Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên trường chính trị hà nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 82 trang )

LUẬN VĂN:

Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng cho học viên trường chính trị Hà Nam
hiện nay


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới quan khoa học là cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và định hướng đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Hay nói cách
khác, thế giới quan khoa học có vai trò quan trọng trong nhận thức và cải tạo thực tiễn.
Do đó, việc giáo dục, bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng - thế giới quan khoa
học cho đội ngũ cán bộ của Đảng không chỉ là việc làm thường xuyên, lâu dài mà còn là
vấn đề cấp thiết trong công cuộc đổi mới hiện nay của nước ta.
Trước diễn biến đa dạng phức tạp trên thế giới và trong nước đòi hỏi người cán
bộ phải có bản lĩnh chính trị, tri thức khoa học vững vàng để nhận thức và hoạt động
đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan của đất nước và xu thế của thời đại.
Hà Nam là một tỉnh nằm phía Nam của Thủ đô Hà Nội, chủ yếu dọc hai bên
đường quốc lộ 1A, mới được tái lập tháng 1/1997, có vị trí chiến lược an ninh - quốc
phòng, có điều kiện địa - chính trị thuận lợi. Song, trong những năm qua, tốc độ phát
triển kinh tế - xã hội, văn hóa chưa thật tương xứng với tiềm năng vốn có của nó.
Trường Chính trị Hà Nam là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống
chính trị từ tỉnh đến cơ sở (trừ cán bộ chủ chốt cấp huyện và cấp tỉnh). ở đó, cán bộ có
điều kiện tiếp cận nội dung kiến thức cơ bản để phục vụ hoạt động công tác của mình,
góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng của tỉnh.
Vì vậy, những hạn chế chung của tỉnh có thể do nhiều phương diện, trong đó
phải nói đến hiệu quả công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý của nhà trường, đặc
biệt là công tác xây dựng thế giới quan khoa học cho họ. Cho nên, việc bồi dưỡng thế
giới quan khoa học là một trong những giải pháp cấp bách và chiến lược lâu dài cho đội


ngũ cán bộ tỉnh Hà Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


Hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy
vật biện chứng đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt. Ngoài ra còn có những công trình nghiên
cứu một số vấn đề có liên quan đến thế giới quan khoa học ở những giác độ khác nhau
cũng được thực hiện trong một số luận văn, luận án; cụ thể như sau:
- V.I.Li-xốp-ski và V.Mi-tri-ep: "Nhân cách của người sinh viên" (chương VI:
Sự hình thành thế giới quan), Nxb Đại học Tổng hợp Lêningrát, 1974.
- Bun-nhông-khin-sa-mom: "Xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho
đảng viên Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay", Luận án PTS, số
48, Học viện Nguyễn ái Quốc.
- Ch.L.Xiếc-nốp: "Những vấn đề cấp bách của việc hình thành thế giới quan
Mác - Lênin", Tạp chí Giáo dục Mác - Lênin, số 3-1985.
- Lê Xuân Vũ: "Thế giới quan Mác - Lênin trong đời sống tinh thần nhân dân
ta", Tạp chí Cộng sản số 6-1986.
- Bùi ỉnh: "Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng đối với cán bộ,
đảng viên là người dân tộc, thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta",
Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1988.
- Trần Thanh Hà: "Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ, đảng viên
người dân tộc Khơmer ở đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn cách mạng hiện
nay", Luận án Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1993.
- Trần Phước: "Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức
Việt Nam", Luận án PTS triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1993.

- Trần Viết Quân: "Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên", Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.
Các tác giả trên đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản như sau:



+ Khái niệm thế giới quan nói chung và thế giới quan duy vật biện chứng nói
riêng, vấn đề cấu trúc, vai trò của chúng.
+ Tầm quan trọng và tính tất yếu của việc giáo dục bồi dưỡng thế giới quan duy
vật biện chứng cho các đối tượng như sinh viên, cán bộ nói chung trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Nêu ra những nhân tố cơ bản trong việc hình thành, tác động phát triển thế giới
quan duy vật biện chứng.
+ Từ đó, tác giả đưa ra một số những phương hướng chung và các giải pháp cụ
thể cho mỗi đối tượng nghiên cứu trên cơ sở đòi hỏi của thực tiễn trong mỗi giai đoạn
nhất định.
Tuy nhiên về " Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học
viên trường chính trị Hà Nam hiện nay " chưa có tác giả nào nghiên cứu. Dựa trên
thực tế giáo dục, bồi dưỡng thế giới quan Mác - Lênin của Trường Chính trị Hà Nam trong
những năm qua cho đội ngũ cán bộ trong tỉnh và thông qua việc giảng dạy môn triết học,
tác giả mạnh dạn chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ triết học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Từ việc phân tích vai trò thế giới quan và thực trạng việc bồi dưỡng thế giới quan
của cán bộ tỉnh Hà Nam, luận văn đưa ra một số những giải pháp cụ thể nhằm bồi dưỡng
thế giới quan cho đội ngũ học viên của trường Chính trị tỉnh Hà Nam.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm thế giới quan duy vật biện chứng và vai trò của nó trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng thế giới quan của cán bộ trong tỉnh Hà Nam.


- Đưa ra một số những giải pháp nhằm nâng cao thế giới quan khoa học cho đối
tượng là học viên học ở tại trường.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ đề cập đến vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho
học viên ở Trường Chính trị Hà Nam (trừ đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và cấp huyện)
từ năm 1997 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề giáo dục bồi dưỡng
thế giới quan Mác - Lênin, mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, mối quan hệ
giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, giữa sự thống nhất biện chứng lý luận
và thực tiễn…

- Luận văn dựa vào các văn kiện của các thời kỳ Đại hội của

Đảng, Nghị quyết trung ương, các tài liệu của các cấp ủy Đảng và chính quyền ở tỉnh và
Trường Chính trị Hà Nam.
- Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, kết hợp lịch sử và lôgíc, điều tra xã hội học…
6. Đóng góp của luận văn
Làm rõ thực trạng thế giới quan của cán bộ tỉnh Hà Nam trên cơ sở đó đề ra một
số giải pháp chủ yếu để củng cố và nâng cao thế giới quan duy vật biện chứng cho đội
ngũ cán bộ này.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chiến lược, kế
hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ ở tỉnh Hà Nam.
- Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu giảng dạy và học tập ở
trường chính trị nói chung và Trường Chính trị Hà Nam nói riêng.
văn

7. Kết cấu của luận



Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.


Chương 1
Thế giới quan của đội ngũ cán bộ
tỉnh hà nam hiện nay

1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng và vai trò của thế giới quan duy vật
biện chứng đối với công tác lãnh đạo, quản lý
1.1.1. Thế giới quan duy vật biện chứng
Đứng trước bức tranh về thế giới (tự nhiên và xã hội) muôn hình, muôn vẻ và
sinh động, con người luôn đặt ra và giải quyết những vấn đề về mối quan hệ của mình với
thế giới, về nguồn gốc của thế giới, về vị trí của mình trong xã hội, về ý nghĩa cuộc sống
của mình và thể hiện quan điểm, tư tưởng qua các lý thuyết xã hội. Đó chính là sự lựa
chọn và định hướng cuộc sống, tức là sự thể hiện thế giới quan của mình.
Thuật ngữ "thế giới quan" xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XVIII do nhà triết
học cổ điển Đức là Cantơ nêu ra. Từ đó, nó được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm của
các nhà triết học sau này. Đặc biệt, với sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm
thế giới quan đã phát triển lên một tầm cao mới mang tầm vóc lớn lao.
Thế giới quan nào ra đời cũng đều nhằm giải quyết ba vấn đề cơ
bản sau:
- Thế giới mà con người đang sống là gì?
- Trong thế giới đó con người sống vì cái gì và sống như thế nào?
- Khả năng con người tác động lại thế giới ra sao?
Trả lời những câu hỏi đó, thế giới quan đã vạch ra được mối quan hệ giữa con
người với thế giới và xác định vị trí con người trong thế giới đó.
Thế giới quan được hình thành và phát triển trong xã hội dưới hai hình thức:



Thứ nhất: Thế giới quan là một nhân tố của ý thức cá nhân, giữ vai trò chỉ dẫn
cách thức tư duy và hành động của cá nhân, đó là thế giới quan cá nhân. Thế giới quan cá
nhân thường là sự tích lũy và thu thập kinh nghiệm sống của mọi người. Nó nằm trong
suy nghĩ và hành vi của họ mà chính họ cũng không biết rằng cái được gọi là kinh
nghiệm sống hay sự hiểu biết về bức tranh chung của thế giới đó là thế giới quan cá nhân.
Nó chính là mức độ thấp trong nhận thức thế giới. Tuy nhiên, không nên đánh giá thấp
tác dụng của nó với tính cách là một nhân tố điều chỉnh hành động của con người. Tác
động của giáo dục, ảnh hưởng của truyền thống, của các quan hệ xã hội, các điều kiện và
hoàn cảnh môi trường sống là nhân tố quan trọng hình thành các quan điểm và nguyên
tắc thế giới quan cá nhân.
Thứ hai: Thế giới quan là sự thể hiện dưới hình thức lý luận khái quát hóa các
quan điểm và hoạt động của một nhóm xã hội, một giai cấp hay toàn xã hội. Đó là thế
giới quan xã hội. Các nhà triết học, kinh tế học, xã hội học hay các nhà tư tưởng, chính
trị... luôn suy nghĩ, cân nhắc để xây dựng thế giới quan xã hội. Nhiệm vụ của họ là phải
làm thế nào để thể hiện một cách đầy đủ nhất những nguyên lý tư tưởng lý luận, nguyên
lý triết học nhằm chỉ dẫn suy nghĩ và hành động của con người, của một nhóm xã hội,
một giai cấp hay toàn xã hội.
Hai loại thế giới quan trên luôn nằm trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau.
Mỗi cá nhân đều luôn mong muốn làm phong phú tri thức của mình bằng cách tiếp nhận
những lý luận chung để làm sáng tỏ vị trí của mình trong thế giới, trong đời sống xã hội.
Ngược lại, những quan điểm thế giới quan xã hội, lý luận chung ấy trở thành một bộ phận
trong ý thức và niềm tin của các cá nhân, thẩm thấu vào ý thức cá nhân, được hình thành
một cách tự phát rồi tác động và chỉ dẫn nó.
Dù ở trình độ phát triển nào các quan điểm về thế giới quan cũng đều mang tính
khái quát. Thế giới quan là sự phản ảnh chủ quan những điều kiện sinh hoạt vật chất của
con người. Tuy nhiên, thế giới quan không chỉ dừng lại ở sự phản ánh thụ động đó, mà
nó còn là nhân tố tích cực của con người, sự thông thái về cuộc sống để chỉ dẫn cho nhận
thức lẫn hành động của con người. Bởi vì, chính hành vi và hoạt động của con người đã



đặt ra các vấn đề như: liệu nhận thức có đáp ứng những mục đích sống đã được con
người lựa chọn và con đường thực hiện những mục đích ấy có tuân theo những quy luật
phát triển của thế giới khách quan hay không? Liệu quan hệ giữa tri thức con người với
thực tiễn cải tạo thế giới khách quan, cải tạo chính bản thân mình có tương ứng với
những đòi hỏi và những khuynh hướng phát triển hợp quy luật của hiện thực hay không?
Và bằng cách nào mà tư duy và hành động của mình, con người có thể thể hiện sự thống
nhất giữa mình và thế giới, hiểu được tương lai, triển vọng của mình? Khi trả lời những
câu hỏi đó, thế giới quan đã thể hiện chức năng, định hướng lớn lao của mình.
Trong lịch sử tư tưởng làm người đã có nhiều định nghĩa khác nhau
về thế giới quan, chẳng hạn, G-Gertx đã cho rằng: "Chúng tôi hiểu thế giới quan như một hệ
thống nhất định những lời giải đáp những vấn đề về cội nguồn của thế giới và nguồn gốc, về
ý nghĩa cuộc sống và đặc trưng của tiến bộ xã hội" [16, tr. 42]. Hoặc trong cuốn Từ điển
Tiếng Việt, Minh Tâm đã định nghĩa: "Thế giới quan là hệ thống những quan điểm mang
tính khái quát về thế giới nói chung, về những quy trình tự nhiên và xã hội được thực
hiện trong thế giới đó, về mối quan hệ của con người đối với hiện thực xung quanh" [39,
tr. 17]... Chúng tôi nhận thấy các định nghĩa trên đều đúng, nhưng bao quát và rõ hơn cả
là theo cách định nghĩa của Akitốp, bởi vì trong định nghĩa này, ông đã nêu nên, các yếu
tố nhận thức và giá trị, yếu tố khách quan và chủ quan thống nhất chặt chẽ với nhau, các
tri thức của khoa học về thế giới hòa với niềm tin của con người. Ông viết: "Tổng hợp tất
cả những quan niệm, chính kiến về thế giới, về cấu trúc và nguồn gốc của nó, ý nghĩa và
giá trị của đời sống con người, lòng tin của con người trong hiện thực gọi là thế giới
quan" [1, tr. 167].
Từ những quan niệm trên đây, có thể hiểu: Thế giới quan là hệ thống những quan
điểm của một chủ thể (có thể là của một người, một tập đoàn người, một giai cấp hay
toàn xã hội) về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trước thế giới. Trên cơ sở đó, thế
giới quan định hướng, chỉ dẫn cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con
người.
Về cấu trúc của thế giới quan bao gồm một số nhân tố cơ bản sau đây:



Tri thức:
Cũng giống ở mọi ý thức xã hội, thế giới quan bao gồm những tri thức về tự
nhiên, xã hội, con người. Những tri thức mang tính khái quát về các hiện tượng tự nhiên,
về mối quan hệ nền tảng, bản chất của tự nhiên, tạo thành quan điểm về tự nhiên của thế
giới quan. Các tri thức tự nhiên đó quy định lập trường của con người trong thế giới, chỉ
rõ người theo chủ nghĩa vô thần hay duy tâm, tôn giáo; biện chứng hay siêu hình.
Những tri thức về cuộc sống của con người, về sự phát triển xã hội, về quan hệ
của con người đối với xã hội tạo thành quan điểm xã hội của thế giới quan.
Những tri thức hệ thống khái quát về bản chất của quá trình hoạt động nhận thức
của con người tạo thành quan điểm nhận thức luận của thế giới quan.
Rõ ràng, việc xác định bản chất của thế giới quan cần dựa trên phương diện bản
thể luận lẫn phương diện nhận thức luận. Tri thức là điều kiện cần thiết cơ bản cho việc
hình thành thế giới quan, nhưng không phải bất kỳ tri thức nào về tự nhiên, xã hội, về con
người đều là tri thức thế giới quan. Chỉ có những tri thức biểu thị quan điểm chung về tồn
tại và về nhận thức mới là những tri thức của thế giới quan.
Trong nội dung tri thức của thế giới quan, các quan điểm của triết học đóng vai
trò là nền tảng của mọi thế giới quan ở các giai đoạn phát triển của nó vì triết học phản
ánh các quan điểm chung nhất về thế giới.
Niềm tin:
Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt được phát triển trên cơ sở của
tri thức. Nó là động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải tạo hiện thực của con người.
Niềm tin là những tư tưởng chi phối chặt chẽ tư tưởng, chỉ dẫn hành động của
con người tuân theo và ràng buộc trí tuệ, lương tâm của con người với chúng. Nếu con
người làm việc gì đó mà không có niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức, của tư tưởng thì
con người sẽ bị mất đi những rung động của ý chí, nghị lực, lòng nhiệt tình và sự cổ vũ
cần thiết đối với hiệu quả công việc. Không có tâm hồn nóng bỏng của niềm tin vào tri
thức thì sẽ không sản sinh ra cái gì vĩ đại cả. Vì niềm tin giúp cho con người có nghị lực


phi thường vượt qua những giây phút hiểm nghèo, giám hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng mà

mình cho là cao cả. Như thế, niềm tin là yếu tố cấu thành quan trọng của thế giới quan.
Nếu nó được xác lập trên nền tảng tri thức khoa học thì nó sẽ thúc đẩy xã hội phát triển.
Lý tưởng:
Trong thế giới quan, cùng với tri thức và niềm tin thì lý tưởng là yếu tố định
hướng cực kỳ quan trọng. Lý tưởng như là hình mẫu, mục tiêu tối thượng về một cái gì
đó của một cá nhân, nhóm người, giai cấp hay toàn xã hội muốn vươn tới hiện thực.
Lý tưởng là một hình thức tư tưởng được xác lập trên cơ sở tri thức và niềm tin
của một giai cấp trong toàn xã hội đặt ra nhằm định hướng hoạt động cho mọi thành viên
trong xã hội thực hiện mục đích của mình, nhằm cải tạo thế giới "đang có" thành thế giới
"phải có". Lý tưởng mang tính lịch sử về bản chất, nó có thể tiến bộ hay lạc hậu tùy thuộc
vào hình thái của các mối quan hệ xã hội. Những quan niệm của con người về tương lai,
về lý tưởng, đó là sự tìm tòi và sẽ hình thành một hình thức tâm lý với tư cách là niềm hi
vọng. Không có niềm hy vọng như là một sự khao khát hiến dâng mình cho tương lai thì
không thể có một lập trường sống tích cực. Đó là các nhân tố cơ bản có quan hệ chặt chẽ
với nhau cấu thành thế giới quan, để thể hiện những quan điểm của chủ thể về thế giới, về
những hiện tượng tự nhiên, xã hội và các quy luật phát triển của chúng; về bản thân con
người,vai trò của con người trước thế giới.
Mối quan hệ giữa triết học với thế giới quan:
Như trên đã trình bày, thế giới quan đã chỉ ra mối quan hệ giữa con người với thế
giới, cái chủ quan và cái khách quan đã bao hàm trong mình vấn đề cơ bản của triết học,
thậm chí vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề chính trong kết cấu của thế giới quan.
Nhưng xét về mặt lịch sử, thế giới quan ra đời sớm hơn triết học. Nó ra đời trong thời kỳ
bộ tộc, trên cơ sở sự phản ánh hoang đường về thực tế. Và hình thức thế giới quan đầu
tiên ấy gọi là thế giới quan thần thoại. Còn triết học là khoa học chỉ xuất hiện khi có sự
tách lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay, gắn liền với sự ra đời của chế độ chiếm
hữu nô lệ. Triết học là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới, về vị trí
của con người trong thế giới đó. Vì vậy, triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan


làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh

nghiệm thực tiễn và tri thức do các nhà khoa học đem lại. Đó là chức năng thế giới quan
của triết học.
Trong những bước chuyển biến của đời sống xã hội của thực tiễn đặt ra đã kéo
theo sự tiến hóa của thế giới triết học, mà đỉnh cao nhất nó đạt được là thế giới duy vật
biện chứng.
Thế giới quan duy vật biện chứng là hệ thống chỉnh thể những tri thức về tự
nhiên, xã hội và con người. Nó được tạo thành trên cơ sở phê phán có chọn lọc những tư
tưởng tiến bộ của các trào lưu triết học từ sự khái quát kinh nghiệm lịch sử có những
thành tựu của khoa học.
Vai trò thế giới quan duy vật biện chứng trong thực tiễn cách mạng được quy
định bởi bản chất cách mạng của chính phép biện chứng duy vật. Vì vậy, thế giới quan
duy vật biện chứng là một loại thế giới quan mang tính khoa học và cách mạng triệt để
nhất. Nó không chỉ dừng lại ở việc lý giải về thế giới mà hơn thế nữa, trên cơ sở sự lý
giải đúng, nó trở thành cái định hướng cho con người trong hành động, khẳng định vị trí
của con người trong việc cải tạo thế giới; C. Mác viết: "Các nhà triết học đã chỉ giải
thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới" [29, tr. 258].
Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng đã đánh dấu bước ngoặt vĩ đại
trong sự phát triển của thế giới quan triết học nói riêng và của thế giới nói chung. Nó là
sự thống nhất chặt chẽ các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng do các
nhà kinh điển chủ nghĩa Mác sáng lập. Thế giới quan đó có một ý nghĩa không chỉ thuần
về mặt lý luận và nhận thức mà nó còn có ý nghĩa lớn lao về mặt thực tiễn: biểu hiện thái
độ của con người với thế giới xung quanh và làm kim chỉ nam cho hành động của con
người. Nhờ đã phát hiện ra những quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội cho nên thế
giới quan duy vật biện chứng hướng sự hoạt động của con người đúng theo sự phát triển
của xã hội, do đó, nó thúc đẩy thêm sự phát triển ấy.
Công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta đòi hỏi
mỗi người chúng ta, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ - những người lãnh đạo quần chúng


phải có một thế giới quan đúng đắn, khoa học và cách mạng, một thế giới quan thống

nhất giữa lời nói, việc làm, giữa chân - thiện - mỹ... Một thế giới quan như thế phải được
xây dựng trên những tư tưởng triết học của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin. Bởi
lẽ, việc trang bị thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp chúng ta có niềm tin vững chắc
vào sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội; nâng cao năng lực nhận thức và tổ chức thực tiễn.
Nó có tác dụng đối với mọi người, đặc biệt là đội ngũ cán bộ - những người lãnh đạo
nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của Đảng trong tình hình cách mạng
mới.
1.1.2. Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với người cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở Hà Nam
Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước ta được phân thành bốn cấp: trung
ương; tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; huyện, quận; xã, phường, thị trấn. Nhưng
khi nói đến hết cơ cấu bộ máy chính quyền nhà nước thì được phân thành hai cấp: trung
ương và địa phương (về đối tượng nghiên cứu của đề tài này là những người cán bộ lãnh
đạo, quản lý từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở, trừ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và cán bộ chủ chốt cấp
huyện).
Theo cách hiểu thông thường và khá phổ biến ở nước ta hiện nay, khái niệm cán
bộ lãnh đạo còn gắn liền với khái niệm cán bộ quản lý, được hiểu là những người có chức
vụ và trách nhiệm điều hành, cầm đầu trong các cơ quan, các tổ chức sự nghiệp, kinh
doanh. Nội hàm cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý có những điểm giống nhau: Cả cán bộ
lãnh đạo và cán bộ quản lý đều là chủ thể ra quyết định, điều khiển hoạt động của một tổ
chức, người cán bộ lãnh đạo cũng phải thực hiện chức năng quản lý và người quản lý
cũng phải thực hiện chức năng lãnh đạo, nên khó có thể phân biệt một cách rạch ròi đâu
là người lãnh đạo và đâu là người quản lý.
Tuy nhiên, khái niệm lãnh đạo và quản lý không hoàn toàn thống nhất với nhau.
Trong quá trình lãnh đạo, hoạt động chủ yếu là định hướng cho khách thể thông qua hệ
thống cơ chế, đường lối, chủ trương, chính sách "làm thức tỉnh" hành vi của đối tượng,
định hướng hoạt động của đối tượng và xã hội. Trong Từ điển tiếng Việt ghi: "Lãnh đạo


bằng đề ra đường lối chủ trương và tổ chức, động viên thực hiện" [39, tr. 720]. Còn hoạt

động quản lý mang tính chất điều khiển vận hành thông qua những thiết chế có tính pháp
lệnh, quy định từ trước.
ở cả hai cương vị, người cán bộ lãnh đạo và người cán bộ quản lý đều phải là người
giỏi nghiệp vụ chuyên môn, phải có đủ năng lực và phẩm chất để định hướng điều khiển
chỉ huy, tổ chức công việc và đoàn kết cộng đồng.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, cán bộ phải là những người "có nhiều trí tuệ hơn
một chút, nhiều sự phân minh trong tư tưởng hơn một chút... và kiến thức rộng", đó là
những người trung thành, tiêu biểu cho lý tưởng và lẽ sống của giai cấp vô sản. Theo V.I.
Lênin, người cán bộ lãnh đạo quản lý phải là những người:
Thực sự có tài tổ chức, những người có bộ óc sáng suốt và có bản lĩnh
tháo vát trong thực tiễn, những người vừa trung thành với chủ nghĩa xã hội, lại
vừa có năng lực lặng lẽ... tổ chức công tác chung vững chắc và nhịp nhàng... chỉ
có những người như thế, chúng ta mới đề bạt lên những chức vụ lãnh đạo quản lý
[28, tr. 509].
Hồ Chí Minh căn dặn: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người
xã hội chủ nghĩa và tư tưởng xã hội chủ nghĩa" [34, tr. 159]. Trong sự nghiệp cách mạng
có nhiều nhiệm vụ, nhiều công việc. Song người luôn coi "cán bộ là cái gốc của mọi
công việc" [34, tr. 269]; "muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém"
[34, tr. 240].
Nếu có cán bộ tốt, ngang tầm thì việc xây dựng đường lối chính sách sẽ đúng đắn
và điều kiện tiên quyết đẻ đưa sự nghiệp cách mạng thắng lợi. Không có đội ngũ cán bộ
tốt thì cho dù có đường lối, chính sách đúng thì khó có thể trở thành hiện thực. Muốn
biến đường lối, chính sách thành hiện thực; cần phải có những người cán bộ cách mạng
thực sự bằng lý luận và năng lực thực tiễn của mình kết hợp với quần chúng nhân dân để
tổ chức thành công sự nghiệp cách mạng.


Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: "Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng,
của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của
dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng" [34,

tr. 260]. Người cán bộ không chỉ dừng lại ở những tri thức kinh nghiệm lẻ tẻ, rời rạc mà
sau mỗi việc đã làm phải biết tổng kết thực tiễn, khái quát, nâng lên thành lý luận để lý
luận lại chỉ đường, dẫn lối cho hoạt động thực tiễn của người cán bộ.
Bên cạnh tư chất và tài năng, đòi hỏi người cán bộ lãnh độ, quản lý phải trau dồi
chủ nghĩa tập thể chống chủ nghĩa cá nhân, thói quan liêu cửa quyền hách dịch, đặc
quyền đặc lợi; luôn gương mẫu, trung thực, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; phải
gắn bó với nhân dân, giữ đúng lời hứa với dân, luôn khiêm tốn và ham học hỏi. Những
phẩm chất đạo đức đó không phải từ trên trời rơi xuống, không phải là bẩm sinh, nhưng
cũng không thể không vươn tới được. Nó là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện bền
bỉ lâu dài của mỗi người. Do đó, người cán bộ phải phấn đấu vừa "hồng" vừa "chuyên",
tiêu biểu mẫu mực trước quần chúng nhân dân. Để làm được điều đó đòi hỏi người cán
bộ phải có đủ tư chất, tài năng và có đạo đức tốt: "Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư".
Ngày nay, đất nước ta đang tiếp tục thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Đó là thời kỳ có nhiều thay đổi và có vận hội mới, đồng thời cũng không ít
những nguy cơ và thử thách. Song mục tiêu đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta là:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng
xã hội chủ nghĩa..., tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng
bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp hiện đại [14, tr. 89].
Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ cấp tỉnh đến cấp xã càng ngày
càng quan trọng thể hiện trong mọi mặt của sự nghiệp đổi mới đất nước. Từ việc củng cố,
xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đảm bảo cho các chi bộ,


Đảng bộ là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị ở mỗi cấp, lãnh đạo toàn diện các mặt
của đời sống xã hội, xây dựng chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch,
vững mạnh; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh

thần, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân... đến những công việc cụ thể của quá
trình lãnh đạo như: nắm bắt và cụ thể hóa các đường lối chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước cho phù hợp với tình hình thực tiễn ở từng địa phương, từng sở, ban ngành;
đề ra kế hoạch, lãnh đạo quản lý để mọi người thực hiện. Đồng thời, người lãnh đạo,
quản lý phải biết uốn nắn những sai lệch trong quá trình thực hiện thuộc phạm vi, quyền
hạn của mình, tổng kết phong trào, phản hồi lại các cơ quan đơn vị (nếu cần), đảm bảo sự
lãnh đạo thông suốt từ trung ương đến cơ sở.
Đặc biệt, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một
nội dung quan trọng, tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, đang đặt ra nhiều thử thách, đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có những phẩm chất, tri
thức mới đáp ứng nhiệm vụ cách mạng: từ việc thực hiện chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh
tế theo hướng công - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại, tiếp thu và áp dụng phương thức quản
lý tiên tiến, thành tựu khoa học - công nghệ mới, kết hợp công nghệ truyền thống và công
nghệ hiện đại đến việc cải tạo và nâng cấp kết cấu hạ tầng, quy hoạch dân cư và vùng
lãnh thổ, phát triển công tác giáo dục, đào tạo...
Để có được những phẩm chất và năng lực đó, người cán bộ không những thông
qua hoạt động thực tiễn "lăn lộn" trong phong trào cách mạng đồng thời còn là kết quả
của công tác cán bộ của Đảng. Sự phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có thể tạo ra
những cán bộ giỏi có tài có đức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học
thức, cần phải học văn hóa, chính trị, kỹ thuật, cần phải học lý luận Mác - Lênin kết hợp
với đấu tranh công tác hàng ngày" [33, tr. 461].
Đào tạo, bồi dưỡng là khâu có ý nghĩa quyết định đến trình độ, chất lượng cán
bộ. Công việc này gồm nhiều hình thức khác nhau, nhưng trong đó việc đào tạo, bồi
dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Bởi vì, thế


giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ có phương pháp nhận thức đúng đắn
sự vật, đề ra kế hoạch, định hướng và biện pháp thực hiện khoa học và hiệu quả. Vai trò
của thế giới quan duy vật biện chứng đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Hà Nam

được thể hiện một số mặt cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ lãnh đạo,
quản lý nâng cao năng lực nhận thức; đề ra chủ trương, chính sách phù hợp với yêu cầu
phát triển thực tế ở địa bàn.
Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ có phương pháp biện
chứng làm việc và nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng. Nó xác lập và tạo niềm tin cho
lập trường của người cán bộ, bác bỏ những quan điểm sai lầm của thế giới quan duy tâm
và tôn giáo.
Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ ngày càng đi sâu vào
bản chất sự vật, nắm bắt được cái phổ biến tất yếu, những mối liên hệ ẩn giấu đằng sau
các sự kiện riêng biệt. Từ đó giúp họ thấy được quy luật, nguồn gốc, xu hướng, phương
thức vận động, biến đổi, phát triển của sự vật hiện tượng. Đồng thời, thế giới quan duy
vật biện chứng cũng tạo cho họ có khả năng phân tích và tổng hợp, trừu tượng và khái
quát. Nhờ vào khả năng phân tích mà họ có thể thấy được cơ cấu bên trong, tính chất,
chức năng của các bộ phận, yếu tố. Trên cơ sở đó với phương pháp tổng hợp, người cán
bộ biết liên kết, thống nhất lại các bộ phận yếu tố đã phân tích, vạch ra mối liên hệ của
chúng nhằm nhận thức cái toàn thể trong tính muôn vẻ của nó, giúp cho người cán bộ
nắm bắt sâu sắc bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng. Năng lực trừu tượng giúp
người cán bộ biết gạt bỏ những mặt, yếu tố không cơ bản nào đó trong tổng thể phong
phú của sự vật mà nắm được cái bản chất có tính quy luật của nó. Năng lực khái quát
giúp cho cán bộ nắm được đặc tính chung từ những vấn đề nhưng việc nắm vững vấn đề
lý luận chung sẽ là tiền đề, phương pháp tốt nhất để giải quyết những vấn đề cụ thể. V.I.
Lênin viết:
Người nào bắt tay vào giải quyết những vấn đề riêng, trước khi giải
quyết những vấn đề chung, thì kẻ đó trên mỗi bước đi sẽ không sao tránh khỏi,


vấp phải những vấn đề chung một cách không tự giác mà mù quáng vấp phải
những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách
của mình đến chỗ có những dao động tồi tệ nhất và mất tính nguyên tắc [25, tr.

427].
Thế giới quan duy vật biện chứng cũng nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý. Người cán bộ mà dừng lại ở tư duy kinh nghiệm, tuyệt đối
hóa tri thức kinh nghiệm sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm, như vậy sẽ không thể không rơi vào
thế giới quan duy vật và phương pháp tư duy siêu hình, tuyệt đối hóa cái cụ thể, cái đơn
nhất đem áp dụng nó vào cái phổ biến cái đa dạng, cái toàn thể. Chỉ có trên cơ sở trang bị
thế giới quan duy vật biện chứng, người cán bộ mới nâng cao được trình độ, năng lực tư
duy của mình từ kinh nghiệm phát triển lên lý luận khoa học, mới có đủ điều kiện đảm
bảo để khám phá, đi sâu vào bản chất sự vật, quy luật vận động phát triển của nó.
Đồng thời, nâng cao tư duy lý luận sẽ giúp người cán bộ quản lý tránh khỏi lúng
túng, bất lực, nắm bắt được tình hình nhanh chóng, ra được quyết định nhanh đúng và
trúng.
Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay với những diễn biến phức tạp, khó khăn
và thuận lợi đan xen nhau, càng đòi hỏi không ngừng nâng cao trình độ lý luận, vận dụng
sáng tạo đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước vào thực tiễn, tình huống cụ thể.
Đồng thời, đòi hỏi người cán bộ phải nhạy bén, linh hoạt, tinh thần dám nghĩ dám làm,
đấu tranh với những hủ tục, lạc hậu tạo điều kiện cho cái mới, cái tiến bộ phát triển.
Thứ hai: Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ lãnh đạo,
quản lý có được niềm tin vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội, tin vào đường lối chính
trị của Đảng, tin vào quần chúng nhân dân.
Việc nắm vững những nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ thế giới quan
khoa học giúp chúng ta nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan của thời đại của đất
nước, với tất cả những mối quan hệ giai cấp, dân tộc, những tương quan lực lượng cụ thể
trong thời kỳ lịch sử nhất định. Đồng thời, nó vạch ra lực lượng cách mạng, tiến bộ và
quy luật con đường của sự phát triển lịch sử. Trong thế giới quan duy vật biện chứng mà


triết học (bao gồm cả duy vật biện chứng và duy vật lịch sử) cùng với các khoa học khác
đã khẳng định sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên với
những quy luật nhất định. Từ đó, nó luận chứng về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư

bản và sự ra đời của chế độ xã hội mới: Xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa mà giai
cấp công nhân là Người gánh vá sứ mệnh lịch sử đó. Nếu công lao Mác và Ăngghen đã
đưa ra những dự đoán thiên tài về một chế độ xã hội mới tốt đẹp thì Lênin bằng tài năng
vĩ đại của mình đã phát triển, vận dụng tư tưởng của Mác và Ăngghen vào thực tiễn nước
Nga và cách mạng xã hội chủ nghĩa đã nổ ra và thắng lợi. Thắng lợi của cách mạng tháng
Mười cùng với sức mạnh và tính ưu việt của Nhà nước công nông đầu tiên đã tạo ra điều
kiện khách quan, chỗ dựa vững chắc, nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với giai cấp vô sản và
nhân dân lao động trên khắp các châu lục trên con đường giải phóng dân tộc và tiến lên
xã hội chủ nghĩa.
Sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã đóng góp to lớn cho việc giữ gìn hòa
bình, bình đẳng và tiến bộ xã hội, làm nức lòng triệu triệu trái tim trên thế giới. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nói: "Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp
năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch
sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế" [5,
tr. 67].
Mặc dù hiện nay, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu tan vỡ và chủ nghĩa đi
vào thoái trào, nhưng đó chỉ là sự khủng hoảng trong sự trưởng thành, nhất định loài
người vẫn tiến lên chủ nghĩa xã hội, đó là qui luật phù hợp với dòng chảy lịch sử.
Sự kiên định và phát triển con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn cùng với
những thành công trong công cuộc đổi mới, cải cách ở Việt Nam và Trung Quốc đã càng
củng cố lòng tin của nhân loại đối với tính ưu việt và trường tồn của chủ nghĩa xã hội.
Trong những thập kỷ gần đây, chủ nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh nào đó, do cuộc
đấu tranh của nhân dân lao động, do phải tồn tại bên cạnh hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện
thực, do tác động cuộc cách mạng khoa học, công nghệ... song xã hội đó vẫn không làm


thay đổi cơ bản mối quan hệ giữa tư bản và lao động, giữa người bóc lột và người bị bóc
lột. ở đó, năng suất lao động càng cao thì bóc lột càng nhiều, đó là một sự thật hiển nhiên.
Việc thấm nhuần sâu sắc thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp người cán bộ
nhận thức đúng bản chất của chủ nghĩa tư bản, các quy luật vận động khách quan của lịch

sử để có niềm tin vững chắc, lãnh đạo toàn dân đi lên chủ nghĩa xã hội.
Niềm tin tất thắng vào chủ nghĩa xã hội của người cán bộ lãnh đạo, quản lý được
biểu hiện ở sự tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng cộng sản. Tính khoa học và
cách mạng của thế giới quan duy vật biện chứng là cơ sở để hình thành và luận chứng
cho đường lối chính trị của Đảng. Từ đó người cán bộ lãnh đạo quản lý tiếp thu vạch ra
đường lối chiến lược và sách lược nhằm đạt mục đích là cải tạo thực hiện. Nó đối lập
hoàn toàn với bệnh bảo thủ, giáo điều, kinh viện…. Vì vậy, Mác viết: "Các nhà triết học
trước kia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách hiểu khác nhau, song vấn đề là cải tạo
thế giới" [29, tr. 258].
Những thành tựu của sự nghiệp đổi mới gần 20 năm qua ở nước ta từng bước
nâng cao đời sống xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, làm cho con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta càng rõ hơn. Một trong những nguyên nhân của
thắng lợi đó là Đảng ta đã biết tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cách mạng Việt Nam mà linh hồn là phép biện chứng
duy vật - một nhân tố cơ bản của thế giới quan duy vật biện chứng. Lênin đã viết: "Chỉ
Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò
chiến sĩ tiên phong" [24, tr. 259].
Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp cho người cán bộ lãnh đạo, quản lý
tin tưởng vào vai trò to lớn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Họ là lực lượng
quyết định thắng lợi của các cuộc cách mạng xã hội. Với vũ khí lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, giai cấp công nhân - đại diện cho lực lượng tiến bộ tập hợp, giác ngộ, phát huy sức
mạnh quần chúng để cải tạo thế giới, thúc đẩy xã hội phát triển.
Với tính cách mạng và tính khoa học, thế giới quan duy vật biện chứng đã giúp
người cán bộ, lãnh đạo, quản lý có niềm tin sâu sắc vào chủ nghĩa xã hội, tin vào sự lãnh


đạo của giai cấp công nhân - thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản, tin tưởng vào
sức mạnh của quần chúng lao động. Có như vậy thì nước ta mới thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo điều kiện đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba: Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ lãnh đạo quản lý
trong tỉnh nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm định hướng cho

hoạt động nhận thức và thực tiễn tiếp theo.
Tổng kết thực tiễn là những kết luận chung được rút ra sau khi kết thúc, hoàn
thành xong một công việc nào đất. Trong đó người cán bộ phải thật khách quan, khoa học
khi đánh giá kết luận, tìm ra những nguyên nhân thành công và thất bại ở mỗi công việc.
Trên cơ sở ấy rút ra được những tri thức, hiểu biết mới tức là tri thức kinh nghiệm để
định hướng cho hoạt động thực tiễn tiếp theo.
Có thể nói, hoạt động của con người nói chung và người cán bộ lãnh đạo quản lý
nói riêng rất cần tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm đã giúp cho người cán bộ
trong thời gian qua giải quyết được nhiều vấn đề cụ thể, đơn giản đặc biệt là đối với đội
ngũ cán bộ cơ sở. Nhưng chỉ dừng lại ở tri thức kinh nghiệm thì sẽ lại khó tránh khỏi
lúng túng, bất lực thậm chí sai lầm khi giải quyết những vấn đề phức tạp trước yêu cầu
của thời kỳ mới. Muốn vậy, người cán bộ lãnh đạo, quản lý khi giải quyết công việc phối
kết hợp nhuần nhuyễn, hợp lý giữa kinh nghiệm với lý luận khoa học, phải nắm vững
nguyên lý, yêu cầu của thế giới khách quan, phải nắm bắt thực tiễn những vấn đề cần
tổng kết, phân tích, tổng hợp, chắt lọc những thông tin cơ bản, chủ yếu để đút rút ra bài
học kinh nghiệm kết hợp với tri thức lý luận khoa học nhằm giải quyết công việc có hiệu
quả. Đó là nhiệm vụ thường xuyên mà người cán bộ lãnh đạo quản lý cần làm. Chỉ trên
cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng người cán bộ mới tổng kết thực tiễn đút rút kinh
nghiệm một cách khoa học, kịp thời phát hiện ra cái mới, cái tiến bộ và tạo điều kiện cho
chúng phát triển. Những kinh nghiệm được rút ra đó không chỉ phù hợp với thực tế khách
quan phong phú và đa dạng mà nó còn có tác dụng mạnh mẽ điều chỉnh bổ sung cho các
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước nói chung và những chiến lược,
sách lược cho địa phương mình phụ trách nói riêng.


Thứ tư: Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ lãnh đạo, quản
lý trau dồi và nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng.
Thế giới quan duy tâm và phản động phản ánh sau lệch hiện thực khách quan, bảo vệ
lợi ích giai cấp bóc lột và đánh lạc hướng nhằm ngăn cản nhân dân lao động đấu tranh tự
giải phóng mình. Ngược lại, thế giới quan duy vật biện chứng phản ánh đúng đắn hiện thực

khách quan và bảo vệ lợi ích căn bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó là
vũ khí lý luận sắc bén, là kim chỉ nam soi đường cho giai cấp công nhân lãnh đạo nhân
dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới đấu tranh giải phóng khỏi bị bóc lột và
nô dịch, tiến lên xây dựng một xã hội văn minh và nhân đạo hơn: Xã hội cộng sản chủ
nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Đó là xã hội mà quan hệ giữa người với
người là hợp tác, bình đẳng, tương thân tương ái.
Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và thế giới quan duy vật biện chứng nói riêng
đã kế thừa tất cả những giá trị tư tưởng văn hóa của nhân loại đã có từ trước, nó luôn luôn
gắn liền với thực tiễn của phong trào cách mạng, thực tiễn vận động của lịch sử, của sự
phát triển của khoa học kỹ thuật với cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận chống lại các học
thuyết tư sản, các loại chủ nghĩa cơ hội, xét lại, cải lương, chủ nghĩa sô vanh, chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi. Nó cũng hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa giáo điều xơ cứng. Nó là học
thuyết về sự phát triển nhằm định hướng cho con người vươn tới cái tự do, thoát khỏi sự
thống trị của tự nhiên và thống trị của con người với con người. Đó là tính nhân văn cao
cả của thế giới quan duy vật biện chứng.
Mặt khác, thế giới quan duy vật biện chứng không chỉ là phương thức định
hướng con người trong thế giới, phương thức cải tạo hiện thực mà còn là phương thức để
con người tự ý thức hoàn thiện về bản thân mình. Tự ý thức là sự đánh giá bản thân và vị
trí của mình trong cuộc sống là điều kiện quan trọng nhất để con người phải dựa vào ý
thức, hành động theo định hướng chung của xã hội và những quan niệm giá trị của mình.
Nó là cơ sở để điều chỉnh các hành vi tích cực của mình trong các quan hệ xã hội. Chính
tự ý thức là một nhân tố mà con người ngày một phát triển hoàn thiện nhân cách và đạo
đức cá nhân.


Như vậy, đạo đức cộng sản, đạo đức cách mạng là một bộ phận không thể thiếu của
cán bộ, lãnh đạo do tự giáo dục và rèn luyện mà có. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
"Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ
hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, càng luyện
càng trong" [34, tr. 327]. Từ đó, Người chỉ ra đạo đức cơ bản của người cán bộ đó là:

Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề đạo đức phải đặc biệt quan tâm, nhất là đối với
cán bộ, đảng viên. Chúng ta vui mừng trước những thành tựu đạt được trong công cuộc
đổi mới, tuy nhiên nền kinh tế thị trường, giao lưu mở cửa với bên ngoài thì mặt trái của
nó đang đặt ra những vấn đề đạo đức bức xúc, cần giải quyết. Nền văn minh hiện cũng
cần đạo đức tương ứng. Đạo đức ấy không tìm ở đâu khác, mà nền tảng của nó chính là là
học tập thế giới quan duy vật biện chứng và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đẩy lùi chủ
nghĩa cá nhân, bệnh kiêu ngạo, quan liêu, óc địa phương hẹp hòi, tham ô lãng phí, hiếu
danh, chạy theo đồng tiền, bất chấp nhân phẩm con người... phải có trách nhiệm với nhân
dân, với Tổ quốc, có như vậy mới được dân tin và lôi kéo họ vào sự nghiệp cách mạng.
Yêu cầu của thời kỳ mới ở nước ta đòi hỏi người cán bộ phải có phẩm chất đạo
đức và trình độ năng lực tương ứng. Việc giáo dục, bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng sẽ giúp cho người cán bộ tin tưởng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, tin
vào sự nghiệp lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân và sức mạnh của toàn dân, giúp
họ nâng cao năng lực nhận thức, hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng hình thành ở họ
những phẩm chất đạo đức mới, nhằm thực hiện thắng lợi giai đoạn cách mạng mới đặt ra.
Muốn vậy, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải học tập, nghiên cứu nguyên tắc, phương
pháp luận khoa học của thế giới quan duy vật biện chứng, đồng thời Đảng phải tăng
cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ.
1.2. Đặc điểm của thế giới quan của đội ngũ cán bộ tỉnh Hà Nam
1.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến thế giới quan của đội ngũ cán bộ ở Hà
Nam


1.2.1.1. ảnh hưởng của điều kiện địa lý, tự nhiên
Tự nhiên theo nghĩa rộng là toàn bộ thế giới vật chất khách quan. Xét về mặt tiến
hóa, con người có nguồn gốc tự nhiên, là sản phẩm và là sản phẩm cao nhất của quá trình
tiến hóa của thế giới vật chất. Chính môi trường tự nhiên là tiền đề cho sự tồn tại và phát
triển của con người. C.Mác khẳng định: "Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người",
"đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên" [31, tr. 135], hay nói

cụ thể hơn, môi trường tự nhiên, điều kiện địa lý có tác động mạnh mẽ đến đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của con người, tác động đến cách nhìn nhận thế giới và
phương pháp tư duy của con người.
Hà Nam là một tỉnh nằm ở phía tây nam đồng bằng Bắc Bộ, vào khoảng 20,41 độ
vĩ Bắc, 105,31 độ Kinh Đông, phía bắc giáp Hà Tây, phía nam giáp Nam Định, phía đông
qua sông Hồng là Hưng Yên và Thái Bình, phía tây nam là Ninh Bình, phía Tây giáp với
Hòa Bình, với diện tích tự nhiên là 840 km2 bao gồm 5 huyện (Kim Bảng, Thanh Liêm,
Bình Lục, Lý Nhân, Duy Tiên) và thị xã Phủ Lý.
Địa hình của tỉnh chia làm hai khu vực rõ rệt: Khu vực miền núi và khu vực đồng
bằng. Vùng núi tỉnh Hà Nam được hình thành vào Nguyên đại Trung sinh, cuối kỷ Trias
cách ngày nay khoảng 200 triệu năm. Theo tài liệu địa chất, do có sự tạo sơn ở hai rìa sông
Nhị làm đứt gãy sông Hồng và sự sụt lún ở phần giữa bán bình Nguyên Trung sinh mà
phần còn lại được hình thành những núi đồi sa phiến thạch hay đá hỗn hợp như núi Đọi,
núi Điệp, kẻ Non và dải đất đồi Thanh Liêm cho tới tận núi An Lão (Bình Lục). ảnh
hưởng của những đợt tạo sơn đã nâng ghềnh phía hạ lưu sông Hồng lên biển.
Ngày nay, khu vực miền núi Hà Nam bao gồm một phần đất của Kim Bảng và
Thanh Liêm nằm bên hữu ngạn sông Đáy, nối liền với khu vực rừng núi Hòa Bình. Đây
là vùng tài nguyên khoáng sản đa dạng, phong phú với các dãy núi đá vôi có trữ lượng
hàng tỷ mét khối. Trong các dãy núi này có nhiều loại đá quý hiếm đá trắng, đá đen, đá
bích đào, đá vân vàng, đá màu da báo ở huyện Kim Bảng, ngoài các loại đá quý, Hà Nam
còn có than bùn, đất sét trắng ở Thanh Liêm và Kim Bảng.


Bên phía tả ngạn sông Đáy đến giáp sông Hồng là vùng đồng bằng, trong đó 2/3
diện tích là đồng chiêm trũng, có nơi chỉ cao 0,3 m so với mặt nước biển.
Do điều kiện tự nhiên được chia làm hai vùng rõ rệt như vậy, làm cho lối sống và
tư duy của người dân có sự khác biệt, không tương đồng. Sống giữa núi non hùng vĩ bao la,
với phương thức sản xuất lạc hậu, thiếu áp dụng của khoa học kỹ thuật làm cho lối sống
của người dân ở vùng núi giản đơn, mộc mạc, phóng khoáng cùng với lối suy nghĩ thần
bí, duy tâm, thiếu cơ sở khoa học. Còn đối với người dân sống ở đồng chiêm trũng với

phương thức sản xuất nhỏ manh mún, cuộc sống bon chen đã tạo ra ở họ lối sống vị kỷ, cục
bộ địa phương gắn với tư duy bảo thủ, trì trệ, tư tuy kinh nghiệm phát triển... tất cả những
điều đó đã tác động không nhỏ đến việc hình thành, phát triển của thế giới quan của
người dân Hà Nam từ ngày xưa cho đến ngày nay.
1.2.1.2. ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, điều kiện địa lý và môi trường tự nhiên mới
chỉ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến đời sống con người, còn yếu tố cơ bản quyết định là
phương thức sản xuất, hoạt động kinh tế của con người. Do vậy, việc nghiên cứu sự phát
triển kinh tế mà trước hết là trình độ của lực lượng sản xuất, trình độ phân công lao động
sẽ cho ta chìa khóa để hiểu được ý thức xã hội nói chung và thế giới quan ở người cán bộ
Hà Nam nói riêng.
Có thể nói, hàng trăm năm trước đây người dân Hà Nam chủ yếu làm nông
nghiệp, mặc dù có kết hợp đáng kể nghề thủ công và buôn bán nhỏ trong vùng. Đất nông
nghiệp được gọi là đồng chiêm trũng ấy chiếm khoảng 2/3% diện tích tự nhiên của tỉnh.
Đồng ruộng ở Hà Nam nằm sâu trong đất bùn, do các đồi núi và hệ thống đê đập che chở
nước phù sa ít nên những vùng đất này bị úng triền miên, màu đất thường đen hoặc nâu
nhạt, độ phì nhiêu kém, độ PH cao không thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp.
Vì vậy, vùng đất này được mệnh danh là "Sống ngâm da, chết ngâm xương". ở
mấy đình chùa ở Hà Nam người ta đã bắt gặp mấy câu thơ nói về vị trí quan trọng của
nghề nông: "Dĩ nông vi bản" (nông nghiệp là cái gốc bền vững của mỗi quốc gia và mọi
nhà).


×