Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

phân tích tình hình xuất khẩu gạo của việt nam sang thị trường châu phi trong những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.57 KB, 56 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài
Việt Nam vẫn đang là một nước nông nghiệp với lực lượng lao động phong phú

dồi dào, các sản phẩm nông nghiêp hiện đang là mặt hàng xuất khẩu chủ lực và có
đóng góp đáng kể vào GDP của quốc gia cũng như nền kinh tế của nước nhà. Các sản
phẩm nông sản chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu có thể kể đến như: gạo, cao su, cà phê,
hạt tiêu, hạt điều...Trong đó gạo là một trong những mặt hàng chủ lực. Trong cơ cấu
ngành, gạo chiếm một tỉ trọng tương đối lớn, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ, và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
quốc gia.Trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới, hoạt động kinh doanh quốc tế
đã trở nên phổ biến và góp phần không nhỏ trong việc phát huy lợi thế so sánh của mỗi
quốc gia. Việt Nam cần phải tham gia sâu vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt
động kinh doanh quốc tế thường được thực hiện bằng nhiều hình thức trong đó có hình
thức xuất khẩu. Chiếm 1/4 GDP và 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu, gạo là một trong
những mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam. Chiếm tỷ trọng lớn trong mặt hàng xuất
khẩu và đưa Việt Nam vươn lên vị trí thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo. Song song với
tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, tham gia vào tổ chức thương mại WTO, ngành
lúa gạoViệt Nam đang đứng trước những khó khăn, thách thức lớn về chất lượng gạo
và ổn định thị trường tiêu thụ.
Với mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, nền kinh tế Việt Nam
đang có những chuyển biến mới cả về số lượng và chất lượng. Xuất khẩu gạo không
chỉ là mũi nhọn trong ngành xuất khẩu nông sản nói riêng mà còn có vai trò quan trọng
cân đối cán cân thương mại của Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang là quốc gia lớn
trong lĩnh vực cung ứng gạo cho thị trường thế giới. Các thị trường mà gạo Việt Nam
đã xuất hiện như: Trung Quốc, Philippin, Hoa kỳ, Nhật Bản, châu Phi…
Với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất
khẩu nông sản mà cụ thể là xuất khẩu gạo nói riêng sẽ có một “cơ hội vàng” để phát
triển. Điều kiện mới đặt ra đó là tất cả mọi khâu: sản xuất, chế biến, tiêu thụ lúa gạo




của nước ta phải tiến hành quy trình liên kết đồng bộ. Trong đó tìm kiếm và mở rộng
thị trường tiêu thụ gạo xuất khẩu ra thị trường thế giới là vấn đề then chốt. Để góp
phần mở rộng thị trường xuất khẩu gạo và nâng cao lợi thế cạnh tranh của mặt hàng
gạo trên thị trường thế giới, chúng ta phải có một cái nhìn toàn diện về thực trạng thị
trường xuất khẩu gạo của VN trên thị trường thế giới. Châu Phi là thị trường tiềm năng
bởi ẩn chứa ở châu lục này những nguồn khoáng sản phong phú, quý hiếm khó tái tạo
chưa mấy được khai thác đã từng được thế giới biết đến. Thêm vào đó, nhu cầu hàng
hoá lớn và đa dạng, chủ yếu là sản phẩm chất lượng vừa phải, giá rẻ.
Với quan hệ hợp tác lâu dài, châu Phi đang là một địa điểm hướng tới cho thị
trường xuất khẩu của Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp đã tìm hiểu và thâm nhập vào thị
trường châu Phi. Bước đầu đã thu được thành công nhất định, nhưng so sánh với nhu
cầu thực tế của thị trường châu Phi thì doanh nghiệp Việt Nam còn quá khiêm tốn ở thị
trường này. Vậy nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam cần phải làm gì để đẩy mạnh
xuất khẩu sang thị trường đầy tiềm năng, không mấy khó tính này. Vì vậy, tôi đã chọn
đề tài “Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường
châu Phi” để có cái nhìn tổng quan biết xem chúng ta sẽ có những cơ hội, thách thức
nào để xuất khẩu, từ đó các giải pháp khắc phục, thúc đẩy hướng đến chinh phục thị
trường này.
2.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu tổng quan về xuất khẩu gạo của Việt Nam và nhu cầu gạo của thị
trường châu Phi. Đề tài đi sâu vào phân tích tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam
sang thị trường châu Phi trong những năm qua. Đánh giá những ưu nhược từ đó xây
dựng cơ sở khoa học để đề ra một số giải pháp thúc đẩy gạo Việt Nam sang châu Phi
cũng phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với châu lục này.
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tình hình xuất khẩu gạo, cụ thể hơn là thực trạng xuất

khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường châu Phi, các chính sách thương mại và các
giải pháp.
4.
Phạm vi nghiên cứu


Về không gian: Châu Phi, một số thị trường trọng điểm như: Nam Phi, Bờ Biển
Ngà…mà gạo xuất khẩu của Việt Nam hướng tới.
Về thời gian: Phân tích tình trạng xuất khẩu gạo Việt Nam sang châu Phi từ năm
2010 đến nay.
5.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng những kiến thức đã tích lũy trong suốt quá trình học tập với những
quan sát, thu thập trong thực tế, kết hợp giữa việc tổng hợp sách báo, tài liệu với việc
đi sâu vào phân tích thực tiễn, tham khảo ý kiến tìm ra hướng đi hợp lí nhất. Sử dụng
phương pháp tổng hợp để đưa ra những lý luận khái quát về thị trường xuất khẩu gạo
và các giải pháp. Ngoài ra còn dùng phương pháp phân tích, đối chiếu so sán, tổng hợp
các số liệu thống kê và tài liệu để làm sáng tỏ thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của
Việt Nam.
6.
Đóng góp của đề tài
Phân tích đánh giá một cách toàn diện thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của
Việt Nam sang châu Phi. Tìm ra những lợi nhuận phát triển nền kinh tế. Giúp hiểu hơn
về tình hình lúa gạo, nông sản của châu Phi. Các vấn đề mà châu Phi đang quan tâm
khi quyết định nhập khẩu mặt hàng này. Đưa ra được những giải pháp, tiến sâu hơn
vào thị trường châu Phi mở rộng quan hệ kinh doanh quốc tế. Làm tiền đề phát triển
sau này.
7.
Kết cấu của nghiên cứu
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, nội dung đề tài được tóm lại thành 3 chương:

- Chương 1. Cơ sở lý luận về xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Chương này sẽ làm rõ cơ sở lý luận và đề xuất khung phân tích cho toàn bộ đề
tài. Bên cạnh việc rà soát các khái niệm, vai trò thì chương này còn đưa ra các nhân tố
ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.
- Chương 2. Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường châu Phi.

Sử dụng khung phân tích ở chương đầu, chương 2 xem xét thực trạng hoạt động
xuất khẩu gạo của Việt Nam, đồng thời tóm tắt sơ lược về thị trường gạo ở châu Phi,
các cơ hội, thách thức khi xuất khẩu sang thị trường này.


-Chương 3. Giải pháp để đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường châu Phi.

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã xem xét, chương này nhận định tình trạng xuất
khẩu gạo trong thời gian tới, đề xuất một số quan điểm và giải pháp hoàn thiện thúc
đẩy hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam. Các giải pháp được luận giải về mặt nội
dung, điều kiện áp dụng…


5

1

CHƯƠNG 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƯỜNG CHÂU PHI
1.1 Tổng quan về xuất khẩu
1.1.1 Khái niệm và mục tiêu của hoạt động xuất khẩu
1.1.1.1 Khái niệm về hoạt
động xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, là hoạt động

bán hàng hoá ra nước ngoài, nó không phải là hành vi bán hàng riêng lẻ mà là hệ thống
bán hàng có tổ chức cả bên trong lẫn bên ngoài, tuân thủ theo những nguyên tắc, luật
pháp, quy định của quốc tế nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát
triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân
dân.Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh dễ đem lại hiệu quả đột biến. Mở rộng xuất
khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và thúc đẩy các ngành kinh tế
hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải
quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ.
Hay nói cách khác xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ cho nước ngoài
trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Trong đó hàng hóa hay dịch vụ có
thể di chuyển qua biên giới hoặc không. Theo Luật Thương Mại 2005, xuất khẩu hàng
hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc
biệt nằm trên lãnh thổ việt nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của
pháp luật.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động buôn bán hàng hoá, dịch vụ cho người hoặc tổ
chức nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, có thể là ngoại tệ của một hoặc cả hai quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương . Nó đã xuất hiện
từ rất sớm trong lịch sử phát triển của xã hội và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về
chiều rộng và chiều sâu. Hình thức sơ khai của chúng chỉ là hoạt động trao đổi hàng


6

hoá nhưng cho đến nay nó đã phát triển rất mạnh và đước biểu hiện dưới nhiều hình
thức.
1.1.1.2 Mục tiêu của hoạt động xuất khẩu
Như đã biết, xuất khẩu là phương thức để thúc đẩy phát triển kinh tế, mở rộng
xuất khẩu là để tăng thu thêm nguồn ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển
cơ sở hạ tầng.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá,

đất nước đòi hỏi phải có số vốn lớn, rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật,
vât tư và công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ nhiều
nguồn. Tuy nhiên, trong các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, nguồn viện trợ
cũng phải trả bằng cách này hay cách khác. Để nhập khẩu, nguồn vốn quan trọng nhất
là từ xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định qui mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
Tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi. Xuất
khẩu tạo ra những khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản
xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước.
Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên
năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền
kinh tế nước ta.
Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh
trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ
chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Xuất khẩu còn đỏi hỏi các
doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, điều kiện,
nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và
cải thiện đời sống nhân dân. Trước hết, sản xuất hàng hoá xuất khẩu thu hút hàng triệu
lao động, tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời
sống nhân dân. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối


7

ngoại ở nước ta. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại đã làm cho nền kinh tế
nước ta gắn chặt hơn với phân công lao động quốc tế.
Xuất khẩu là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại,
xuất khẩu đã trở thành phương tiện để phát triển kinh tế, xuất khẩu là hình thức kinh
doanh quan trọng nhất, nó phản ánh quan hệ thương mại, buôn bán giữa các quốc gia

trong phạm vi khu vực và thế giới. Hình thức kinh doanh xuất khẩu thường là hoạt
động kinh tế quốc tế cơ bản của một quốc gia, nó là “chiếc chìa khoá” mở ra những
giao dịch quốc tế, tạo ra nguồn thu chi ngoại tệ chủ yếu của một nước khi tham gia vào
hoạt động kinh tế quốc tế. Thực tế đã chứng minh các nước đi nhanh trên con đường
tăng trưởng và phát triển kinh tế là nước có nền ngoại thương mạnh và năng động. Vì
vậy vai trò của hoạt động xuất khẩu có một ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế
trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá Đất nước.
1.1.2 Khái quát về thị trường gạo của Việt Nam
Trong những năm gần đây sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam đã trở thành
ngành chủ lực quan trọng. Việt Nam chẳng những đã sản xuất đủ lúa gạo cho nhu cầu
tiêu dùng nội địa, mà còn dành một khối lượng lớn cho xuất khẩu. Hoạt động xuất
khẩu gạo cùng với xuất khẩu hàng nông sản trở thành một trong các mặt hàng xuất
khẩu chiến lược của Việt Nam, đạt kim ngạch hàng tỉ USD và đem lại cho đất nước
nguồn thu nhập ngoại tệ lớn.
1.1.2.1 Về sản xuất
Việt Nam là một nước nông nghiệp, có tập quán canh tác lúa lâu đời. Cây lúa là
sản phẩm chính của nền nông nghiệp nó không chỉ góp phần bảo đảm đời sống cho
nhân dân, mà trong thời kỳ hiện nay nó còn góp một phần rất lớn vào giá trị tổng kim
ngạch xuất khẩu thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Nhờ có
các chính sách đổi mới mà sản lượng lúa gạo đã tăng hàng năm. Cụ thể, theo Cục xúc
tiến Thương mại mùa vụ 2010/2011, Việt Nam xuất khẩu 7,1 triệu tấn gạo trong tổng
sản lượng 26,37 triệu tấn, so với 6,73 triệu tấn trong mùa vụ 2009/2010. Với sản lượng


8

này, Việt Nam tiếp tục giữ vị trí thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo, sau Thái Lan.
Mùa vụ 2011/2012, Việt Nam vẫn duy trì mức xuất khẩu gạo trên 7 triệu tấn và đã đạt
7,72 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu gạo đạt 3,45 tỷ USD. Kể từ tháng Giêng mùa vụ
2014/15, sản lượng gạo nước ta có mức tăng trưởng chậm chỉ tăng 0,1% so với cùng kì

năm trước, đạt mức 28,2 triệu tấn trong mùa vụ 2014/15.
Bảng 1.1: Diện tích gieo trồng lúa ở Việt Nam từ năm 2010-2014
Đơn vị: nghìn ha
Tổ
ng
diệ
n
tíc
h
(N
ghì
n
ha)

Diện
tích
Lúa
đông
xuân
(Ng
hìn
ha)

Diệ
n
tích
Lúa

thu
(Ng

hìn
ha)

7.4

Diệ
n
tíc
h

a

a
(N
ghì
n
ha)
1.9

89, 3.08 2.43 67,
24

5,9

6,0

7.6

5
1.9


55, 3.09 2.58 69,
24

6,8

9,5

7.7

1
1.9

61, 3.12 2.65 77,
22

4,3

9,1

7.9

8
1.9

02, 3.10 2.81 86,
25

5,6


0,8

1


9

Tổ
ng
diệ
n
tíc
h
(N
ghì
n
ha)

Diện
tích
Lúa
đông
xuân
(Ng
hìn
ha)

Diệ
n
tích

Lúa

thu
(Ng
hìn
ha)

7.8

Diệ
n
tíc
h

a

a
(N
ghì
n
ha)
1.9

13, 3.11 2.73 63,
28

6,5

4,2


1

Nguồn: Tổng cục thống kê

Diện tích gieo trồng và sàn lượng lúa tăng dần qua các năm đạt 7,8 triệu ha và
44,98 triệu tấn năm 2014 và tập trung chủ yếu vào vụ lúa Đông xuân.
Tính đến ngày 16/7/2015, theo số liệu của Cục Trồng trọt - Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, riêng các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đã xuống giống vụ Hè
Thu năm 2015 được khoảng 1,668 triệu ha/1,6 triệu ha diện tích kế hoạch. Gần một
nửa diện tích lúa Hè Thu ở ĐBSCL đã được thu hoạch, với năng suất khoảng 5,4-5,5
tấn/ha, sản lượng khoảng 3,54 triệu tấn lúa. Vụ thu hoạch sẽ kết thúc vào cuối tháng 8
đầu tháng 9. Chất lượng lúa gạo vụ mới không được cao, không đáp ứng yêu cầu của
nhiều khách hàng nên tiêu thụ chậm.
Bảng 1.2: Sản lượng lúa Việt Nam năm 2010-2014
Đơn vị: triệu tấn
Năm

2010

2011

2012

2013

2014

Sản lượng lúa
(triệu tấn)


40,05

42,39

43,74

44,04

44,98

Nguồn: Tổng cục thống kê.


10

1.1.2.2 Về xuất khẩu
Sản lượng và giá trị xuất khẩu đều có những thay đổi tích cực và là thành tựu
không thể phủ nhận. Thị trường xuất khẩu gạo của nước ta không những rộng mà quan
hệ bạn hàng cũng từng bước được cải thiện. Nếu như những năm đầu của thập kỷ 90
khoảng cách chênh lệch ở mức từ 50-60 USD/tấn (đối với từng loại gạo có phẩm chất
tương tự và các điều kiện thương mại giống nhau), có loại chênh lệch tới gần
100USD/tấn thì những năm gần đây chỉ còn từ 15-39 USD/tấn. Giống lúa và chế biến
vẫn là hai khâu có ảnh hưởng lớn nhất tới chất lượng gạo xuất khẩu. Cơ chế quản lý
hoạt động xuất khẩu có những thay đổi liên tục trong những năm 90 và gần đây để đáp
ứng yêu cầu thiết thực trong kinh doanh xuất khẩu gạo. Chính phủ đã bãi bỏ cơ chế
giao hạn ngạch xuất khẩu gạo cũng như quy định về doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu.
Đây là bước đột phá mới trong cơ chế chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Tuy rằng Việt Nam đã tiếp cận được hầu
hết các thị trường nhập khẩu gạo chủ yếu của thế giới, nhưng xét về quy mô hay thị
phần thì vẫn còn khiêm tốn. Nhìn chung thị trường xuất khẩu của Việt Nam đang bị

cạnh tranh quyết liệt và ngày càng khó khăn hơn.
Mùa vụ 2011/12, nước ta xuất khẩu 7,72 triệu tấn gạo trong tổng sản lượng 27,15
triệu tấn, tiếp tục giữ vị trí thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo, sau Ấn Độ. Theo
Hiệp hội Lương thực Việt Nam, tổng kim ngạch xuất khẩu gạo nước ta đạt 3,45 tỷ đô
la Mỹ. Dự báo xuất khẩu gạo của nước ta mùa vụ 2012/13 giảm xuống còn 7,4 triệu
tấn, do sức ép cạnh tranh từ Ấn Độ và Thái Lan cũng như nhu cầu tại một số thị trường
truyền thống như Philippines, Indonesia sụt giảm.
Châu Á là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, chiếm 77,7% tổng
lượng gạo xuất khẩu của cả nước (tương đương 6 triệu tấn). Năm 2012, Indonesia,
Phillipines và Malaysia vẫn tiếp tục là ba thị trường nhập khẩu truyền thống. Tiềm
năng tiêu thụ gạo của các thị trường này vẫn còn khá lớn, tuy nhiên, theo USDA, trong
vài năm tới, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường này sẽ bị thu hẹp
dần.


11

Áp lực thị trường ngày càng lớn tại Phillippines trong mùa vụ 2012/13 khi mà Bộ
Công Thương vừa đồng ý với kiến nghị của Hiệp hội Lương thực Việt Nam, cho phép
các doanh nghiệp được xuất khẩu gạo sang Phillipines nhằm tận dụng cơ hội thị
trường, góp phần thúc đẩy xuất khẩu gạo. Trước đây, đối với các thị trường tập trung
gồm Philippines, Malaysia, Indonesia, hợp đồng xuất khẩu phải dựa trên thỏa thuận
của chính phủ hai nước. Chính phủ giao cho Hiệp hội Lương thực Việt Nam chỉ định
một doanh nghiệp đứng ra đàm phán ký kết, cụ thể là Tổng Công ty Lương thực miền
Nam (Vinafood2), sau đó về phân chia cho các doanh nghiệp hội viên VFA.
Mùa vụ 2011/12, Trung Quốc là nước nhập khẩu gạo nhiều nhất của Việt Nam
với kim ngạch hơn 2 triệu tấn. Dự báo xuất gạo của Việt Nam sang thị trường này sẽ
tiếp tục tăng trong mùa vụ 2012/13. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh
tranh mạnh mẽ từ Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan và Myanmar khi xuất khẩu gạo sang
Trung Quốc.

Đối với thị trường châu Phi, Việt Nam có nhiều lợi thế hơn so với Ấn Độ và
Pakistan nhất là với loại gạo tấm 5%; nhưng lại phải đối mặt với sức ép cạnh tranh gay
gắt từ Thái Lan vì các nhà xuất khẩu Thái Lan có thể hạ thấp giá bán để cạnh tranh tại
thị trường quan trọng này. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, Ấn Độ và Pakistan lại
có lợi thế rất cạnh tranh đối với thị trường gạo chất lượng thấp (đặc biệt là gạo tấm
25%).
Xét về lượng, trung bình mỗi năm Việt Nam xuất khẩu sang châu Phi từ 1,2 đến
1,5 triệu tấn gạo. Gạo xuất sang châu Phi thường được bán theo cơ sở giá FOB; hàng
hóa được chuyển bằng tàu lớn và dừng lại ở nhiều cảng tại các quốc gia châu Phi khác
nhau. Chính vì vậy, rất khó để đưa ra con số chính xác về lượng gạo xuất khẩu của
Việt Nam sang châu lục này.
Bảng 1.3: Sản lượng xuất khẩu các loại gạo Việt Nam mùa vụ 2011/2012
Đơn vị: triệu tấn


12

5%
Châu Á 2684,8
Châu Phi 821,8
Châu Âu
và các
39,8
nước CIS
Châu Mỹ 32,0
Châu Úc 19,2
Tổng

3597,7


Các
10% 15% 25% 100% Glutinous Jasmine loại Tổng
khác
1505,8 793,3 15,9
309,4
433,8
5,8 5748,8
75,9 98,4 365,6
104,2 52,4 1518,3
24,7

756

-

-

-

24,6

-

89,9

-

213,1
-


2,9
-

55,9
-

-

25,5
11

-

329,3
30,3

309,4

598,9

58,2

7716,6

24,7 1795,6 894,6 437,4

Nguồn: Thông tin thương mại/Tổng cục Hải quan Việt Nam/Hiệp hội Lương thực Việt Nam

Theo báo cáo của USDA, Việt Nam đang muốn tiếp cận thị trường mới để đẩy
mạnh xuất khẩu. Việt Nam đã xuất khẩu gạo đến Chile và Haiti trong năm ngoái và

đang tìm cách mở rộng thị phần tại Tây bán cầu. Sản lượng lúa gạo Việt Nam năm
2013 ước tính 27,65 triệu tấn, tăng khoảng 27,15 triệu tấn so với năm trước. Tiêu thụ
lúa gạo trong nước dự kiến sẽ tăng nhẹ, từ khoảng 19,65 triệu tấn năm 2012 lên 20,1
triệu tấn năm 2013.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, năm 2014 kim ngạch xuất khẩu
gạo đạt 6,378 triệu tấn, trị giá đạt 2,955 tỷ USD, giảm 3,2% về lượng và tăng 1,1% về
trị giá so với năm 2013. Hiệp hội Lương thực cũng cho biết, thị trường gạo xuất khẩu
chủ yếu của Việt Nam là châu Á (chiếm 75,75%), tiếp đến là châu Phi (12,68%). Các
thị trường tiếp theo là châu Mỹ, châu Úc, Trung Đông, châu Âu.
Lượng gạo xuất khẩu tháng 5-2015 đạt 569 nghìn tấn, giảm 22,6% so với tháng
trước, nâng tổng lượng xuất khẩu trong 5 tháng/2015 lên 2,41 triệu tấn, giảm 11,2% so
với cùng kỳ năm trước. Đơn giá xuất khẩu bình quân trong 5 tháng/2015 của mặt hàng
này cũng giảm 3,8% dẫn đến trị giá xuất khẩu đạt 1,05 tỷ USD, giảm 14,6% so với 5
tháng/2014. Xuất khẩu gạo trong 5 tháng/ 2015 sang 2 thị trường chính là Trung Quốc
đạt 935 nghìn tấn, giảm 19,4% và sang Philippines đạt 360 nghìn tấn, giảm 35,8% so


13

với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, xuất khẩu gạo sang Malaysia đạt tới 194 nghìn tấn,
tăng gấp gần 3 lần.
1.1.3 Các hình thức xuất khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam
Xuất khẩu qua trung gian là con đường mà phần lớn các mặt hàng của Việt Nam
trong đó có gạo đã áp dụng để thâm nhập vào thị trường Châu Phi. Hình thức này là
việc các doanh nghiệp thông qua dịch vụ của các tổ chức độc lập đặt ngay tại nước
xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu gạo sang châu Phi. Ưu điểm của nó là doanh nghiệp
không phải đầu tư nhiều cũng như không phải triển khai lực lượng bán hàng, các hoạt
động xúc tiến, khuyếch trương ở các nước châu Phi. Hơn nữa rủi ro cũng hạn chế vì
trách nhiệm bán hàng thuộc về các tổ chức trung gian. Tuy nhiên phương thức này làm
giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do phải chia sẻ với các tổ chức tiêu thụ, không liên

hệ trực tiếp với nước ngoài, vì thế nên việc nắm bắt thông tin về thị trường cũng bị hạn
chế, dẫn đến chậm thích ứng các biến động của thị trường. Hiện nay, việc xuất khẩu
hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Châu Phi lại chủ yếu thông qua hình thức này.
Chẳng hạn, Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Ai Cập một cách gián tiếp qua trung
gian hay là tạm xuất vào các khu thương mại tự do của Ai Cập sau đó tái xuất sang các
nước; hay việc xuất khẩu gạo sang Nigiêria thường thông qua ba hình thức: Các công
ty lớn, bán hàng qua kho ngoại quan và bán hàng qua biên giới…
Xuất khẩu trực tiếp thường áp dụng tại các quốc gia mà đã có thương vụ hoặc cơ
quan đại diện ngoại giao như: Nam Phi, Ai Cập, Ăng-go-la và một số nước có hệ thống
ngân hàng phát triển và khả năng tài chính dồi dào như: Maroc, Nigieria…Phương
thức này có một số ưu điểm đó là thông qua đàm phán thảo luận trực tiếp dễ dàng đi
đến thống nhất và ít xảy ra những hiểu lầm đáng tiếc do đó giảm được chi phí trung
gian làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, có nhiều điều kiện phát huy tính độc lập của
doanh nghiệp, chủ động trong việc tiêu thụ hàng hoá sản phẩm. Nhưng trên thực tế thì
xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường châu Phi thông qua hình thức này chiếm tỷ lệ
thấp bởi vì dễ xảy ra rủi ro nếu như không hiểu rõ về thị trường này.


14

1.1.4 Vai trò của hoạt động xuất khẩu gạo đối với nền kinh tế
1.1.4.1 Vị trí của xuất khẩu gạo trong cơ cấu ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước có truyền thống về nghế trồng lúa nước cổ
xưa trên thế giới, nông nghiệp vừa đảm bảo an ninh lương thực lại vừa là cơ sở kinh tế
quan trọng của đất nước. Trong tổng diện tích đất nông nghiệp thì ngành trồng trọt
chiếm 4/5 diện tích đất canh tác và diện tích trồng lúa chiếm hơn 80% diện tích lương
thực. Điều đó cho thấy vai trò hết sức to lớn của việc sản xuất và tiêu thụ lúa gạo trong
nền kinh tế quốc dân.
Xuất khẩu luôn là một động lực to lớn để thúc đấy tăng trưởng kinh tế và từ lâu
nước ta đã đề ra những mục tiêu cơ bản để thúc đấy xuất khẩu trong đó xuất khẩu nông

sản luôn được coi là trọng điểm trong cơ cấu ngành hàng xuất khẩu. Năm 1989, lần đầu
trong lịch sử nước ta xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 310 triệu USD. Và liên
tiếp trong mười năm sau, sản lượng lương thực nước ta mỗi năm tăng một triệu tấn.
Cho đến năm 2005, Việt Nam xuất khẩu đạt mức kỉ lục 5,2 triệu tấn giá trị đạt 1,4 tỷ
USD. Đến năm 2007 xuất khẩu 4,53 triệu tấn đạt 1,46 tỷ USD. Nhưng trong những
năm gần đây, số lượng gạo xuất khẩu đang giảm cụ thể vào tháng 7/2014 xuất khẩu
gạo của các doanh nghiệp đạt 3,617 triệu tấn, trị giá cửa khẩu bên xuất (FOB) đạt
1,560 tỷ USD, giá trị cửa khẩu bên nhập (CIF) đạt 1,647 tỷ USD. Số lượng này giảm
10,78% so với cùng kỳ năm 2013, trị giá CIF giảm 9,2% dù giá FOB bình quân tăng
2,43 USD một tấn.
Theo báo cáo của Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, khối lượng xuất khẩu
gạo ba tháng đầu năm 2015 ước đạt 1 triệu tấn với giá trị 440 triệu USD, giảm 28% về
khối lượng và giảm 32% về giá trị so với cùng kỳ năm 2014. Giá gạo xuất khẩu bình
quân hai tháng đầu năm 2015 đạt 458,6 USD/tấn, giảm 2,1% so với cùng kỳ năm 2014.
Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu gạo Việt Nam lớn nhất trong hai tháng đầu
năm 2015 với 21% thị phần có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm 2014 (giảm 42% về
khối lượng và 46% về giá trị).
Biểu đồ 1.1: Lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo theo tháng 1/2014 đến 10/2015


15

Đơn vị: Sản lượng (nghìn tấn); Kim ngạch (triệu USD)

Nguồn: thitruongluagao.com

1.1.4.2 Lợi thế của gạo Việt Nam
• Điều kiện đất đai

Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng hàng đầu của canh tác lúa gạo. Độ phì nhiêu

của đất chi phối sâu sắc khả năng thâm canh và giá thành sản phẩm.. Tổng diện tích tự
nhiên cả nước có trên 33,1 triệu ha, trong đó đất giành để trồng lúa khoảng 4,3 triệu ha,
chiếm trên 13% diện tích đất cả nước, bình quân đất theo đầu người của nước ta tuy
thấp nhưng quỹ đất có khả năng trồng lúa lại chiếm tỷ lệ cao trong đất có khả năng
nông nghiệp. Theo khảo sát của Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp thuộc Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đất có khả năng nông nghiệp nước ta có trên 10
triệu ha, trong đó đất có khả năng trồng lúa là 8,5 triệu ha.
Như vậy tài nguyên đất đai của nước ta có lợi thế đồng thời cho cả hướng thâm
canh và quảng canh nhằm tăng nhanh sản lượng lúa.
• Khí hậu
Tài nguyên khí hậu đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái, cung cấp nguồn
năng lượng và các yếu tố khác như độ ẩm và gió mưa. Khí hậu của nước ta có điều
kiện lý tưởng đối với cây lúa do có sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố trên. Nghiên


16

cứu các yếu tố về đIều kiện sinh thái cho thấy rõ thêm, không phải vô cớ mà cây lúa là
cây bản địa của Việt Nam với lịch sử nhiều ngàn năm cua nghề trồng lúa. Đặc biệt ở 2
vựa lúa chính đồng bằng Nam Bộ và đồng bằng Bắc Bộ, có chế độ thâm canh và luân
canh tối ưu để khai thác triệt để những lợi thế đó.
• Nước tưới tiêu
Tài nguyên nước rất dồi dào cũng là một lợi thế nổi bật của nghề trồng lúa ở Việt
Nam. Số ngày mưa lý tưởng 120-140 ngày/ năm ở hai đồng bằng lớn không chỉ cung
cấp cho lúa nguồn nước trời quý giá mà còn đồng thời bồi bổ cho lúa nguồn phân đạm
thiên nhiên dễ hấp thụ nhất mà phân đạm nhân tạo không thể so sánh. Cùng với nước
mưa trời, dòng chảy mặt còn sản sinh trên lãnh thổ nước ta khoảng 300 tỉ m ≥ nước.
Ngoài ra, hệ thống thuỷ lợi nước ta, với 10% ngân sách Nhà nước đầu tư hàng năm đã
đạt được thành quả bước đầu đáng mừng. Có thể nói nước, nguồn tài sản thiên nhiên
vốn quý giá, cộng thêm sự chú trọng phát triển thuỷ lợi của Nhà nước trong thời gian

qua, là yếu tố rất cơ bản thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu gạo.
• Nhân lực
Yếu tố nhân lực không chỉ có ưu thế lớn về số lượng nhân lực mà còn có ưu thế
lớn về chất lượng, về kinh nghiệm, am hiểu nghề trồng lúa. Lịch sử sản xuất lúa của
Việt Nam đã trải qua hơn 6000 năm kể từ thuở cộng đồng nguyên thuỷ người Việt cho
đến khi ra đời nhà nước Văn Lang và cho tới nay, đã được các thế hệ đúc kết và để lại
nhiều tri thức, kinh nghiệm quí báu. Kho tàng kinh nghiệm đó thực sự là một lợi thế
đặc biệt, nó cho phép khai thác triệt để những lợi thế thông thường của các tài sản thiên
nhiên như tài sản đất, tài sản nước, tài sản khí hậu.
• Địa lý và cảng khẩu
Hầu hết khối lượng gạo trong buôn bán quốc tế bấy lâu thường được vận chuyển
bằng đường biển. So với các phương thức vận tải quốc tế bằng đường sắt, đường hàng
không, vận tải biển quốc tế thường đảm bảo tiện lợi, thông dụng vì có mức cước phí rẻ
hơn. Do vậy, riêng phương thức này đã chiếm khoảng trên 80% buôn bán quốc tế.
Việt Nam có vị trí giao thông đường biển rất thuận lợi. Hệ thống cảng biển Việt Nam
nói chung đều nằm gần sát đường hàng hải quốc tế và có thể hành trình theo tất cả các


17

tuyến đi Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Trung Cận Đông, châu Âu,
châu Mỹ, châu Phi…Từ cảng Sài Gòn đến đường hàng hải quốc tế thường chỉ hết 3 giờ
hành trình với 40 hải lý.
Tóm lại, Việt Nam có nhiều lợi thế cơ bản trong sản xuất và xuất khẩu gạo.
1.1.4.3 Vai trò của xuất khẩu gạo
• Tích luỹ vốn cho sự nghiệp đổi mới đất nước

Mục tiêu chủ yếu sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, đẩy mạnh xuất khẩu nói chung là đòi hỏi
cấp bách nhằm tăng ngoại tệ, giải quyết vốn cho công nghiệp hóa. Xuất khẩu gạo giải

quyết vấn đề ngoại tệ cho quốc gia, có ngoại tệ để nhập khẩu nhằm phục vụ cho công
cuộc công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích
hợp là con đường tất yếu khắc phục tình chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp
hoá đất nước trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc
thiết bị kĩ thuật công nghệ tiên tiến và tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu gạo sẽ tạo điều kiện cho các ngành khác cùng cơ hội
phát triển. Xuất khẩu gạo tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm góp
phần ổn định sản xuất, có khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất gạo mở rộng khả
năng tiêu dùng của một quốc gia. Thông qua xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ có điều kiện
tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới cả về giá cả và chất lượng. Cuộc
cạnh tranh này có tác dụng ngược trở lại buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tổ
chức, xem xét lại khâu sản xuất, hình thành một cơ cấu sản xuất thích hợp, các doanh
nghiệp cũng cần phải nhìn lại chất lượng sản phẩm của mình để thích nghi với những
biến động của thị trường thế giới.
• Cải thiện đời sống, giải quyết việc làm cho nhân dân
Đối với mỗi quốc gia, việc phát triển nguồn nhân lực là nội dung lớn thuộc chiến
lược phát triển con người để thực hiện thắng lợi các chiến lược kinh tế – xã hội của đất
nước. Dân số nước ta với 80% dân số tập trung ở nông thôn, phần lớn sinh sống bằng
sản xuất lúa gạo và trồng cây lương thực. Trong khi đó, đời sống ở nông thôn và thành


18

thị có sự chênh lệch đáng kể. Đời sống của người nông dân còn thấp, xét cả về mức thu
nhập bình quân đầu người, điều kiện vật chất và cơ sở hạ tầng. Tác động của xuất
khẩu gạo đến đời sống nông dân được thể hiện trên nhiều phương diện. Một mặt sản
xuất gạo là nơi thu hút nhiều lao động và việc làm có thu nhập khá ổn định. Mặt khác
xuất khẩu gạo tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu sản phẩm tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày
càng đa dạng phong phú của nhân dân. Khi thực hiện xuất khẩu một lượng mặt hàng
gạo dư thừa trong thị trường nội địa sẽ được giải quyết lập lại cung cầu ở giá cao hơn.

Nông dân không những bán được hàng mà còn được giá. Từ những điều này mang lại
cho nông dân thu nhập cao hơn và đây chính là động lực thúc đẩy sản xuất trong nước
phát triển.
• Phát huy lợi thế trong nước
Sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam có những lợi thế cơ bản như lợi thế về
đất đai, khí hậu, nước tưới tiêu, nguồn nhân lực, vị trí địa lý và cảng khẩu. Một chiến
lược đúng đắn nhất phải là chiến lược khai thác triệt để nhất các lợi thế để sản xuất,
xuất khẩu gạo cũng như tính đúng đắn của định hướng xuất khẩu gạo.
Ngoài ra thông qua xuất khẩu gạo chúng ta phần nào hiểu rõ hơn về yêu cầu của thị
trường đối với mặt hàng gạo. Mối quan hệ giữa thị trường nước ngoài và sản xuất
trong nước được thực hiện qua xuất khẩu là cách tốt nhất để nâng cao trình độ và hiệu
quả của nền công nghiệp.
1.1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo
1.1.5.1 Chất lượng gạo
Gạo là mặt hàng xuất khẩu nông sản chủ lực của Việt Nam và được xếp vào
nhóm có khả năng cạnh tranh cao. Nhưng trên thị trường thế giới gạo Việt Nam lại
kém cạnh tranh đứng về khía cạnh phẩm chất theo yêu cầu của thị trường và giá cả.
Trong hơn một thập kỷ qua chất lượng gạo xuất khẩu của nước ta đã được cải thiện
tương đối ấn tượng. Nếu như vụ đông xuân năm 2006 – 2007 nông dân chỉ bán được
lúa với giá là 2.600 – 2800 đ/kg thì hiện nay bà con đã bán với giá 3.600 – 3800đ/kg và
cũng có xu hướng tăng cao trong thời gian tới. Tốc độ tăng của các loại sản phẩm gạo


19

5% tấm đã tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung và hiện nay
chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng sản lượng gạo xuất khẩu.
1.1.5.2 Yếu tố mùa vụ, thời tiết trong xuất khẩu
Do tính mùa vụ của sản xuất lúa, nên xuất khẩu gạo cũng mang đậm tính thời vụ.
Thời điểm thu hoạch lúa Đông Xuân và Hè Thu là thời gian xuất khẩu gạo chủ yếu của

Việt Nam. Đồng thời khoảng thời gian từ tháng 1 – 2 là thời điểm xuất khẩu gạo thấp
nhất của nước ta. Thời gian thực hiện hợp đồng xuất khẩu có thể bị kéo dài do bị thiên
tai như bão, động đất...
1.1.5.3 Giá cả trong nước và thế giới
Với nhiều lợi thế do thiên nhiên ban tặng nên chi phí sản xuất lúa ở Việt Nam
thấp hơn nhiều so với Thái Lan. Nhưng do chi phí dịch vụ xuất khẩu gạo của nước ta
cao, tổn thất sau thu hoạch lớn và thương hiệu gạo của nước ta cũng kém dẫn đến giá
thành xuất khẩu luôn thua thiệt so với Thái Lan.
Sức ép cạnh tranh từ các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan, Pakistan, Ấn Độ đã làm
cho giá gạo xuất khẩu Việt Nam thấp nhất thế giới. Cụ thể loại gạo trắng thông dụng
5% tấm của Việt Nam hiện chỉ chào bán ở mức 360-365 USD/tấn thấp hơn 3540USD/tấn so với gạo Thái Lan cùng loại (đang ở mức 395-405 USD/tấn). Giá gạo Ấn
Độ, Pakistan cũng đều cao hơn Việt Nam 10-20 USD/tấn. Ở dòng gạo cấp thấp 25%
tấm thì giá gạo Việt Nam cũng thấp nhất. Nguyên nhân chính là Thái Lan xả hàng tồn
kho. Họ đang tìm cách hạ giá thấp để cạnh tranh. Điều này khiến các nước Ấn Độ,
Pakistan cũng giảm theo và hậu quả là giá gạo Việt Nam bị đẩy xuống thấp nhất.
Nghịch lý đáng buồn là giá gạo thấp nhưng bán vẫn không ai mua. Tại thị trường lớn
châu Phi, với cước phí vận tải thấp hơn và nhiều yếu tố xúc tiến thị trường cạnh tranh
hơn, Thái Lan, Pakistan đang thay nhau độc chiếm thị trường này.
1.1.5.4 Bao gói, quy cách và mẫu mã sản phẩm
Bao bì xuất khẩu của nước ta chưa đảm bảo yêu cầu: chất lượng không đổng đều,
mật độ sợi thấp, độ bền sợi không cao, đóng miệng chưa chắc chắn, đường khâu 2 bên


20

lỏng nên khi vận chuyển rất dễ bị vỡ và khó bảo quản. Mẫu mã sản phẩm cũng chưa
đáp ứng được nhu cầu cơ bản của gạo xuất khẩu như: Độ ẩm, tỉ lệ tấm, tỉ lệ tạp chất, tỷ
lệ dài rộng, hạt gạo phải trog, dư lượng thuốc sâu…gạo Việt Nam chưa đáp ứng được
đủ các yêu cầu trên.
1.1.5.5 Tiếp cận thị trường

Đa số các quan hệ giao dịch buôn bán gạo thường được người mua nước ngoài
hoặc là trực tiếp hoặc là thông qua các cơ quan Chính phủ. Các doanh nghiệp xuất
khẩu Việt Nam chưa tự chủ động tìm kiếm thị trường, chưa có được các hợp đồng lớn
ổn định. Các hoạt động xúc tiến xuất khẩu gạo cũng chưa được quan tâm đầy đủ, chưa
tận dụng được các phương tiện thông tin, văn phòng đại diện hay tham tán thương mại,
người Việt Nam ở nước ngoài đề quảng bá hình ảnh gạo Việt Nam đến với người tiêu
dùng nước ngoài.
1.1.5.6 Thanh toán, vận chuyển
Vận chuyển gạo của nước ta chủ yếu là bằng đường biển, dịch vụ này ở Việt Nam
với phí còn cao, năng lực vận tải còn yếu. Nên đa số các doanh nghiệp xuất khẩu sử
dụng phương thức xuất khẩu FOB.
1.1.5.7 Chính sách của nhà
nước
Gạo là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nên Đảng và Nhà nước luôn coi
trong và thể hiện vai trò điều hành của mình trong các hoạt động kinh doanh lúa gạo.
Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 120 nước trên thế giới trong đó
có hơn 80 nước đã kí hiệp định thương mại với Việt Nam. Kể từ khi chuyển sang cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vai trò điều hành của Nhà nước trong việc
tổ chức các hoạt động kinh doanh lúa gạo không hề giảm đi mà có sự chuyển biến về
chất.
Năm 1998 trong quyết đinh 12/1998 QĐCP ngày 23/1/1998 Thủ tướng Chính
phủ giao cho Bộ Thương mại cho phép thí điểm một số doanh nghiệp quốc doanh chế


21

biến xay xát lúa gạo được phép xuất khẩu trực tiếp nếu có điều kiện. Cũng trong năm
này nghị định số 57/1998/NĐ – CP đã xoá bỏ hoàn toàn chế độ giấy phép kinh doanh
xuất nhập khẩu từ đó loại bỏ nhiều rào cản tạo môi trường pháp lý thông thoáng hơn,
bình đẳng hơn và tạo ra sự chuyển biến về chất cho cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, tôn

trọng quyển bình đẳng và tự chủ của doanh nghiệp. Từ đó giảm thiểu cơ chế xin cho,
hầu hết hàng hoá được làm thủ tục xuất nhập khẩu trực tiếp tại Hải quan và chỉ chịu sự
điều tiết của thuế, biện pháp phi thuế chỉ áp dụng với một số ít mặt hàng. Sau đó là một
bước tiến lớn trong việc tự do hoá thương mại và mở cửa thị trường. Hai nghị định này
đã tạo cho doanh nghiệp quyền chủ động cho các chủ thể tham gia vào xuất nhập khẩu,
đồng thời mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI góp
phần mở rộng và đẩy mạnh thi trường xuất khẩu gạo.
1.2 Tổng quan về thị trường gạo của châu Phi
1.2.1 Sản xuất lúa gạo
Thị trường gạo châu Phi luôn là một thị trường hấp dẫn vơi các nhà xuất khẩu gạo
hàng đầu thế giới như Thái Lan, Ấn Độ, Việt Nam. Theo trung tâm nghiên cứu lúa gạo
châu Phi thì ở châu Phi, diện tích sản xuất lúa gạo chiếm 10% diện tích canh tác các
loại ngũ cốc và gạo, chiếm 15% sản lượng lương thực của châu Phi. Khoảng 20 triệu
nông dân trồng lúa gạo và hơn 100 triệu người có thu nhập phụ thuộc vào hoạt động
sản xuất loại lương thực này.Châu Phi là lục địa duy nhất có hai loại gạo được trồng
đồng thời là loại gạo Oryza glaberrima(gạo châu Phi) và loại gạo Oryza sativa(gạo
châu Á). Loại gạo Oryza sativa có xuất xứ từ In-đô-nê-xi-a có ưu điểm cho năng suất
cao nhưng đến nay vẫn chưa có khả năng thích nghi hoàn toàn với điều kiện khí hậu ở
châu Phi. Còn loại gạo Oryza có khả năng chống chịu bệnh giỏi hơn nhưng không phổ
biến bằng loại gạo châu Á do năng suất thấp hơn nhiều. Ngoài ra, hiện nay ở một số
nước châu Phi như Ni-giê-ri-a, Xê-nê-gan... cũng có một số giống lúa của Việt Nam
được các chuyên gia của nước ta mang sang đây trồng như OM4900, OM5199,


22

OM3536... Những giống lúa trên đó thể hiện được tính thích nghi với điều kiện thổ
nhưỡng và thời tiết khắc nghiệt ở đây và cho năng suất khá cao từ 4 đến 4,3 tấn/ha.
Các quy định trong chính sách nhập khẩu của châu Phi như quy tắc xuất xứ, thuế nhập
khẩu, quy định về nhập khẩu hàng biến đổi gen, tiêu chuẩn thực phẩm, tiêu chuẩn an

toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường cũng được các nước châu Phi
chú trọng nhưng tất nhiên không nghiêm ngặt như các nước ở các châu lục khác, đặc
biệt là đối với mặt hàng lúa gạo.
Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng mà
các nước châu Phi đang cần, đặc biệt là mặt hàng gạo. Nhu cầu tiêu dùng gạo và nhập
khẩu gạo của châu Phi đều tăng lên theo các năm. Mặc dù mức tiêu thụ lớn nhưng sản
xuất luôn không đáp ứng được nhu cầu đối với mặt hàng gạo.
Những nước nhập khẩu gạo lớn nhất châu Phi là Ni-giê-ri-a, Xê-nê-gan, Bờ Biển Ngà,
NamPhi, Gha-na,... Đây chủ yếu là những nước có dân số đông, lượng tiêu thụ gạo lớn.
1.2.2 Thị trường châu Phi là một thị trường tiềm năng
Với thị trường hơn 1 tỉ dân cùng với nhu cầu về các mặt hàng nông sản thực
phẩm một trong những thế mạnh của Việt Nam, châu Phi đang được xem là thị trường
đầy tiềm năng để các doanh nghiệp Việt Nam hướng đến. Đánh giá về tiềm năng
thương mại trao đổi kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam và các nước châu Phi đã tăng
hơn 4,7 lần, từ 353 triệu USD năm 2007 lên 1190 triệu USD năm 2014, cơ cấu các mặt
hàng trao đổi ngày càng đa dạng, phong phú.Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam
sang thị trường châu Phi gồm gạo, điện thoại di động, sản phẩm dệt may, cà phê, hạt
điều, rau quả, thủy hải sản,…
Năm 2013, gạo của Việt Nam đã có mặt tại 35/55 nước châu Phi và được người
dân châu Phi tin dùng.Các doanh nghiệp cũng cần phải tăng cường sự quan tâm và ý
thức mở rộng thị trường sang các thị trường mới và tiềm năng như châu Phi. Theo đó,
tìm hiểu, nghiên cứu kỹ phong tục, tập quán, nét văn hóa để có chiến lược phù hợp
trong việc lực chọn lĩnh vực đầu tư, mặt hàng xuất khẩu. Nên tập trung vào những mặt


23

hàng trọng điểm như gạo, cà phê, nông thủy sản... từ đó xây dựng thương hiệu để tăng
năng lực cạnh tranh.
Với tình hình tăng trưởng kinh tế như trên của các nước châu Phi, các nước này

có nhu cầu rất lớn về các chủng loại hàng hoá, đặc biệt là hàng nông sản, hàng tiêu
dùng,…và lại không quá khắc khe chất lượng sản phẩm và mẫu mã. Trong khi đó các
nước này lại chỉ cung ứng được một phần nhu cầu mà thôi số lượng còn lại là phải
nhập khẩu. Mà đối với Việt Nam thì các loại mặt hàng này lại là thế mạnh của nước ta.
Do vậy, nước ta cần có các chiến lược cũng như những biện pháp để thúc đẩy xuất
khẩu hàng hoá vào thị trường mới này. Với những đặc điểm như trên Nhà nước đã coi
châu Phi là thị trường tiềm năng lớn của nước ta.


24

Năm
Châu Phi
Thế giới
2

2010
1790,9
3249,5

2011
3486,3
3659,2

2012
2446
3677,9

2013
2848,9

2926,3

2014
3060
1823,1

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM SANG
THỊ TRƯỜNG CHÂU PHI

2.1 Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường châu Phi
2.1.1 Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang châu Phi trong thời
gian qua
Ở châu Phi lúa chiếm hơn 10% diện tích đất canh tác và đóng góp gần 15% sản
lượng lương thực. Tuy nhiên, với dân số hơn 1 tỷ người sản xuất không đáp ứng được
nhu cầu nên từ năm 2009 đến nay, châu Phi phải nhập khẩu từ 8 đến 10 triệu tấn gạo,
trị giá từ 3,5 đến 5 tỷ USD trong đó chủ yếu là loại gạo 25% tấm. Đây là mặt hàng có
giá trị thấp nên mặc dù lượng gạo nhập khẩu lớn nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong
cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu gạo không cao, chỉ ở
mức 2-3%/năm do phụ thuộc vào tình hình sản xuất lúa trong nước. Mặt khác, giá gạo
không quá cao so với thu nhập của đại bộ phận người dân châu Phi và sự tiện dụng
trong chế biến nên nhu cầu tiêu thụ gạo ở châu Phi ngày càng nhiều.
Hình 2.1: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam sang châu Phi 2010-2014.
Đơn vị: Sản lượng (triệu tấn); kim ngạch (triệu USD)
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam

Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang châu Phi và kim ngạch của gạo
Việt Nam ra thế giới từ năm 2010 – 2014
Đơn vị: triệu USD
Nguồn:Tính toán của ITC dựa trên thống kê COMTRADE LHQ và Hải quan Việt Nam.


Theo Tổ chức Nông lương Liên Hiệp quốc (FAO), giai đoạn 2011-2013, mức tiêu
thụ gạo của châu Phi ước khoảng từ 24-24,5 triệu tấn/năm trong đó khoảng 10 triệu tấn
phải nhập khẩu. Năm 2011, Việt Nam xuất khẩu ra thế giới 7,35 triệu tấn gạo mang về
khoảng 3,5 tỉ USD trong đó xuất khẩu gạo sang châu Phi đạt kim ngạch 738,6 triệu


25

USD chiếm 21,2% tổng giá trị xuất khẩu các loại hàng hóa của Việt Nam sang châu
Phi và bằng 20,2% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam ra thế giới. Cụ thể,
Việt Nam đã xuất khẩu gạo sang 32 nước châu Phi, giảm 1 thị trường so với năm 2010
nhưng kim ngạch lại đạt 738,6 triệu USD, tăng 31,2%. Có 25 thị trường kim ngạch
xuất khẩu đạt từ 1,5 triệu USD trở lên trong đó lớn nhất là Xênêgan, Bờ Biển Ngà,
Gana, Camơrun,…Tuy nhiên, tại khu vực thị trường này, gạo Việt Nam cũng gặp phải
không ít những khó khăn.
Năm 2012, Việt Nam đã xuất khẩu mặt hàng gạo sang 30 trên tổng số 55 nước
châu Phi với tổng kim ngạch đạt 760,2 triệu USD, tăng gần 3% so với năm 2011. Gạo
tiếp tục là mặt hàng xuất khẩu số 1 của nước ta tại khu vực này, chiếm 31,1% tổng giá
trị xuất khẩu của Việt Nam sang châu Phi và chiếm 20,7% tổng kim ngạch xuất khẩu
gạo của Việt Nam ra thế giới.
Đến năm 2013, Việt Nam vẫn tiếp tục xuất khẩu mặt hàng gạo sang 35 trên tổng
số 55 nước châu Phi (tăng 5 thị trường so với năm 2012) với kim ngạch đạt 767,8 triệu
USD, tăng 2% so với năm 2012. Những thị trường nhập khẩu gạo nhiều nhất của Việt
Nam ở châu Phi gồm có Bờ Biển Ngà (228,45 triệu USD), Gana (182,8 triệu USD),
Ca-mơ-run (60,86 triệu USD), Ăng-gô-la (48,72 triệu USD), An-giê-ri (39,93 triệu
USD), Mô-dăm-bích (29,78 triệu USD), Ma-đa-gát-xca (27,18 triệu USD)...Chiếm
khoảng 27% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang châu Phi và chiếm 26,2%
tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam ra thế giới.
Ngoại trừ hai nước nhập khẩu nhiều gạo đồ chất lượng cao là Nam Phi và
Nigeria, các nước khác trong khu vực chủ yếu nhập khẩu loại gạo tấm có phẩm chất và

giá thành vừa phải. Riêng thị trường Nigeria đã chiếm 30% tổng lượng gạo nhập khẩu
vào châu Phi, tiếp đến là Nam Phi (5%), Bờ Biển Ngà, Senegal (5%), Gana (4%),…
Riêng năm 2014, tổng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo Việt Nam sang châu Phi
đều giảm mạnh. Cụ thể giảm gần 1 triệu tấn về sản lượng và hơn 56% kim ngạch xuất
khẩu so với năm 2013. Nguyên nhân là do xuất khẩu gạo của Việt Nam sang châu Phi
gặp một số trở ngại, bên cạnh tình hình bất ổn ở một số khu vực, dịch Ebola tại một số


×