Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Vận dụng quan điểm hồ chí minh về cán bộ vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.53 KB, 101 trang )

LUẬN VĂN:

vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về cán bộ
vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp tỉnh ở thái bình trong giai đoạn
hiện nay


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay, ở Việt Nam và trên thế giới, sự thành công, thất bại của công việc,
hoặc sự tồn vong, thịnh suy của mọi quốc gia, chế độ đều phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ
những người lãnh đạo, quản lý, vào hiền tài của quốc gia. Cách đây hơn 500 năm, vua Lê
Thánh Tông giao cho Thân Nhân Trung soạn một bài văn bia ở Văn Miếu (Thăng Long)
để nói về ý nghĩa của khoa thi hội năm 1442. Trong văn bia, có đoạn: "Hiền tài là nguyên
khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì thế
nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy, các bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại
không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo hiền tài, bồi đắp thêm nguyên khí".
V.I.Lênin, người thầy của giai cấp vô sản, đã viết: “Trong lịch sử, chưa hề có giai
cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo
phong trào” [16, tr.437].
Đối với cách mạng nước ta hiện nay, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ có tầm quan
trọng vừa mang tính khoa học vừa là yêu cầu của cuộc sống, vừa có tính cấp bách, vừa có
tính cơ bản lâu dài. Từ Đại hội Đảng lần thứ VII (6-1991) trở đi, Đảng ta nêu cao tư tưởng
Hồ Chí Minh và trong thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần
quý báu của Đảng và của cả dân tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh đang soi đường cho cuộc
đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi. Trong hệ thống các nội dung của tư tưởng Hồ
Chí Minh, tư tưởng về cán bộ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Đó là một hệ thống các
quan điểm về vị trí, vai trò, yêu cầu, phẩm chất và năng lực của cán bộ, về công tác cán bộ
với các mắt khâu liên hoàn: quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện, đánh


giá, sử dụng cán bộ, về chính sách đối với cán bộ... Hồ Chí Minh coi: "Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc" [28, tr.269]. "Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém" [28, tr.273]. "Vấn đề cán bộ là một vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp" [28, tr.274]. Hồ
Chí Minh khẳng định: "Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt,
không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy, toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người


đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì
chính sách hay cũng không thể thực hiện được" [28, tr.54].
Hiện nay, cách mạng Việt Nam đang đứng trước thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Hơn lúc nào hết, chúng ta càng nhận thức đầy
đủ, sâu sắc hơn ý nghĩa, tầm quan trọng và tính chất khó khăn, phức tạp của vấn đề cán bộ
và công tác cán bộ.
Đứng trước tình hình quốc tế và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, chứa đựng
cả thuận lợi và thách thức, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi chúng ta phải triển khai chiến
lược cán bộ đạt hiệu quả cao đáp ứng được đòi hỏi trước mắt, cấp bách và yêu cầu lâu dài
của nhiệm vụ cách mạng. Trước yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cấp,
đặc biệt cấp tỉnh nói riêng, ngoài những ưu điểm rất cơ bản, còn bộc lộ nhiều yếu kém,
chưa ngang tầm với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên bị suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, mắc bệnh độc đoán chuyên
quyền, làm việc thiếu khoa học, vi phạm nghiêm trọng vấn đề dân chủ… Thái Bình là một
tỉnh nông nghiệp có bề dày về truyền thống lịch sử trong kháng chiến cũng như trong kiến
quốc. Trong sự nghiệp cách mạng, đội ngũ cán bộ Thái Bình luôn thể hiện bản lĩnh chính
trị vững vàng, có tâm huyết, có năng lực lãnh đạo nhân dân cùng cả nước vượt qua bao
khó khăn thử thách đưa Thái Bình trở thành điểm sáng của cả nước. Trong công cuộc đổi
mới, việc thực hiện CNH, HĐH ở một tỉnh thuần nông là rất khó khăn. Song Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân tỉnh Thái Bình đã đồng lòng ra sức thi đua, nỗ lực tập trung 5
điểm đột phá để tăng trưởng kinh tế, phấn đấu cho một tỉnh Thái Bình ngày càng giàu

mạnh.
Những năm qua, với sự cố gắng nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh, nền
kinh tế Thái Bình có nhiều khởi sắc, 5 trọng tâm tạo bước đột phá kinh tế của tỉnh được
triển khai thực hiện toàn diện, đạt kết quả khả quan góp phần đưa GDP tăng nhanh, trong
đó tỷ trọng công nghiệp, xây dựng cơ bản và dịch vụ tăng đáng kể trong cơ cấu GDP. Đời
sống nhân dân Thái Bình từng bước cải thiện và nâng cao bộ mặt nông thôn, không ngừng


đổi mới. Với truyền thống cách mạng, tinh thần lao động cần cù, thông minh, sáng tạo của
người Thái Bình cùng chính sách cởi mở thông thoáng của tỉnh, sẽ là những điều kiện tốt
để tiếp tục thu hút thêm nhiều nhà doanh nghiệp, nhiều nhà khoa học và nhà băng ở trong
và ngoài nước đến sát cánh cùng nhân dân Thái Bình trong hành trình đầy gian khó, biến
những tiềm năng lớn lao của ngày hôm nay thành cuộc sống tươi đẹp ngày mai vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, vào cuối những
năm 90 của thế kỷ XX, Thái Bình trở thành “điểm nóng” của cả nước về những bất ổn
kinh tế, chính trị, xã hội, gây hoang mang dao động, làm mất lòng tin nghiêm trọng của
nhân dân với cán bộ lãnh đạo. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những bất ổn đó, song
nguyên nhân cơ bản là đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý năng lực còn hạn chế, chưa đáp
ứng được đòi hỏi của xã hội, công tác cán bộ còn chưa được coi trọng đúng mức, thực hiện
thiếu đồng bộ, vấn đề cán bộ còn quá nhiều bất cập khiến lòng dân không yên…
Vì vậy, để cùng cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ để nâng cao chất lượng của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Thái Bình hiện nay là vấn đề có ý nghĩa sâu sắc. Đó là lý do
khiến tôi chọn vấn đề: " Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ vào việc nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Thỏi Bỡnh trong giai đoạn hiện nay
" làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là vấn đề quan trọng thu hút được nhiều người
quan tâm nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực, ở nhiều góc độ khác nhau. Có những công trình
nghiên cứu toàn bộ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, có công

trình nghiên cứu khía cạnh nhỏ của vấn đề cán bộ và công tác cán bộ. Các công trình
nghiên cứu đó đã đạt được kết quả khác nhau: có công trình đã được in thành sách, tài liệu
để nghiên cứu học tập, có công trình được nghiên cứu dưới dạng chuyên đề, tạp chí, có
một số luận văn thạc sĩ, các bài đăng trên kỷ yếu hội thảo khoa học. Tất cả các công trình
nghiên cứu của các tác giả dù đạt ở mức độ nào cũng đều chứng tỏ rằng, vấn đề cán bộ đã
và đang thu hút sự quan tâm của rất nhiều người và rất cần sự tham gia đóng góp ý kiến
quí báu của tất cả bạn đọc để giúp Đảng và Nhà nước ta có được chính sách cán bộ đúng


đắn đáp ứng nhu cầu của đất nước hiện nay. Riêng đối với tôi, tất cả những tài liệu đó là
nguồn tư liệu quý báu để kế thừa nghiên cứu và vận dụng vào viết luận văn của mình.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu của một số nhà khoa học trong nước:
- Mạch Quang Thắng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
- Mạch Quang Thắng, Đảng Cộng sản Việt Nam - Những vấn đề cơ bản về xây
dựng Đảng, Nxb Lao động, Hà Nội, 2007.
- Đặng Xuân Kỳ (chủ nhiệm đề tài), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, Chuyên đề
khoa học cấp nhà nước KX.02 (giai đoạn 1991-1995).
- Bùi Đình Phong, Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, Nxb Lao
động, Hà Nội, 2002.
- Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên), Luận cứ khoa học cho
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Đức Vượng, Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2003.
- Phạm Văn Sinh, Thực trạng và giải pháp nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng
công tác đánh giá, quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành trong tỉnh
Thái Bình đáp ứng yêu cầu sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, Báo cáo kết quả
nghiên cứu đề tài khoa học xã hội và nhân văn, từ tháng 1/2006 - tháng 12/2006.
- Tỉnh uỷ Thái Bình, Báo cáo tổng kết công tác tổ chức xây dựng Đảng năm 2008,

phương hướng, nhiệm vụ năm 2009.
Ngoài ra, còn một số luận văn thạc sĩ và nhiều bài báo của nhiều nhà nghiên cứu
đăng trên các tạp chí khoa học theo chủ đề tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
cán bộ như:
- Nguyễn Văn Quyết, Xây dựng đạo đức mới cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong
điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay qua thực tế tỉnh Kiên Giang, Luận văn thạc
sĩ triết học, Hà Nội, 2000.


- Phạm Xuân Cát, Hiệu quả và chất lượng lãnh đạo của cấp uỷ cơ sở, Tạp chí Xây
dựng Đảng, số 10, 2006.
- Lê Thị Hương Lan, Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào việc đổi mới phương
pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên,
Luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Hà Nội, 2006.
- Lê Quang Trung, Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở vùng
dân tộc, miền núi phía Bắc, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8, 2006.
- Bùi Đức Lại, Cán bộ và công tác cán bộ trong tình hình mới, Tạp chí Xây dựng
Đảng, số 2+3, 2007.
Tất cả các công trình nghiên cứu nêu trên đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ và công tác cán bộ dưới nhiều góc độ khác nhau như vấn đề phương pháp,
phong cách làm việc, xây dựng đội ngũ cán bộ, công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ...
Song có thể nói rằng: chưa có nhà khoa học nào đi sâu nghiên cứu, vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng vào việc nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp tỉnh hiện nay ở Thái Bình. Chính vì lý do đó, trên cơ sở kế thừa có chọn
lọc các kết quả nghiên cứu đã được công bố, tôi hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm
tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và bước đầu vận dụng nghiên cứu nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Thái Bình trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu để vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ vào việc

nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Thái Bình hiện nay nhằm đáp ứng
yêu cầu thực tế của tỉnh, cùng cả nước thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, chủ động hội nhập quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ
Muốn đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ
sau:


- Phân tích những quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ, tập trung vào vấn đề
phẩm chất và năng lực lãnh đạo của cán bộ để làm cơ sở cho các nội dung vận dụng vào
thực tế của tỉnh Thái Bình hiện nay.
- Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cũng như công tác cán bộ của tỉnh
Thái Bình trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích những yêu cầu đặt ra đối với việc nâng cao phẩm chất và năng lực lãnh
đạo cũng như công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt tỉnh Thái Bình theo những quan
điểm của Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở
Thái Bình theo những quan điểm của Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng: Quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Thái Bình trong giai đoạn hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những quan điểm của Hồ Chí Minh về
cán bộ làm cơ sở cho việc đánh giá, phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cũng như
thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt tỉnh Thái Bình từ năm 2005 đến
nay; đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp tỉnh ở Thái Bình giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước .

- Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu luận văn này, tác giả sử dụng một số phương pháp như: chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử kết hợp với phương
pháp lôgíc; phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh, tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Trên cơ sở đối chiếu với những quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ, luận văn
nêu lên thực trạng chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Thái Bình cũng như


thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt đó và đưa ra một số giải pháp góp
phần nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Thái Bình trong giai
đoạn hiện nay.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu giảng dạy, học tập và
tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Luận văn có thể góp phần cung cấp luận chứng về cơ sở lý luận và thực tiễn do
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện
nay.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 2 chương, 4 tiết.


Chương 1
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh
ở Thái bình theo quan điểm hồ chí minh - một số vấn đề
lý luận và thực tiễn

1.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về cán bộ với tư cách là nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Thái

Bình
1.1.1. Một số khái niệm
* Cán bộ
Trong Từ điển tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa là:
a) Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước, Đảng và
đoàn thể.
b) Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức phân biệt với
người không có chức vụ.
Trong luận văn này, “cán bộ” được hiểu theo nghĩa b trên đây.
* Cán bộ chủ chốt
Khi bàn về cán bộ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh về cán bộ có chức, có quyền những
người chịu trách nhiệm trực tiếp, to lớn, nặng nề trước Đảng, Nhà nước, trước nhân dân và
toàn dân tộc.
Trong cán bộ lãnh đạo, có một số người được gọi là cán bộ lãnh đạo chủ chốt: “Đó
là những người đứng đầu quan trọng nhất có chức vụ cao nhất trong một tập thể, có quyền
ra những quyết định về chủ trương, có trách nhiệm và quyền điều hành về một tập thể hoặc
tổ chức ấy, thậm chí có thể chi phối, dẫn dắt toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định”
[63, tr.35-36].
Như vậy, đây là bộ phận cán bộ rất quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động
của một tổ chức và của cả hệ thống chính trị. Việc xác định cán bộ chủ chốt hay không chủ
chốt phải căn cứ vào chức trách cụ thể của mỗi cán bộ và đặt trong mối quan hệ với toàn


bộ hệ thống tổ chức. Có cán bộ ở cương vị này, trong tổ chức này là chủ chốt nhưng trong
mối quan hệ khác vị trí khác lại không phải là chủ chốt.

* Chất lượng cán bộ
Theo Từ điển Tiếng Việt, chất lượng là cái tạo nên phẩm chất giá trị của một con
người, một sự vật, sự việc.
Như vậy “Chất lượng của đội ngũ cán bộ là sự tổng hợp chất lượng của từng người

cán bộ. Mỗi một cán bộ mạnh, có đủ đức, đủ tài sẽ tạo nên chất lượng và sức mạnh tổng
hợp của toàn đội ngũ” [63, tr.319].
Chất lượng của mỗi cán bộ trước hết biểu hiện ở bản lĩnh chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống, ở trình độ được đào tạo về chuyên môn, kiến thức văn hoá và giao tiếp, thể
hiện ở kinh nghiệm và năng lực lãnh đạo, quản lý, tổ chức, điều hành bộ máy và năng lực
tổ chức thực tiễn, đồng thời được biểu hiện ở hoạt động lãnh đạo quản lý, ở uy tín của họ
trước tập thể và nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, phẩm chất chính trị của cán bộ phải được đặt lên hàng
đầu, là tiêu chuẩn quan trọng quyết định chất lượng của mỗi cán bộ. Bất luận trong hoàn
cảnh nào, họ cũng phải là người cầm lái giữ vững định hướng XHCN, trung thành với lợi
ích của Tổ quốc, của nhân dân, phấn đấu hết mình vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và
dân tộc. Nó thể hiện ở tinh thần trách nhiệm, gắn liền với hiệu quả hoạt động, nói phải đi
đôi với làm, mang lại lợi ích thiết thực cho nước, cho dân, gắn liền với trách nhiệm của
mỗi cá nhân, phải thật tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc, là “công bộc”, là “đày tớ” của
dân, trung thực, dám đấu tranh cho lẽ phải, công bằng. Chất lượng cán bộ được thể hiện,
được tạo thành từ phẩm chất đạo đức của mỗi cán bộ. Vì lẽ đó, yêu cầu về đạo đức của cán
bộ là phải thật sự: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư. Nhân dân sẽ dựa vào những
chuẩn mực đó để lựa chọn, bầu cán bộ vào các chức danh, đồng thời sẽ loại bỏ những
người nào vi phạm đạo đức cách mạng.
Bên cạnh đó, trình độ, năng lực là nhân tố quan trọng quyết định chất lượng, hiệu
quả công việc, là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng cán bộ ở bất kỳ nào.


Trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu về trình độ, năng lực của cán bộ phải toàn diện,
vừa rộng, vừa sâu. Cán bộ không chỉ giỏi về chuyên môn, hiểu biết những kiến thức liên
quan đến nghiệp vụ lãnh đạo, quản lý mà còn có khả năng nắm bắt, xử lý được các thông
tin, các quy luật về kinh tế - xã hội, vận dụng các quy luật đó trong lãnh đạo, quản lý ở
từng điều kiện, hoàn cảnh, từng cương vị một cách hiệu quả. Đó là năng lực toàn diện,
tổng hợp, luôn thể hiện bằng hiệu quả thực tế, trên cơ sở đó mà đánh giá chất lượng cán
bộ.

Vậy, một đội ngũ cán bộ có chất lượng cao là đội ngũ có đủ bản lĩnh, phẩm chất và
năng lực nắm bắt được những yêu cầu của thời đại, có đủ tài năng, đạo đức và ý chí để
thiết kế và tổ chức thực hiện những kế hoạch của tiến trình CNH, HĐH đất nước trên mọi
lĩnh vực, bảo đảm thực hiện có kết quả mục tiêu.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, cán bộ luôn gắn với tổ chức. Chất lượng cán bộ
là kết quả tổng hợp của tất cả các khâu đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng, cất nhắc, kiểm tra,
giám sát, phê bình... và sự nỗ lực phấn đấu của từng người. Muốn có cán bộ tốt thì phải có
tổ chức vững mạnh. Điều đó đúng với toàn Đảng, từng tổ chức Đảng cho đến từng chi bộ
cũng như cơ quan nhà nước. Cho nên, khi xem xét chất lượng cán bộ ở một tổ chức cơ
quan nào đó, phải căn cứ vào chất lượng của tổ chức đó. Chất lượng cán bộ phản ánh toàn
bộ chất lượng cao hay thấp, tốt hay kém của công tác cán bộ. Nếu tất cả các khâu của công
tác cán bộ đều làm tốt thì sẽ có đội ngũ cán bộ chất lượng tốt. Chỉ cần một trong những
khâu đó bị xem nhẹ, làm không đến nơi đến chốn, sẽ khiến cho chất lượng đội ngũ cán bộ
yếu kém.
Mỗi chức danh, mỗi cương vị và mỗi loại cán bộ khác nhau lại có yêu cầu chất
lượng ở mức độ khác nhau, độ chuyên sâu khác nhau. Nhưng nói chung, ở bất cứ cương vị
nào, cấp độ nào, lĩnh vực nào thì yêu cầu về tố chất chính trị của cán bộ phải được đặt lên
hàng đầu, tố chất đạo đức là cái gốc và trình độ kiến thức năng lực là nhân tố quyết định
trực tiếp đến hiệu quả lãnh đạo quản lý.
1.1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ


Bất kỳ thời đại nào, cán bộ cũng giữ vị trí vai trò quan trọng. Đảng ta khẳng định:
Cán bộ là khâu quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng,
của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng.
Nếu có cán bộ tốt, cán bộ ngang tầm thì việc xây dựng đường lối sẽ đúng đắn và là
điều kiện tiên quyết để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Không có cán bộ tốt thì dù
có đường lối, chính sách đúng cũng khó có thể biến thành hiện thực được. “Cán bộ là
người đem chính sách của Đảng và Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt

chính sách cho đúng” [28, tr.269].

Chính vì vậy, trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn chú ý đến
việc đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện đội ngũ cán bộ vừa có tâm, vừa có tầm để đáp ứng
yêu cầu của cách mạng. Hồ Chí Minh hay đề cập đến “gốc, đến “nền”. Khi coi cán bộ là
gốc của mọi công việc, Hồ Chí Minh đã đặt cán bộ vào vị trí, vai trò quyết định trong sự
nghiệp cách mạng. Cán bộ còn là người tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước. Khi chỉ ra “cán bộ là dây chuyền của bộ máy”, Hồ Chí Minh
không coi cán bộ là trung gian mà chính là người đem chính sách của Đảng và Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành đồng thời phải có trách nhiệm nhận và xử lý
thông tin từ dân đối với đường lối của Đảng. Như vậy, đòi hỏi cán bộ phải có một trình độ,
trí tuệ nhất định. Cán bộ còn cần phải có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng.
Việc truyền đạt, giải thích chính sách của Đảng và Nhà nước cho nhân dân là một việc khó
khăn, nhưng khó khăn và phức tạp hơn nhiều là nắm chắc được tình hình và tâm tư,
nguyện vọng chính đáng của quần chúng, để làm căn cứ cho việc hoạch định chủ trương,
chính sách.
Hồ Chí Minh còn phân tích thêm: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công và
thất bại của chính sách đó là do cách tổ chức công việc, do nơi lựa chọn cán bộ, do nơi
kiểm tra. Nếu ba điểm đó sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích” [28, tr.154]. Hồ Chí
Minh, coi cán bộ là: “tiền vốn của Đoàn thể” [29, tr.46].


Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, đã là cán bộ thì dù là ít hoặc nhiều đều có quyền
hành, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu
lương tâm, thì cán bộ xấu dễ có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút lót. Hồ Chí Minh khẳng
định vai trò của cán bộ trong xã hội mới không phải là “ông quan cách mạng” mà chỉ là
người đại diện, người đại biểu của nhân dân, có trách nhiệm thi hành nhiệm vụ do nhân
dân giao phó.
Một vấn đề đặt ra là có phải “cán bộ quyết định tất cả” không? Chủ nghĩa MácLênin cho rằng, quần chúng nhân dân là những người làm nên lịch sử, nghĩa là, có vai trò
quyết định trong sự phát triển của xã hội. Hồ Chí Minh cũng cho rằng, cách mạng là sự

nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không phải sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào.
Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô
tận của nhân dân, đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu dưới lá cờ tất thắng của chủ nghĩa MácLênin. Đó là đề cập đến phạm vi rộng và xem xét vấn đề một cách tổng quát. Còn trong
một sự nghiệp cách mạng, một phong trào… thì cán bộ chính là người tổ chức và lãnh đạo
nhân dân đấu tranh đạt mục tiêu của cách mạng, do đó, cán bộ đóng vai trò quyết định
thành-bại của cách mạng.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, mỗi đảng viên đều có thể xem là cán bộ. Đảng
viên nói chung, có khi không nắm chức vụ gì, nhưng vẫn có vai trò lãnh đạo vì họ là một
thành viên của Đảng, mà Đảng có trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Tuy nhiên,
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vai trò đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở các cấp, trong đó có
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Có thể nói rằng, trong thực tế hiện nay, tỉnh
nào, địa phương nào xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực tốt đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trên các mặt thì địa phương đó có điều kiện thực hiện hoàn thành tốt chức năng
nhiệm vụ được giao.
1.1.3. Phẩm chất và năng lực của cán bộ cách mạng
1.1.3.1. Đạo đức cách mạng là gốc của cán bộ
Hồ Chí Minh cho rằng cán bộ chỉ giác ngộ chính trị thì chưa đủ, chỉ có sức mạnh tổ
chức thì chưa đủ, mà còn phải thấm nhuần, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Về vai trò đạo
đức của cách mạng, Hồ Chí Minh viết:


Cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì
muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát
mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì
còn làm nổi việc gì [28, tr.252-253].
Như vậy, Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng nói chung, trong đó có đạo đức cách
mạng của cán bộ, là gốc của cây, nguồn của sông, cái căn bản của con người. Trước lúc đi
xa, trong “Di chúc” của mình, Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền.

Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân” [35, tr.519].
Những phẩm chất đạo đức cách mạng chủ yếu mà cán bộ cách mạng cần có, trong
tư tưởng Hồ Chí Minh nổi lên những nội dung sau đây:
- Trung với nước, hiếu với dân
Trung với nước là trung thành với sự nghiệp cách mạng và ra sức hoàn thành mọi
nhiệm vụ cách mạng mà cán bộ đó phụ trách. Hiếu với dân là mỗi cán bộ phải biết tin vào
dân, dựa vào dân, gần gũi, giúp đỡ dân, chăm lo cho cuộc sống của dân. Hồ Chí Minh nhắc
nhở: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”
[26, tr.519]. Hiếu với dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là mỗi cán bộ, dù ở bất cứ cương vị
gì, giữ trọng trách gì cũng phải gần dân, tôn trọng quyền làm chủ của dân, thực hành dân
chủ, “làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình dám
nói, dám làm”[34, tr.223].
Hồ Chí Minh khẳng định rằng, cán bộ không phải là làm “quan cách mạng” cốt để
thăng quan tiến chức, không được có đặc quyền đặc lợi, phải toàn tâm toàn ý phục vụ nhân
dân, phải làm đày tớ của dân.
Như vậy “trung với nước, hiếu với dân” là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự
do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đành thắng.


Phải đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên lợi ích của cá nhân
mình, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Về phẩm chất đạo đức cách mạng này, đoạn viết có tính chất “tổng kết” bằng thơ
theo đúng phong cách của Hồ Chí Minh sau đây thể hiện rất rõ:
Trời có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người [28, tr.631].
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai và phải làm việc
có hiệu quả, tăng năng suất lao động. Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ tiền
của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ biết
cộng lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, không phô trương
hình thức, không liên hoan chè chén lu bù. Tuy nhiên, nếu cần mà không kiệm thì khác
nào “ thùng không đáy”, “gió vào nhà trống”, vì vậy cần kiệm phải đi đôi với nhau như hai
chân của người. Liêm tức là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”, “Không
xâm phạm một đồng xu hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”, phải “trong sạch, không
tham lam”, “không tham địa vị”. Không tham tiền tài. Không ham người tâng bốc mình.
Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học,
ham làm, ham tiến bộ” [27, tr.640]. Chính, nghĩa là “không tà, thẳng thắn, đứng đắn” [27,
tr.643]. Đối với mình không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm
điểm để phát triển điều hay, sửa điều dở của bản thân mình. Đối với người, không nịnh hót
người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết,
thật thà không dối trá, lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ
trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, không sợ khó khăn nguy hiểm, việc thiện thì dù nhỏ
mấy cũng làm, việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước
cho dân.


Chí công vô tư nghĩa là hết sức lo cho việc chung, không màng tư lợi. Hết sức vì sự
công bằng, vì lợi ích tập thể, lợi ích của Đảng, của nhân dân. Người nói: “đem lòng chí
công vô tư mà đối với người với việc”, “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình
trước, khi hưởng thụ mình nên đi sau”, “phải lo trước thiên hạ vui sau thiên hạ” [28, tr.11].
Như vậy, chăm lo bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ làm
cho cán bộ vững vàng trước mọi thử thách: “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không
thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục” [28, tr.11].

- Có tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, thuỷ
chung đúng như Hồ Chí Minh khẳng định: “Bốn phương vô sản đều là anh em” [33,
tr.195]. Đó là tinh thần đoàn kết với tất cả các dân tộc bị áp bức, với nhân loại cần lao,
không phân biệt màu da, sắc tộc. Đó cũng chính là tình đoàn kết gắn bó đời đời bền vững
giữa các dân tộc trên thế giới mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng cả cuộc đời cách
mạng hoạt động của mình. Người yêu Tổ quốc mình tha thiết thì cũng không bao giờ phản
bội lại lý tưởng của tình đoàn kết quốc tế và ngược lại, chỉ những người nào theo chủ
nghĩa quốc tế một cách kiên định thì mới là người yêu nước chân chính, mới đem lại lợi
ích to lớn cho Tổ quốc mình, nhân dân mình. Sự đoàn kết ấy nhằm những mục tiêu lớn của
thời đại là hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả
các nước, các dân tộc. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa quốc tế vô sản phải
gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính thì mới
gắn được với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
1.1.3.2. Cán bộ cách mạng phải thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực
hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Trong qui trình xây dựng và thực hiện nghị quyết, không phải cứ thông qua được
nghị quyết là xong mà một khâu quan trọng nữa là tổ chức thực hiện nghị quyết, biến
những điều ghi trong nghị quyết thành hiện thực trong cuộc sống. ở đây, đòi hỏi cán bộ
phải rất năng động với tư cách là nhà hoạt động thực tiễn.
Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải biết giải quyết có kết quả tốt công việc do mình
phụ trách, đồng thời biết giúp đỡ người khác. Cán bộ có năng lực lãnh đạo thì phải có trình


độ nhất định về mặt văn hoá, về chủ nghĩa Mác-Lênin; về chuyên môn ngành mình phụ
trách, đề xuất những ý tưởng lãnh đạo và xây dựng các chỉ thị, nghị quyết của tập thể;
đồng thời phải có năng lực tổ chức, thực hiện nghị quyết, thanh tra, kiểm tra, vận động
quần chúng nhân dân và tổng kết hoạt động thực tiễn. Như vậy, nói năng lực lãnh đạo của
cán bộ thực chất là nói đến khả năng hiểu biết lý luận, tổng kết thực tiễn, hoạch định chủ
trương, chính sách, nghị quyết và khả năng tổ chức động viên quần chúng thực hiện tốt

nhiệm vụ cách mạng, thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ tốt nhất thiết phải là người có đủ phẩm chất và năng
lực, mà những phẩm chất và năng lực đó phải được biểu hiện bằng những việc làm cụ thể.
Tài năng của cán bộ được thể hiện tập trung ở năng lực lãnh đạo. Chính vì vậy, bên cạnh
việc đòi hỏi cao về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh cũng đề ra yêu cầu rất nghiêm ngặt
đối với cán bộ là phải thường xuyên nâng cao trình độ, nếu không thì khó có thể hoàn
thành được nhiệm vụ. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục
đạo đức cách mạng cho họ, (tức thanh niên), đào tạo họ thành những người kế thừa xây
dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”” [35, tr.510].
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cũng như năng lực lãnh đạo của cán bộ cách mạng
không phải tự nhiên mà có, nó phải trải qua một quá trình học tập, rèn luyện, và đặc biệt là
phải qua thử thách trong hoạt động thực tiễn. Người nói: “Năng lực của cán bộ, không phải
tự nhiên mà có, một phần lớn do công tác, do tập luyện mà có” [28, tr.280]. Yêu cầu về
năng lực của cán bộ lãnh đạo, có thể khái quát từ các quan điểm của Hồ Chí Minh như sau:
Một là: Năng lực tư duy lý luận. Năng lực này được biểu hiện trên ba mặt.
Mặt thứ nhất là ra sức học tập để nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin, khoa học - kỹ
thuật tiên tiến và các kinh nghiệm quý báu của các thế hệ ông cha trong lịch sử dựng nước,
giữ nước cũng như kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới.
Mặt thứ hai là đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của đời sống chính trị,
kinh tế, xã hội, phải vận dụng lý luận để chỉ đạo thực tiễn, tổng kết thực tiễn, rút ra các
kinh nghiệm bổ sung cho lý luận.


Mặt thứ ba là truyền bá lý luận Mác-Lênin, tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng để nhân dân giác ngộ theo Đảng đứng lên đấu tranh giành độc lập, tự do cho
Tổ quốc và xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ba mặt đó luôn luôn quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau. Hồ Chí Minh luôn
căn dặn cán bộ phải chú ý chống bệnh chủ quan, coi thường lý luận, rơi vào chủ nghĩa kinh
nghiệm hoặc tuyệt đối hoá lý luận, coi thường thực tiễn, rơi vào chủ nghĩa giáo điều sách

vở... Do đó, cán bộ phải biết liên hệ lý luận với thực tiễn, tự cải tạo mình, tu dưỡng mình
về lập trường, tư tưởng và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đương nhiên, chỉ có
cải tạo bản thân thì chưa đủ mà khi học tập phải liên hệ với vấn đề thực tế ở trong nước và
trên thế giới, những vấn đề và nhiệm vụ cách mạng hiện nay... Lý luận còn soi vào quá
khứ, tìm nguyên nhân đúng - sai, phân tích các bài học kinh nghiệm. Có như vậy lý luận
mới thực sự gắn liền với thực tế, giúp cho việc giải quyết các vấn đề trong thực tế, đồng
thời củng cố lập trường, giữ vững quan điểm và cải tiến phương pháp làm việc của mình.
Hai là: Năng lực cùng tập thể hoạch định đường lối, chính sách.
Để đưa cách mạng đến thắng lợi, trước hết cán bộ chủ chốt phải hoạch định được
đường lối, chủ trương và chính sách đúng. Sai lầm về đường lối, chính sách là sai lầm
nghiêm trọng nhất đối với xã hội, với vận mệnh của Tổ quốc và sinh mạng chính trị của
hàng triệu đảng viên cũng như của hàng triệu nhân dân lao động. Như vậy, nghị quyết,
chính sách là nhân tố có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Hồ Chí Minh đã chỉ ra những vấn đề
cơ bản để cán bộ nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách như sau:
- Không ngừng học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm,
trong các cuộc đấu tranh, xem xét so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng làm thành kết luận. Rồi
đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính” [28, tr.233]. Theo Hồ Chí Minh,
để nâng cao trình độ lý luận trước hết phải nâng cao khả năng tổng kết thực tiễn, phải học
chủ nghĩa Mác-Lênin, phải có thái độ học tập lý luận cho đúng mà trước hết là nêu cao
tinh thần khiêm tốn.
- Phải gắn lý luận với thực tiễn, tránh lý luận suông, phải gắn lý luận Mác-Lênin với
việc phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng Việt Nam, phù hợp với điều


kiện từng địa phương. Muốn thế, cán bộ phải đi sâu, đi sát, nghiên cứu, nắm bắt được tình
hình cụ thể ở nơi mình công tác. Cán bộ phải biết sử dụng người cộng sự để nắm bắt được
những thông tin cần thiết, chính xác, đồng thời sàng lọc, loại bỏ những thông tin sai lệch,
những phản ánh không trung thực, căn cứ vào điều kiện thực tiễn để đưa ra những chính
sách đúng đắn, phù hợp và khả thi. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nắm vững

quy luật phát triển của cách mạng, phải tính toán cẩn thận những điều kiện cụ thể,
những biện pháp cụ thể, kế hoạch phải chắc chắn, cân đối trước khi quyết định đường
lối chiến lược, chớ đem chủ quan của mình thay cho điều kiện thực tế. Phải chống bệnh
chủ quan tác phong quan liêu, đại khái.
Ba là: Có năng lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết
của Đảng.
Hồ Chí Minh thường nhắc nhở cán bộ: “Kế hoạch một, biện pháp mười, quyết tâm
phải hai ba mươi, muốn lãnh đạo đúng thì phải tổ chức sự thi hành cho đúng” [28, tr.285].
Nghị quyết, chính sách có hay đến mấy nhưng tổ chức thi hành không đúng, thiếu biện
pháp thích hợp, bản thân người thi hành thiếu quyết tâm hoặc không biến quyết tâm của
lãnh đạo thành quyết tâm của quần chúng thì mọi nghị quyết, chính sách đều không trở
thành hiện thực. Hồ Chí Minh đã phê phán bệnh “hữu danh vô thực” ở không ít cán bộ khi
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đó là:
Làm việc không thiết thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ dưới
làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít suýt ra nhiều, để làm một
bản báo cáo cho oai nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch... thế là dối trá với Đảng, có
tội với Đảng, làm việc không thiết thực, báo cáo không thật thà cũng là một bệnh
rất nguy hiểm [28, tr.256-257].
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến những điểm chủ yếu trong tổ chức thực hiện như sau:
- Xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể, thiết thực, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh
thực tế từng địa phương. Cán bộ phải có năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn sáng tạo, tất
cả vì lợi ích của nhân dân. Người khẳng định:
Bao nhiêu cách tổ chức, cách làm việc đều vì lợi ích của quần chúng… vì
vậy cách tổ chức và cách làm việc nào không hợp với quần chúng thì ta phải có


gan đề nghị cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần
chúng cần thì dù ta chưa có sẵn ta phải có gan đề nghị cấp trên mà đề ra. Nếu cần
làm thì cứ đặt ra, rồi báo cáo sau miễn là được việc [28, tr.246].
- Có sự phân công trách nhiệm cụ thể cho từng người hoặc từng nhóm bởi vì “Việc

gì đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi kế hoạch định rõ rồi thì cần phải giao cho một người
hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành như thế công việc mới
chuyên trách, mới chạy” [28, tr.504].
- Tổ chức tuyên truyền cho mọi người hiểu đường lối, chủ trương của Đảng và
chính sách của Nhà nước.
- Phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc để điều chỉnh, bổ sung, tạo ra hiệu quả cao
nhất. Hồ Chí Minh nói: “Khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hoặc thất bại của
chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra.
Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích” [25, tr.53].
- Sau khi kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, phải tổng kết kinh nghiệm. Hồ Chí
Minh yêu cầu:
Sau mỗi một việc, cần phải rút kinh nghiệm. Kinh nghiệm riêng từng cán
bộ, từng địa phương. Kinh nghiệm chung tất cả các cán bộ và các địa phương.
Kinh nghiệm thất bại và kinh nghiệm thành công. Rồi tổng kết và phổ biến
những kinh nghiệm ấy cho tất cả cán bộ, tất cả địa phương. Mỗi cán bộ, mỗi
địa phương sẽ học những kinh nghiệm hay tránh những kinh nghiệm dở, áp
dụng những kinh nghiệm cũ vào những công việc mới [28, tr.703].
Bốn là: Năng lực kiểm tra
Theo Hồ Chí Minh, thanh tra, kiểm tra không phải để “bới lông tìm vết”. Kiểm tra
nhằm xem xét công tác, học tập, sự tiến bộ và khuyết điểm, giúp đỡ người tiến bộ ít, khen
ngợi người tiến bộ nhiều, giúp mọi người rút kinh nghiệm sửa chữa khuyết điểm, phát huy
ưu điểm.
Hồ Chí Minh luôn luôn đòi hỏi cán bộ phải có năng lực kiểm tra. Cán bộ là người
không chỉ nắm vững công việc phải làm, tức là tinh thông nghiệp vụ, giỏi chuyên môn


nghiệp vụ, mà còn hiểu biết sâu sắc về các vấn đề xã hội giỏi, các mối quan hệ hành chính,
am hiểu pháp luật, giải quyết các mối quan hệ xã hội một cách minh bạch, công tâm.
Theo Hồ Chí Minh, kiểm tra là: “theo dõi, xem xét việc chấp hành đúng đắn, đường
lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Chính phủ” [33, tr.275], nghĩa là công tác kiểm

tra phải đi đến ngọn nguồn, lạch sông” do đó đòi hỏi cán bộ thanh tra phải có năng lực và có
phương pháp làm việc khoa học, kịp thời, chính xác, minh bạch, khách quan.
Năm là: Năng lực vận động quần chúng
Để vận động quần chúng nghe và làm theo, đòi hỏi cán bộ phải vừa có tâm vừa có
tầm.
Theo Hồ Chí Minh, để vận động quần chúng, cán bộ phải sống trong lòng dân, sát
cơ sở, sát thực tế, đến với dân để lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân, tất cả vì lợi
ích của nhân dân. Tuyệt đối không được vận động quần chúng một cách qua loa đại khái,
giản đơn, nói không đi đôi với làm, hoặc nói một đằng làm một nẻo, hoặc “đánh trống bỏ
dùi”, dễ dẫn đến mất lòng tin mà khi đã mất lòng tin thì làm gì cũng khó. Cán bộ không chỉ
biết nói theo nghị quyết, hô hào quần chúng mà phải “thật thà nhúng tay vào việc” thậm
chí cầm tay chỉ việc cho dân làm. Do vậy, cán bộ phải có năng lực vận động quần chúng
tức là phải có kiến thức ở nhiều lĩnh vực công tác để cùng quần chúng thực hiện công việc
chung theo tinh thần “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, “những người phụ trách dân
vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ
nói suông chỉ ngồi viết mệnh lệnh”. Hồ Chí Minh cho rằng:
Tốt nhất là miệng nói tay làm làm gương cho người khác bắt chước... đời
sống mới cũng cần có những người làm gương những nhà làm gương, những
làng làm gương... Nếu miệng thì tuyên truyền bảo người ta siêng làm mà tự mình
thì ăn trưa ngủ trễ; bảo người ta tiết kiệm mà tự mình thì xa xỉ lung tung, thì
tuyên truyền một trăm năm cũng vô ích [28, tr.108].
Hồ Chí Minh còn chỉ rõ:
Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành. Kháng chiến kiến
quốc ta phải cần kiệm. Nhưng tự mình phải cần và kiệm trước đã. Trước hết
mình phải làm gương gắng mà làm gương trong anh em và khi đi công tác, gắng


làm gương cho dân. Làm gương cả về ba mặt: tinh thần, vật chất và văn hoá [27,
tr.150].
Do vậy “tuyên truyền phải miệng nói tay làm, phải tuỳ hoàn cảnh mà tổ chức giúp đỡ

nhân dân thực sự, không chỉ dân vận bằng diễn thuyết” [29, tr.320]. Nghị quyết hội nghị lần
thứ V Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về nhiệm vụ chủ yếu của công tác lý luận
tư tưởng trong tình hình mới có đoạn viết: Toàn Đảng, trước hết là Ban chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành kiên quyết thực hiện
nói đi đôi với làm, nói và làm đúng đường lối, đúng chính sách, pháp luật.
Sáu là; Năng lực tổng kết thực tiễn
Hồ Chí Minh cho rằng, tổng kết thực tiễn giúp cán bộ đánh giá đúng kết quả quá
trình tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Người luôn nhắc nhở
cán bộ: “Công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến
cội rễ phân tích thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ giúp cho cán bộ tiến tới” [28,
tr.243].
Có thể nói, sở dĩ cách mạng Việt Nam có được thành công như ngày nay là vì Đảng ta,
dưới sự lãnh đạo của vị lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh, đã đúc rút được những bài học, kinh
nghiệm quý báu từ chính bản thân thực tiễn Việt Nam và thế giới. Trong năng lực tổng kết
thực tiễn, Hồ Chí Minh lưu ý:
- Phải bảo đảm tính khách quan, tránh “tô hồng” hoặc “bôi đen”.
- Phải bảo đảm tính khái quát cao để những kết luận được rút ra từ thực tiễn có tính
phổ biến, điển hình, bao quát được tất cả các lĩnh vực có thể chỉ đạo hoạt động thực tiễn
tiếp theo.
- Phải bảo đảm tính mục đích rõ ràng đúng đắn, tránh những động cơ cá nhân.
1.1.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ
Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng được thể hiện ở
những nội dung cơ bản sau:
1.1.4.1. Tiêu chuẩn cán bộ
Theo Hồ Chí Minh, xác định tiêu chuẩn cán bộ là công việc đầu tiên không thể
thiếu trong công tác cán bộ. Xác định rõ tiêu chuẩn cán bộ là căn cứ để xem xét đánh giá,


lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp, đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng
và kỷ luật cán bộ. Vì vậy, tiêu chuẩn cán bộ vừa là động lực vừa là mục tiêu để cán bộ

phấn đấu rèn luyện xứng đáng “là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của
nhân dân”.
Hồ Chí Minh xác định rõ đức và tài là hai tiêu chuẩn cơ bản chung cho mọi cấp bậc,
chức danh cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, tư cách của cán bộ cách mạng là sự thống nhất biện
chứng giữa đức và tài, giữa tư tưởng, phương pháp, phong cách. Trước hết, Hồ Chí Minh
quan tâm đến tư cách đạo đức của cán bộ, coi đạo đức cách mạng là gốc của người cách
mạng. Trong khi nhấn mạnh đạo đức là gốc, Hồ Chí Minh không hề coi nhẹ tài năng.
Cán bộ phải là người tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng, lợi ích
của quốc gia, dân tộc. Không phải làm cán bộ là để thăng quan phát tài, làm “quan cách
mạng” mà là làm đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Cán bộ là người có năng lực tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chủ trương,
nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hồ Chí Minh coi cán bộ là dây chuyền của
bộ máy, vì nếu không có cán bộ có năng lực tổ chức triển khai thực hiện thì chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước các đoàn thể chính trị- xã hội vẫn chỉ nằm trên giấy,
không biến thành hiện thực.
Người yêu cầu “cán bộ phải vững về chính trị, giỏi về chuyên môn, lời nói đi đôi với
việc làm”, “nghề nào cũng phải học, phải thông thạo”, không thể lãnh đạo chung chung
được. Vì vậy, cán bộ phải luôn luôn học tập nâng cao trình độ mọi mặt và việc học tập
được Hồ Chí Minh nhấn mạnh là công việc thường xuyên, phải học mọi lúc, mọi nơi.
Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, cán bộ phải giữ vững các nguyên tắc cách mạng, nhưng lại
khéo dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn
biến”. Theo Hồ Chí Minh: cán bộ phải liên hệ mật thiết với nhân dân. Người phê phán
những cán bộ lên mặt “quan cách mạng để đè đầu cưỡi cổ nhân dân”, “dán lên trán hai chữ
cộng sản để lừa dân”. Cán bộ phải luôn học hỏi, gắn bó, liên hệ với quần chúng nhưng
không theo đuôi quần chúng: “dân chúng rất khôn khéo rất hăng hái, rất anh hùng. Vì vậy
chúng ta phải học dân chúng hỏi dân chúng và hiểu dân chúng”. Muốn học và hiểu dân
chúng thì phải có nhiệt thành, có quyết tâm, chịu khó nếu không thì dân sẽ không tin, họ


biết cũng không nói hoặc nói cũng không nói hết, dân đồng lòng việc gì cũng làm được,

dân không ủng hộ việc gì cũng không nên”.
Người luôn luôn nhắc nhở cán bộ phải có phong cách công tác tốt, chống bệnh quan
liêu, đại khái, phô trương hình thức cho oai, kiểu cách làm việc bàn giấy “chỉ tay năm
ngón”. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ phải năng động sáng tạo, tránh tình trạng “đầy túi quần
thông báo đầy túi áo chỉ thị” mà công việc không tiến triển được.
Để có được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của một đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh
luôn quan tâm việc quản lý cán bộ mà cơ sở khoa học để quản lý tốt cán bộ là đánh giá
đúng cán bộ. Phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ mới có thể động viên khích lệ cán bộ làm
việc tốt. Người viết: “Nếu không biết sự phải trái ở mình thì không thể nhận rõ người cán
bộ tốt hay xấu, người ta thường phạm những chứng bệnh sau này:
1. Tự cao tự đại,
2. Ưa người ta nịnh mình,
3. Do lòng yêu, ghét của mình đối với người,
4. Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác
nhau.
Phạm một trong bốn bệnh đó cũng như mắt đã mang kính màu, không bao giờ thấy
rõ mặt thật của cái mình trông” [28, tr.277].
Đó là thái độ khoa học trong nhìn nhận đánh giá cán bộ, nhìn nhận biện chứng
khách quan, không dựa vào chủ quan định kiến, tránh tình trạng “chỉ thấy cây mà không
thấy rừng, chỉ thấy khuyết điểm không thấy ưu điểm”. Như vậy, cán bộ phải có phong
cách làm việc khoa học, làm việc gì cũng phải có sự chuẩn bị tính toán kỹ lưỡng từ trước,
không để làm mất thì giờ của người khác, không ảnh hưởng đến công việc chung của cơ
quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể. Phải đi sâu, đi sát thực tiễn để xem xét, đánh giá cho
đúng sự thật, công việc làm xong phải có báo cáo tổng kết để rút kinh nghiệm cho lần sau
làm được tốt hơn.
1.1.4.2. Huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Hồ Chí Minh sớm nhận thức được vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ đối với
cách mạng. Do đó, Người khẳng định: “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” [28,



tr.269]. Hồ Chí Minh coi cách mạng là một nghề, nghề gì cũng phải học, phải được đào
tạo, bồi dưỡng.
Từ tầm nhìn chiến lược đó, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, trong quá trình
chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh rất chú trọng việc tổ chức các
lớp huấn luyện thanh niên Việt Nam yêu nước, đào tạo những “hạt giống đỏ” đầu tiên
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước
của dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, ở đâu, lúc nào, Hồ Chí Minh cũng
thường xuyên quan tâm đến công việc “gốc” của Đảng. Cho đến những năm cuối đời,
Người vẫn luôn nhắc nhở các cấp, các ngành phải tích cực đào tạo và sử dụng tốt cán bộ”
[29, tr.548]. Người so sánh việc nuôi dạy cán bộ của Đảng phải cẩn trọng công phu như
người làm vườn vun trồng cây cối quý của mình. Đó là công việc đòi hỏi sự nhẫn nại, kiên
trì, khéo léo, liên tục, lâu dài, tránh tình trạng “ khuyết điểm chung là làm nhiều mà không
chu đáo, không biết quý hồ tinh, bất quý hồ đa” [28, tr.248].
Người chỉ rõ, cần xác định: huấn luyện ai? ai huấn luyện? huấn luyện để làm gì?
huấn luyện gì? huấn luyện như thế nào? phải có chương trình tài liệu thiết thực phù hợp
với từng loại đối tượng, trong chương trình, phải chú ý cả vấn đề lý luận và thực tiễn.
Người nghiêm khắc phê phán tình trạng huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng nặng về hình thức
“rút cuộc thì chỉ tốn gạo mà học tạp nhoang” [31, tr.500].
Theo Hồ Chí Minh, công tác huấn luyện trước hết và quan trọng nhất là phải thiết
thực. Tính thiết thực thể hiện: đào tạo phải xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn và đáp ứng
yêu cầu đó. Người cho rằng, huấn luyện cán bộ là cốt để cung cấp cán bộ cho các ngành
công tác, đoàn thể, mặt trận, chính quyền, quân đội. Các ngành công tác như là người tiêu
thụ hàng, ban huấn luyện như là người làm ra hàng phải đúng nhu cầu tiêu thụ” [29, tr.52].
Cán bộ “không phải học trên câu chữ mà học tinh thần xử lý công việc” và học là công
việc suốt đời” [31, tr.498].
Hồ Chí Minh xác định mục đích của huấn luyện là:
Học để làm việc,
làm người
làm cán bộ



×