Tải bản đầy đủ (.ppt) (113 trang)

Bài giảng cơ sở văn hóa việt nam đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.99 KB, 113 trang )

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VĂN HOÁ
VÀ ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH VĂN HOÁ VIỆT NAM
1.1. Văn hóa và những đặc trưng, chức năng của nó
1.1.1. Khái niệm văn hóa
1.1.2. Những đặc trưng và chức năng của văn hoá
1.2 Mối quan hệ giữa văn hoá và văn minh
1.3. Văn hoá với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội
1.4 Cấu trúc của hệ thống văn hoá
1.5. Các loại hình văn hoá
1.6. Điều kiện hình thành văn hoá Việt Nam
1.6.1. Tự nhiên
1.6.2. Lịch sử - xã hội
1.6.3. Con người- Chủ thể của văn hoá Việt Nam


Chương 2
DIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM
2.1. Văn hoá Việt Nam thời tiền sử
2.2. Văn hoá Việt Nam thời sơ sử
2.3. Văn hoá Việt Nam thiên niên kỷ đầu công nguyên
2.4. Văn hoá Việt Nam thời tự chủ (thế kỷ X đến nửa sau thế kỷ XIX)
2.5. Văn hoá Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945
2.6. Văn hoá Việt Nam từ năm 1945 đến nay


Chương 3:
CÁC VÙNG VĂN HÓA VIỆT NAM
3.1. Vùng văn hóa Tây Bắc
3.2. Vùng văn hóa Đông Bắc
3.3. Vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ
3.4. Vùng văn hóa Trung Bộ


3.5. Vùng văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên
3.6. Vùng văn hóa Nam Bộ


Chương 4: NHỮNG THÀNH TỐ CƠ BẢN CỦA VĂN HOÁ
VIỆT NAM
4.1. Văn hoá nhận thức
4.1.1 Nhận thức về vũ trụ: Triết lý Âm- Dương; nguyên lý Ngũ
hành; Hà đồ và Lạc thư; Tứ tượng và bát quái; lịch pháp và hệ
đếm can - chi
4.1.2. Nhận thức về con người: Con người tự nhiên và con người
xã hội
4.2. Văn hoá tổ chức đời sống tập thể
4.2.1. Tổ chức gia đình, gia tộc
4.2.2 Tổ chức nông thôn
4.2.3. Tổ chức đô thị
4.2.4. Tổ chức quốc gia


4.2.5. Tổ chức giáo dục và khoa cử
4.3 Văn hoá tổ chức đời sống cá nhân
4.3.1.Tín ngưỡng
4.3.2.Phong tục
4.3.3. Lễ hội
4.3.4. Lễ tết
4.3.5. Luật tục
4.3.6.Văn hoá giao tiếp và nghệ thuật ngôn từ
4.3.7.Nghệ thuật thanh sắc và hình khối.
4.4. Văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên
4.4.1 Tận dụng môi trường tự nhiên

4.4.2.Đối phó với môi trường tự nhiên
4.5. Văn hoá ứng xử với môi trường xã hội
4.5.1.Giao lưu với Ấn Độ: Ấn Độ giáo,Bà la môn giáo, Phật
giáo tiểu thừa.


4.5.2.Giao lưu với Trung Hoa: Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo đại
thừa.
4.5.3.Giao lưu với Phương Tây: Thiên Chúa giáo.
4.5.4.Hồi giáo với văn hoá Việt Nam
KẾT LUẬN:
Văn hoá và phát triển
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá Việt Nam


4.5.2.Giao lưu với Trung Hoa: Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo đại
thừa.
4.5.3.Giao lưu với Phương Tây: Thiên Chúa giáo.
4.5.4.Hồi giáo với văn hoá Việt Nam
KẾT LUẬN:
Văn hoá và phát triển
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá Việt Nam


Học liệu
Học liệu bắt buộc:
1. Trần Quốc Vượng (chủ biên) Cơ sở văn hóa Việt Nam. NXB Đại học
Quốc Gia Hà Nội, 1996.
2. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam. NXB TP HCM, 1996.
3. Lê Văn Chưởng, Cơ sở văn hóa Việt Nam. NXB Trẻ, TP HCM, 1999.

Tài liệu tham khảo:
1. Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, NXB VHTT, Hà Nội,
2002.
2.Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, NXB Thành phố Hồ Chí
Minh,1990.
3. Lương Duy Thứ (chủ biên), Đại cương văn hoá Phương Đông, NXB
Giáo dục, Hà Nội 1996.
4.Đặng Văn Lung, Nguyễn Sông Thao, Phong tục tập quán các dân tộc
Việt Nam, NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội,1997


Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VĂN HOÁ VÀ ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH
VĂN HOÁ VIỆT NAM
1.1. Văn hóa và những đặc trưng, chức năng của nó
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Ở phương Đông khái niệm văn hoá bắt nguồn từ tiếng Hán, văn là
văn vẻ (ý đẹp lời hay) hoá là sự biến đổi giáo hoá… Chính vì vậy
phương Đông khái niệm văn hoá biểu hiện thế ứng xử đẹp, vẻ đẹp
của con người nặng về văn hoá chuẩn mực, đạo đức xã hội.
Văn hoá là nét đẹp, thế ứng xử đẹp. Nhà triết học nhìn nhận văn hoá
dưới dạng chinh phục nhận thức thế giới thiên nhiên, con người
trong quá trình lịch sử. Nhà dân tộc học nhìn nhận văn hoá dưới
dạng những sắc thái văn hoá đặc thù của dân tộc. Nhà văn hoá học
nhìn nhận văn hoá dưới góc độ sáng tạo văn hoá của nhân loại.
Nhà Sử học nhận thấy tiến trình phát triển văn hoá- lịch sử con
người => Chính vì vậy cách tiếp cận về khái niệm văn hoá rất đa
tuyến và nhiều chiều.



Từ "văn hóa” có nhiều nghĩa, nó được dùng để chỉ những
khái niệm có nội hàm hết sức khác nhau. Trong tiếng
Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ
học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn
hóa); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ văn minh
của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn),...
-Với ông Taylor lần đầu tiên văn hoá có 1 định nghĩa:
“Văn hoá hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó là toàn bộ
phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng tập
quán khác mà con người có được với tư cách là một
thành viên của xã hội.


-Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết:

"Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những
kiệt tác trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với
những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì
làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những
sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng,
phong tục, tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu
thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại
Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp
năm 1970 tại Venise“.


- Năm 1940, Hồ Chí Minh đã viết: "Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,

khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó
tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người
đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống
và đòi hỏi của sự sinh tồn" .
- Theo ông Trần Ngọc Thêm: Văn hoá là một hệ thống
hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội của mình


Ban đầu khái niệm văn hoá là từ gốc la tinh (culture)
có nguồn gốc là vun trồng. Khái niệm văn hoá của
phương Tây nặng về chinh phục, cải tạo tự nhiên.
Sau này nó phát triển và lý giải theo nhiều cách
khác nhau tuỳ theo cách tiếp cận.
Văn hoá là biểu hiện của phương thức sống của con
người. Cho đến nay, các nhà khoa học đã thống kê
có trên 500 định nghĩa về văn hoá. Sở dĩ có nhiều
định nghĩa về văn hoá bởi có nhiều ngành khoa
học khác nhau tìm hiểu về văn hoá, lấy văn hoá
làm đối tượng nghiên cứu.


Như vậy, văn hoá là sự sáng tạo của con người, là
sự biến đổi cái tự nhiên của từng cộng đồng
người nhất định. Văn hoá là lối sống của cộng

đồng người, của xã hội và hệ thống các giá trị.
Văn hoá là sản phẩm của con người nhằm sản
sinh ra những giá trị vật chất và tinh thần phục
vụ cho chính bản thân con người. Văn hoá là
quá trình biến đổi cái tự nhiên tạo nên những
khuôn mẫu mới và là dấu ấn của cộng đồng tộc
người về mọi phương diện vật chất và ý thức
cũng như nhân sinh quan và thế giới quan (ứng
xử với môi trường tự nhiên và xã hội).


Văn hóa là tất cả những gì con người sáng tạo ra,
là nhân hóa.
Văn hóa là tất cả những gì không phải của tự
nhiên.
Văn hóa là cái gì phân biệt được con người ta với
các sinh vật khác, là cái phần của môi trường do
con người sáng tạo ra.
Văn hóa là đối lập với tự nhiên...


Con người mong muốn càng ngày càng trở nên
con người hơn . Nhân loại mong muốn tiến đến
một nhân loại tiến bộ hơn. Văn hóa hướng tới một
nền văn hóa ngày càng cao, hoàn hảo hơn, nhân
bản hơn. Văn hóa là cái nhân loại có rồi, nhưng
luôn luôn còn thiếu. Nghị trưởng Pháp Edouard
Herriot nói: “Văn hóa là cái còn lại khi người ta
đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã
học tất cả” ( La culture c’ est ce qui rest quand on

a tout oublié, c’ est ce qui manque quand on a tout
appris).


1.1.2. Những đặc trưng và chức năng của văn hoá :
Trước đây người ta chia văn hoá thành hai lĩnh vực vật
chất và tinh thần, UNESCCO phân chia văn hoá thành
hai lĩnh vực văn hoá hữu thể - văn hoá vô thể, văn hoá
vật thể - phi vật thể… Gần đây với những góc độ tiếp
cận khác nhau các nhà nghiên cứu văn hoá có trình bày
các đặc trưng, chức năng của văn hoá như sau:
+ Ông Tạ Văn Thanh: Chức năng chính của văn hoá là
chức năng giáo dục, và các chức năng dưới đây góp
phần thực hiện các chức năng trên:
- Chức năng nhận thức
- Chức năng định hướng, đánh giá xác định chuẩn mực,
điều chính xã hội, điều chỉnh cách ứng xử của con
người.
-Chức năng giao tiếp
- Chức năng đảm bảo tính kế tục lịch sử


-Trong giáo trình Văn hoá Xã hội chủ nghĩa có trình bày các

chức năng của văn hoá:
- Chức năng giáo dục; Chức năng nhận thức; Chức năng
thẩm mỹ; Chức năng dự báo;Chức năng giải trí
Sở dĩ có sự khác nhau trong cách trình bày các chức năng của
văn hoá là do góc độ tiếp cận của từng tác giả khác nhau
hay là cách nói khác nhau về cùng một chức năng văn hoá.

Theo ông Trần Ngọc Thêm các đặc trưng và chức năng của
văn hoá như sau:
a. Nói đến văn hoá là nói đến tính hệ thống. Sự phân biệt tính
hệ thống với tính tập hợp giúp chúng ta hiểu biết những sợi
dây liên hệ vô hình nhằm phát hiện ra những đặc trưng và
tìm ra quy luật hình thành và phát triển của văn hoá trong
thời điểm lịch sử nhất định.


Nhờ có tính hệ thống mà văn hoá với tư cách là đối tượng bao trùm
mọi hoạt động xã hội thực hiện chức năng tổ chức xã hội. Chính
văn hoá thường xuyên làm tăng tính ổn định của xã hội.
b. Đặc trưng thứ 2 của văn hoá đó là tính giá trị. Văn hoá theo nghĩa
thuần nhất của nó trở nên đẹp và có giá trị. Ở đây tính giá trị là
chuẩn để phân biệt với phi giá trị. Trong tính giá trị chúng ta có thể
phân chia thành:
- Về mục đích: giá trị vật chất của văn hoá và giá trị tinh thần.
Không phân biệt rạch ròi giữa mục đích vật chất và tinh thần.
- Về ý nghĩa: Có thể phân chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức
và giá trị thẩm mỹ.
- Về thời gian: giúp chúng ta nhìn nhận sự vật hiện tượng khách
quan khoa học (đồng đại và lịch đại)… Điều này giúp văn hoá thực
hiện chức năng thứ 2 của mình là điều chỉnh xã hội, giúp xã hội
cân bằng và tự hoàn thiện theo đúng quy luật đồng thời nó cũng
thích ứng với những biến đổi của môi trường xã hội giúp định
hướng các hệ thống giá trị chuẩn mực làm động lực cho sự phát
triển của xã hội.


c. Đặc trưng thứ 3 của văn hoá là tính nhân sinh. Tính nhân sinh cho

phép phân biệt văn hoá như hiện tượng xã hội (chủ thể sáng tạo
văn hoá) với các giá trị của tự nhiên. Văn hoá là tất cả những gì
con người tác động vào tự nhiên mang tính vật chất hay tinh thần
để tạo nên văn hoá cho chính mình. Tính nhân sinh của đặc trưng
văn hoá gắn liền với hoạt động của con người trong xã hội. Văn
hoá trở thành công cụ giao tiếp quan trọng và trở thành chức năng
giao tiếp (nếu ngồn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hoá là
nội dung của sự giao tiếp).
d. Văn hoá được hình thành trong quá trình tồn tại và phát triển của
mỗi cộng đồng dân tộc. Văn hoá cũng được tích luỹ qua nhiều thế
hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hoá một chiều sâu. Trong quá trình
lịch sử văn hoá tự tiếp biến, biến đổi cho phù hợp với các giá trị
đương đại. Chính vì vậy tính lịch sử vô cùng quan trọng trong tiến
trình phát triển văn hoá. những giá trị văn hoá tương đối ổn định:
kinh nghiệm tập thể trong trị thuỷ, chống ngoại xâm, lao động sản
xuất…) qua thời gian và không gian lịch sử nhất định được đúc
kết thành các khuôn mẫu xã hội và cố định dưới các dạng: ngôn
ngữ, phong tục, tập quán lễ nghi, pháp luật…


Truyền thống văn hoá tồn tại nhờ vào chức năng giáo dục của văn
hoá. Chính chức năng giáo dục của văn hoá (những giá trị văn
hoá ổn định và đang hình thành) đã dần tạo nên những hệ thống
chuẩn mực mà con người chủ thể của văn hoá phải tiếp thu, phát
tín hiệu để hình thành nhân cách. Chức năng giáo dục hướng lý
tưởng cao đẹp, đạo đức của con người vào điều hay lẽ phải theo
khuôn mẫu xã hội quy định.
1.2. Mối quan hệ giữa văn hoá và văn minh NHOM 1
Lâu nay, không ít người vẫn sử dụng "văn minh" (civilization,
civilisation) như một từ đồng nghĩa với "văn hóa". Thực ra, như

viện sĩ D. Likhacho[1990] có nhận xét, "đây là những khái niệm
gần gũi, có liên quan mật thiết với nhau, song không đồng nhất.
Văn hóa giàu tính nhân bản, nó hướng tới những giá trị muôn
thuở; trong khi đó thì văn minh hướng tới sự hợp lý, sắp đặt cuộc
sống sao cho tiện lợi". Nói đến văn minh, người ta chủ yếu nghĩ
đến các tiện nghi vật chất. Văn minh là giai đoạn phát triển của xã
hội đối lập với giai đoạn mông muội, dã man. Theo quy luật tất cả
các dân tộc sẽ bước vào thời đại “văn minh” sau khi đã trải qua
giai đoạn”mông muội, dã man”.


Đối với nền văn minh nhân loại thì chính trị được
xuất hiện như nền tảng đầu tiên. Bởi lẽ khi con
người quần tụ lại thành xã hội, thì điều thiết yếu đầu
tiên là làm sao con người có thể cùng chung sống
với nhau một cách an ninh, và thế là chính trị xuất
hiện. Aristote nói: “Chính trị là nghệ thuật quyền
lực mạnh nhất”.
Đường sắt, ga xe lửa, xe hơi tiện nghi, sân bay hiện
đại, rạp hát đa chức năng, nghi lễ tôn giáo
nhanh,gọn giản tiện... ? Một xã hội sống trong nhân
ái công bằng là nhờ ở nền chính trị tiến bộ, nền
chính trị ấy chẳng là gì khác hơn là theo đuổi công
bằng cho xã hội.


Khi sắt thép càng được khai thác rầm rộ, khoa học kỹ
thuật quân sự phát triển thì con người càng rơi vào thảm
họa diệt chủng bằng chính vũ khí tàn khốc của mình, khi
xã hội càng giải phóng những tập tục của mình thì xã hội

càng rơi vào lối sống buông thả, phóng dật, và những
bệnh dịch phi luân càng ngày càng phát triển: nạn đồng
tính luyến ái, lưỡng dục, AIDS... khi người ta càng giải
phóng phụ nữ thì phụ nữ ngày càng bị hạ thấp nhân
phẩm, thân xác bị biến thành phương tiện hoá để phục vụ
nền công nghệ trục lợi phái đẹp, hay hội chợ thương mại
hoá đàn bà (instrumentalization de la femme),
Sradadhkrishnan nói: “Sự đầu hàng của con người trước
quyền lực của vật chất là nhược điểm chính của nền văn
minh hiện đại”.


Văn minh là gì? Nó chẳng là gì khác hơn là cách thức của
đời sống hơn là chính đời sống. Một con người có văn hoá
không phải vì anh ta ngồi trong xe hơi mà là cách thức ngồi
của anh ta. Một xã hội có văn minh, không phải xã hội có xe
hơi, rạp hát, hay trường đại học, mà ở chỗ xã hội đó sống
trong những giá trị văn minh đã được khai sáng. Một nhà
hát dù to nhưng đó chưa phải là giá trị văn hoá khi mà
những gánh diễn bên trong vẫn phô diễn những trò vô văn
hoá. Một xã hội nhà cao cửa rộng, người xe tấp nập, không
hẳn đã văn minh khi những công dân của nó sống bê tha,
bừa bãi, phóng túng, phi luật pháp, phép tắc và đạo lý.
White Head nói: “Các nền văn minh chỉ có thể hiểu được
bởi những người được văn minh hoá”.


Văn minh là sự giao thoa, giao tiếp các giá trị của toàn thể nhân loại
trong đời sống của mỗi dân tộc. Văn minh chủ yếu liên quan đến
kỹ thuật làm chủ thế giới, biến đổi thế giới sao cho đáp ứng đòi

hỏi của con người. Như vậy, văn hóa và văn minh khác nhau
trước hết là ở tính giá trị: trong khi văn hóa là một khái niệm bao
trùm, nó chứa cả các giá trị vật chất lẫn tinh thần, thì văn minh
thiên về các giá trị vật chất mà thôi.
Văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính lịch sử: trong khi văn hóa
luôn luôn có bề dày của quá khứ (tính lịch sử) thì văn minh chỉ là
một lát cắt đồng đại, nó chỉ cho biết trình độ phát triển của văn
hóa; từ "văn minh" có thể được định nghĩa khác nhau trong các từ
điển khác nhau, song chúng thường có chung một nét nghĩa là nói
đến "trình độ phát triển".
Văn minh luôn là đặc trưng của một thời đại: nếu như vào thế kỷ
XIX, chiếc đầu máy hơi nước đã từng là biểu tượng của văn minh
thì sang thế kỷ XX, nó trở thành biểu tượng của sự lạc hậu,
nhường chỗ cho tên lửa vũ trụ và máy vi tính. Một dân tộc có
trình độ văn minh cao vẫn có thể có một nền văn hóa rất nghèo
nàn, và ngược lại, một dân tộc lạc hậu vẫn có thể có một nền văn
hóa phong phú.


×