Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Pháp luật về thực hiện HĐMBHH và thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Kẻ Gỗ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.94 KB, 44 trang )

TÓM LƯỢC.
HĐMBHH đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện giao dịch mua bán hàng
hóa đối với mỗi doanh nghiệp. Mặc dù đã là một hình thức giao kết phổ biến
nhưng việc nghiên cứu về loại hợp đồng này là rất cần thiết giúp hoạt động kinh
doanh của công ty được thuận lợi hơn và việc thực hiện pháp luật thực sự tốt và
hiệu quả hơn. Đối với đề tài này, Công ty TNHH Kẻ Gỗ là nơi mà em đã được tiếp
xúc liên hệ với thực tế từ những vấn đề lý luận được học tại Trường đại học
Thương mại. Bằng những kiến thức em đã được giảng dạy tại trường cùng những
kiến thức thực tế học hỏi tại doanh nghiệp, em hy vọng sẽ đóng góp một số giải
pháp nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật tại công ty.
Qua quá trình nghiên cứu đề tài đã đạt được những kết quả như sau:
1. Xác định rõ những vấn đề cần nghiên cứu về thực hiện HĐMBHH.
2. Làm rõ những lý luận cơ bản về hợp đồng và quá trình giao kết, thực hiện hợp
đồng.
3. Tìm hiểu nhân tố ảnh hưởng từ đó phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện tại
Công ty TNHH Kẻ Gỗ.
4. Đưa ra định hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về thực hiện HĐMBHH, đồng thời
đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề này.
Kết quả nghiên cứu mang yếu tố thực tiễn, có thể áp dụng tham khảo cho vấn đề
xây dựng pháp luật liên quan đến vấn đề thực hiện HĐMBHH, giúp hoàn thiện và
tăng tính hiệu quả thực thi của hệ thống pháp luật Việt Nam.

MỤC LỤC.


DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ.


- Cơ cấu tổ chức bộ máy Công ty TNHH Kẻ Gỗ.
Hội đồng thành


viên

Chủ tịch hội đồng thành viên
( Tổng giám đốc)

Giám đốc điều
hành.

Phòng tài chính,
kế toán.

Kế toán trưởng.

Thủ kho.

Phòng hành
chính, nhân sự.

Phòng kỹ thuật.

Phòng kinh
doanh và phát
triển thị trường.

Trưởng phòng
hành chính.

Trưởng nhóm
điều hành kỹ
thuật.


Trưởng phòng
kinh doanh,
marketing.

Quản lý nhân sự.

Kỹ thuật viên.

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.
LTM2005 : Luật thương mại 2005 .
BLDS2005 : Bộ luật dân sự 2005.
HĐMBHH : Hợp đồng mua bán hàng hóa.

LỜI CẢM ƠN.

Nhân viên


Qua sự phân công của Khoa Kinh Tế - Luật Trường Đại Học Thương Mại và sự
đồng ý của TS Nguyễn Thị Tình, em đã nghiên cứu và thực hiện đề tài: “ Pháp luật
về thực hiện HĐMBHH và thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH Kẻ Gỗ”. Để có thể
hoàn thành tốt bài khóa luận này, em xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy, cô giáo
trong bộ môn đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình tham gia học tại trường
nhằm cung cấp cho chúng em những kiến thức rất bổ ích; cảm ơn các anh chị trong
Công ty TNHH Kẻ Gỗ đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực tập tại công
ty.Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Tình đã hướng dẫn, giúp đỡ em
rất tận tình trong suốt quá trình làm khóa luận để em có thể hoàn thành bài luận
một cách tốt nhất và đạt hiệu quả cao. Qua quá trình thực hiện em đã nghiên cứu
được nhiều vấn đề sâu rộng hơn, hiểu biết nhiều hơn về pháp luật liên quan đến

lĩnh vực này.
Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu qua các tài liệu, sách báo và quá trình
thực tế tại công ty nhưng cũng không tránh khỏi những sai sót.Vì vậy rất mong quý
thầy cô đóng góp ý kiến để bài khóa luận của em được hoàn thiện hơn.

Sinh viên thực hiện:
Lê Thị Hoài

LỜI MỞ ĐẦU.


1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài.
Trong quá trình thành lập và hoạt động của doanh nghiệp, hợp đồng là yếu tố
không thể thiếu. Sự xuất hiện, phát triển và tồn tại của hợp đồng đã chứng minh đó
là một hình thức pháp lý thích hợp, hiệu quả trong việc đảm bảo sự vận động của
hàng hóa và tiền tệ. Khi nền kinh tế phát triển, xã hội văn minh thì việc điều chỉnh
bằng pháp luật về quan hệ hợp đồng ngày càng cần thiết, càng được coi trọng và
hoàn thiện. Tuy nhiên không phải mọi doanh nghiệp đều có thể nhận thức và áp
dụng đúng đắn những quy định pháp luật. Sau quá trình thực tập tại Công ty
TNHH Kẻ Gỗ, em nhận thấy việc ký kết và thực hiện hợp đồng thường xuyên diễn
ra và đáng được chú ý, đóng vai trò quan trọng trong quá trình mua bán hàng hóa.
Đó là cơ sở, căn cứ pháp lý để các bên thực hiện theo đúng thỏa thuận, thể hiện sự
ràng buộc quyền và nghĩa vụ các bên khi tham gia mua bán hàng hóa. Vì vậy, em
đã chọn đề tài: “Pháp luật về thực hiện HĐMBHH và thực tiễn thực hiện tại Công
ty TNHH Kẻ Gỗ” để có thể nghiên cứu chuyên sâu và rõ ràng hơn các quy định,
chế tài của pháp luật; bên cạnh đó cũng đưa ra những giải pháp đối với công ty để
áp dụng pháp luật một cách có hiệu quả.
1. Tổng quan các công trình nghiên cứu:
Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu các tài liệu liên quan đến đề tài này thì có
một số công trình nghiên cứu như sau:

-

“Lưu ý khi thực hiện HĐMBHH” của Công ty Luật PLF, 2013. Trong bài viết này
đã phân tích được những vấn đề quan trọng cần lưu ý để thực hiện hợp đồng đúng
pháp luật và mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp, các vấn đề này được đúc kết
từ thực tế công ty luật gặp phải khi các khách hàng thường xuyên tham vấn ý kiến
luật sư hỗ trợ. Qua tài liệu này em đã nắm bắt được một số điểm hạn chế gây khó

khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện hợp đồng.
- “ Pháp luật về các loại hợp đồng trong thương mại” của tác giả Hoàng Mến, 2009.
Tài liệu này phân tích những nguyên tắc, quyền và nghĩa vụ các bên theo quy định
của pháp luật khi thực hiện hợp đồng, đó là những cơ sở lý thuyết mà tác giả chưa
phân tích kỹ thực tế thực hiện pháp luật và những ưu điểm, hạn chế của pháp luật


đó. Vì vậy đối với đề tài này em sẽ phân tích kỹ hơn trên khía cạnh thực tế thực
hiện pháp luật của doanh ngiệp.
- Luận văn “Pháp luật về thực hiện HĐMBHH theo LTM 2005” của Nguyễn Thị
Hậu, 2014. Bài viết này cùng chung đề tài nghiên cứu nhưng chưa thật sự sâu sắc
mang tính lý thuyết cao, thực tiễn chưa sát với thực tế doanh nghiệp thực hiện.
Nhưng bên cạnh đó tác giả cũng đã đưa ra những quan điểm cá nhân về những hạn
chế của pháp luật đối với doanh nghiệp. Qua tài liệu này em đã đúc rút ra được một
số quan điểm của tác giả để hoàn thiện bài luận văn của mình.
- Bài viết “ Báo cáo rà soát văn bản pháp luật- LTM 2005” của TS. Vũ Đặng Hải
Yến, 2011. Bài viết này đã đưa ra những bất cập trong quy định của LTM 2005,
phân tích rất sâu sắc và cụ thể từng quy định từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm sửa
đổi, hoàn thiện các quy định đó.
- Bên cạnh đó còn nhiều tài liệu khác như “Giáo trình luật thương mại tập II, Đại
học Luật Hà Nội” , 2008; “Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư”, do
TS. Nguyễn Thị Dung (chủ biên) và một số tài liệu khác; có các bài viết trên các

trang

web

như:

www.thuvienphapluat.vn,

www.luatvietnam.vn

,

www.luanvan.vn ..
2. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu.
Xuất phát từ thực tiễn nghiên cứu, em nhận thấy vấn đề thực hiện pháp luật về hợp
đồng nói chung và HĐMBHH nói riêng còn nhiều bất cập. HĐMBHH đóng vai trò
quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, nó là căn cứ để
thực hiện các giao dịch mua bán và giải quyết tranh chấp khi thực hiện không đúng
với thỏa thuận. Hợp đồng thương mại được thực hiện qua các giai đoạn từ thỏa
thuận, ký kết, đến quá trình thực hiện; trong đó, giai đoạn thực hiện phải được tuân
thủ theo đúng hợp đồng nhưng cũng phụ thuộc nhiều vào yếu tố khách quan ảnh
hưởng nên vấn đề này được chú trọng hơn. Mặc dù có rất nhiều công trình nghiên
cứu đối với pháp luật về thực hiện HĐMBHH, nhưng việc nghiên cứu đề tài này
giúp em có cái nhìn sâu rộng hơn mọi khía cạnh của pháp luật và thực tế thực hiện.
Trong quá trình thực tập tại Công ty TNHH Kẻ Gỗ, em nhận thấy công ty với quy
mô nhỏ chưa có bộ phận pháp chế riêng nên việc nghiên cứu và áp dụng các quy
định về hợp đồng chưa thực sự hiệu quả. Từ quá trình phân tích, đánh giá lý luận


và thực tiễn thì em đã chọn đề tài nghiên cứu ; “Pháp luật về thực hiện HĐMBHH

và thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Kẻ Gỗ”.
3. Đối tượng, mục tiêu, phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối với đề tài này, đối tượng nghiên cứu là các quy định pháp luật về thực hiện
hợp đồng, từ lý thuyết đó phải xem xét thực tiễn áp dụng tại Công ty TNHH Kẻ Gỗ
và đề ra các giải giáp hữu ích nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa ra giải
pháp cho phía công ty.
3.2.

Mục tiêu nghiên cứu:

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này được xác lập như sau:
- Nghiên cứu pháp luật về thực hiện hợp đồng trong LTM 2005, LDS 2005 và các
Nghị định, thông tư hướng dẫn đi kèm để nắm rõ các quy định về vấn đề này.
- Tìm kiếm các công trình nghiên cứu, bài báo, bài viết về những ưu điểm và hạn
chế của pháp luật về thực hiện hợp đồng; từ đó đề ra những giải pháp có tính ứng
dụng cao và sát với tình hình thực tế pháp luật hiện nay.
- Cần đưa ra những đánh giá thực tiễn về việc thực hiện pháp luật của Công ty
TNHH Kẻ Gỗ; từ đó xem xét công ty đã thực hiện pháp luật tốt hay chưa để đưa ra
giải pháp khắc phục.
3.3. Phạm vi nghiên cứu.
Đối với đề tài này, phạm vi nghiên cứu là cơ sở lý thuyết pháp luật về thực hiện
hợp đồng và đặc biệt nghiên cứu thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Kẻ Gỗ; từ
đó tìm ra những hạn chế và khó khăn mà công ty đang phải đối mặt để đưa ra
những giải pháp phù hợp giúp tăng tính hiệu quả trong việc thực hiện hợp đồng.
Quá trình thực hiện HĐMBHH là hành vi thực tế được thực hiện dựa trên những
điều khoản đã được thỏa thuận trong hợp đồng và các điều kiện khách quan trên
thực tế. Việc nghiên cứu thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Kẻ Gỗ giúp em
hiểu rõ hơn về tính khả thi của pháp luật khi áp dụng vào thực tế, từ đó rút ra
những kinh nghiệm thực tiễn.

4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình làm khóa luận em đã kết hợp và sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau:


- Phương pháp quan sát khoa học chủ yếu được thực hiện để quan sát các hoạt động
của công ty, khi có các đơn hàng hay hợp đồng mới từ phía khách hàng để có thể
tham khảo các điều khoản có trong hợp đồng. Trong thực tế khi công ty thực hiện
hợp đồng thì sẽ được chia nhỏ cho các phòng ban, ví dụ như phòng hành chính, kế
toán sẽ xử lý nguồn thu, chi và các loại tài chính tín dụng liên quan đến hợp đồng
còn phòng kỹ thuật và sản xuất sẽ chịu trách nhiệm sản xuất hàng hóa theo đúng
như hợp đồng. Việc sử dụng phương pháp này giúp em hiểu rõ được quá trình thực
hiện hợp đồng tại công ty.
- Phương pháp thu thập thông tin bao gồm thu thập các quy định trong các văn bản
LTM 2005, LDS 2005,.. và các văn bản hướng dẫn khác để hiểu rõ hơn những quy
định pháp luật về thực hiện HĐMBHH. Ngoài ra còn phải thu thập sổ sách, số liệu
có liên quan đến quá trình thực hiện hợp đồng tại Công ty TNHH Kẻ Gỗ.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp dùng để phân tích các quy định của pháp luật
và thông tin về hoạt động của doanh nghiệp. Phương pháp này giúp nghiên cứu kỹ
và sâu sắc mọi khía cạnh của vấn đề, từ đó đúc rút được những kinh nghiệm thực
tiễn để chỉ ra những điểm còn hạn chế giữa doanh nghiệp và pháp luật. Sau khi
phân tích kỹ lưỡng vấn đề thì sẽ tổng hợp lại một cách logic nhất để làm sáng tỏ
từng vấn đề một và đưa ra các giải pháp hiệu quả cho từng vấn đề đó.
5. Kết cấu khóa luận.
Kết cấu khóa luận bao gồm ba chương chính như sau:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh HĐMBHH và thực hiện
HĐMBHH.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thực hiện HĐMBHH và thực tiễn thực hiện tại
Công ty TNHH Kẻ Gỗ.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực hiện HĐMBHH.


CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HÓA.


1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa.
Quan hệ mua bán hàng hóa được xác lập và thực hiện trên cơ sở thuận mua,
vừa bán tức là trên cơ sở thống nhất ý chí của các bên. Sự thống nhất ý chí (hay
còn gọi là sự thỏa thuận) sẽ được xác lập trong HĐMBHH. Trong LTM 2005
không đưa ra khái niệm về HĐMBHH mà chỉ định nghĩa về hoạt động mua bán
hàng hóa (Khoản 8 Điều 3 LTM 2005). Nhưng có thể dựa vào khái niệm hợp đồng
mua bán tài sản trong LDS 2005 để xác định bản chất của HĐMBHH. Hàng hóa
thuộc tài sản và có phạm vi hẹp hơn tài sản và HĐMBHH trong thương mại là một
dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản, có bản chất chung của hợp đồng. Như
vậy ta có thể định nghĩa như sau: HĐMBHH là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán hàng hóa giữa
các bên mà theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa
cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán,
nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Căn cứ vào yếu tố chủ thể,
đối tượng, nơi xác lập và thực hiện hợp đồng, HĐMBHH được chia thành
HĐMBHH trong nước và HĐMBHH có yếu tố nước ngoài. Về HĐMBHH có yếu
tố nước ngoài, nó không được định nghĩa trong LTM 2005, nhưng qua quy định tại
Điều 758 BLDS về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, có thể suy ra rằng một
hợp đồng được coi là HĐMBHH quốc tế khi có một trong các yếu tố sau:


Căn cứ vào yếu tố chủ thể, hợp đồng được giao kết bởi các bên không cùng quốc
tịch.




Căn cứ vào yếu tố đối tượng, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng đang tồn tại ở
nước ngoài.



Căn cứ vào nơi xác lập và thực hiện hợp đồng, hợp đồng được giao kết ở nước
ngoài (nước mà các bên chủ thể giao kết hợp đồng không mang quốc tịch) và có
thể được thực hiện ở nước mình hay nước thứ ba.
Điều cần chú ý ở HĐMBHH quốc tế là các bên tham gia giao kết hợp đồng sẽ
rất dễ gặp phải các rủi ro đặc thù như xung đột pháp luật, do quá trình vận chuyển,


thanh toán, thực thi cam kết hợp đồng nên các bên cần thỏa thuận và soạn thảo ra
một bản hợp đồng chi tiết.
1.1.2. Đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1.2.1.

Chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa.

HĐMBHH được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là thương nhân hoặc một trong
hai bên là thương nhân. Theo quy định LTM 2005 “Thương nhân bao gồm tổ chức
kinh tế được thành lập hợp pháp; cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên và có đăng ký kinh doanh” (Khoản 1 Điều 6). Thương nhân ở đây có
thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài (trong HĐMBHH quốc
tế). Ngoài ra, các tổ chức và cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở
thành chủ thể của HĐMBHH. Theo khoản 3 Điều 1 LTM 2005, “Hoạt động của
bên chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi nhuận trong

quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo luật thương mại khi chủ thể này lựa chọn
áp dụng luật thương mại”. Như vậy chủ thể của HĐMBHH có thể là thương nhân
hoặc không phải là thương nhân.
1.1.2.2.

Hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa.

Theo quy định tại Điều 24 LTM 2005, trường hợp pháp luật không quy định loại
hợp đồng đó phải được thể hiện bằng một hình thức nhất định, thì có thể được giao
kết bằng lời nói, văn bản, hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên. Văn bản hợp đồng
có thể do các bên thoả thuận lập hoặc có thể lập theo mẫu. Phụ lục hợp đồng cũng
được coi là một trong những hình thức của hợp đồng và có hiệu lực như hợp đồng.
Trong một số trường hợp nhất định, pháp luật bắt buộc các bên phải giao kết hợp
đồng dưới hình thức văn bản, ví dụ như HĐMBHH quốc tế phải được thể hiện
dưới hình thức văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương
như điện báo, telex, fax hay thông điệp dữ liệu (Khoản 2 Điều 27 LTM 2005).
1.1.2.3.

Đối tượng hợp đồng mua bán hợp đồng.

Ở Việt Nam, trước khi có LTM 2005, đối tượng của HĐMBHH là hàng hóa bao
gồm: máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động
sản khác lưu thông trên thị trường; nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho
thuê, mua, bán. Khái niệm hàng hóa này có phạm vi hẹp hơn so với quan niệm trên


thế giới. Trên thực tế, các hoạt động mua bán có tính chất thương mại ở Việt Nam
không chỉ dừng lại ở đối tượng là những loại hàng hóa này. Khắc phục sự bất cập
của LTM 1997 về khái niệm hàng hóa, LTM 2005 đã quy định: “Hàng hóa bao
gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản được hình thành trong tương lai,

những vật gắn liền với đất đai” (Khoản 2 Điều 3 LTM 2005). Hàng hóa đó phải
được phép giao dịch trên thị trường, không thuộc danh mục những đối tượng mà
nhà nước cấm kinh doanh. Đối với những hàng hóa hạn chế kinh doanh hoặc kinh
doanh có điều kiện, việc mua bán chỉ được thực hiện khi các bên tham gia và hàng
hóa đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Danh mục hàng hóa cấm
kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện và điều kiện để kinh
doanh hàng hóa đó do chính phủ quy định và sửa đổi, bổ sung theo từng điều kiện
kinh tế - xã hội (Khoản 1,2 Điều 25 LTM2005). Trong hợp đồng hàng hóa phải
được xác định rõ (nếu là vật) và phải có căn cứ xác thực chứng minh thuộc quyền
sở hữu của bên bán.
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa.

1.1.2.4.

Nội dung của HĐMBHH là các điều khoản do các bên thỏa thuận, thể hiện quyền
và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Pháp luật các nước có những
cách khác nhau trong quy định về nội dung chủ yếu của HĐMBHH, ví dụ như các
nước thuộc hệ thống Anh – Mỹ về cơ bản chỉ bắt buộc thỏa thuận điều khoản đối
tượng của hợp đồng mua bán; còn đối với pháp luật nước ta hiện nay, LTM 2005
không quy định bắt buộc các bên phải thỏa thuận những nội dung cụ thể nào. Dựa
trên cơ sở các quy định của BLDS 2005 và LTM 2005 và xuất phát từ tính chất của
HĐMBHH để thiết lập nên các điều khoản cần thiết. Trong thực tiễn, các bên thỏa
thuận nội dung càng chi tiết thì càng thuận lợi cho việc thực hiện hợp đồng. Tùy
vào tính chất từng loại hợp đồng và sự thỏa thuận các bên về các điều khoản có
trong hợp đồng, dưới đây là một số điều khoản cơ bản :
-

Điều khoản chủ thể trong quan hệ hợp đồng:

Trong điều khoản này, cần xác định rõ các bên tham gia hợp đồng cùng những yếu

tố pháp lí cần thiết liên quan như: quốc tịch của các bên,ngành nghề đăng kí kinh
doanh, trụ sở kinh doanh, địa chỉ giao dịch, tài khoản ngân hàng, mã số thuế…


-

Điều khoản đối tượng của hợp đồng :

Điều khoản đối tượng của hợp đồng là điều khoản quan trọng bậc nhất trong hợp
đồng mua bán. Trong điều khoản này, các bên có thể thỏa thuận những điều khoản
sau:
-

Điều khoản về hàng hóa:

Trong điều khoản hàng hóa bao gồm tên hàng, số lượng, trọng lượng, chất lượng
hàng hóa,…. Tên hàng hóa mua bán phải được nêu chính xác trong hợp đồng nhằm
tránh nhầm lẫn trong quá trình thực hiện hợp đồng. Tùy theo từng hàng hóa mà
cách viết điều khoản này có sự khác nhau. Các bên có thể viết điều khoản cùng với
tên khoa học, tên thông dụng của hàng hóa. Trong các HĐMBHH quốc tế, tên hàng
còn được viết kèm theo tên của nhà sản xuất hàng hóa, tên địa danh sản xuất ra
hàng hóa, tên công cụng của hàng hóa…. Về chất lượng hàng hóa được xác định
bằng nhiều cách tùy thuộc tính chất của hàng hóa. Các bên có thể thỏa thuận một
tiêu chuẩn xác định cụ thể, hoặc xác định phẩm chất hàng hóa theo mẫu. Ngoài ra
còn có các điều khoản khác liên quan đến hàng hóa nhưtrọng lượng, số lượng, điều
khoản bao bì, mã kí hiệu hàng hóa, cách thức đóng gói hàng hóa,…
-

Điều khoản giá cả hàng hóa.


Điều khoản giá của hàng hóa là điều khoản gắn liền với các điều khoản đối tượng
hợp đồng. Giá trong hợp đồng thường được xác định dựa trên những căn cứ như
đơn giá, điều kiện cơ sở tính giá, điều khoản bảo lưu về giá hàng hóa…Đơn giá là
giá hàng hóa được tính theo đơn vị nhất định như khối lượng, trọng lượng.
-

Điều khoản phương thức, địa điểm, thời hạn thanh toán.

Các bên có thể thỏa thuận áp dụng một trong các phương thức thanh toán như
thanh toán bằng tiền mặt, phương thức ủy thác thu, phương thức thanh toán bằng
thư tín dụng… Địa điểm thanh toán do các bên thỏa thuận, có thể ở địa điểm bên
bán hoặc bên mua. Thời gian thanh toán được các bên thỏa thuận phụ thuộc vào
các yếu tố như tính chất của hàng hóa mua bán, năng lực tài chính của các bên. Để
tránh những tổn thất có thể xảy ra do việc sụt giá hoặc tăng giá của các đồng tiền,
các bên giao dịch có thể thoả thuận những điều kiện đảm bảo hối đoái. Đó có thể là
điều kiện đảm bảo bằng vàng hoặc đảm bảo ngoại hối.


-

Điều khoản thời hạn, địa điểm, phương thức giao hàng.

Điều khoản về thời hạn, địa điểm và phương thức giao hàng là những thỏa thuận
về nghĩa vụ của các bên. Trong đó, người bán thực hiện giao hàng theo thời hạn,
địa điểm và cách thức đã ghi trong hợp đồng. Trong thời hạn giao hàng có thể là
giao hàng không định kì, giao hàng theo định kì, giao hàng ngay….Địa điểm và
cách thức giao hàng có thể là giao hàng ngay tại xưởng, giao hàng dọc mạn tàu,
giao hàn tại địa chỉ của người mua…
-


Điều khoản trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.

Khi thoả thuận các bên cần dựa trên mối quan hệ, độ tin tưởng lẫn nhau mà quy
định hoặc không quy định về vấn đề phạt vi phạm. Thông thường, với những bạn
hàng có mối quan hệ thân thiết, tin cậy lẫn nhau, uy tín của các bên đã được khẳng
định trong một thời gian dài thì họ không quy định (thoả thuận) điều khoản này.
Còn trong các trường hợp khác thì nên có thoả thuận về phạt vi phạm.Theo Điều
422 BLDS 2005 thì không giới hạn mức phạt nhưng theo Điều 301 LTM 2005 thì
quyền thoả thuận về mức phạt vi phạm của các bên bị hạn chế ở mức không quá
8% giá trị nghĩa vụ hợp đồng. Do vậy, các bên khi thoả thuận về mức phạt phải căn
cứ vào quy định của LTM để lựa chọn mức phạt trong phạm vi từ 8% trở xuống,
nếu các bên thoả thuận mức phạt lớn hơn (ví dụ 12%) thì phần vượt quá (4%) được
coi là vi phạm điều cấm của pháp luật và bị vô hiệu.
-

Điều khoản phương thức giải quyết tranh chấp:

Pháp luật hiện hành công nhận các phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh sau: Thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Theo đó, khi xảy ra tranh
chấp kinh doanh các bên có thể giải quyết tranh chấp thông qua việc trực tiếp
thương lượng với nhau.Trong trường hợp không thương lượng được, việc giải
quyết tranh chấp có thể được thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ ba thông qua
phương thức hòa giải, trọng tài hoặc tòa án.Việc giải quyết các tranh chấp trong
kinh doanh dựa trên nguyên tắc quan trọng là quyền tự định đoạt của các bên. Cơ
quan nhà nước và trọng tài thương mại chỉ can thiệp theo yêu cầu của các bên
tranh chấp.Trọng tài thương mại chỉ giải quyết tranh chấp khi có thỏa thuận trọng
tài.


1.1.2.5.


Mục đích.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nhu cầu trao đổi, mua bán hàng hóa giữa
các thương nhân ngày càng gia tăng, đặc biệt trong xu thế hội nhập hiện nay thì
việc mua bán hàng hóa cũng ngày càng có sức lan tỏa mạnh mẽ.Từ thỏa thuận cho
đến giao kết và thực hiện hợp đồng, tất cả những vấn đề phát sinh từ các giao dịch
mua bán hàng hòa sẽ được kiểm soát tốt nhất khi có một bản hợp đồng đầy đủ, hợp
lý và có sự điều chỉnh của các quy định của pháp luật. HĐMBHH hợp thức hóa
những thỏa thuận của các bên theo đúng quy định của pháp luật, là căn cứ để giải
quyết khi có tranh chấp xảy ra. HĐMBHH kinh doanh trong thương mại với mục
đích chủ yếu là để kinh doanh hàng hóa thu lợi nhuận cho thương nhân. Chỉ một
phần nào đó phục vụ mục đích tiêu dùng và mục đích khác cho cả thương nhân và
những chủ thể không phải thương nhân tùy theo mong muốn và nhu cầu của họ
trong từng thời điểm.
1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.2.1. Khái niệm pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
Sau khi các bên đã giao kết hợp đồng dưới một hình thức nhất định phù hợp
với pháp luật và hợp đồng đó đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà pháp luật yêu cầu
thì hợp đồng có hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Nghĩa là từ thời điểm đó, các
bên trong hợp đồng bắt đầu có quyền và nghĩa vụ đối với nhau và phải thực hiện
các hành vi đúng với thỏa thuận trong hợp đồng. Như vậy, thực hiện HĐMBHH là
việc các bên tiến hành thực hiện các hành vi mà mỗi một bên tham gia hợp đồng
phải thực hiện nhằm đáp ứng những quyền và nghĩa vụ tương ứng của bên kia;
theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên
mua và nhận thanh toán và bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận
hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận.
1.2.2.

Nguyên tắc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.


Nguyên tắc được hiểu là những điều cơ bản đưa ra làm cơ sở cho cách thức
thực hiện, nó được rút ra từ thực tế để chỉ đạo hành động (theo từ điển Việt- Việt).
Đối với HĐMBHH, LTM 2005 không quy định về nguyên tắc thực hiện nhưng nó
cũng phải tuân thủ theo những nguyên tắc được quy định trong BLDS 2005. Việc


quy định như vậy tạo ra khung pháp lý nhằm đưa ra những nguyên tắc tối thiểu cần
có khi các chủ thể thực hiện hợp đồng, còn đối với từng loại hợp đồng khác nhau
thì lại có những quy định về cách thức thực hiện khác nhau. Quy định về nguyên
tắc thực hiện HĐMBHH ngắn gọn, cụ thể chỉ bao quát trong Điều 412 BLDS 2005
gồm ba ý chính, thâu tóm được hàm ý mà pháp luật muốn hướng tới là các chủ thể
tham gia giao kết hợp đồng. Với mục đích đảm bảo quyền, lợi ích các bên dựa trên
tinh thần trách nhiệm của các bên và không ảnh hưởng tới lợi ích của xã hội.
1.2.3. Nội dung pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.2.3.1. Giao nhận hàng hóa.
- Giao hàng là nghĩa vụ mà bên mua phải thực hiện bao gồm nhiều nội dung
khác nhau được quy định trong điều 34 đến điều 41 và điều 43, 44 LTM 2005. Nội
dung này trong hợp đồng bao gồm nhiều điều khoản khác nhau như địa điểm, thời
hạn giao hàng, phương thức vận chuyển,….và pháp luật quy định toàn bộ nội dung
liên quan đến vấn đề giao hàng kể cả khi không có thỏa thuận trong hợp đồng
nhằm đảm bảo trách nhiệm của các bên khi thực hiện nghĩa vụ này và dự tính
những trường hợp xảy ra ngoài ý muốn. Việc quy định như vậy giúp các doanh
nghiệp dễ dàng trong quá trình xử lý khi thực hiện giao hàng mà xảy ra những
trường hợp bất khả kháng.
-

Nhận hàng là nghĩa vụ của bên mua phải thực hiện khi hàng đã được bên

bán giao đúng thỏa thuận, vấn đề này được quy định tại điều 56 LTM 2005. Đối

với bên mua thì trách nhiệm thấp hơn so với bên bán vì bên bán là người thực hiện
các nội dung liên quan đến hợp đồng vì vậy pháp luật chỉ quy định trong một điều
luật duy nhất; ngoài ra đối với những trường hợp hàng hóa không đúng như thỏa
thuận thì pháp luật lại có những quy định khác đối với trách nhiệm của các bên.
1.2.3.2. Chuyển giao chứng từ, quyền sở hữu hàng hóa.
- Việc chuyển giao chứng từ được quy định trong điều 35 và 42 LTM 2005,
đó là trách nhiệm mà bên bán phải thực hiện, trên thực tế có những loại chứng từ
như chứng nhận nguồn gốc xuất xứ, hóa đơn, chứng nhận chất lượng hàng hóa,
….Việc quy định về vấn đề này nhằm đảm bảo quyền lợi của bên mua liên quan


đến hàng hóa, vì các chứng từ đó khá là quan trọng khi doanh nghiệp thực hiện kê
khai các thủ tục hành chính hay báo cáo tài chính doanh nghiệp.
- Chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa cho bên mua là việc bên bán chuyển
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt hàng hóa cho bên mua, nội dung của vấn đề
này được quy định tại Điều 62 LTM 2005. Sau khi được chuyển quyền sở hữu đối
với hàng hóa, bên mua sẽ trở thành người chủ thực sự đối với những hàng hóa đó
với đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu. Với việc xác định quyền sở hữu hàng
hóa đã được chuyển giao hay chưa, địa điểm, thời gian chuyển quyền sở hữu có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định tài sản của doanh nghiệp, giải quyết phá sản
và đặc biệt là để xác định trách nhiệm về rủi ro đối với hàng hóa.
1.2.3.3. Chuyển giao rủi ro.
Rủi ro được hiểu là những sự kiện bất thường, không cố ý gây ra; còn rủi ro đối
với hàng hóa là những tổn thất, mất mát, hư hỏng làm ảnh hưởng tới giá trị hàng
hóa do những sự kiện khách quan gây ra. Về nguyên tắc chung, việc xác định trách
nhiệm rủi ro đối với hàng hóa trước hết cần căn cứ vào sự thỏa thuận của các bên
trong hợp đồng; trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì áp dụng quy
định của pháp luật. Điều 57 đến Điều 61 LTM 2005 quy định về thời điểm chuyển
rủi ro đối với hàng hóa trong HĐMBHH. Quy định về việc chuyển giao rủi ro rất
quan trọng vì nó giúp xác định được trách nhiệm thuộc về bên nào khi có sự cố xảy

ra đối với hàng hóa. Nếu không quy định rõ ràng có thể dẫn đến xảy ra tranh chấp
khi có rủi ro xảy ra, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
1.2.3.4. Trách nhiệm bảo hành.
Bảo hành là việc người bán cam kết sẽ thực hiện những biện pháp nhằm khắc phục
lỗi của hàng hóa xảy ra trong quá trình người mua sử dụng và còn trong thời hạn
bảo hành. Điều 49 LTM 2005 về vấn đề bảo hành đã góp phần bảo vệ lợi ích hợp
pháp của người tiêu dùng và đó cũng là cơ sở để người tiêu dùng và doanh nghiệp
có thể hiểu, tuân thủ và vận dụng tốt hơn các quy định về trách nhiệm bảo hành
hàng hóa, dịch vụ.Tuy nhiên, xét ở một khía cạnh nào đó còn khá nhiều bất cập
xung quanh các quy định về nghĩa vụ bảo hành, khiến người dùng và doanh
nghiệp nhiều khi không tháo gỡ được các rắc rối phát sinh.


1.2.3.5. Thanh toán.
Thanh toán là nghĩa vụ quan trọng nhất của bên mua trong quan hệ hợp đồng
mua bán hàng hoá được quy định tại Điều 50 LTM 2005, bên mua có nghĩa vụ
thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận trong hợp đồng. Điều khoản thanh toán
được các bên thỏa thuận thông thường bao gồm những nội dung cụ thể về đồng
tiền thanh toán, phương thức thanh toán, thời hạn, địa điểm thanh toán, trình tự, thủ
tục thanh toán... Bên mua phải thực hiện đúng những nội dung này theo thỏa thuận.
Việc quy định nghĩa vụ của bên mua phải thực hiện đối với bên bán đảm bảo
quyền lợi cho bên bán khi mà hàng hóa đã được chuyển giao cho bên mua, tránh
tình trạng chậm thanh toán hay không thanh toán đúng hợp đồng gây thiệt hại cho
bên bán, quá trình quay vòng vốn trong sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng.
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÔNG TY TNHH KẺ GỖ.
2.1.

Thực trạng quy định pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng


hóa.
2.1.1. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
Những thỏa thuận trong hợp đồng có hiệu lực sẽ có giá trị ràng buộc các bên, đó là
nghĩa vụ mà các bên phải thực hiện. Để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng mang lại
lợi ích cho các bên đồng thời không xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật bảo
vệ đã có những quy định về nguyên tắc thực hiện hợp đồng. Mặc dù LTM 2005
không quy định về vấn đề này nhưng HĐMBHH mang bản chất chung của hợp
đồng trong BLDS 2005 vì vậy nó tuân theo nguyên tắc quy định tại Điều 412
BLDS 2005:
- Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại,
thời hạn,phương thức và các thỏa thuận khác. Nếu không thực hiện đúng nghĩa vụ
đã được ghi nhận trong nội dung của hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng và bị áp dụng các chế tài bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại xảy
ra. Ngoài ra việc thực hiện đúng hợp đồng khẳng định uy tín của doanh nghiệp, tạo
niềm tin đối với các đối tác, tạo mối quan hệ hợp tác lâu dài.


- Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các
bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau. Nguyên tắc này đòi hỏi ngay từ khi giao kết hợp
đồng cho đến khi thực hiện hợp đồng các bên có thiện chí thông báo cho nhau về
tình trạng, đặc tính của đối tượng và những khó khăn, vướng mắc trong quá trình
thực hiện. Nếu một bên vì lợi ích của mình mà che dấu khuyết tật của vật là đối
tượng hợp đồng, gây ra thiệt hại cho bên đối tác thì phải bồi thường thiệt hại hợp
đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên luôn thông tin cho nhau về tiến
độ thực hiện hợp đồng; đó chính là biểu hiện của sự hợp tác, tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau, luôn quan tâm đến lợi ích các bên. Có như vậy mới tạo ra lòng tin đối với
nhau để trở thành đối tác lâu dài, ngoài ra nguyên tắc này còn đòi hỏi các bên phải
tìm mọi biện pháp cần thiết để ngăn chặn các thiệt hại có thể xảy ra cho nhau trong
quá trình thực hiện.
- Không được xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền

và lợi ích hợp pháp của người khác. Về nguyên tắc này khi các bên ký kết, thực
hiện hợp đồng vì lợi ích của mình nhưng phải hướng tới lợi ích chung của toàn xã
hội. Có như vậy thì trật tự pháp luật nói chung mới được giữ vững, thực hiệnnghĩa
vụ đối với nhà nước; qua đó, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên sẽ được pháp
luật bảo vệ, không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người khác.
2.1.2. Nội dung pháp luật về thực hiện HĐMBHH.
2.1.2.1. Giao nhận hàng hóa.
- Giao hàng.
Theo quy định của tại Điều 34 LTM 2005 thì bên bán phải giao hàng, chứng từ
theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo
quản và các quy định khác trong hợp đồng vàtrường hợp không có thoả thuận cụ
thể, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chứng từ liên quan theo quy định của pháp
luật. Nghĩa vụ này được phân tích cụ thể như sau:
 Giao hàng đúng đối tượng và chất lượng:
Bên bán phải giao hàng đúng đối tượng và chất lượng theo thỏa thuận trong hợp
đồng và theo quy định của pháp luật. Chất lượng của hàng hóa có thể được thỏa
thuận hoặc xác định theo nhiều cách khác nhau: theo mẫu, theo mô phỏng, trên cơ


sở tiêu chuẩn hóa, theo giám định,…. Hàng hóa phải đảm bảo không có các khuyết
tật có thể nhìn thấy được khi bàn giao (khuyết tật bên ngoài) và cả những khuyết
tật không thể nhìn thấy ngay được mà chỉ có thể phát hiện trong quá trình sử dụng
(khuyết tật ẩn giấu bên trong).Hàng hóa là đối tượng của HĐMBHH, là nội dung
không thể thiếu trong thỏa thuận.Nhưng trên thực tế có nhiều trường hợp thỏa
thuận không rõ ràng tên, chất lượng của hàng hóa. Ví dụ: Một hợp đồng mua bán
chỉ quy định: “Tên hàng: Cát xây dựng” mà không đề cập chất lượng cát xây dựng.
Trong khi đó cát xây dựng có rất nhiều loại: Cát vàng, cát đen, trong đó riêng về
chất lượng của cát đen cũng rất khác nhau tùy theo từng khu vực khai thác, cách
thức khai thác… Việc thỏa thuận về hàng hóa không rõ ràng như trên có thể dẫn tới
xảy ra tranh chấp. Để giải quyết vấn đề này Điều 39 LTM 2005 quy định: “Trong

trường hợp hợp đồng không có quy định cụ thể thì hàng hóa được coi là không phù
hợp với hợp đồng khi hàng hóa đó thuộc một trong các trường hợp sau đây:


Không phù hợp với mục đích sử dụng thông thường của các loại hàng hóa cùng
chủng loại.



Không phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên mua đã cho bên bán biết
hoặc bên bán phải biết vào thời điểm giao kết hợp đồng;



Không bảo đảm chất lượng như chất lượng của mẫu hàng hóa mà bên bán đã giao
cho bên mua;



Không được bảo quản, đóng gói theo cách thức thông thường đối với loại hàng hóa
đó hoặc không theo cách thức thích hợp để bảo quản hàng hóa trong trường hợp
không có cách thức bảo quản thông thường.
Bên mua có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hóa không phù hợp hợp đồng thuộc
trong các trường hợp trên. Bên cạnh đó Bộ luật dân sự năm 2005 ( Điều 430 ) quy
định về chất lượng của vật mua bán như sau:



Trong trường hợp chất lượng của vật đã được công bố hoặc được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định thì chất lượng của vật được xác định theo các tiêu

chuẩn đã công bố hoặc theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.




Khi các bên không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định về chất lượng thì
chất lượng thì chất lượng của vật mua bán được xác định theo mục đích sử dụng và
chất lượng trung bình của vật cùng loại.
 Giao hàng đúng thời hạn:

Những nội dung liên quan đến điều khoản giao hàng như thời gian, địa điểm,
phương thức giao hàng thường được các bên thỏa thuận phù hợp với đặc điểm của
hàng hoá trong hợp đồng. Trường hợp các bên không thỏa thuận những vấn đề này
trong hợp đồng thì áp dụng quy định của pháp luật hoặc tập quán. Theo Luật
thương mại 2005, trường hợp chỉ có thoả thuận về thời hạn giao hàng mà không
xác định thời điểm giao hàng cụ thể thì bên bán có quyền giao hàng vào bất kỳ thời
điểm nào trong thời hạn đó và phải thông báo trước cho bên mua; trường hợp
không có thoả thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải giao hàng trong 1 thời
hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng ( Đ37 LTM 2005).
 Giao hàng đúng địa điểm.

Địa điểm giao hàng là một nội dung quan trọng trong hợp đồng vì nó liên quan đến
vấn đề chuyển rủi do, liên quan đến chi phí vận chuyển. Bên bán có nghĩa vụ giao
hàng đúng địa điểm đã thỏa thuận (Khoản 1 Điều 35 LTM 2005). Trên thực tế, đối
với những HĐMBHH với số lượng lớn, vận chuyển đường dài hay HĐMBHH
quốc tế thì vấn đề này không thể có thỏa thuận trước. Còn các trường hợp khác
nhau thì cũng có thể do các bên sơ suất hoặc các bên đã từng mua bán theo thói
quen với nhau nên không có thỏa thuận về địa điểm giao hàng. Theo Khoản 2 Điều
35 LTM 2005 đã có quy định về vấn đề này như sau: “Trường hợp không có thỏa
thuận về địa điểm giao hàng thì điạ điểm giao hàng được xác định như sau:



Trường hợp hàng hóa là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao hàng tại nơi
có hàng hóa đó.



Trong trường hợp hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hóa thì bên bán có
nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên.



Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hóa, nếu vào
thời điểm giao kết hợp đồng các bên biết được địa điểm kho chứa hàng, địa điểm


xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hóa thì bên bán phải giao hàng tại địa
điểm đó.


Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh doanh của
bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi cư trú của
bên bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán”
Bộ luật dân sự 2005 (Điều 284 và Điều 443) quy định trong trường hợp không có
thỏa thuận thì địa điểm thực hiện nghĩa vụ dân sự được xác định như sau:


Nơi có bất động sản, nếu đối tượng có nghĩa vụ là bất động sản;




Nơi cư trú hoặc trú của bên có quyền, nếu đối tượng của nghĩa vụ dân sự
không phải là bất động sản.

Như vậy, địa điểm giao hàng có thể được xác định một cách dễ dàng dựa vào các
quy định này tránh xảy ra tranh chấp phát sinh liên quan.
-

Kiểm tra hàng hóa trước khi giao.
Kiểm tra hàng hóa là một khâu quan trọng trong quá trình mua bán hàng hóa được
quy định tại Điều 44 LTM 2005. Bước này được thực hiện trước khi giao hàng
nhằm bảo đảm hàng hóa giao đúng hợp đồng, hạn chế tranh chấp phát sinh.Bên
bán phải tạo điều kiện, bảo đảm cho bên mua tiến hành kiểm tra hàng hóa.Nếu như
hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hóa, thì việc kiểm tra hàng hóa tiến
hành khi hàng hóa được chuyển tới địa điểm đến. Sau khi kiểm tra, bên mua phải
thông báo về tình trạng hàng hóa, về các khiếm khuyết của hàng hóa mà bên mua
biết. Nếu như bên mua không thông báo thì bên bán không phải chịu trách nhiệm
đối với những khiếm khuyết này. Tuy nhiên, có những khiếm khuyết bên mua
không thể phát hiện được trong quá trình kiểm tra thông thường. Trường hợp này,
bên bán vẫn phải chịu trách nhiệm. Nếu như bên mua không thực hiện việc kiểm
tra hàng hóa trước khi bên bán giao hàng theo thỏa thuận thì bên bán có quyền giao
hàng và bên mua phải nhận hàng theo hợp đồng.Việc kiểm tra hàng hoá trước khi
giao hàng là yêu cầu cần thiết đối với giao dịch mua bán trong thương mại, ngăn
ngừa những sai sót trong việc giao hàng, tăng khả năng thực hiện hiệu quả việc
mua bán.
-

Nghĩa vụ nhận hàng:



Nhận hàng là nghĩa vụ cơ bản của bên mua tương ứng với nghĩa vụ giao hàng của
bên bán được quy định tại Điều 56 LTM 2005.Bên mua có nghĩa vụ nhận hàng
theo thỏa thuận và phải thực hiện các công việc hợp lý để giúp bên bán giao hàng,
những công việc này có thể khác nhau trong những trường hợp cụ thể. Cần lưu ý,
việc nhận hàng trên thực tế không đồng nghĩa với việc người mua đã chấp nhận về
hàng hoá được giao. Theo Khoản 5 Điều 44 LTM 2005, sau khi hoàn thành việc
giao nhận, bên bán vẫn phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng
hoá đã được giao, nếu các khiếm khuyết của hàng hoá không thể phát hiện được
trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường và bên bán đã biết hoặc phải
biết về các khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua. Như vậy nghĩa
vụ nhận hàng chỉ được thực hiện khi bên bán thực hiện đúng hợp đồng và theo
đúng quy định pháp luật.
2.1.1.1.1. Chuyển giao chứng từ, quyền sở hữu hàng hóa.
- Chuyển giao chứng từ.
Trong nhiều trường hợp, việc giao hàng hoá còn bao gồm việc giao các chứng từ
có liên quan đến hàng hoá (chứng nhận chất lượng, chứng nhận nguồn gốc, xuất
xứ, vận đơn...). Theo LTM 2005, trường hợp có thỏa thuận về việc giao chứng từ
thì bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hoá cho bên mua trong
thời hạn, tại địa điểm và bằng phương thức đã thỏa thuận (Điều 34 LTM 2005).
Pháp luật không quy định bắt buộc phải giao nhận những loại chứng từ nào mà mỗi
loại hàng hóa, mỗi hình thức giao dịch có các loại chứng từ khác nhau và việc giao
nhận chứng từ là do các bên tự thỏa thuận phù hợp với hợp đồng. Luật quy định về
vấn đề này rất sơ sài và ngắn gọn, ví dụ khi bên bán không giao đủ các loại chứng
từ thì sẽ phải xử lý như thế nào?.
- Đảm bảo quyền sở hữu đối với hàng hoá mua bán:
Theo quy định tại Điều 45 LTM 2005 thì bên bán phải đảm bảo quyền sở hữu đối
với hàng hoá giao cho bên mua. Bên bán phải đảm bảo tính hợp pháp về quyền sở
hữu và việc chuyển giao quyền sở hữu đối với hàng hoá giao cho bên mua; đảm
bảo quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hoá đã bán không bị tranh chấp bởi
bên thứ ba.Trong trường hợp hàng hoá bị người thứ ba tranh chấp thì bên bán phải



đứng về phía bên mua để bảo vệ quyền lợi của bên mua; nếu người thứ ba có
quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản mua bán thì bên mua có quyền hủy bỏ
hợp đồng và yêu cầu bên bán bồi thường thiệt hại.
- Chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua:
Về thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng hóa, Điều62 LTM 2005 quy định: “Trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận, quyền sở hữu
được chuyển từ bên bán sang bên mua kể từ thời điểm hàng hóa được chuyển
giao”. Thông thường, khi bên bán chuyển giao hàng hóa cho bên mua trên thực tế,
đó cũng là thời điểm phát sinh quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đó.
Trường hợp pháp luật có quy định khác ở đây có thể nói đến là trường hợp hàng
hóa mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu
được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở
hữu đối với hàng hóa đó. Trong thực tế xảy ra những trường hợp như sau:
- Trường hợp hàng hóa mua bán mà khi giao nhận dịch chuyển được về mặt cơ học
như quần áo, giày dép, sách, vở,… thì quyền sở hữu hàng hóa được chuyển giao
cho người mua khi người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng.
- Trường hợp hàng hóa mua bán không chuyển dịch cơ học khi giao nhận như nhà ở
và các tài sản khác gắn liền với đất đai, việc giao nhận hàng hóa được thực hiện
thông qua việc giao nhận chứng từ về quyền sở hữu hàng hóa để chứng minh tình
trạng pháp lý của hàng hóa đó thì quyền sở hữu chỉ được chuyển giao cho người
mua khi hoàn tất việc chuyển giao các chứng từ đó.
- Trường hợp hàng hóa mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu như xe
máy, ô tô, máy bay, tàu thủy,… thì quyền sở hữu hàng hóa được chuyển cho bên
mua kể từ thởi điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với hàng hóa đó.
- Trường hợp hàng hóa không dịch chuyển khi giao nhận đồng thời cũng không có
chứng từ về hàng hóa thì quyền sở hữu hàng hóa được coi là đã chuyển giao tại địa
điểm và thời gian hợp đồng có hiệu lực.
- Trường hợp hàng hóa được mua theo phương thức mua sau khi sử dụng thử. Đây

là hình thức mua bán được áp dụng để tăng độ tin cậy của người mua về chất
lượng của hàng hóa. Trong thời hạn dùng thử, hàng hóa vẫn thuộc sở hữu của bên
bán. Mặc dù vẫn là chủ sở hữu hợp pháp đối với hàng hóa, tuy nhiên, quyền sở hữu


hàng hóa của bên bán bị hạn chế bởi lẽ bên bán không được bán, tặng cho, cho
thuê, trao đổi, thế chấp, cầm cố hàng hóa khi bên mua chưa trả lời.
- Trường hợp hàng hóa được mua theo phương thức trả chậm, trả dần thì quyền sở
hữu của bên bán đối với hàng hóa đã giao được bảo lưu cho đến khi bên mua trả đủ
tiền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2.1.1.1.2. Chuyển giao rủi ro.
Trong thực tiễn mua bán hàng hoá, có thể xảy ra những sự kiện khách quan làm
mất mát, hư hỏng hàng hoá trên đường vận chuyển, trước hoặc sau khi nhận hàng.
Về nguyên tắc chung, việc xác định trách nhiệm chịu rủi ro đối với hàng hoá trước
hết cần căn cứ vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. Trường hợp các bên
không có thỏa thuận thì áp dụng theo các quy định của pháp luật. Theo LTM 2005,
vấn đề xác định trách nhiệm về rủi ro đối với hàng hoá được quy định như sau:
- Rủi ro trong trường hợp có địa điểm giao hàng xác định ( Đ57 LTM 2005) :
Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, nếu bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho bên
mua tại một địa điểm nhất định thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được
chuyển cho bên mua khi hàng hoá đã được giao cho bên mua hoặc người được bên
mua ủy quyền đã nhận hàng hoá tại địa điểm đó, kể cả trong trường hợp bên bán
được ủy quyền giữ lại các chứng từ xác lập quyền sở hữu đối với hàng hoá.Địa
điểm giao hàng ở đây là phải xác định theo thỏa thuận từ trước. Nếu có địa điểm
giao hàng nhất định thì rủi ro về mất mát, hư hỏng hàng hóa được chuyển cho bên
mua khi bên mua hoặc người được bên mua ủy quyền đã nhận hàng tại địa điểm
giao hàng, kể cả bên bán được ủy quyền giữ lại các chứng từ xác lập quyền sở hữu
đối với hàng hóa. Đây cũng là một trường hợp mà thời điểm chuyển quyền sở hữu
không đồng nhất với thời điểm chuyển rủi ro.Trong trường hợp này không nên coi
người bán không có rủi ro, mà rủi ro này được ràng buôc bằng nghĩa vụ giao hàng.

Với bên mua, việc nhận hàng tại địa điểm giao hàng là một quyền quan trọng, đây
chính là điều kiện quan trọng khi xác định việc bên mua đã hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng nên bên mua có quyền thực hiện việc kiểm tra hàng hóa và quyền định
có nhận hàng hay không. Ví dụ: Công ty A thỏa thuận mua hàng với công ty B và
thực hiện giao hàng tại kho hàng 1, tuy nhiên công ty B vận chuyển lại giao hàng
tại kho hàng 2 cách kho hàng 120km, bên công ty A vẫn nhận hàng. Trong trường


hợp này mặc dù có địa điểm giao hàng xác định là kho hàng 1 nhưng khi giao tại
kho hàng 2, công ty A vẫn nhận coi như đã đồng ý với việc thay đổi địa điểm.
Trường hợp này nếu có rủi ro công ty A vẫn phải chịu trách nhiệm theo trường hợp
có địa điểm giao hàng xác định. Nếu như bên A không nhận hàng thì bên B coi như
chưa hoàn thành nghĩa vụ giao hàng của mình và phải chịu rủi ro nếu có với hàng
hóa.
- Rủi ro trong trường hợp không có địa điểm giao hàng xác định (Đ 58 LTM 2005) :
Nếu hợp đồng có quy định về việc vận chuyển hàng hoá và bên bán không có
nghĩa vụ giao hàng tại một địa điểm nhất định thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng
hàng hoá được chuyển cho bên mua khi hàng hoá đã được giao cho người vận
chuyển đầu tiên. Đây là trường hợp trong HĐMBHH không quy định về việc vận
chuyển hàng hóa cũng như nghĩa vụ giao hàng tại một địa điểm nhất định. Khi
không có địa điểm giao hàng, việc chuyển rủi ro trong trường hợp này thuộc về
bên mua sau khi hàng hóa đã được giao cho người vận chuyển đầu tiên.
- Rủi ro trong trường hợp giao hàng cho người nhận hàng để giao mà không phải là
người vận chuyển (Đ59 LTM 2005):
Nếu hàng hoá đang được người nhận hàng để giao nắm giữ mà không phải là
người vận chuyển thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho
bên mua khi bên mua nhận được chứng từ sở hữu hàng hoá; khi người nhận hàng
để giao xác nhận quyền chiếm hữu hàng hoá của bên mua.Ở đây cần lưu ý người
nhận hàng ở đây không phải là người vận chuyển mà là người nhận hàng để giao
nắm giữ hàng hóa.

- Rủi ro trong trường hợp hàng hoá đang trên đường vận chuyển (Đ60 LTM2005):
Rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua kể từ thời
điểm giao kết hợp đồng.Ngoài ra, rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được
chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hàng hoá thuộc quyền định đoạt của bên mua
và bên mua vi phạm hợp đồng do không nhận hàng.Đây là trường hợp mà đối
tượng của hợp đồng là hàng hóa đang trên đường vận chuyển, khi đó rủi ro sẽ được
chuyển cho bên mua kể từ thời điểm giao kết hợp đồng. Đây là trường hợp có rất
nhiều nhầm lẫn trong cách hiểu và áp dụng điều luật. Phải lưu ý đối tượng của hợp


×