Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA TECHCOMBANK TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 93 trang )

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG
LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về cạnh tranh của NHTM.
1.1.1.NHTM và các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.1.1.

Khái niệm NHTM.

Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng
nhất của nền kinh tế, có mối liên hệ mật thiết với tất cả các ngành,
các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Ngân hàng tài trợ cho Chính
phủ để đầu tư phát triển và thực hiện các chính sách kinh tế mà
chủ yếu là chính sách tiền tệ nhằm điều tiết nền kinh tế phát triển
một cách ổn định. Như vậy có thể thấy rằng hoạt động của ngân
hàng có ảnh hưởng đáng kể tới sự phát triển của toàn bộ nền kinh
tế.
Có nhiều cách để định nghĩa về ngân hàng thương mại, có
thể định nghĩa về ngân hàng thương mại trên phương diện những
loại hình dịch vụ cung cấp: “Ngân hàng thương mại là các tổ chức
tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng
nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế”.
1.1.1.2.

Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương

mại.

1



Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc
biệt với nhiều hoạt động đa dạng, có thể tổng hợp những hoạt
động đó theo 3 nhóm hoạt động cơ bản, đó là: hoạt động huy
động vốn, hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động cung cấp dịch
vụ tài chính.
a.

Hoạt động huy động vốn:

* Nguồn vốn tiền gửi không kì hạn: đây là nguồn vốn hình
thành dựa trên nhu cầu giao dịch, khi khách hàng muốn sử dụng
các dịch vụ tài chính của ngân hàng. Nguồn vốn này có quy mô
rất lớn, luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong số nguồn vốn, sự vận
động lại phức tạp nên việc sử dụng rất mạo hiểm, cần phải thận
trọng mới có phương pháp sử dụng hiệu quả.
* Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội:
nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
sẽ được chi trả sau một thời gian xác định sẽ được gửi vào ngân
hàng sau một thời gian nhất định để hưởng lãi suất tương ứng với
kì hạn đó (luôn cao hơn đối với lãi suất tiền gửi thanh toán).
* Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: đây là các khoản tiền tạm
thời nhàn rỗi trong dân cư được gưỉ vào ngân hàng nhằm mục
đích sinh lời và an toàn.
* Nguồn vốn chủ sở hữu: để bắt đầu hoạt động ngân hàng,
chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định và còn được bổ
sung trong quá trình hoạt động. Đây là loại vốn ngân hàng có thể

2



sử dụng lâu dài, hình thnàh nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân
hàng.
* Các nguồn vốn khác: đây thường là các nguồn không phải
trả lãi, tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể, ví
dụ như nguồn uỷ thác, vốn vay của NHNN, vốn huy động từ phát
hành trái phiếu….Các nguồn vốn này cũng đóng vai trò quan
trọng trong nguồn huy động vốn của NHTM.
b. Hoạt động sử dụng vốn.
* Các hoạt động về ngân quỹ.
Dự trữ bắt buộc: đây là khoản dự trữ mà ngân hàng Nhà
nước yêu cầu các ngân hàng thương mại nộp vào tài khoản tại
ngân hàng Nhà nước nhằm mục đích: hỗ trợ, bảo đảm an toàn cho
hoạt động của ngân hàng thương mại, vận hành chính sách tiền tệ
quốc gia, quản lý hoạt động ngân hàng thương mại.
Dự trữ vượt quá: là các khoản dự trữ tồn tại dưới dạng tiền
mặt tại quỹ, các khoản tiền gửi tại ngân hàng khác, tiền mặt trong
quá trình thu.
Nhìn chung, ngân quỹ của ngân hàng thương mại là tài sản
không sinh lời (hoặc sinh lời thấp trong trường hợp tiền gửi tại
ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng khác được hưởng lãi) song
lại là tài khoản có tính thanh khoản cao nhất, đáp ứng nhu cầu chi
trả thường xuyên. Do vậy, mỗi ngân hàng đều cố gắng giữ ngân
quỹ ở mức thấp nhất có thể được.

3


* Cho vay: là việc ngân hàng nhường quyền sử dụng vốn
cho người khác trong một thời gian, sau đó được quyền thu cả gốc

lẫn lãi. Cho vay là khoản mục có tỷ lệ cao nhất trong các loại tài
sản của ngân hàng. Có rất nhiều loại hình cho vay khác nhau đáp
ứng nhu cầu của dân cư hay các doanh nghiệp.
* Các hoạt động đầu tư: Ngân hàngnhường quyền sở hữu
cho người khác dưới hình thức hùn vốn, thu nhập căn cứ vào tỷ
suất lợi nhuận, tỷ lệ vốn góp. Có nhiều hình thức đầu tư: đầu tư
vào chứng khoán, đầu tư vào các dự án, đầu tư dưới dạng liên
doanh với nhau để hình thành các ngân hàng liên doanh.
* Cho vay đồng tài trợ: Là hình thức tín dụng mà NHTM
tham gia tài trợ cho doanh nghiệp thông qua một NHTM đầu mối.
Phương thức cho vay này thường thấy trong các dự án lớn mà
ngân hàng tiếp cận đầu tiên không đủ vốn để tài trợ hoặc số tiền
vay vượt quá số tiền cho vay mà một NHTM có thể được phép
cấp cho một khách hàng hoặc trong trường hợp các NHTM muốn
phân tán rủi ro.
* Các hoạt động sử dụng vốn khác: quảng cáo, quảng bá, tài
trợ cho sự phát triển nguồn nhân lực, các chương trình phát triển.
c. Cung cấp dịch vụ tài chính trung gian.
* Chuyển tiền: Ngân hàng làm theo lệnh của khách hàng
chuyển trả tiền cho một người nào đó.
* Thanh toán không dùng tiền mặt: khi khách hàng gửi tiền
vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện

4


các lệnh chi trả cho khách hàng. Người gửi tiền không cần phải
đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách,
khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các hình
thức thanh toán ngày càng đa dạng: thanh toán bù trừ, sec, L/C,

uỷ nhiệm chi , uỷ nhiệm thu, hối phiếu, thanh toán bằng thẻ….
* Cung cấp các dịch vụ tài chính:
Dịch vụ uỷ thác và tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực tài
chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính.
Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp nhờ ngân hàng quản lý tài
sản và quản lý tài chính hộ. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng
như một chuyên gia tư vấn tài chính.
Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Ngân hàng cung cấp
cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng
khoán khác. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra
công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung
cấp dịch vụ môi giới.
Bảo lãnh: do khả năng thanh toán của ngân hàng cho 1
khách hàng là rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách
hàng nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng.
Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu
hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ
chức tín dụng khác….

5


Dịch vụ ngân hàng điện tử: NHTM cung cấp các giải pháp
về quản lý tài khoản, thanh toán thông qua mạng internet hoặc
mạng TT trực tuyến cho khách hàng.
1.1.2.Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của các
NHTM.
1.1.2.1.

Đặc điểm cạnh tranh giữa các NHTM.


Môi trường hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương
mại (NHTM) có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Do xuất phát từ
những đặc thù của hoạt động kinh doanh ngân hàng và những ảnh
hưởng của hoạt động ngân hàng đối với nền kinh tế, cạnh tranh
của NHTM có những đặc trưng riêng. Đó là:
Các NHTM vừa cạnh tranh gay gắt vừa hợp tác với nhau:
Cũng như bất một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, trong
hoạt động của mình, các ngân hàng luôn phải cạnh tranh gay gắt
với nhau để mở rộng thị trường và thu hút khách hàng nhằm mục
tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Tính chất gay gắt trong cạnh tranh ngân
hàng xuất phát từ đặc thù của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng là có
tính tương đồng cao và dễ bị bắt chước. Mặt khác, trong cạnh
tranh, các ngân hàng không chỉ sử dụng các công cụ mang tính
truyền thống như phí, lãi suất, các dịch vụ ngân hàng….mà còn sử
dụng công nghệ hiện đại để đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ,
đưa ra các kênh phân phối mới và nâng cao chất lượng các sản
phẩm, dịch vụ, tinh thần, thái độ phục vụ khách hàng….Bên cạnh
đó, do điều kiện về vốn, mạng lưới, công nghệ có hạn trong khi

6


nhu cầu, đòi hỏi về snả phẩm, dịch vụ ngân hàng ngày càng cao,
lại các ngân hàng cũng phải liên kết với nhau để cùng cung cấp
một hay một số sản phẩm, dịch vụ nhất định cho khách hàng. Vì
vậy, để tránh đổ vì toàn hệ thống cũng như tiết kiệm chi phí, đảm
bảo an toàn trong kinh doanh, các NHTM một mặt cạnh tranh với
nhau, một mặt, lại hợp tác chặt chẽ với nhau trong cung cấp các
sản phẩm dịch vụ cho khách hàng.

Cạnh tranh ngân hàng luôn phải hướng tới một thị trường
lành mạnh, tránh khả năng xảy ra rủi ro hệ thống: Các NHTM
phải cạnh tranh lành mạnh thông qua cung cấp các sản phẩm, dịch
vụ ngân hàng có chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
của khách hàng. Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, đi
vay để cho vay lại nếu các ngân hàng cạnh tranh không lành
mạnh, hoặc cạnh tranh thông qua việc tăng lãi suất huy động tiền
gửi, giảm lãi suất cho vay, phí dịch vụ, nới láng các điều kiện tín
dụng….sẽ làm cho nguồn thu của các ngân hàng giảm sút, nguy
cơ tiềm ẩn rủi ro tín dụng tăng cao dẫn đến rủi ro hệ thống. Vì
vậy, mặc dự cạnh tranh với nhau trong hoạt động, các NHTM vẫn
liên kết với nhau, có thể thoả thuận để giữ mặt bằng giá cả phù
hợp, đảm bảo lợi ích chung.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng có tính lây lan rất lớn.
Nếu một ngân hàng có nguy cơ phá sản, khách hàng đồng loạt
đến rút tiền, gây tâm lý hoang mang cho khách hàng gửi tiền tại
các NHTM khác. Điều này dễ dẫn đến khả năng đổ vì mang tính

7


hệ thống mà tất cả các NHTM đều bị ảnh hưởng và tác động đến
toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Cạnh tranh ngân hàng luôn phụ thuộc vào các yếu tố bên
ngoài như môi trường kinh doanh, doanh nghiệp, dân cư….cũng
như bất kỳ doanh nghiệp nào, ngân hàng hoạt động và cạnh tranh
với nhau trong những môi trường và điều kiện kinh tế nhất định.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng chịu sự chi phối của luật pháp,
các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu
của những đối tượng khách hàng cụ thể.

- Khách hàng của ngân hàng là các đơn vị, cá nhân thuộc
mọi thành phần của nền kinh tế. Do vậy, hoạt động kinh doanh
ngân hàng cũng như sự cạnh tranh giữa các ngân hàng luôn chịu
sự tác động của môi trường bên ngoài ngân hàng. Với mỗi môi
trường kinh doanh nhất định , điều kiện kinh tế nhất định, khu
vực địa lý nhất định, ngân hàng cần có những chính sách phù hợp
để đưa ra các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng,
thu hút khách hàng, giành ưu thế trong cạnh tranh.
- Cùng với quá trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế, sự giao
thoa về kinh tế giữa các quốc gia ngày càng mạnh mẽ. Các ngân
hàng tăng cường hợp tác với các ngân hàng nước ngoài cũng như
mở rộng hoạt động kinh doanh của mình ra thị trường các nước
trên thế giới. Lộ trình hội nhập đòi hỏi các NHTM trong nước
phải tuân thủ các quy định quốc tế về hoạt động ngân hàng và sự
tác động của phía đối tác. Mỗi sự thay đổi của tỷ giá, lãi suâấtcủa

8


các loại ngoại tệ liên quan, điều kiện kinh tế trên thế giới, chính
sách tiền tệ của các nước….đều ảnh hưởng và tác động đến hoạt
động kinh doanh của các NHTM trong nước. Do vậy, trong cạnh
tranh, các ngân hàng cũng phải có những chính sách thích hợp để
đối phó với những biến động của thị trường tài chính quốc tế.
1.1.2.2. Nội dung cạnh tranh giữa các NHTM.
Ngân hàng thương mại thực chất là một doanh nghiệp, cạnh
tranh giữa các ngân hàng thương mại là một tất yếu. Nội dung
cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại thể hiện ở những khía
cạnh như sau:
Gia tăng các sản phẩm dịch vụ mới tiện ích: Các sản phẩm

dịch vụ, nhất là dịch vụ ngân hàng bán lẻ, ngày càng đa dạng và
phong phú hơn. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày một quyết
liệt hơn đóng vai trò tích cực hơn trong nền kinh tế.
Cạnh tranh mạnh mẽ và sôi động nhất là phát triển thị
trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ hiện đại trong dân cư và cung
cấp cho các doanh nghiệp. Các NHTM đầu tư cho hiện đại hoá
công nghệ, đẩy mạnh tiếp thị, khuyến mại, cạnh tranh mở rộng
phạm vi phát hành và thanh toán các loại thẻ, bao gồm cả các loại
thẻ tín dụng quốc tế, thẻ tín dụng nội địa, thẻ rút tiền mặt, nhất là
những người có thu nhập khá , doanh nghiệp có đông người lao
động, giới trẻ. Cùng với xu hướng đa dạng dịch vụ mới, các
NHTM cạnh tranh mở ra dịch vụ bảo hiểm rủi ro tỷ giá, lãi suất,
giá hàng xuất khẩu bảo hiểm nhân thọ cho khách hàng.

9


Cải tiến hiện đại hoá công nghệ ngân hàng: thị trường công
nghệ ngân hàng đang hứa hẹn rộng mở và phát triển mạnh trong
thời gian tới khi các ngân hàng trong nước đẩy mạnh phát triển
các dịch vụ trên nền tảng đổi mới công nghệ, nhằm tăng cường
cạnh tranh, chuẩn bị cho hội nhập. Các NHTM đã không ngần
ngại bỏ ra hàng triệu đôla mua phần mềm của nước ngoài với các
công nghệ mới để tăng sức cạnh tranh. Với thế mạnh vượt trội của
các loại công nghệ sẽ tăng khả năng cung cấp các dịch vụ tiện ích
cho người dân.
Nâng cao năng lực tài chính; Năng lực tài chính của NHTM
được thể hiện rõ và quan trọng nhất ở quy mô vốn chủ sở hữu hay
còn được gọi là vốn tự có. Vốn tự có là yếu tố quyết định sức
mạnh tài chính của một NHMT, là “tấm nệm chống đỡ rủi ro”.

Các ngân hàng thương mại đang chạy đua và tìm mọi cách để
tăng vốn tự có nhằm phát triển các nguồn vốn huy động khác và
bảo vệ các ngân hàng thương mại trước những rủi ro, các chủ nợ
(người gửi tiền).
1.2.2.3. Lợi ích của cạnh tranh giữa các NHTM.
Cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại sẽ làm thu hẹp
chênh lệch lãi suất cho huy động và cho vay; đa dạng hoá dịch vụ;
tạo sức ép áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại….từ đó tạo ra
các sản phẩm dịch vụ tiện ích với các chi phí đáp ứng với đòi hỏi
của người tiêu dùng. Cạnh tranh giữa các NHTM mang lại lợi ích
cho:

10


Khách hàng: Khách hàng là người hưởng lợi đầu tiên từ việc
cạnh tranh giữa các NHTM. Cạnh tranh giữa các NHTM mang lại
cho khách hàng chất lượng dịch vụ ngày càng tốt với chi phí dịch
vụ hợp lý hơn.
Các NHTM: cạnh tranh làm cho các NHTM sẽ phải liên tục
cải tiến chất lượng dịch vụ và quản lý chặt chẽ các chi phí đầu
vào để tạo ra lợi nhuận tái đầu tư, phát triển bền vững.
Kinh tế - xã hội: cạnh tranh giữa các NHTM sẽ tạo ra giá trị
gia tăng cho nền kinh tế và xã hội.
1.2. Năng lực cạnh tranh của NHTM.
1.2.1.Quan niệm về năng lực cạnh tranh:
Theo Michael Porter, “Để có thể cạnh tranh thành công, các
doanh nghiệp phải có được lợi thế cạnh tranh dưới hình thức hoặc
là có được chi phí sản xuất thấp hơn, hoặc là có khả năng khác
biệt hoá sản phẩm để đạt được những mức giá cao hơn trung bình.

Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần ngày càng đạt
được những lợi thế cạnh tranh tinh vi hơn, qua đó có thể cung cấp
những hàng hoá hay dịch vụ có chất lượng cao hơn hoặc sản xuất
có hiệu suất cao hơn”.
Ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp và là
doanh nghiệp đặc biệt vì kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Cạnh
tranh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là cạnh tranh trong
nội bộ ngành. Từ những quan điểm trên, áp dụng đối với các ngân
hàng thương mại thì các nhà nghiên cứu cho rằng: “Năng lực

11


cạnh tranh của một ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra,
duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị
phần, đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành
và liên tục tăng đồng thời đảm bảo sự hoạt động an toàn và lành
mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi
của môi trường kinh doanh”.
1.2.2.Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của
NHTM.
1.2.2.1.

a.

Các chỉ tiêu định tính:

Uy tín và thương hiệu của NHTM.

Uy tín và thương hiệu của ngân hàng là những dấu hiệu

(hữu hình và vô hình) đặc biệt để nhận biết một sản phẩm dịch vụ
nào đó được cung cấp bởi một NHTM. Thương hiệu là một loại
tài sản của NHTM, thường được cấu thành từ một cái tên, hay các
chữ, các cụm từ, một logo, một biểu tượng, một hình ảnh hay sự
kết hợp của các yếu tố trên. Uy tín và thương hiệu được thể hiện
số năm hoạt động và chất lượng dịch vụ mà một NHTM cung cấp
cho khách hàng. Một ngân hàng thương mại được gọi là có
thương hiệu khi được nhiều khách hàng thừa nhận và đánh giá
cao về chất lượng dịch vụ.
b.

Năng lực công nghệ:

Trong lĩnh vực ngân hàng, công nghệ đang ngày càng đóng
vai trò như là một trong những nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh
quan trọng nhất của mỗi ngân hàng. Công nghệ ngân hàng không

12


chỉ bao gồm những công nghệ mang tính tác nghiệp như hệ thống
thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền tự
động ATM….công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng còn bao gồm
hệ thống thông tin quản lý MIS, hệ thống báo cáo rủi ro…trong
nội bộ ngân hàng. Khả năng nâng cấp và đổi mới công nghệ của
các ngân hàng thương mại cũng là chỉ tiêu phản ánh năng lực
công nghệ của một ngân hàng. Vì với tốc độ phát triển rất nhanh
của ngành công nghệ thông tin nói chung và công nghệ lĩnh vực
ngân hàng nói riêng, nếu chỉ tập trung phân tích vào khả năng
công nghệ hiện đại mà không chú ý tới khả năng nâng cấp và thay

đổi trong tương lai thì sẽ rất dễ có những nhận thức sai lầm về
năng lực công nghệ của cá ngân hàng. Vì thế, năng lực công nghệ
không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng công nghệ hiện tại mà
còn bao gồm cả khả năng mở (nghĩa là khả năng đổi mới) của các
công nghệ hiện tại về mặt kỹ thuật cũng như kinh tế.
c.

Nguồn nhân lực:

Nguồn nhân lực là nguồn lực không thể thiếu của bất kỳ
doanh nghiệp cũng như ngân hàng nào. Năng lực cạnh tranh của
nguồn nhân lực của một doanh nghiệp nói chung thể hiện ở những
yếu tố như: trình độ đào tạo, trình độ thành thạo nghiệp vụ, động
cơ phấn đấu, mức độ cam kết gắn bó với doanh nghiệp. Nhân sự
của một ngân hàng là yếu tố mang tính kết nối các nguồn lực của
ngân hàng, đồng thời cũng là cái gốc của mọi cải tiến hay đổi
mới. Trình độ, hay kỹ năng của người lao động là những chỉ tiêu

13


quan trọng thể hiện chất lượng của nguồn nhân lực. Động cơ phấn
đấu và mức độ cam kết gắn bó cũng là những chỉ tiêu quan trọng
phản ánh một ngân hàng có lợi thế cạnh tranh từ nguồn nhân lực
của mình hay không.
Ngân hàng là một ngành đòi hỏi người lao động phải có
kinh nghiệm và trình độ cao được tích luỹ theo thời gian. Rõ ràng,
nếu một ngân hàng có tốc độ lưu chuyển nhân viên cao sẽ không
phải là một ngân hàng có lợi thế về nguồn nhân lực. Quá trình
tuỷen dụng và đào tạo một chuyên viên ngân hàng thường rất tốn

kém cả về thời gian và công sức. Hiệu quả của các chính sách
nhân sự, đặc biệt là chính sách tuyển dụng, cơ chế thù lao là một
chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng duy trì một đội ngũ nhân
sự chất lượng cao của một ngân hàng.
d.

Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức.

Năng lực quản lý phản ánh năng lực điều hành của Hội đồng
quản trị cũng như Ban giám đốc của một ngân hàng. Năng lực
quản lý thể hiện ở mức độ chi phối và khả năng giám sát của Hội
đồng quản trị đối với Ban giám đốc cũng như Hội đồng quản trị
đối với việc duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân
hàng; chính sách tiền lương và thu nhập đối với ban giám đốc; số
lượng, chất lượng và hiệu lực thực hiện của các chiến lược, chính
sách và quy trình kinh doanh cũng như quy trình quản lý rủi ro,
kiểm toán kiểm soát nội bộ. Năng lực quản lý quyết định hiệu quả
sử dụng các nguồn lực của ngân hàng. Một Hội đồng quản trị hay

14


một ban giám đốc yếu kém, không có khả năng đưa ra những
chính sách , chiến lược hợp lý, thích ứng với những thay đổi của
thị trường….sẽ làm lãng phí các nguồn lực và làm yếu đi năng lực
cạnh tranh của ngân hàng. Một hội đồng quản trị hay một ban
giám đốc yếu kém, không có khả năng đưa ra những chính sách,
chiến lược hợp lý, thích ứng với những thay đổi của thị
trường….sẽ làm lãng phí các nguồn lực và làm yếu đi năng lực
cạnh tranh của ngân hàng đó.

Năng lực quản lý của Hội đồng quản trị cũng như Ban giám
đốc bị chi phối bởi cơ cấu tổ chức của ngân hàng thương mại. Cơ
cấu tổ chức là một chi tiêu quan trọng phản ánh cơ chế phân bổ
các nguồn lực của một ngân hàng có phù hợp với quy mô trình độ
quản lý của ngân hàng; phù hợp với đặc trưng cạnh tranh của
ngành và yêu cầu của thị trường hay không. Cơ cấu tổ chức của
một ngân hàng thể hiện ở sự phân chia các phòng ban chức năng,
các bộ phận tác nghiệp, các đơn vị trực thuộc…Hiệu quả của cơ
chế quản lý không chỉ phản ánh ở số lượng các phòng ban, sự
phân công, phân cấp giữa các phòng ban mà còn phụ thuộc vào
mức độ phối hợp giữa các phòng ban, các đơn vị trong việc triển
khai chiến lược kinh doanh, các hoạt động nghiệp vụ hàng ngày,
khả năng thích nghi và thay đổi của cơ cấu trước những biến động
của ngành hay những biến động trong môi trường vĩ mô….
e.

Hệ thống kênh phân phối và mức độ đa dạng hoá các

dịch vụ cung cấp.

15


Hệ thống kênh phân phối luôn là một yếu tố quan trọng
trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Hệ thống kênh
phân phối của ngân hàng thương mại được thể hiện ở số lượng
các chi nhánh và các đơn vị trực thuộc khác (như sở giao dịch) và
sự phân bổ các chi nhánh theo địa lý lãnh thổ. Việc triển khai các
công nghệ ngân hàng hiện đại đang làm rút ngắn khoảng cách về
không gian và làm giảm tác động của một mạng lưới chi nhánh

rộng khắp đối với năng lực cạnh tranh của một ngân hàng. Tuy
nhiên, vai trò của một mạng lưới chi nhánh rộng lớn vẫn rất có ý
nghĩa, đặc biệt là trong điều kiện các dịch vụ truyền thống của
ngân hàng vẫn còn phát triển. Hiệu quả của mạng lưới chi nhánh
rộng cũng là một chỉ tiêu quan trọng, thể hiện thông qua tính hợp
lý trong phân bổ chi nhánh ở các vùng, miền cũng như vấn đề
quản lý, giám sát hoạt động của các chi nhánh.
Mức độ đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp cũng là một chỉ
tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của một ngân hàng. Một ngân
hàng có nhiều loại hình dịch vụ cung cấp phù hợp với nhu cầu thị
trường và năng lực quản lý của ngân hàng sẽ là một ngân hàng có
lợi thế cạnh tranh. Sự đa dạng hoá các dịch vụ một mặt tạo cho
ngân hàng phát triển ổn định hơn, mặt khác cho phép ngân hàng
phát huy lợi thế nhờ quy mô. Tất nhiên, sự đa dạng hoá các dịch
vụ cần phải được thực hiện trong tương quan so với các nguồn lực
hiện có của ngân hàng. Nếu không, việc triển khai quá nhiều dịch

16


vụ có thể khiến ngân hàng kinh doanh không hiệu quả do dàn trải
quá mức các nguồn lực.
1.2.2.2.

Các chỉ tiêu định lượng.

Đánh giá năng lực cạnh tranh của một ngân hàng thương
mại, vấn đề đầu tiên thường được quan tâm là tiềm lực tài chính
của ngân hàng đó. Tiềm lực tài chính được thể hiện qua nhiều chỉ
tiêu khác nhau, ở đây chỉ đưa ra một số chỉ tiêu cơ bản nhất, đó

là: quy mô, nguồn vốn, mức độ an toàn vốn và khả năng huy động
vón, chất lượng tài sản, mức sinh lợi….
a.

Quy mô nguồn vốn:

Quy mô nguồn vốn của một ngân hàng thương mại thể hiện
trước hết ở quy mô chủ sở hữu, quy mô vốn chủ sở hữu như là
tấm đệm đảm bảo cho mỗi ngân hàng có khả năng chống đỡ trước
những rủi ro trong hoạt động ngân hàng cũng như những rủi ro
của môi trường kinh doanh. Vốn chủ sở hữu của các ngân hàng
càng lớn thì ngân hàng có khả năng chống đỡ cao hơn đối với
những “cú sốc” của môi trường kinh doanh. Điều này ngày càng
trở nên quan trọng trong điều kiện môi trường kinh doanh có
những biến động khôn lường, khi sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế ngày càng gia tăng trong điều kiện hội nhập như hiện
nay, những rủi ro bất ngờ luôn tiềm ẩn. Vốn chủ sở hữu còn ảnh
hưởng tới khả năng đầu tư vào công nghệ ngân hàng vì ngân hàng
chỉ có thể sử dụng vốn chủ sở hữu đầu tư vào công nghệ. Vì vậy,
quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ sẽ là một bất lợi. Đây là một trong

17


những nguồn lực quan trọng nhất quyết định khả năng cạnh tranh
của ngân hàng.
Theo quy định của Basel, một tổ chức tài chính được gọi là
đủ vốn khi hệ số đủ vốn (Capital Adequacy Ratio – CAR) đạt tối
thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro.
CAR =

b.

Chất lượng tài sản có và mức sinh lời.

Chất lượng tài sản: phản ánh “sức khoẻ” của một ngân hàng.
Chất lượng tài sản được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như: tỷ lệ
nợ xấu trên tổng tài sản, mức độ lập dự phòng và khả năng thu hồi
các khoản nợ xấu, mức độ tập trung và đa dạng hoá của danh mục
tín dụng, rủi ro tín dụng tiềm ẩn.
Mức sinh lợi: là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của
ngân hàng, đồng thời cũng phản ánh một phần kết quả cạnh tranh
của ngân hàng. Chỉ tiêu mức sinh lợi có thể được phân tích thông
qua những chỉ tiêu cụ thể như: giá trị tuyệt đối của lợi nhuận sau
thuế, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, cơ cấu của lợi nhuận (cho biết
lợi nhuận được hình thành từ nguồn nào, từ hoạt động kinh doanh
thông thường hay từ các khoản thu nhập bất thường), tỷ suất lợi
nhuận trên tổng tài sản có (ROA), tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ
sở hữu (ROE), các chỉ tiêu về mức sinh lợi trong mối tương quan
với chi phí. Trong số các chỉ tiêu này, hai chỉ tiêu thường được

18


quan tâm để đo lường kết quả hoạt động kinh doanh của ngân
hàng là ROA, ROE.
Về chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA):
ROA = x 100%.
Chỉ tiêu trên cho thấy khả năng bao quát của hoạt động ngân
hàng thương mại trong việc tạo thu nhập từ tài sản. Các ngân
hàng thường sử dụng ROA để đo lường mối quan hệ sinh lời của

tài sản và nguồn vốn bởi vì một bộ phận nguồn vốn được sử dùng
tạo nên tài sản không sinh lãi và có một bộ phận tài sản không
sinh lãi lại tham gia tạo nên thu nhập cho ngân hàng. Do vậy nếu
ROA lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương
mại tốt, cơ cấu tài sản hợp lý. Tuy nhiên nếu ROA quá lớn làm
cho các nhà quản trị lo lắng vì rủi ro nhìn chung luôn đi song
hành với lợi nhuận.
Về chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE):
ROE = x 100%
ROE là chỉ tiêu được các ngân hàng quan tâm đến nhiều
nhất, cho thấy khả năng sinh lời từ một đồng vốn của chủ, số lợi
nhuận ròng mà một cổ đông có được. Do vậy, các ngân hàng luôn
cố gắng tăng chỉ tiêu ROE để tăng tính hấp dẫn đối với các cổ
đông bằng phương pháp như: kiểm soát chi tiêu, đầu tư, quản lý

19


rủi ro có hiệu quả…Tuy nhiên, việc tăng ROE quá cao so với
ROA chứng tỏ nguồn vốn tự có của ngân hàng chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng nguồn vốn và do vậy ảnh hưởng đến mức độ lành
mạnh trong hoạt động của ngân hàng thương mại.
Khả năng thanh khoản là khả năng của ngân hàng trong việc
đáp ứng nhu cầu thanh toán tiền của khách hàng, được tạo lập bởi
tính thanh khoản của tài sản và tính thanh khoản của nguồn vốn.
Khả năng thanh khoản của ngân hàng được thể hiện thông
qua các chỉ tiêu như tỷ lệ khả năng chi trả (tài sản có thể thanh
toán ngay trên tài sản nợ phải thanh toán ngay), khả năng thanh
toán tức thì, khả năng thanh toán nhanh, đánh giá định tính về
năng lực quản lý thanh khoản của các ngân hàng thương mại, đặc

biệt là khả năng quản lý rủi ro thanh khoản của các ngân hàng
thương mại.
Việc quản lý rủi ro thanh khoản đối với ngân hàng thương
mại là rất quan trọng. Sự thiếu hụt của một ngân hàng đơn lẻ có
thể có những tác động nghiêm tọng đến toàn hệ thống ngân hàng.
Trong điều kiện bình thường, những ngân hàng không xây dựng
được cho mình một chiến lược hiệu quả để duy trì thanh khoản
đầy đủ thì tình hình khó khăn về nguồn vốn sẽ ảnh hưởng xấu đến
kế hoạch kinh doanh của ngân hàng. Trong điều kiện nền kinh tế
bị rơi vào khủng hoảng hay khi ngân hàng bị những tin đồn thất
thiệt đe doạ đến uy tín của ngân hàng thì ngân hàng có thể bị lâm
vào tình trạng khủng hoảng về khả năng thanh toán. Chi phí cơ

20


hội của một tỷ lệ thanh khoản cao là việc bớt đi những cơ hội sử
dụng nguồn vốn huy động được cho một cơ hội kinh doanh sinh
lời như cho vay, mua cổ phiếu….Vì thế, các ngân hàng luôn phải
cân nhắc giữa chi phí thanh khoản và rủi ro thanh khoản để xây
dựng một chiến lược quản lý rủi ro thanh khoản hiệu quả.
Để xây dựng được một chiến lược quản lý rủi ro thanh
khoản hiệu quả, đòi hỏi các ngân hàng phải có được hệ thống
thông tin đầy đủ để đo lường, giám sát và kiểm soát và báo cáo
rủi ro thanh khoản. Bên cạnh đó, phải có một đội ngũ chuyên viên
có trình độ cao, giàu kinh nghiệm, có khả năng xây dựng được
chiến lược và các quy trình quản lý thanh khoản, có khả năng
giám sát và phản ứng linh hoạt trước những biến động bất thường
trong cơ cấu tài sản nợ/có.
c.


Thị phần.

Thị phần phản ánh quy mô hoạt động của NHTM trên thị
trường và cũng là yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của một
NHTM. Thị phần của mỗi NHTM trên thị trường được phản ánh
qua số lượng khách hàng, số lượng dư nợ, số lượng ngành nghề
mà NHTM đó phục vụ.
d.

Năng lực lao động của CBNV.

Năng suất lao động của CBNV phản ánh hiệu quả sử dụng
lao động của mỗi NHTM và cũng là một yếu tố thể hiện năng lực
cạnh tranh của NHTM. Năng suất lao động được thể hiện qua các

21


chỉ tiêu như tổng tài sản bình quân/người, dư nợ bình quân/người,
lợi nhuận bình quân/người…
1.2.2.3. Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá năng

lực cạnh tranh của NHTM.
Để có thể đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại cần đưa ra được một hệ thống chỉ tiêu. Hệ thống chỉ
tiêu này không chỉ phản ánh năng lực cạnh tranh hiện tại mà còn
phải phản ánh được khả năng duy trì và phát triển lợi thế cạnh
tranh của ngân hàng trong tương lai. Việc xác định được hệ thống
các chỉ tiêu này có ý nghĩa rất quan trọng cho mỗi ngân hàng để

có định hướng xây dựng, khai thác và phát triển lợi thế cạnh tranh
của mình. Các chỉ tiêu định lượng như quy mô vốn chủ sở hữu,
chất lượng tài sản, mức sinh lời….có thể lượng hoá và đánh giá
dễ dàng. Tuy nhiên, đối với các chỉ tiêu định tính như: uy tín và
thương hiệu, năng lực công nghệ, nguồn nhân lực, năng lực quản
lý và cơ cấu tổ chức, hệ thống kênh phân phối và mức độ đa dạng
hoá các dịch vụ cung cấp do không lượng hoá được nên sẽ được
đánh giá theo phương pháp chấm điểm, trên cơ sở có sự tham
khảo từ phương pháp chấm điểm mà Moody’s sử dụng để xếp
hạng tín nhiệm cho các tổ chức. Chi tiết theo phụ lục số 1 đính
kèm.
1.2.3.CÁc nhân tố tác động tới năng lực cạnh tranh của
NHTM.

22


Hoạt động của các ngân hàng thương mại chịu tác động của
nhiều nhân tố, chính những nhân tố này đã ảnh hưởng một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp tới năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Có
thể chia các nhân tố ảnh hưởng này thành hai nhóm lớn: nhóm các
nhân tố thuộc bản thân các NHTM và nhóm các nhân tố khách
quan.

23


Sơ đồ 1.1.: Môi trường cạnh tranh của NHTM
Môi trường
kinh tế


Ban điều
hành

Môi trường chính phủ
luật pháp chính trị

Môi trường
công nghệ

Các NH
mới

Ngân
hàng

Cơ sở vật
chất

Môi trường
văn hoá

Chất lượng
nguồn nhân lực

Môi trường
toàn cầu

Môi trường tự
nhiên


(Nguồn) Năng lực cạnh tranh của NHTM, Nxb Lý luận
chính trị)
1.2.3.1. Các yếu tố thuộc bản thân các ngân hàng thương

mại.
a.

Ban điều hành.

Ban điều hành được hiểu ở đây là bao gồm từ Hội đồng
quản trị/sáng lập đến ban tổng giám đốc/CEO. Đây là những
người có vai trò điều hành chiến lược, có tầm nhìn và định vị các

24


mục tiêu lâu dài. Nhiệm vụ của nhà chiến lược phải phân tích và
phán đoán được năng lực của chính ngân hàng mình và các thế
lực cạnh tranh trong môi trường ngành để xác định các cơ hội và
đe dạo đối với ngân hàng mình. Vì vậy, nếu ban điều hành không
nhận thức được áp lực cạnh tranh trong xu thế toàn cầu hoá hiện
nay sẽ hết sức nguy hiểm đến sự tồn vong của NHTM.
Tuy nhiên, chỉ nhận thức thôi thì chưa đủ, yêu cầu đặt ra là
ban điều hành phải huy động nguồn lực để tổ chức thực hiện các
kế hoạch nhằm biến các nhận thức thành các hành động cụ thể.
Các kế hoạch hành động vừa dảm bảo phù hợp với nguồn lực của
NHTM, thu được các kết quả tương ứng và phải phù hợp với tốc
độ thực hiện với các đối thủ khác, nếu không sẽ bị chậm hoặc tụt
hậu so với các đốu thủ.

b.

Chất lượng nguồn nhân lực.

Ngân hàng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh
vực dịch vụ, vì vậy có thể nói chất lượng nhân viên ngân hàng là
một yếu tố quan trọng để tạo nên sức mạnh tranh cạnh của các
NHTM. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh dù công nghệ có
hiện đại tới đâu, dù có tự động hoá cao đến mức nào thì vẫn cần
có con người điều khiển, giám sát mọi hoạt động. Đặc biệt trong
lĩnh vực dịch vụ (như lĩnh vực ngân hàng) thì vai trò của con
người càng trở nên quan trọng vì quá trình sản xuất diễn ra đồng
thời với quá trình tiêu thụ, sản phẩm dịch vụ được tạo ra ngay
trong quá trình giao tiếp, trao đổi giữa cán bộ, nhân viên ngân

25


×