Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Chẩn đoán hình ảnh u LÁCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 35 trang )

Chẩn đoán hình ảnh u lách

Hình ảnh tổn thương lách ngày càng được phát hiện nhiều do yêu cầu khảo
sát hình ảnh ổ bụng bằng siêu âm, cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ tăng lên và
phương tiện sẵn có. Tuy vậy hình ảnh chẩn đoán của lách luôn là thách thức
với bác sỹ lâm sàng, bác sỹ ung bướu và ngay cả bác sỹ chuyên khoa chẩn
đoán hình ảnh. Lý do chính là các bất thường của lách và đặc biệt với u lách
hiếm gặp, không triệu chứng, phát hiện tình cờ.
U lách gồm u nguyên phát và u thứ phát. Trong thực hành lâm sàng, u lách nguyên
phát có thể phân loại rộng rãi thành u lympho bào, u nguồn gốc mạch máu và các
tổn thương giống u. U nguyên phát nguồn gốc mạch máu gồm các tổn thương lành
tính như u máu (hemangioma), u mạch bạch huyết (lymphangioma) và u mô thừa
(hamartoma), dạng trung gian ác tính như u tế bào quanh mạch máu
(hemangiopericytoma), u mạch tế bào rìa (littoral cell angioma) và loại ác tính thực
sự là ung thư liên kết mạch máu (hemangiosarcoma).
Kiến thức về lâm sàng, giải phẫu bệnh, và hình ảnh chẩn đoán u lách rất quan trọng
trong chẩn đoán và điều trị, nhưng rất ít khi được tổng hợp hệ thống, cập nhật và


phổ biến rộng rãi. Bài này tổng hợp y văn hiện nay về bệnh học, lâm sàng và đặc
điểm hình ảnh các khối u lách, nhằm vào những đặc điểm cho phép chẩn đoán cụ
thể hơn.
Giải phẫu lách và kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh
Lách là cơ quan bạch huyết lớn nhất cơ thể nằm trên đường tuần hoàn ở trong ổ
bụng. Lách hình hạt cà phê, nằm dưới cơ hoành, phía ngoài phình vị dạ dày, mặt
ngoài áp vào phía sau lồng ngực. Trọng lượng lách ở người trưởng thành khoảng
150 gam. Các mặt của lách được bọc bởi màng bụng, rồi tạo thành các nếp nối với
dạ dày, cơ hoành, thận trái (được gọi là dây chằng lách-dạ dày, hoành lách và láchtụy). Mạch máu, mạch bạch huyết và dây thần kinh được dẫn đến lách bằng dây
chằng lách-thận đi vào rốn lách. Các mạch máu và thần kinh chạy giữa các bè tách
từ vỏ xơ của lách.
Về vi thể, lách gồm hai loại mô: tủy đỏ và tủy trắng. Tủy trắng chiếm 1/5 trọng


lượng của lách, gồm các mô bạch huyết bao quanh các động mạch, có chỗ tạo
thành nang bạch huyết. Tủy trắng chia 3 vùng: vùng quanh động mạch (tập trung
lympho bào T), trung tâm sinh sản (tập trung lympho bào B), vùng rìa chuyển tiếp
giữa tủy đỏ và tủy trắng (tập trung nhiều lympho bào, đại thực bào, tương bào).
Tủy đỏ gồm hệ thống phức tạp các xoang tĩnh mạch xe kẽ với những dây tế bào gọi
là dây lách hay dây Billroth. Các xoang tĩnh mạch tạo màng lưới đưa máu về tĩnh
mạch. Dây Billroth là khối xốp gồm mô võng, trong lỗ lưới có các tế bào tự do (tế
bào máu đã ra ngoài mạch), đại thực bào và tương bào.


Sơ đồ cắt ngang lách mô tả cấu trúc mô học (Kuby Immunology 5th Edition, 2009)
Để khảo sát hình ảnh lách bằng siêu âm, chụp cắt lớp vi tính và chụp cộng hưởng
từ bệnh nhân không phải chuẩn bị đặc biệt (không phải nhịn ăn, không phải thụt
tháo, không phải nín thở lâu).
Siêu âm lách rất hay được chỉ định trong lâm sàng vì có thể khảo sát được toàn bộ
lách một cách dễ dàng, không gây khó chịu cho bệnh nhân. Trên siêu âm, lách của
người trưởng thành hình hạt cà phê, thường cong lồi lên trên, lõm ở phía dưới và
vào trong, cấu trúc âm nền từ mức vừa cho tới mức thấp nhưng rất đồng nhất (Hình
1). Trục dọc của lách nằm theo đường đi của cung xương sườn 10 bên trái, mặt
hoành lồi và nằm giữa các cung sườn 9 và 11. Ngoài siêu âm thang xám thông
thường, có thể dùng siêu âm Doppler màu, Doppler năng lượng để đánh giá mạch
máu lách, mạch máu trong nhu mô và mạch máu trong tổn thương.
Trên cắt lớp vi tính (CT), trong các ảnh không tiêm thuốc cản quang thì nhu mô
lách bình thường đồng nhất, tỷ trọng từ 55 đến 56 đơn vị Housfield, bằng hoặc hơi
thấp so với tỷ trọng của gan. Sử dụng tiêm thuốc cản quang i ốt đường tĩnh mạch,
nhu mô lách bình thường ngấm lốm đốm dạng các sóng hình cung trong thì động
mạch (ngấm thuốc mạnh nhất ở thì động mạch chủ, sau tiêm khoảng 30 giây)
(Hình 2A). Hình ngấm thuốc không đồng nhất này do thuốc cản quang đang lưu



thông trong tủy đỏ, chỗ ngấm sớm là thuốc từ tiểu động mạch đến tiểu tĩnh mạch,
chỗ ngấm muộn là thuốc trong tiểu động mạch của dây Billroth đến tĩnh mạch. Sau
đó ở giữa thì tĩnh mạch hoặc tĩnh mạch muộn (sau tiêm khoảng 70 giây) thì nhu
mô lách ngấm đồng nhất (Hình 2B). Thì cân bằng cho thấy hình nhạt thuốc cản
quang ở nhu mô.
Chụp cộng hưởng từ (MRI) lách cũng sử dụng các chuỗi xung chuẩn thường quy
để khảo sát ổ bụng. Nhu mô lách bình thường có cường độ tín hiệu thấp trong các
ảnh T1W, cường độ tín hiệu cao trong các ảnh T2W (Hình 3A, B). Sau tiêm thuốc
đối quang từ, hình ảnh nhu mô lách cũng ngấm thuốc không đồng nhất ở thì động
mạch (Hình 4A), cơ chế ngấm thuốc tương tự như chụp CT. Sau tiêm thuốc 60-90
giây, nhu mô ngấm thuốc đồng nhất (Hình 4B).

Hình 1. Ảnh siêu âm cho thấy mức độ phản âm trung bình, đồng đều của lách. Cấu
trúc mạch máu vùng rốn hiện hình rõ dưới dạng các nang gần như trống âm.


Hình 2. Ảnh CT tiêm thuốc cản quang của lách. (A) Nhu mô ngấm lách (S) ngấm
thuốc không đều ở thì động mạch (sau tiêm 30 giây). (B) Ảnh CT nhu mô lách
ngấm thuốc đồng nhất thì tĩnh mạch (sau tiêm 70 giây).

Hình 3. Ảnh cộng hưởng từ (MRI) của lách bình thường (S). (A) Ảnh T1W, cường
độ tín hiệu của lách thấp hơn cường độ tín hiệu của gan (L). (B) Ảnh T2W


Hình 4. Ảnh cộng hưởng từ (MRI) của lách bình thường (S). (A) Ảnh T1W thì
động mạch, nhu mô lách ngấm thuốc không đồng nhất. (B) Ảnh T1W chụp sau đó
45 giây (thì tĩnh mạch), nhu mô lách ngấm thuốc đống nhất.
1. Các u ác tính của lách
U lympho (lymphoma)
U lympho là u ác tính phổ biến nhất của lách, độ tuổi trung bình của bệnh nhân là

55 tuổi (từ 13 đến 81). Ở lách, u lympho nguyên phát ít hơn u lympho thứ phát,
chiếm dưới 1% các u lympho. U lympho nguyên phát ở lách thường là u lympho
không Hodgkin nguồn gốc tế bào B. U lympho thứ phát xảy ra ở lách phổ biến hơn
và thường kết hợp với các hạch trong ổ bụng.
Về mặt chẩn đoán hình ảnh có bốn dạng khác nhau của u lympho lách đã được
miêu tả, tương ứng với bốn dạng mô bệnh học: thâm nhiễm lan tỏa biểu hiện lách
to; các nốt dạng ổ nhỏ hay dạng hạt kê; nhiều nốt lớn; khối đặc, kích thước lớn.
Hình ảnh siêu âm u lympho lách cũng có 4 dạng tương ứng với miêu tả mô học:
thể lan tỏa, lách to có cấu trúc âm bình thường hoặc các mảng không đồng nhất;
các nốt giảm âm (nhỏ hơn 3cm); các nốt lớn (trên 3 cm); các khối đặc, kích thước


lớn (Hình 5). Các tổn thương khu trú điển hình là giảm âm và không tăng sinh
mạch. Đôi khi các tổn thương lớn có hoại tử trung tâm, giả áp xe hoặc u dạng
nang.

Hình 5. Các dạng u lympho khác nhau. (A) Ảnh siêu âm cho thấy lách to, có rất
nhiều nốt giảm âm nhỏ ở bệnh nhân bị u lympho lách tế bào T.


Hình 5. Các dạng u lympho khác nhau. (B) Ảnh siêu âm lách có nhiều nốt đặc,
giảm âm ở bệnh nhân u lympho thể nang (follicular lymphoma).

Hình 5. Các dạng u lympho khác nhau. (C) Ảnh siêu âm cho thấy khối đặc, kích
thước lớn, bên trong có cấu trúc âm không đồng nhất ở cực dưới lách của bệnh
nhân u lympho không Hodgkin.

Hình 5. Các dạng u lympho khác nhau. (D) Ảnh siêu âm bộc lộ khối lớn, giới hạn
không rõ do u lympho tế bào B thay thế mô lách, lan ra ngoài bao lách.



Trên các ảnh CT không tiêm thuốc, các tổn thương u lympho lách đồng tỷ trọng
hoặc giảm tỷ trọng so với mô lách. Các nốt và khối của u lympho rất ít hoặc không
ngấm thuốc cản quang nên có tỷ trọng thấp trên ảnh CT tiêm thuốc cản quang
(Hình 6). Trên cộng hưởng từ (MRI) những tổn thương khối hoặc nốt lớn này đồng
cường độ với mô lành trong các ảnh T1W không tiêm thuốc đối quang từ và T2W,
nhưng chúng giảm cường độ trên các ảnh T1W sau tiêm thuốc (Hình 7). Thâm
nhiễm lan tỏa hoặc các tổn thương nốt nhỏ (dưới 1cm) gặp trong 45-75% u lympho
lách và có thể rất khó thấy trên CT hoặc MRI. Chụp FDG-PET có thể phát hiện
những tổn thương khó thấy này, giúp phân giai đoạn chính xác hơn. U lympho sau
điều trị có thể biểu hiện hoại tử và có vôi hóa bên trong.

Hình 6. U lympho, tế bào lớn, bậc trung gian (tế bào B) xâm lấn các cấu trúc lân
cận. Ảnh CT tiêm thuốc cản quang cho thấy khối giảm tỷ trọng đồng nhất, thâm
nhiễm ra các cấu trúc lân cận (dạ dày chứa thuốc cản quang đường uống).


Hình 7. U lympho nguyên phát, tế bào B. (A) Ảnh CT tiêm thuốc cản quang bộc lộ
một khối ngấm thuốc không đồng nhất, giảm tỷ trọng so với nhu mô lách; khối có
ổ hoại tử ở trung tâm. (B) Ảnh cộng hưởng từ T1W, khối đồng cường độ tín hiệu
với mô lách bình thường. (C) Ảnh cộng hưởng từ T2W, khối giảm nhẹ cường độ so
với mô lách bình thường. (D) Ảnh T1W sau tiêm thuốc đối quang từ, trên nền mô
lách ngấm thuốc mạnh khối nổi rõ do giảm cường độ không đồng nhất.
Ung thư mô liên kết mạch (Angiosarcoma)
Mặc dù hiếm, ung thư liên kết mạch là loại ung thư nguyên phát ác tính không tạo
máu phổ biến nhất của lách. U có tính xâm lấn mạnh mẽ, tiên lượng xấu. U thường
xảy ra ở bệnh nhân trên 50 tuổi. U gây lách to và vỡ lách tự phát ở khoảng 25% các
bệnh nhân. Trong các trường hợp nghi ngờ ung thư liên kết mạch lách, cần chú y
khi thực hiện sinh thiết qua da vì có thể gây chảy máu ồ ạt. Khi phát hiện ra u thì



thường bệnh đã di căn, vị trí hay gặp nhất là gan.
Bản chất xâm lấn của u được phản ánh trong hình ảnh chẩn đoán. Ung thư liên kết
mạch của lách biểu hiện là một hoặc nhiều khối xâm lấn gây lách to. Trên siêu âm,
u là một hoặc nhiều khối cấu trúc âm không đồng nhất, lách to (Hình 8). Trên CT,
u thường nhiều khối giàu mạch (Hình 9). Các khối u có cấu trúc không đồng đều
do các vùng hoại tử và xuất huyết bên trong. Hiếm khi có vôi hóa bên trong các
khối. Hình thái các khối u trong MRI (cộng hưởng từ) phản ánh bản chất không
đồng nhất của các khối, các vùng tín hiệu cao và thấp hỗn hợp trên ảnh T2W và
T1W (Hình 10), ngấm thuốc không đồng nhất ở phần mô u. Có thể thấy xuất huyết
trong lách, quanh lách hoặc xuất huyết vào ổ bụng. Trong những trường nghi ngờ
ung thư liên kết mạch máu cần tiến hành sinh thiết mô để chẩn đoán xác định, bởi
vì tính chất xâm lấn rất mạnh của u ác tính.

Hình 8. Ung thư liên kết mạch lách. Ảnh siêu âm cắt ngang cho thấy rất nhiều nốt
giảm âm, ranh giới không rõ, lách to.


Hình 9. Ung thư liên kết mạch lách ở hai bệnh nhân. (A) Ảnh CT tiêm thuốc cản
quang, khối lớn ngấm thuốc không đều ở lách. (B) Ảnh CT tiêm thuốc cản quang
cho thấy khối ngấm thuốc mạnh, không đều ở lách, có hai khối di căn ngấm thuốc
mạnh ở gan phải.

Hình 10. Ung thư liên kết mạch lách ở bệnh nhân nam 53 tuổi có biểu hiện đau vai
và thượng vị. Ảnh T1W không tiêm thuốc cho thấy khối lớn ở lách tăng cường độ
tín hiệu. Nhiều khối di căn ở gan có tín hiệu hỗn hợp, trong có vùng tín hiệu cao.
Các vùng tín hiệu cao ở gan và lách do xuất huyết
Các tổn thương di căn
Đối với bệnh nhân ung thư, đánh giá chính xác di căn lách là một phần quan trọng



của đánh giá giai đoạn. Các tổn thương di căn lách ít gặp, do thiếu các mạch bạch
huyết dẫn vào lách. Di căn theo đường máu là đường khả dĩ nhất đến lách. Di căn
lách chỉ thấy 2-9% các bệnh nhân ung thư không được điều trị và chỉ gây tổn
thương ở lách trong 5,2% bệnh nhân. Các u nguyên phát hay di căn đến lách là ung
thư hắc tố, ung thư của vú, phổi, buồng trứng, dạ dày và tụy.
Phần lớn di căn đến lách là nhiều khối (60%), một khối chiếm 31,5%, tổn thương
thâm nhiễm chiếm 8,5%.
Trên siêu âm, phần lớn di căn lách là giảm âm. Đôi khi tổn thương tăng âm (từ ung
thư biểu mô đại tràng) (Hình 11A), trung tâm chứa dịch do u phát triển nhanh gây
hoại tử hoặc nguồn gốc mô tiết nhầy. Di căn lách có thể hình “bia bắn” hay “mắt
bò” (tăng âm trung tâm, viền giảm âm ngoại vi). Trên CT tiêm thuốc cản quang,
các khối di căn lách giảm tỷ trong và được nhìn rõ nhất ở thì tĩnh mạch cửa (Hình
11B). Trên các ảnh cộng hưởng từ T1W các di căn thường khó phát hiện do đồng
tín hiệu, chúng chỉ nhìn rõ dưới dạng các tổn thương giảm tín hiệu trên các ảnh
T1W tiêm thuốc đối quang từ. Trên ảnh T2 di căn thường tăng (Hình 12) hoặc
đồng tín hiệu. Di căn lách có vôi hóa thường hiếm, chỉ thấy trong trường hợp ung
thư biểu mô tuyến nhầy.


Hình 11A. Di căn lách. Ảnh siêu âm cho thấy khối tăng âm không đều (trung tâm
giảm âm) ở lách do di căn từ ung thư biểu mô đại tràng.

Hình 11B. Di căn lách (cùng bệnh nhân 11A). Ảnh CT tiêm thuốc thì tĩnh mạch
cho thấy khối ở lách và nhiều khối ở gan cùng giảm tỷ trọng do ít ngấm thuốc.


Hình 12. Ảnh T2W cắt đứng ngang cho thấy nhiều nốt tăng tín hiệu do di căn lách
ở bệnh nhân sau phẫu thuật cắt ung thư biểu mô tế bào thận trái.
Cấy vào bề mặt thanh mạc lách xảy ra trong ung thư biểu mô phúc mạc, phổ biến

từ các khối u nguyên phát của buồng trứng hoặc dạ dày, ruột. U xâm lấn trực tiếp
lách có thể xảy ra do u từ tụy, dạ dày hoặc thận trái và sau phúc mạc (Hình 13).

Hình 13. Ảnh CT sau tiêm thuốc cho thấy ung thư biểu mô ống tụy xâm lấn trực
tiếp rốn lách tạo thành khối giảm tỷ trọng (mũi tên chỉ) không tách biệt được với
đuôi tụy (*).
U tế bào quanh mao mạch (Hemangiopericytoma)
U tế bào quanh mao mạch ở lách là loại u rất hiếm, nguồn gốc tế bào quanh mạch,
tiềm năng ác tính cao. Khoảng 50% u ở chi dưới và mô mềm, 25% trong ổ bụng.
Khi ở lách, u thường không gây triệu chứng hoặc chỉ có triệu chứng do lách to.
Trong một báo về nhiều trường hợp tế bào quanh mạch là những nốt giảm âm khi
siêu âm, nhưng những nốt này lại không phát hiện được trên CT. Tuy nhiên, chụp


cộng hưởng từ thì những nốt u tế bào quanh mao mạch lại giảm tín hiệu trên ảnh
T1W, tăng tín hiệu trên ảnh T2W. Một báo cáo khác về dấu hiệu CT của u tế bào
quanh mạch lách là khối lớn bờ nhiều múi hoặc nhiều tổn thương nhỏ rải khắp lách
(Hình 14).

Hình 14. Ảnh CT và MRI của hemangioperitytoma. A và B: Ảnh CT tiêm thuốc
cản quang cho thấy các khối ngấm thuốc mạnh và đồng nhất ở trong lách. C và D:
Ảnh cộng hưởng từ T1W tiêm thuốc đối quang từ cho thấy nhiều khối tăng sinh
mạch ở trong lách.
2. Các u mạch lành tính
U mạch máu (hemangioma)
U mạch máu là u lành tính phổ biến nhất của lách và thường được phát hiện tình cờ
khi chẩn đoán hình ảnh ổ bụng. U mạch máu của lách thường có một khối. Các u
mạch máu lan tỏa hoặc nhiều khối ở lách hiếm gặp, chỉ thấy trong các hội chứng u
mạch máu toàn thể hoặc bệnh u mạch máu (hemangiomatosis).



Về mặt chẩn đoán hình ảnh, u mạch ở lách có nhiều hình thái tùy theo thành phần
hang hoặc mao mạch trong u. Trên siêu âm, các u mạch kích thước càng nhỏ thì
càng tăng âm (Hình 15), u càng lớn thì cấu trúc âm bên trong tăng âm không đồng
nhất. Vôi hóa dạng chấm ở ngoại vi khối u mạch có thể thấy khi chụp CT. Trên
MRI, u mạch lách điển hình là giảm cho tới đồng tín hiệu trong các ảnh T1W, tăng
tín hiệu trong các ảnh T2W. Sau tiêm thuốc đối quang từ hoặc cản quang i ốt, u
máu lách ngấm ở ngoại vi trong thì động mạch, lan vào trung tâm trong thì tĩnh
mạch, giữ thuốc ở thì muộn. Khác với u máu gan ngấm hình nốt ở ngoại vi trong
thì động mạch, u máu lách ngấm thuốc ở ngoại vi hình vòng liên tục (Hình 16). U
mạch hang ngấm thuốc không đồng nhất do có các vùng dạng nang không ngấm
thuốc.

Hình 15. Hình ảnh siêu âm u mạch lách. Khối u nhỏ (đường kính 14mm), hình
tròn, tăng âm, ranh giới rõ.


Hình 16. U máu lách. (A) Ảnh CT thì động mạch cho thấy hai khối ở lách ngấm
thuốc ở ngoại vi dạng vòng liên tục. (B) Ảnh CT thì tĩnh mạch cho thấy ngấm
thuốc dần vào trung tâm ở cả hai khối (khối trước nhạt thuốc hơn). Ảnh cộng
hưởng từ T2W (C) và T1W (D) sau tiêm thuốc đối quang từ ở một bệnh nhân khác
cho thấy nhiều khối u máu tăng cường độ tín hiệu trong ảnh T2W và giữ thuốc đối
quang từ ở thì muộn.
U mạch tế bào rìa (littoral cell angioma)
U mạch tế bào rìa là u hiếm, phát sinh từ tế bào vùng rìa lót các xoang của tủy đỏ.
U phát triển lan tỏa tạo nhiều khối có thành phần tủy đỏ của lách. Phần lớn bệnh


nhân có lách to và các dấu hiệu xét nghiệm của tăng năng lách. U có thể gặp ở cả
hai giới, bất cứ lứa tuổi nào.

U mạch tế bào vùng rìa thường có nhiều khối, kích thước to nhỏ phân bố khắp
lách. Hình ảnh siêu âm của chúng rất biến đổi, từ những tổn thương tăng âm và
giảm âm tới các dạng lấm tấm lan tỏa (Hình 17). Chúng đồng tỷ trọng trên các ảnh
CT không tiêm thuốc cản quang, giảm tỷ trọng ở thì tĩnh mạch cửa sớm và đồng tỷ
trọng ở thì muộn (Hình 18). Trên MRI, u mạch vùng rìa có cường độ tín hiệu thấp
trên tất cả các chuỗi xung, tương tự các nốt lắng đọng sắt do tập trung sắc tố sắt
(hemosiderin) trong các tế bào rìa của u (Hình 19). Nên hướng tới chẩn đoán u
mạch tế bào rìa khi thấy nhiều nốt giảm đậm độ ở bệnh nhân lách to và tăng năng
lách.

Hình 17. U mạch tế bào rìa của lách (littoral cell angioma). Tổn thương tăng âm,
hình bầu dục, ranh giới rõ, kích thước 5cm. Sau theo dõi, bệnh nhân này được cắt
lách vì u to lên.


Hình 18. U mạch tế bào rìa của lách (littoral cell angioma). Ảnh CT tiêm thuốc cản
quang cho thấy nhiều tổn thương giảm tỷ trọng kích thước từ 5mm đến 30mm.
Giải phẫu bệnh chứng minh là u tế bào vùng rìa của lách.

Hình 19A. U mạch tế bào rìa của lách (littoral cell angioma) ở bệnh nhân nữ 41
tuổi phát hiện chứng giảm tiểu cầu khi hiến máu. (A) Ảnh cộng hưởng từ T1W cho
thấy lách to và có nhiều khối giảm nhẹ tín hiệu kín đáo gần như mô lách bình
thường.


Hình 19B. U mạch tế bào rìa của lách (littoral cell angioma) ở bệnh nhân nữ 41
tuổi phát hiện chứng giảm tiểu cầu khi hiến máu. (B) Ảnh cộng hưởng từ T2W, các
khối giảm tín hiệu, mô lách bình thường tín hiệu tăng sáng.
U mô thừa (hamartoma)
U mô thừa, còn gọi là u tuyến của lách (splenadenoma), hay tăng sản dạng nốt, là

tổn thương hiếm của lách. U mô thừa là tổn thương dị dạng lành tính, gồm các
thành phần của tủy đỏ bị dị dạng, không có các nang lympho bào. U thường được
phát hiện tình cờ ở bất cứ lứa tuổi nào, xảy với tỷ lệ như nhau ra ở cả hai giới.
Giảm tiểu cầu và thiếu máu có thể xảy ra khi tế bào tạo máu bị biệt lập, u lớn và
thường ở nữ giới.
Hình ảnh siêu âm của u mô thừa của lách điển hình là các khối đặc đồng nhất,
nhưng đôi khi có thể không đồng nhất do có thành phần nang, hoặc trường hợp
hiếm thì có các vôi hóa kích thước lớn do hoại tử, xuất huyết. Phần lớn u mô thừa
tăng âm so với như mô lách. Trên siêu âm Doppler màu, các khối u loại này
thường biểu hiện tăng sinh mạch máu (Hình 20).
Trên CT, các u mô thừa thường đồng tỷ trọng với mô lách trước và sau tiêm thuốc
cản quang, chỉ có dấu hiệu bờ lách bị khối đẩy phồng, do đó khó phát hiện. Tuy
nhiên, các u mô thừa có thể không đồng nhất và ngấm thuốc cản quang (Hình 21).


Trên MRI, các u mô thừa thường đồng tín hiệu với mô lành trong các ảnh T1W,
tăng cường độ tín hiệu không đồng nhất trên ảnh T2W và ngấm thuốc lan tỏa,
không đồng nhất trên các ảnh T1W tiêm thuốc đối quang từ (Hình 21). Trên các
ảnh MRI thì muộn, các u mô thừa của lách biểu hiệu ngấm thuốc đồng nhất hơn.
Bờ của khối u mô thừa thường nhẵn, không có biêu hiện thâm nhiễm mô lách xung
quanh.
Hình ảnh có tầm quan trọng trong chẩn đoán phân biệt u mô thừa lách với các tổn
thương ác tính không tăng sinh mạch như u bạch huyết hoặc di căn, vì u mô thừa
có tăng sinh mạch trên siêu âm Doppler. U mô thừa chẩn đoán phân biệt với các u
ác tính tăng sinh mạch dựa vào các phương pháp chẩn đoán hình ảnh thì chưa đủ
tin cậy, cần dựa vào bằng chứng mô học.

Hình 20A. U mô thừa (hamartoma) của lách ở bệnh nhi nữ 4 tuổi phát hiện khi
khám nhiễm khuẩn tiết niệu. (A) Ảnh siêu âm cắt ngang lách phát hiện khối tròn,
ranh giơi rõ, cấu trúc âm hỗn hợp.



Hình 20B. U mô thừa (hamartoma) của lách ở bệnh nhi nữ 4 tuổi phát hiện khi
khám nhiễm khuẩn tiết niệu. (B) Ảnh siêu âm Doppler màu cho thấy tăng sinh
mạch máu trong khối.


Hình 21. U mô thừa (hamartoma) của lách. (A) Ảnh CT tiêm thuốc cản quang thì
động mạch cho thấy khối trong lách ngấm thuốc mạnh. (B) Ảnh CT thì tĩnh mạch


thấy khối đồng tỷ trọng mô lành, chỉ còn thấy bờ lách bị đẩy phồng. Chụp MRI
thấy khối đồng cường độ trong ảnh T1W inphase (C) và hơi tăng cường độ trong
ảnh T2W xóa mỡ (D). Sau tiêm thuốc đối quang từ, khối ngấm thuốc không đồng
nhất ở thì động mạch (E) và ngấm đồng nhất ở thì muộn (F).
U mạch bạch huyết (lymphangioma)
U mạch bạch huyết là những khối u hiếm, lành tính, phát triển chậm, thường phát
hiện ở trẻ em. Tương tự với u máu, u mạch bạch huyết của lách có thể xảy ra đơn
độc hoặc là một phần của hội chứng liên quan hệ bạch huyyết ở ngiều cơ quan. U
mạch bạch huyết lớn của lách có thể biểu hiện lâm sàng là khối ổ bụng ở trẻ em, ở
người lớn thì u mạch bạch huyết thường được phát hiện tình cờ do không có triệu
chứng.
Hình thái mô học của u mạch bạch huyết lách có phổ rộng, từ dạng nốt đơn độc,
nhiều nốt hoặc nhiều nốt lan tỏa. U mạch bạch huyết thường dạng nang nhỏ hoặc
khối đặc có sẹo trung tâm. Trên cơ sở kích thước và các kênh mạch máu, u mạch
bạch huyết chia thành ba thể: mao mạch, hang và nang. Khác với u máu
(hemangioma), u mạch bạch huyết thường ở vị trí liên quan đến vỏ và bè lớn của
lách là những vị trí có nhiều mạch bạch huyết.
U mạch bạch huyết thường biểu hiện dưới dạng các nang nhiều ngăn, kích thước to
nhỏ, vị trí chính dưới bao lách. Trên siêu âm, các nang giảm âm, dịch bên trong

trống âm hoặc có cặn lắng, các chấm vôi nhỏ. Siêu âm Doppler màu có thể thấy
mạch máu chạy dọc theo thành nang. Chụp CT, các nang giảm tỷ trọng, vài vách
bên trong và đôi khi có viền vôi ở ngoại vi (Hình 22). Các khoảng bạch huyết nhỏ,
tạo u bạch mạch thể mao mạch và thể hang, có thể xuất hiện dưới dạng các nốt đặc
giảm âm hoặc giảm tỷ trọng khi siêu âm hoặc chụp CT (Hình 23). Phần lớn các u
mạch bạch huyết có cường độ dịch đơn thuần khi chụp MRI, nhưng một số nang


×