mỗi thời điểm chúng ta chỉ có một hình ảnh khác
biệt của những hiện thực, mà sự phối hợp để tạo ra hình ảnh ấy lại phụ thuộc
vào ý chí[1]. Điều cần lưu ý, đó là không gì cho phép chúng ta quy nạp các yếu
tố cấu thành giấc mơ về một sự biến mất lớn hơn. Tôi lấy làm tiếc khi nói tới điều
ấy theo một công thức về nguyên tắc loại trừ giấc mơ. Lúc nào thì các nhà lôgic,
các nhà triết học đi ngủ? Tôi muốn ngủ, để có thể thổ lộ tâm tình với những
người đang ngủ, hệt như tôi thổ lộ với những người đang đọc tôi bằng đôi mắt

mở to; để về mặt này không làm cho nhịp điệu có ý thức của tư tưởng trong tôi
thắng thế nữa. Giấc mơ của tôi vào đêm qua, có thể nó theo đuổi giấc mơ đêm
hôm trước, nó cũng có thể được đêm sau đó nối tiếp một cách chặt chẽ đáng
khen. Rất có thể, như người ta vẫn nói. Bởi vì không có gì chứng minh được
rằng, cái “hiện thực” choán lấy tôi vẫn tồn tại ở trạng thái mơ mộng, rằng hiện
thực không hề ẩn đi trong sự lãng quên, tại sao tôi lại không chấp nhận ở giấc
mơ điều mà đôi khi tôi chối từ ở thực tế, tại sao tôi không chấp nhận điều xác
thực này ở chính nó, trong thời gian tồn tại của nó, không được tôi thừa nhận?
Tại sao tôi lại chờ đợi từ chỉ dẫn của giấc mơ ít hơn cả việc tôi chờ đợi từ một
mức độ ý thức ngày một cao hơn? Giấc mơ phải chăng cũng có thể dùng được
cho việc giải quyết các vấn đề cơ bản của cuộc sống? Những vấn đề đó, phải
chăng là như nhau trong cả trường hợp này cũng như trường hợp kia, và trong
giấc mơ, những vấn đề ấy đã được đặt ra rồi? Giấc mơ phải chăng ít nặng nề
hơn so với cái còn lại? Tôi già đi và hơn cả hiện thực mà tôi tin là mình buộc
phải tuân theo, có thể giấc mơ, sự thờ ơ đối với giấc mơ làm tôi trở nên già đi.
2. Lại một lần nữa tôi nói về trạng thái thức đêm. Tôi buộc phải coi trạng thái ấy
như một hiện tượng giao thoa. Trong những điều kiện ấy, không những lý
trí[2] chứng tỏ một xu hướng xa lạ hướng về việc mất hướng (chuyện nói nhịu và
lầm lẫn đủ kiểu bắt đầu hé lộ cho chúng ta bí mật), mà còn trong quá trình hoạt
động bình thường hình như lý trí cũng không tuân theo nhiều điều khác ngoài
những gợi ý đến với lý trí từ đêm khuya ấy, mà tôi khuyên nên có. Dù được sắp
xếp tốt như thế nào thì sự cân bằng của lý trí vẫn là tương đối. Lý trí hầu như
không dám tự bộc lộ, và nếu nó làm điều ấy, chính là để tự hạn chế đưa ra nhận
xét rằng ý tưởng này, người phụ nữ kia đã gây ấn tượng cho nó. Thật là ấn
tượng việc có lẽ lý trí bất lực khi diễn tả điều ấy, nhưng qua đó nó nêu ra giới
hạn của tính chủ quan chứ không hơn. Ý tưởng này, người phụ nữ này làm lý trí
bối rối, nó làm lý trí trở nên bớt nghiêm khắc hơn. Nó ủng hộ hành động để trong


giây lát tách sự nghiêm ngặt khỏi dung môi của nó, nếu có thể để phơi nó ra

giữa trời thành một chất kết tủa đẹp. Thất vọng vì không hiểu điều xảy ra, lý trí
thế là viện cớ cái ngẫu nhiên, vốn là vị thánh còn tối tăm hơn cả, và nó gán mọi
sai lầm của mình cho cái ngẫu nhiên. Ai có thể nói cho tôi rằng ở góc độ xuất
hiện của ý tưởng này điều mà anh ta yêu mến trong mắt người phụ nữa kia lại
không phải chính là cái gắn bó anh ta với giấc mơ của mình, cái ràng buộc lý trí
với những dữ kiện mà anh ta đánh mất do sai lầm của mình? Nếu khác thì liệu
có thể làm gì được anh ta? Tôi rất muốn đưa cho anh ta chiếc chìa khóa của
hành lang ấy.
3. Lý trí của người đang mơ hoàn toàn hài lòng với tất cả những gì xảy đến với
anh ta. Câu hỏi đáng sợ về khả năng không được đặt ra nữa. Hãy giết, hãy bay
nhanh hơn, hãy yêu chừng nào nó làm anh hài lòng. Nếu anh chuyển động, liệu
anh có chắc là thức dậy giữa những xác chết? Hãy để tự mình điều khiển, các
sự kiện không cho phép anh hoãn chúng lại. Anh không có tên gọi. Sự dễ dàng
của mọi thứ là không thể đánh giá được.
Lý lẽ nào, tôi yêu cầu điều ấy, rộng hơn rất nhiều cái khác, trao cho giấc mơ quy
mô tự nhiên ấy, lại làm cho tôi tiếp nhận không ngại ngần một đám những tình
tiết có sự xa lạ đối với thời điểm mà tôi viết.
4. Khi giấc mơ được nghiên cứu một cách có hệ thống với những phương pháp
rõ ràng, chúng ta sẽ hiểu được trọn vẹn về giấc mơ (và điều ấy đòi hỏi một khoa
học về trí nhớ của nhiều thế hệ; chúng ta hãy bắt đầu ngay lập tức bằng việc ghi
lại những sự việc nổi bật), khi đó đường biểu diễn của giấc mơ sẽ phát triển một
cách đều đặn và với một quy mô không ngờ, người ta có thể hy vọng rằng
những sự huyền bí không phải là như thế sẽ nhường chỗ cho sự Huyền bí lớn
lao. Tôi tin vào sự biến đổi trong tương lai của hai trạng thái này, có vẻ như hoàn
toàn đối lập với nhau là giấc mơ và hiện thực, thành một dạng hiện thực tuyệt
đối là siêu thực, nếu ta có thể nói như vậy. Đấy là đích cuộc chinh phục của tôi,
dù chắc chắn là không thể, nhưng không vì lo âu trước cái chết để bỏ qua một
chút niềm vui được sở hữu này.
Người ta kể rằng, mỗi một ngày vào lúc đi ngủ, Saint-Pol-Roux lại cho treo trên
cổng tư thất của mình ở Camaret một tấm biển viết rằng: Nhà thơ đang làm

việc.
Còn có nhiều điều để nói, nhưng tiện đây tôi chỉ muốn lướt qua một chủ đề, mà
chỉ riêng nó thôi cần một bài viết rất dài và kỹ lưỡng mà tôi sẽ trở lại sau. Còn
lần này, ý định của tôi là phê phán sự căm ghét cái huyền ảo vốn có ở một số
người, họ luôn muốn đem sự huyền ảo ra làm trò cười. Hãy nói thẳng ra là cái
huyền ảo luôn đẹp, bất kỳ cái huyền ảo nào cũng đẹp, thậm chí chỉ cái huyền ảo
mới đẹp.
Trong lĩnh vực văn học, chỉ điều huyền ảo là có khả năng làm cho các tác phẩm
có một gốc gác thấp như tiểu thuyết và nói chung tất cả những gì thuộc về
truyện kể giai thoại phát triển được. Tu sĩ của Lewis là một chứng cứ cho điều
này. Cái huyền ảo mang lại sức sống cho toàn bộ tác phẩm. Trước khi tác giả
giải phóng cho tất cả các nhân vật chính trong truyện khỏi mọi sự câu thúc của


thời gian, người ta cảm thấy họ sẵn sàng hành động một cách trung thành chưa
từng có. Tham vọng ấy về sự bất tử không ngừng thúc bách họ đã mang lại
những dấu nhấn không thể quên cho nỗi đau khổ của họ và cho cả tôi. Tôi cảm
thấy là cuốn sách ấy từ đầu cho tới cuối và cũng là một cách thuần khiết nhất
trong thế giới chỉ kích thích điều gì thuộc về trí tuệ có khao khát thoát khỏi được
mặt đất và vì thiếu đi một phần vô vị của ý nghĩa ngụ ngôn kiểu tiểu thuyết theo
lối đương thời mà cuốn sách ấy đã tạo nên một mẫu hình chính xác và vĩ đại
một cách tự nhiên[3]. Tôi có cảm giác là người ta không thể làm tốt hơn và rằng
đặc biệt nhân vật Mathilde là một sáng tạo xúc động nhất mà người ta có thể làm
cho trở thành có hiệu quả trong thế giới tưởng tượng ở văn học. Đấy không chỉ
là một nhân vật có một sự cám dỗ tiếp tục sống thay anh ta. Nếu một nhân vật
không phải là một sự cám dỗ thì nó là gì? Cám dỗ cực điểm chính là nhân vật.
Câu nói “không có điều gì không thể làm được nếu dám” mang lại cho Tu sĩ toàn
bộ kích thước đầy thuyết phục của nó. Những gì xuất hiện ở đây đều mang tính
hợp lý của nó. Thậm chí ngay cả sự trừng phạt với Ambrosio được xử lý theo
cách hợp thức, vì sự trừng phạt ấy cuối cùng được lý trí phê phán chấp nhận

như một cách cởi nút tự nhiên.
Có lẽ là độc đoán khi tôi giới thiệu mô hình này để nói về điều huyền ảo, mô hình
mà các nền văn học phương Bắc và phương Đông đã vay mượn rất nhiều,
không đề cập những nền văn học thuần tôn giáo của mọi quốc gia. ấy là phần
lớn các ví dụ có thể được những nền văn học đó cung cấp cho tôi đều bị bôi xấu
vì sự ngây thơ, bởi lý do duy nhất là chúng được dành cho trẻ em. Từ khi còn
nhỏ, các em đã bị tước đi những điều kỳ diệu, và sau đó không giữ lại đủ trinh
trắng về trí tuệ để tìm đến niềm vui thú tột độ khi đọc Miếng da lừa[4]. Dù các
truyện cổ tích có hấp dẫn bao nhiêu chăng nữa, thì con người cũng dần mất đi
niềm tin vào việc được nuôi dưỡng bằng những câu chuyện cổ tích thần kỳ, và
tôi thừa nhận là tất cả các câu chuyện ấy đều không phù hợp với người lớn.
Chuỗi những điều huyền hoặc đáng yêu đòi hỏi phải tinh tế hơn một chút, và
càng đọc thì càng muốn gặp những loài nhện… Nhưng các quyền năng không
thay đổi là bao. Nỗi sợ hãi, sự hấp dẫn của cái khác thường, những niềm hạnh
phúc, sở thích về sự sang trọng đều là những động lực mà người ta sẽ không
bao giờ vận dụng một cách vô ích. Có những câu chuyện cổ tích cần viết cho
người lớn, những câu chuyện còn gần như xanh biếc.
Điều huyền ảo không phải là như nhau ở mọi thời kỳ; nó thuộc một cách bí hiểm
về một dạng phát hiện chung nhất mà chỉ có chi tiết duy nhất tới được với chúng
ta: đó là những cảnh phế tích lãng mạn, là ma nơ canh hiện đại hay một biểu
tượng khác có sức lay động đối với sự nhạy cảm con người trong cả một thời kỳ.
Trong những ví dụ làm chúng ta buồn cười, điều lo lắng không vãn hồi được về
con người lại luôn xuất hiện, chính bởi thế tôi coi trọng chúng, chính bởi thế mà
tôi cho là chúng không thể tách khỏi một vài quá trình sáng tạo thiên tài, và hơn
tất cả chúng thấm nhuần một cách đau đớn. Đó là những giá treo cổ của
Villon[5], những bi kịch Hy Lạp của Racine[6], những tập thơ trữ tình của
Baudelaire[7]. Chúng trùng hợp với một sự che khuất của cái sở thích mà tôi
phải chịu đựng, chính tôi tự nhận mình có sở thích về ý tưởng một nhiệm vụ lớn
lao. Trong cái sở thích xấu xa của thời đại mình, tôi cố gắng đi xa hơn bất kỳ ai



khác. Với riêng mình, nếu tôi đã trải nghiệm vào năm 1820, trải nghiệm chiếc
“bánh chồng đẫm máu”, thì tôi không tránh “Sự giả dối” xảo quyệt và tầm thường
này được Cuisin nhại nói đến, với riêng tôi để đọc lướt bao phép ẩn dụ khổng lồ,
như người ta vẫn nói, tất cả mọi pha của “Chiếc đĩa bạc”. Lúc này, tôi nghĩ tới
một lâu đài có thể có một nửa không nhất thiết là phải đổ nát; lâu đài ấy thuộc về
tôi, tôi thấy nó trong một địa điểm dân dã; không xa Paris. Phần phụ của nó kéo
dài mãi, còn về bên trong, nó đã được khôi phục một cách khủng khiếp, sao cho
không để lại bất cứ điều gì mong muốn về phương diện tiện nghi. Những chiếc
ôtô đỗ trước cửa, rợp bóng những cái cây. Một vài người bạn của tôi ở hẳn nơi
đó: đây là Louis Aragon lên đường; anh ấy chỉ có thời gian để chào bạn, Philippe
Soupault thức dậy từ tờ mờ sáng và Paul Eluard, Eluard vĩ đại của chúng ta, còn
vẫn chưa về. Kia là Robert Desnos và Roger Vitrac giải mã một chỉ dụ cổ trong
một công viên về cuộc đọ sức; Georges Auric, Jean Paulhan; còn Max Morise thì
đang chèo rất giỏi, và Benjamin Péret trong những phương trình chim bay của
mình; Joseph Delteil; Jean Carrive; Georges Limbour, Georges Limbour (có cả
một bờ rào của Georges Limbour); Marcel Noll; kia là T.Fraenkel ra hiệu cho
chúng ta về quả bóng thất thường của mình, Georges Malkine, Antonin Artaud,
Francis Gérard, Pierre Naville, J-A Boiffard, rồi Jacques Baron và anh trai mình,
trung thực và đẹp đẽ, quả là còn bao nhiêu người khác nữa, và cả những người
phụ nữ vui vẻ. Những chàng trai trẻ ấy, các bạn muốn gì nếu họ từ chối, những
mong muốn của họ, bởi sự giàu có, đều là mệnh lệnh. Francis Picabia tới gặp
chúng tôi tuần vừa rồi trong hành lang kính, và người ta đã tiếp một người có tên
là Marcel Duchamp mà chưa ai biết. Picasso đi săn trong vùng lân cận. Trí
tuệ phi đạo đức đã được chọn làm chính quán trong lâu đài, và chúng tôi có
chuyện với trí tuệ mỗi một khi có vấn đề quan hệ với những người tương tự
chúng tôi, nhưng các cánh cửa luôn rộng mở và người ta không bắt đầu bằng
việc “cám ơn” thế giới, các bạn biết đấy. Vả lại, nơi hiu quạnh thì rất rộng, chúng
ta không gặp nhau thường xuyên. Rồi điều chủ yếu có phải là chúng ta là chủ
của chính mình, những người chủ của giới phụ nữ, và cả tình yêu?

Người ta thuyết phục tôi tin bằng những lời nói dối thi vị: người nào ra đi đều nói
rằng tôi ở phố Suối, và rằng anh ta sẽ không uống thứ nước này. Tất nhiên!
Nhưng lâu đài này mà tôi mang đến cho anh ta những niềm vinh dự của nó, có
chắc đó là một hình ảnh? Nếu cung điện này lại tồn tại thì sao! Những người
khách của tôi ở đó để đáp lễ; sự đỏng đảnh của họ là con đường ánh sáng dẫn
tới đó. Đúng là chúng tôi sống bằng sự tưởng tượng của chính mình, khi chúng
tôi ở đó. Và cái mà người này có thể làm phiền người kia ở nơi tránh khỏi cuộc
săn đuổi tình cảm và ở cuộc gặp gỡ của những cơ hội là như thế nào?
Con người dự định và quyết định. Quyền tự chủ hoàn toàn phụ thuộc con người,
nghĩa là quyết định duy trì ở tình trạng vô chính phủ cái băng đảng mỗi một ngày
lại thêm đáng ngờ bởi những ham muốn của chính mình. Thơ ca đã chỉ dẫn cho
con người về tình trạng ấy. Nó mang trong mình sự bù trừ hoàn hảo những điều
khó chịu mà chúng ta phải chịu đựng. Nó có thể là một người điều hành, do vậy
chỉ hơi một chút dưới ảnh hưởng của một sự thất vọng không thầm kín lắm,
người ta đã dám coi nó như một việc vô cùng nghiêm trọng. Thời đại hãy tới vào
lúc thơ ca ra sắc lệnh hủy bỏ tiền bạc và cắt đứt chỉ riêng cái bánh của bầu trời


dành cho đất! Sẽ còn có những đám đông tụ tập tại những địa điểm công cộng
và những trào lưu mà bạn muốn tham gia. Vĩnh biệt những sự lựa chọn phi lý,
những giấc mơ vực thẳm, những sự ganh đua, những sự kiên trì đằng đẵng, sự
thấm thoát của các mùa, trật tự giả tạo của các ý tưởng, đường dốc của sự nguy
hiểm, thời gian dành cho tất cả! Người ta vất vả biết bao chỉ với việc làm thơ.
Phải chăng chính chúng ta, những người đang sống bằng thơ là cố gắng làm
cho điều mà chúng ta coi như việc điều tra đầy đủ phong phú hơn của mình
giành ưu thế?
Nào có gì quan trọng nếu có sự mất cân đối nào đó giữa lời thanh minh này và
sự minh họa cho nó. Điều quan trọng là quay ngược trở lại nguồn gốc của sự
tưởng tượng thi ca, và nhất là gắn bó với nguồn gốc ấy. Tôi không dám nói là đã
làm được điều ấy. Cần phải dựa vào chính mình để trụ lại được trong những

vùng lạc hậu ấy, nơi cái gì cũng có vẻ như rất khó khăn, nhất là nếu muốn dẫn ai
đó tới. Mà ta cũng không bao giờ chắc chắn là đã đến ở đó. Càng không thích
bao nhiêu thì lại càng sẵn sàng dừng ở nơi khác. Nhưng ít ra là giờ đây đã có
một mũi tên chỉ hướng những xứ sở ấy và đi tới cuối cùng chỉ còn phụ thuộc vào
sự chịu đựng của du khách.
Người ta biết khá chính xác con đường cần đi. Tôi đã cố tình, trong một tiểu luận
về trường hợp Robert Desnos có nhan đề: Lối vào của những người đồng
bóng (Entrée des médiums), kể rằng tôi đã “chú ý tới các câu văn ít nhiều có
phần riêng biệt, hoàn toàn cô độc, lại gần lúc sắp ngủ, nên những câu văn ấy có
thể được lý trí cảm nhận, mà ta không thể khám phá ra ở chúng một nguyên
nhân tiên quyết nào cả”. Thế là tôi vừa mới mạo hiểm với một cuộc phiêu lưu thi
ca ít may mắn nhất, nghĩa là những cảm hứng của tôi cũng chính là những cảm
hứng như của ngày hôm nay, nhưng tôi đã có niềm tin vào sự chậm chạp của
quá trình soạn thảo để thoát khỏi những cuộc gặp vô ích bị tôi đã bài xích một
cách cao thượng. Còn sót lại cái gì đó nơi ấy kiểu như sự e lệ trong tư duy của
tôi. Cuối đời mình, có lẽ tôi sẽ nói được một cách khó khăn như người ta nói, sẽ
biện giải được cho giọng nói của mình và số ít những hành vi của mình. Tôi cho
rằng năng lực của lời nói (của lối viết: còn hơn thế nữa) có vẻ như gắn với năng
lực rút ngắn một thông báo theo lối đột ngột (là bởi vì đã có bản trình bày) về
một số lượng ít ỏi các sự kiện, một thông báo thi ca hay những cái khác mà tôi
đã nắm được bản chất. Tôi hình dung rằng Rimbaud cũng làm thế thôi. Bằng
một sự ưu tư đa dạng xứng đáng hơn cả, tôi sáng tác những bài thơ cuối cùng
của Dãy núi sùng đạo (Mont de piété), nghĩa là tôi tận dụng hết mức những dòng
chữ trắng của cuốn sách ấy. Những dòng này là sự hoàn toàn tin tưởng vào
những phép toán của tư duy mà tôi tưởng như cần phải tránh cho độc giả. Về
phần tôi, đó không phải là trò cờ gian bạc lận, mà là sự yêu thích được đối xử
thô bạo. Tôi giành được ảo tưởng về một sự đồng lõa có thể, mà tôi càng ngày
càng không cần đến nó. Tôi bắt đầu chăm chút một cách quá mức các từ ngữ vì
không gian được chúng chấp nhận quanh mình, cho những tiếp tuyến của chúng
với vô số các từ khác không được tôi nói đến. Bài thơ Cánh rừng đen là một ví

dụ điển hình về trạng thái tinh thần ấy. Tôi đã dành sáu tháng để viết bài thơ mà
không hề được nghỉ ngơi lấy một ngày. Nhưng do đó là sự tự trọng của tôi, thì
phải chăng thời gian là không đủ, rồi người ta sẽ hiểu tôi. Tôi thích những lời thú


tội ngu ngốc ấy. Trong thời gian đó, thứ giả-thi ca lập thể cố tìm cách cắm rễ,
nhưng thứ thi ca ấy đã ra khỏi đầu óc của Picasso không hề tự vệ, và riêng phần
mình thì tôi còn có thể được coi như người buồn tẻ giống như cơn mưa (tôi vẫn
còn bỏ qua điều ấy). Tuy thế tôi nghi ngờ rằng, theo quan điểm thi ca, tôi đã đi
sai đường, nhưng tôi đã tự cứu mình theo cách của tôi, tôi thách thức tính chất
trữ tình bằng các định nghĩa và bằng các công thức (các hiện tượng Dada chẳng
bao lâu sẽ xảy ra) và làm ra vẻ tìm kiếm một cách áp dụng thơ ca vào trong
quảng cáo (tôi cho rằng thế giới sẽ kết thúc, không phải bằng một quyển sách
đẹp mà bằng một quảng cáo đẹp đẽ cho địa ngục hay thiên đường).
Cùng thời kỳ ấy, Pierre Reverdy, một người, ít ra cũng buồn tẻ như tôi, đã viết:
Hình ảnh là một sự sáng tạo thuần khiết của lý trí
Nó không sinh ra từ một sự so sánh mà là từ sự xích lại gần nhau của hai hiện
thực ít nhiều xa nhau
Những mối quan hệ của hai hiện thực được so sánh càng xa và càng chính xác
thì hình ảnh sẽ lại càng mạnh – nó sẽ lại càng gây xúc động mạnh và có tính
hiện thực thi ca[8] v.v…
Những từ này, dù là bí ẩn đối với những kẻ ngoại đạo, lại rất có ý nghĩa khai mở
và tôi thường trầm tư lâu về chúng. Nhưng hình ảnh lại trốn bỏ tôi. Mỹ học của
Reverdy, mỹ học hoàn toàn có tính hậu nghiệm làm cho tôi coi các hậu quả là
nguyên nhân. Chính do đó mà tôi đi tới việc từ chối một cách dứt khoát quan
điểm của mình.
Thế là một tối trước khi thiếp đi, tôi nghe thấy một câu nói khá kỳ quặc được cấu
âm một cách rõ ràng tới mức không thể thay đổi một từ nào, nhưng không mang
dấu vết gì của giọng nói, câu nói ấy đến với tâm trí tôi không có chút dấu vết nào
của những sự kiện mà theo sự thú nhận của ý thức là đã trải qua vào cái khoảnh

khắc ấy, tôi cảm thấy câu nói ấy được nhấn mạnh, có lẽ tôi dám nói là cái câu
ấy nó nện vào kính. Tôi hình dung ngay được về nó và sắp bỏ qua thì đặc điểm
có tính tổ chức của nó làm tôi chú ý. Quả thật, câu này làm tôi ngạc nhiên; tôi
không may đã quên mất nó vào ngày hôm nay, đại loại như là: “Có một người bị
cắt làm đôi ở cửa sổ”, nhưng câu nói ấy không hề lập lờ chơi chữ, vì có kèm
theo lối biểu hiện mơ hồ hình ảnh[9] một người đang đi và bị một cái cửa sổ
vuông góc cắt khúc thành hai nửa. Rõ ràng đấy là việc dựng lại một cách đơn
giản trong không gian một người nghiêng người qua cửa sổ. Nhưng vì cái cửa
sổ này cùng chuyển động với người đó, nên tôi nhận thấy rằng mình đang thấy
một hình ảnh thuộc kiểu khá hiếm và tất nhiên tôi nhanh chóng trộn nó với chất
liệu thi ca của mình. Đối với hình ảnh ấy, tôi đã không tin sớm hơn rằng nó dù
sao cũng được thay thế bằng một sự kế tiếp gần như là gián đoạn của những
câu văn, những câu ấy không làm cho tôi ngạc nhiên lắm và bỏ mặc tôi dưới ấn
tượng về một sự không nguyên cớ tới mức sự tự chủ của tôi cho tới lúc ấy
dường như là ảo tưởng, giống như tôi chỉ còn nghĩ đến việc chấm dứt cuộc
tranh cãi bất tận đã xảy đến trong tôi[10].


Vì rất quan tâm tới Freud vào thời kỳ này và được làm quen với những phương
pháp kiểm định của ông mà tôi vốn ít có cơ hội thử nghiệm qua những người
bệnh trong thời chiến, nên tôi quyết nhận được ở chính mình điều mà người ta
tìm cách đạt được ở bệnh nhân, đó là một cuộc độc thoại với tốc độ nhanh nhất,
mà lý trí phân tích của chủ thể không thể kiểm soát, do đó việc kiểm soát ấy
không hề quan tâm tới bất kỳ sự ngập ngừng nào, đó cũng chính là điều mà tư
tưởng được phát biểu thành lời. Tôi đã có cảm tưởng hoặc còn cảm tưởng – câu
văn về con người bị cắt đôi xảy đến với tôi đã chứng minh cho cách thức này –
rằng tốc độ của tư duy không lớn hơn tốc độ lời nói, rằng tốc độ không nhất thiết
thách thức ngôn ngữ, cũng như với ngòi bút đang viết. Chính bằng những khả
năng này mà tôi và Philippe Soupault – người được tôi báo cho những kết luận
đầu tiên này – đã tiến hành bôi đen tờ giấy bằng vẻ khinh thị đáng khen những

gì sẽ kế tiếp theo lối văn chương. Dễ dàng làm nốt phần còn lại. Cuối ngày đầu
tiên, chúng tôi có thể đọc cho nhau nghe khoảng năm mươi trang giấy có được
theo cách này, và có thể bắt đầu so sánh kết quả của chúng tôi. Nói chung,
những kết quả của Soupault và của tôi cho thấy một sự tương đồng đáng chú ý:
cùng một lỗi cấu trúc, cùng sự thiếu khuyết như nhau, nhưng ở cả hai trường
hợp đều có ảo tưởng về một sự cao hứng đặc biệt, rất nhiều xúc cảm, cũng một
sự lựa chọn với những hình ảnh cùng một chất lượng hệt như chúng ta không
thể chuẩn bị thật kỹ lưỡng một hình ảnh duy nhất, một sự mặn mà rất đặc biệt và
thỉnh thoảng có vài chỗ là sự hài hước sắc sảo. Những khác nhau duy nhất của
hai văn bản này đối với tôi có lẽ chủ yếu là liên quan tới khí chất tương hỗ của
chúng tôi – khí chất của Soupault không tĩnh như của tôi, nếu tôi được phép phê
bình một cách nhẹ nhàng như thế – và liên quan tới việc anh ấy đã mắc lỗi khi
đặt một vài từ thay thế cho tiêu đề lên trên đầu một số trang, và chắc là do trí
nghĩ bị lừa phỉnh. Ngược lại, tôi phải công bình với anh vì anh thường phản đối
rất mạnh mẽ việc soạn lại dù nhỏ nhất, việc sửa lại dù rất ít ỏi trong mọi đoạn
viết kiểu này, mà theo tôi vốn không phù hợp. Có lẽ về điều này thì anh ấy hoàn
toàn có lý[11]. Quả thật, rất khó đánh giá đúng mức những yếu tố khác nhau
xuất hiện, thậm chí có thể nói rằng không thể đánh giá được chúng ngay từ lần
đọc đầu tiên. Ngay cả bạn khi viết thì nhìn bề ngoài những yếu tố ấy đối với
bạn cũng có vẻ xa lạ như đối với người đọc, và tất nhiên là bạn ngờ vực nó. Về
cách thức làm thơ mà nói, chúng được ưa chuộng nhờ vào một mức độ phi lý
trực tiếp rất cao, vì với một sự thẩm tra kỹ lưỡng hơn thì nét riêng biệt của sự phi
lý ấy là ở chỗ nhường vị trí cho tất cả những gì là có thể chấp nhận được, và có
tính hợp pháp trong thế giới này: ấy là tiết lộ một số lượng đặc tính và sự kiện
nói chung không kém khách quan.
Để tưởng nhớ Guillaume Appolinaire vừa qua đời, và chúng tôi thấy hình như
nhiều lần đã tập dượt theo kiểu này song không dành cho nó những phương tiện
văn học tầm thường, Soupault và tôi đặt tên Chủ nghĩa Siêu thực cho cách
diễn đạt mới thuần khiết mà chúng tôi có thể đạt được và chúng tôi nóng lòng
cho những người bạn của mình tận dụng khả năng ấy. Tôi tin rằng ngày nay

không cần phải bàn lại từ ấy nữa, và nghĩa của từ này được chúng ta sử dụng
luôn chiếm ưu thế so với nghĩa của Appolinaire đã dùng. Đúng hơn, có lẽ chúng
ta sẽ thử sử dụng từ Chủ nghĩa Siêu nhiên do Gérard de Nerval dùng trong lời
đề tặng Những cô gái lửa[12]. Đúng là dường như Nerval đã đạt được tới tinh


thần mà chúng tôi theo đuổi, vì thực ra Appolinaire chỉ có chữ, vẫn còn chưa đầy
đủ với chủ nghĩa siêu thực và tỏ ra bất lực không đưa ra được một bản tổng
quan lý thuyết đáng ghi nhận. Đây là hai câu của Nerval đối với tôi có vẻ như rất
đáng chú ý về phương diện này:
Tôi sẽ giải thích với ông, ngài Dumas thân mến, hiện tượng mà ông đã nói trên
kia. Ông biết đấy, có một vài người kể chuyện không thể tưởng tượng mà không
tự đồng nhất với các nhân vật thuộc trí tưởng tượng của mình. Ông biết người
bạn cũ của chúng ta Nodier đã kể với niềm tin chắc chắn biết bao rằng ông ấy
bất hạnh như thế nào khi bị đưa lên máy chém vào thời kỳ Cách mạng; người ta
trở nên tin vào điều ấy tới mức người ta tự hỏi làm thế nào ông ta lại cho gắn trở
lại được cái đầu của mình.
… Và vì ông đã bất cẩn khi trích dẫn một trong những bài thơ xon nê được sáng
tác trong trạng thái mơ mộng theo lối Siêu nhiên[13] ấy, như những người Đức
thường nói, nên ông cần nghe tất cả. Ông sẽ thấy chúng ở cuối tập thơ. Chúng
không tối tăm hơn siêu hình học của Hegel hay những Những cái đáng nhớcủa
Swedenborg[14] và có thể đánh mất sự quyến rũ của mình khi được giải thích,
nếu có thể hãy nhượng bộ với tôi ít nhất là giá trị của việc diễn đạt…[15]
Sẽ là ác ý khi phủ nhận quyền sử dụng của chúng tôi đối với từ Siêu thực theo ý
nghĩa rất đặc biệt mà chúng tôi dành cho nó, bởi vì thật là rõ ràng là trước chúng
tôi thì cái từ này không được chấp nhận. Tôi do vậy dứt khoát định nghĩa nó là:
Chủ nghĩa Siêu thực, danh từ giống đực, cơ chế tự động của tâm lý thuần khiết
được dùng để diễn đạt hoạt động đích thực của tư tưởng hoặc bằng ngôn từ,
hoặc bằng chữ viết, hoặc bằng mọi cách thức khác. Được tư tưởng xui khiến,
vắng mặt mọi sự kiểm soát của lý trí, ngoài mọi thành kiến mỹ học và đạo đức.

… Tôi cảm thấy tiếng nói ấy (tức tiếng nói siêu thực – BT) không chỉ tỏ ra thích
hợp với mọi tình huống của cuộc sống, thứ tiếng nói mà tôi luôn cố để nó trở nên
có giá trị, tiếng nói ấy không những không tước đi của tôi bất kỳ phương tiện
nào, nó còn mang lại cho tôi một sự sáng rõ kỳ lạ, cả trong lĩnh vực mà tôi ít chờ
đợi nhất. Tôi thậm chí sẽ khẳng định rằng tiếng nói ấy đã dạy tôi và quả thật có
lúc tôi đã sử dụng một cách siêu hiện thực những từ mà tôi đã quên cả nghĩa.
Tôi có thể kiểm chứng ngay lập tức xem việc tôi sử dụng các từ ấy có tương ứng
một cách chính xác với các định nghĩa của chúng không. Điều này có thể sẽ làm
ta tin rằng ta không “học”, mà bao giờ cũng chỉ là “học lại”. Có những tình huống
may mắn mà tôi đã làm quen như thế. Tôi không nói tới ý thức thi ca về các đối
tượng, cái mà tôi chỉ có thể giành được khi gặp gỡ với chúng về mặt tinh thần
trong hàng ngàn lần lặp lại.
Các hình thức của tiếng nói siêu thực là phù hợp nhất với cuộc đối thoại. Khi ấy,
hai tư duy va chạm nhau; trong khi một cái thì phó mặc, còn cái kia lại chú tâm
tới hình thức tiếng nói, nhưng nó chú tâm như thế nào? Giả thiết tư duy này
được trộn lẫn với tư duy kia có lẽ sẽ là chấp nhận rằng trong một thời điểm thì tư
duy này có thể hoàn toàn sống bằng tư duy kia, điều vị tất xảy ra. Và quả thật,
sự chú ý của tư duy đối với tiếng nói hoàn toàn chỉ ở bề ngoài; tư duy chỉ có
niềm vui thú là tán thành hay bài xích, thường thì là bài xích, với tất cả mọi mặt


con người có thể có. Tuy thế cách thức dùng tiếng nói như vậy lại không cho
phép tiếp cận bản chất của một vấn đề. Sự chú ý của tôi, mồi của một sự xin xỏ
mà tư duy ấy không thể chối bỏ cho đúng lẽ, đã đối xử với tư duy thứ hai như kẻ
thù; trong cuộc trò chuyện thường gặp, tư duy ấy “trách mắng” tư duy kia hầu
như ở từng từ một, từng hình thái được tư duy sử dụng; tư duy ấy làm cho tôi có
thể lợi dụng nó trong đối đáp bằng cách làm biến tính các hình thái. Điều ấy thật
tới mức trong một vài trạng thái tinh thần bệnh lý khi các rối loạn giác quan thu
hút toàn bộ sự chú ý của người bệnh, thì người này vừa tiếp tục đáp lại các câu
hỏi, lại vừa chỉ giữ từ cuối cùng được phát âm trước mặt mình hay giữ lấy thành

phần cuối cùng của câu nói kiểu siêu thực mà anh ta tìm thấy dấu vết trong trí óc
mình:
“Bao nhiêu tuổi hả anh? – Anh ý” (chứng lắp lời)[16]
“Anh tên là gì? – Bốn mươi nhăm ngôi nhà” (Triệu chứng đính vải trang sức hay
những câu trả lời bên cạnh)
Trí óc không nằm ở tâm điểm cuộc trò chuyện khi có điều gì đó rối loạn đang xảy
ra. Cố gắng mang tính xã hội đang chủ trì ở đây và thói quen chủ yếu của chúng
ta, chỉ riêng chúng đã có thể che giấu được sự rối loạn ấy với chúng ta một cách
tạm thời. Đó cũng là điểm yếu lớn của cuốn sách khi không ngừng có xung đột
với lý trí của những người đọc tốt nhất, vì tôi đòi hỏi những người đọc khó tính
nhất. Trong cuộc trò chuyện rất ngắn mà tôi ứng tác trên kia giữa bác sĩ và bệnh
nhân tâm thần, chính bệnh nhân đã thắng. Bởi vì anh ta đã áp đặt bằng những
câu trả lời của mình cho sự chú ý của bác sĩ đang kiểm tra anh ta – và vì anh ta
không phải là người đặt câu hỏi. Liệu có phải nói rằng tư duy của anh ta lúc này
là mạnh nhất? Có thể. Anh ta tự do vì không phải quan tâm tới tuổi tác và tên họ
của mình nữa.
Chủ nghĩa siêu thực thi ca mà tôi nghiên cứu, được áp dụng cho tới lúc này để
khôi phục lại cuộc đối thoại trong sự thật tối cao của nó, bằng cách tách bỏ hai
người tham gia đối thoại khỏi những gò bó xã giao. Mỗi một người trong số họ
chỉ theo đuổi lời độc thoại của mình, chứ không hề tìm cách mang lại một niềm
vui thú biện chứng đặc biệt và áp đặt phần tối thiểu của thế giới cho người đối
thoại kia. Những lời nhận được, như bình thường, không có mục đích là phát
triển một chủ đề, cũng chểnh mảng lơ là như người ta muốn, chúng cũng đều
được áp dụng vào việc khác khi có thể. Còn về câu trả lời mà chúng đòi hỏi, về
nguyên tắc thì câu trả lời đó hoàn toàn thờ ơ với lòng tự ái của người đã nói. Từ
ngữ, những hình ảnh chỉ hiện ra như chiếc bàn đạp cho lý trí của người đang
lắng nghe. Chính bằng cách này mà trong cuốn Những loại từ trường, cuốn sách
đầu tiên thuần siêu thực, phải xuất hiện các trang giấy được tập hợp lại dưới cái
tên: Những trở ngại, ở đấy Soupault và tôi đều tỏ ra là những người đối thoại vô
tư.

Chủ nghĩa siêu thực không cho phép những ai say mê với nó lại bỏ dở khi họ
thích. Tất cả đều nhằm tin rằng nó tác động lên lý trí theo cách của những chất
ma túy; cũng như những chất này, nó tạo nên một trạng thái nhu cầu nhất định
và có thể đẩy con người tới những cuộc nổi loạn khủng khiếp. Nếu người ta


muốn, còn có một thiên đường hoàn toàn nhân tạo và cái sở thích được tô đậm
bằng bài phê bình của Baudelaire cùng tên như những bài khác. Do vậy cần
phân tích các hiệu quả huyền bí và những lạc thú riêng biệt có thể được thiên
đường ấy sinh ra, ở nhiều khía cạnh thì chủ nghĩa siêu thực hiện ra như mộtsai
lầm mới, sai lầm đó tưởng như không nhất thiết phải là của riêng một số người;
nó như thứ thuốc phiện có thể thỏa mãn mọi kẻ tinh tế, một phân tích như vậy
không thể không tìm thấy vị trí trong nghiên cứu này.
Có những hình ảnh siêu thực giống hệt như những hình ảnh thuốc phiện mà con
người không gợi lại nữa, nhưng chúng lại “hiện ra với con người vừa tự phát
vừa chuyên chế. Con người không thể vứt bỏ những hình ảnh ấy; bởi vì ý chí
không còn sức mạnh nữa và không cai quản được nữa các năng lực của mình.
Còn cần phải xem liệu người ta có bao giờ còn “gợi ra” các hình ảnh. Nếu người
ta dừng lại ở đó, như tôi đã làm điều ấy, theo định nghĩa của Reverdy thì có vẻ
như không thể tiến lại gần một cách tự nguyện điều mà anh ấy gọi là “hai hiện
thực cách quãng”. Việc sáp lại gần có diễn ra hay không, chỉ có vậy. Về phần
mình tôi phủ nhận một cách dứt khoát nhất, rằng ở Reverdy các hình ảnh kiểu
như:
Trong dòng suối có một bài hát đang chảy.
hay:
Ánh sáng trải ra như một chiếc khăn trải bàn màu trắng.
hay:
Thế giới trở về trong một cái túi xách.
đều thể hiện mức độ nhỏ nhất của sự chủ ý. Theo tôi, điều sai lầm là cả quyết
rằng “lý trí đã tóm được các mối quan hệ” của hai hiện thực đang hiện diện. Để

bắt đầu, lý trí chẳng tóm lấy cái gì một cách có ý thức. Chính sự tiến lại gần theo
cách ngẫu nhiên nào đó của hai khái niệm đã làm bật ra một thứ ánh sáng đặc
biệt, ánh sáng của hình ảnh, tỏ ra vô cùng nhạy cảm với chúng ta. Giá trị của
hình ảnh phụ thuộc vào vẻ đẹp của tia lửa nhận được; bởi vậy, giá trị là chức
năng của sự khác biệt tiềm tàng giữa hai chất dẫn truyền. Khi sự khác biệt này
hầu như không tồn tại như trong sự so sánh thì tia lửa không xảy ra. Thế là, theo
suy nghĩa của tôi, lý trí không thuộc thẩm quyền của con người trong việc cùng
chuẩn bị cho sự tiến lại gần của hai hiện thực rất xa nhau. Nguyên tắc liên hội
của các ý tưởng, như chúng ta hình dung, chống lại sự tiến lại gần nhau. Hay có
nên lại quay trở lại một nghệ thuật tỉnh lược bị cả Reverdy và tôi lên án. Do vậy
buộc phải chấp nhận rằng cả hai khái niệm về hình ảnh không suy ra được cho
nhau bằng lý trí nằm trong tầm của tia lửa sinh ra, rằng các khái niệm đó là
những sản phẩm đồng thời của hành động mà tôi gọi là siêu thực, vì lý tính chỉ
ghi nhận và đánh giá hiện tượng ánh sáng.
Cũng như chiều dài của tia lửa mạnh hơn khi xảy ra trong những thứ khí hiếm,
bầu khí quyển siêu thực được tạo nên từ cách viết như máy, tôi rất mong đặt nó
trong tầm tay của mọi người, đặc biệt sẵn sàng cho việc tạo nên những hình ảnh


đẹp nhất. Người ta thậm chí có thể nói rằng các hình ảnh xuất hiện, trong dòng
chảy chóng mặt ấy, như những cái cờ hiệu duy nhất của lý trí. Lý trí dần dần tin
vào hiện thực tối cao của những hình ảnh ấy. Trước tiên chỉ là chịu đựng chúng,
lý trí ngay sau đó nhận ra rằng các hình ảnh vuốt ve lý tính của nó, và làm tăng
lên được bao nhiêu hiểu biết cho lý trí. Nó ý thức được về những tri thức mênh
mông không giới hạn, nơi những mong muốn của nó được biểu hiện, nơi điều
chấp nhận và điều phản đối không ngừng giảm đi, nơi sự tối tăm của lý trí không
tiết lộ nó. Thế là, chuyên chở và làm lý trí vui thú, các hình ảnh ấy hầu như
không để cho lý trí thời gian làm bất cứ điều gì. Đêm trong số những đêm đẹp
nhất là đêm của các tia chớp: ánh sáng, so với nó, là đêm.
Những kiểu hình ảnh không đếm xuể của chủ nghĩa siêu thực sẽ đòi hỏi một sự

phân loại mà giờ đây tôi không dự định thử nghiệm. Việc xếp nhóm các kiểu đó
tùy theo sự tinh tế đặc biệt của chúng có thể dẫn tôi đi quá xa: tôi chủ yếu muốn
tính tới hiệu năng chung của chúng. Đối với tôi, hiệu năng có sức mạnh nhất là
hiệu năng thể hiện mức độ võ đoán cao nhất, tôi không giấu giếm điều ấy; hiệu
năng mà người ta mất nhiều thời gian nhất để thể hiện bằng tiếng nói thiết thực,
hoặc là hiệu năng ấy chứa đựng một liều khổng lồ mâu thuẫn hình thức, hoặc là
một trong những khái niệm của nó được che giấu một cách kỳ lạ, hoặc là vì
thông báo một cách ấn tượng nên hiệu năng có vẻ như được kết thúc một cách
yếu ớt (dù cho nó khép góc đột ngột của chiếc com-pa), hoặc là hiệu năng ấy có
được trong chính mình một sự biện minh có tính hình thức giễu nhại, hoặc là nó
thuộc loại ảo giác, hoặc là hiệu năng ấy gán một cách tự nhiên cho sự trừu
tượng cái mặt nạ của sự cụ thể hay ngược lại, hoặc là nó liên can tới sự phủ
định đặc điểm thể chất sơ đẳng nào đó, hoặc là nó gây ra tiếng cười. Đây là một
vài ví dụ, xếp theo trật tự:
Màu đỏ rubi của rượu sâm banh.Lautréamont
Đẹp như định luật dừng phát triển ở ngực những người lớn, mà thiên hướng của
họ với sự tăng trưởng không phải nằm trong mối quan hệ số lượng phân tử mà
cơ thể của họ đồng hóa.Lautréamont
Một nhà thờ dựng lên chói lòa như một gác chuông.Philippe Soupault
Trong cơn buồn ngủ của Rrose Sélavy có một người lùn đi ra từ một cái giếng
vừa mới ăn cái bánh của mình vào đêm.Robert Desnos
Trên cây cầu màu phớt hồng ở đầu con mèo cái trở nên dịu đi.André Breton.
Về phía trái một chút, trong bầu trời của mình được đoán, tôi thoáng nhận thấy –
nhưng không chắc có phải một làn khói máu và chết chóc – sự hào nhoáng mờ
xỉn của những nhiễu loạn tự do.Louis Aragon.
Trong cánh rừng bốc cháy, / Những con sưư tử còn tươi mới.Roger Vitrac
Màu sắc của phần phía dưới một người đàn bà không nhất thiết liên quan tới
hình ảnh đôi mắt bà ta, điều ấy làm một nhà triết học nói rằng thật vô ích khi gọi
tên: “Loài chân đầu có nhiều lý do hơn là loài bốn chân khi sợ hãi sự tiến
bộ”. Max Morise.



1. Dù muốn hay không, thì vẫn có ở đấy cái gì đó làm hài lòng rất nhiều đòi hỏi
của lý trí. Toàn bộ các hình ảnh ấy có vẻ như chứng minh rằng lý trí chín muồi vì
những điều khác với những niềm vui nhẹ nhàng mà lý trí nói chung là hòa hợp.
Đấy là cách duy nhất mà lý trí phải cho số lượng lý tưởng các sự kiện được nó
gánh chịu quay theo hướng có lợi cho mình. Những hình ảnh ấy mang lại cho lý
trí khả năng biến mất thông thường và những phiền phức do sự biến mất dành
cho nó. Không hề tồi khi các hình ảnh ấy cuối cùng lại làm chưng hửng lý trí, bởi
vì làm chưng hửng lý trí chính là đặt lý trí trong sai lầm của chính mình. Những
câu văn mà tôi trích ra đều bổ sung vào đấy là chính. Nhưng lý trí khi nếm trải
những câu văn ấy lại rút được từ đấy ra tri thức tự nhận được ra mình trên con
đường thẳng; cho chính mình, nó sẽ không thể trở thành thủ phạm tế nhị quá
đáng. Nó chẳng có gì để sợ bởi vì ngoài ra, nó tỏ ra mạnh để bao vây tất cả.
2. Lý trí ẩn sâu vào trong chủ nghĩa siêu thực và nếm trải lại phần tuyệt nhất của
tuổi thơ mình bằng sự hưng phấn. Đối với lý trí chỉ có một chút, còn sự xác thực
của lý trí, vì nó đang chìm đắm dần, lại vượt qua lần nữa cả điều không thể vượt
qua của cuộc đời mình chưa đầy một phút. Ai đó sẽ nói với tôi rằng chẳng đáng
khích lệ. Nhưng tôi không thiết tha việc khuyến khích mọi người sẽ nói với tôi
điều ấy. Từ những kỷ niệm trẻ thơ và một vài kỷ niệm khác xuất hiện một cảm
xúc không thể chiếm đoạt và tiếp đó sa đọa, tôi coi tình cảm ấy vô cùng dồi dào
khi đang tồn tại. Có thể chính tuổi thơ mới tiến lại gần nhất “cuộc sống thực”; ở
ngoài tuổi thơ con người chỉ còn có một vài vé ưu tiên thêm vào giấy thông hành
của mình; tuy tuổi thơ là khi tất cả cùng góp sức vào việc sở hữu có hiệu quả về
chính mình, và không có điều bất ngờ. Nhờ vào chủ nghĩa siêu thực, có vẻ như
những may mắn ấy sẽ quay trở lại. Hệt như nếu người ta còn lao tới sự cứu vớt
của mình, hay tới sự mất mát của mình. Thì người ta sẽ lại nếm trải trong bóng
tối một sự khủng khiếp quý giá. Ơn Chúa, đó chỉ còn là nơi Chuộc tội. Hơi run
rẩy, ta đi qua cái mà những người ưa huyền bí gọi là khung cảnh hiểm nguy.
Trên từng bước đi của mình, tôi thầm nghĩ tới những con quái vật đang rình mò;

chúng còn chưa phải có ác ý quá lắm đối với tôi và tôi không lạc, bởi vì tôi sợ
chúng. Đấy là “những con voi có đầu đàn bà và những con sư tử biết bay”, mà
Soupault và tôi, cả hai vừa mới run rẩy gặp, đấy là “con cá tan được”, nó vẫn
còn làm tôi khiếp sợ đôi chút. Con cá tan được, có phải tôi là con cá tan được,
vì tôi được sinh ra dưới dấu hiệu của những con Cá và con người thì tan ra
trong tư duy của mình. Hệ động vật và hệ thực vật của chủ nghĩa siêu thực đều
không dễ thổ lộ.
3. Tôi không tin rằng sẽ có một công thức sáo mòn kiểu siêu thực chủ nghĩa.
Những đặc điểm chung cho tất cả các văn bản cùng thể loại, trong số ấy chỉ
riêng những văn bản mà tôi vừa lưu ý và rất nhiều cái khác thôi có thể cung cấp
cho tôi một bản phân tích hợp lý và một bản phân tích ngữ pháp chặt chẽ, những
đặc điểm văn bản ấy không đối lập với một sự tiến triển nào đó của văn xuôi siêu
thực theo thời gian. Tiếp đó là rất nhiều các tiểu luận được tôi miệt mài theo
hướng này từ năm năm nay và tôi thích thú khi cho là phần lớn chúng cực kỳ
mất trật tự, những câu chuyện vặt vãnh tạo nên phần tiếp của tập sách này cung
cấp cho tôi một chứng cớ hiển nhiên về điều đó. Vì điều ấy, tôi không coi chúng
là xứng đáng hơn hay không để làm hiện ra dưới con mắt độc giả những hạt


mầm mà sự đóng góp của chủ nghĩa siêu thực có khả năng làm chúng trở thành
hiện thực trong ý thức của độc giả.
Các phương tiện siêu thực chủ nghĩa tuy thế lại đòi hỏi được trải rộng. Tất cả
đều thuận lợi để nhận được sự bất ngờ mong muốn từ một vài liên tưởng.
Những tờ giấy dán của Picasso và của Braque có giá trị như sự dẫn nhập một
điều sáo rỗng vào một sự phát triển văn chương thuộc phong cách được gọt
giũa nhất. Thậm chí được phép gọi là Bài thơ từ cái mà ta nhận được do lắp
ghép một cách rất vô cớ (hãy tìm hiểu cú pháp nếu bạn muốn) các tiêu đề và
một phần các tiêu đề được cắt rời ở các trang báo.
Tôi cảm thấy các áp dụng của chủ nghĩa siêu thực vào hành động còn trở nên
quan trọng theo một cách khác[17], tôi đã gợi ý điều ấy một cách đầy đủ. Có lẽ

tôi không tin vào phẩm chất tiên tri của ngôn từ siêu thực. “Điều tôi nói ấy là sấm
ngôn” [18]: Vâng, chừng nào tôi muốn, nhưng thế nào thì đúng là sấm ngôn[19]?
Sự sùng đạo của con người không lừa dối tôi. Tiếng nói siêu thực chủ nghĩa
từng làm lay động Cumes, Dodone và Delphé không là cái gì khác ngoài tiếng
nói xui khiến tôi viết những bài diễn văn ít kích thích nhất. Thời đại của tôi không
nhất thiết là của thời đại siêu thực, tại sao tiếng nói ấy lại giúp tôi giải quyết vấn
đề trẻ thơ từ số phận của mình? Vì không may mắn, tôi vờ như hành động trong
một thế giới để có được cả những gợi ý của tiếng nói siêu thực, nơi ấy tôi có thể
buộc phải chấp nhận có hai người phiên dịch cho những gợi ý này, một kiểu
người để giải thích cho tôi những câu của chủ nghĩa siêu thực, một người,
nhưng không thể tìm thấy, để áp đặt cho những người tương tự như tôi cách
hiểu mà tôi có thể có. Thế giới ấy, nơi tôi chịu đựng điều mà mình chịu đựng
(không đi xem ở đấy), thế giới hiện đại cuối cùng thật kinh khủng! Anh muốn tôi
làm gì ở đó? Giọng nói siêu thực sẽ có thể im lặng, tôi không bị ràng buộc nữa
vào việc tính đếm những sự biến mất của mình. Tôi sẽ không tham gia vào việc
khấu trừ tuyệt diệu nữa, dù là ít bao nhiêu đi nữa, đối với những năm tháng của
cuộc đời tôi. Tôi sẽ như Nijinski được người ta dẫn tới những vở kịch múa Nga
năm ngoái, và anh ta không hiểu chút gì những màn trình diễn đang xem. Tôi sẽ
lẻ loi, lẻ loi trong chính mình, xa lạ với mọi vở kịch múa của thế giới. Điều tôi làm,
điều tôi không làm, tôi trao nó cho anh.
Ngay sau đây, tôi có một ham muốn lớn là cân nhắc sự mơ mộng khoa học một
cách độ lượng, cuối cùng dù là khó coi ở mọi phương diện. Điện báo vô tuyến
ư? Tất nhiên. Bệnh giang mai ư? Nếu anh muốn. Chụp ảnh ư? Tôi chẳng thấy
có gì bất tiện. Điện ảnh ư? Hoan hô những phòng tối. Chiến tranh ư? Chúng ta
cùng cười tươi. Điện thoại ư? Alô, vâng. Tuổi trẻ ư? Những hàng tóc trắng đầy
quyến rũ. Hãy thử làm cho tôi nói cám ơn: “Cám ơn”. Cám ơn… Nếu kẻ tầm
thường đánh giá đúng, chính xác mà nói, chuyện nghiên cứu của phòng thí
nghiệm, khi những cuộc tìm kiếm ấy đã phóng được một chiếc máy, khám phá
được một chất huyết thanh, thì kẻ tầm thường sẽ tự cho là mình liên quan trực
tiếp tới chuyện ấy. Không nghi ngờ rằng người ta đã từng muốn cải tạo số phận

của mình. Tôi không biết điều gì xuất hiện một cách chính xác trong lý tưởng của
những nhà thông thái có ước nguyện nhân đạo, nhưng tôi cảm thấy điều ấy
không tạo nên tổng số rất lớn lòng nhân từ. Dĩ nhiên tôi nói về những nhà thông
thái thật sự chứ không phải những người phổ biến kiến thức khoa học thuộc đủ


hạng, những người làm sao để được cấp phát một bằng phát minh. Trong lĩnh
vực này cũng như lĩnh vực khác, tôi tin vào niềm vui siêu thực thuần khiết của
con người, vốn quen với thất bại thường xuyên, nên không tự coi như đã thua
cuộc mà xuất phát từ nơi mình muốn, bằng con đường hoàn toàn khác với một
con đường chính đạo để đạt tới đích. Bất cứ hình ảnh nào mà con người cho là
đúng lúc để đánh dấu bước tiến của mình về nó, hình ảnh ấy sẽ mang lại cho
con người sự thừa nhận của công chúng, thì tôi có thể thú thực rằng nó không
làm tôi bận lòng. Vật chất mà con người phải lưu tâm cũng không cần thiết cho
tôi nữa: những ống thủy tinh của người hay những ngòi bút sắt của tôi… Còn về
phương pháp của người, tôi coi như cái đáng giá như của tôi. Trong công việc,
tôi đã gặp người khám phá phản xạ ngoài da gan bàn chân; anh ta không ngừng
dùng tay chữa cho những bệnh nhân của mình, hoàn toàn khác với một “cuộc
thi” mà anh ta thực hiện, rõ ràng là anh ta không tin vào bất kỳ sơ đồ nào nữa.
Mỗi chỗ, anh ta nêu một nhận xét, xa xôi, nhưng không vì điều ấy mà hạ cái
ghim của mình xuống, trong khi ấy cái búa của anh ta luôn chuyển động. Việc
chữa trị cho những người bệnh, anh ta để mặc nhiệm vụ vô ích ấy cho người
khác. Anh ta hoàn toàn lên cơn sốt thiêng liêng.
Chủ nghĩa siêu thực, như tôi dự định về nó, tuyên bố chủ nghĩa phi-cơ hội của
chúng tôi là tuyệt đối nên không phức tạp lắm khi thể hiện nó như nhân chứng
được miễn tội, trong vụ kiện của thế giới hiện thực. Ngược lại, chủ nghĩa ấy chỉ
nghĩ tới việc biện minh cho trạng thái hoàn toàn đãng trí mà chúng tôi trông đợi
đạt được nơi trần thế này. Việc đãng trí của Kant[20] đối với phụ nữ, việc đãng
trí đối với “cây nho” của Pasteur[21], sự đãng trí đối với xe cộ của Curie[22] về
khía cạnh này vô cùng tiêu biểu. Một cách tương đối, thế giới này chỉ phụ thuộc

vào mức độ tư duy và các biến cố theo kiểu ấy chỉ là những chương đoạn tiêu
biểu nhất của một cuộc chiến tranh giành độc lập mà tôi lấy làm hãnh diện được
tham gia. Chủ nghĩa siêu thực là “tia sáng vô hình” cho phép chúng ta một ngày
nào đó chiến thắng đối thủ của mình. “Anh không run sợ nữa, hỡi bộ xương”.
Mùa hè này, những bông hồng có màu xanh; gỗ đó là chất thủy tinh. Mặt đất
được phủ trong màu xanh của nó gây cho tôi chút hiệu quả như một hồn ma.
Sống và ngừng sống đều là những giải pháp tưởng tượng. Tồn tại mới ở nơi
khác.
PHÙNG KIÊN dịch (từ nguyên bản tiếng Pháp),
PHƯƠNG NGỌC hiệu đính (12/4/2004)



×