Khảo cổ học Việt Nam
- 37 -
CHƯƠNG BA
VÀI NÉT ĐẶC TRƯNG HẬU KỲ ĐÁ MỚI –
SƠ KỲ KIM KHÍ NAM TÂY NGUYÊN
Nam Tây Nguyên gồm hai tỉnh Đắc Lắc và Lâm Đồng. Về cơ bản tương ứng
với các vùng đòa lý: Núi thấp Chư Đjiu, Cao nguyên Buôn Mê Thuột, Cao nguyên
M’Đrắc, Bán hình nguyên La Súp, Trũng Krông Pách- Lắc( Thuộc phần nam khu
đòa lý Đắc Lắc – Bình Phú); các vùng: Núi trung bình Chư Yang Sin, Cao nguyên
Đắc Nông, Cao nguyên Di Linh, Núi thấp Di Linh, Đồi Cát Tiên (thuộc khu cực
Nam Trung Bộ)
1. ĐẶC TRƯNG DI TÍCH
1.1. Đặc trưng phân bố di tích
Trong số các vùng đòa lý đó, khảo cổ học tìm thấy dấu vết hậu kỳ đá mới – sơ
kỳ kim khí tìm thấy 19 đòa điểm ở 5 vùng đòa lý sau: Vùng cao nguyên Buôn Mê
Thuật (còn gọi là cao nguyên Đắc Lắc), bán bình nguyên Ia Súp, trũng Krông Pách
– Lắc. Cao nguyên Đắc Nông và vùng đồi Cát Tiên.
+ Tại vùng cao nguyên Buôn Mê Thuật đã phát hiện 2 đòa điểm: Ea H’Leo và
Ea Kao. Diện tích của vùng này rộng khoảng 3667 km2, giáp với cao nguyên Đắc
Nông và bán bình nguyên Ia Súp ở phía tây. Đây là vùng cao nguyên basalte trẻ, ít
bò chia cắt, gợn sóng. Độ cao trung bình 500 – 600m, hơi thoải dần từ bắc xuống
nam và từ tây sang đông.
- Đòa điểm EaH’Leo, nằm gần quốc lộ 14, xã EaH’Leo, huyện EaH’Leo, giáp
với huyện Ayunpa của tỉnh Gia Lai, nơi đầu của các nhánh suối đổ vào sông Ba. Di
chỉ do Nguyễn Khắc Sử và Võ qúy xác minh đầu năm 2000. Tầng văn hóa mỏng,
bò xáo trộn nghiêm trọng. Tại đây đã tìm thấy 1 mảnh tước và 7 rìu bôn đá mài
toàn thân (2 rìu vai xuôi, 3 rìu vai ngang, 1rìu tứ giác và 1 bôn hình răng trâu)
- Đòa điểm Ea Kao, thò xã Buôn Ma Thuật do cán bộ Bảo tàng thu lượm được
trên mặt gồm 13 hiện vật đá và 3 đế đồ gốm. Trước đó, cán bộ Bảo tàng Lòch sử
Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh đã tiếp cận di tích này và thu lượm được khá
nhiều đồ gốm, song chưa có thông báo chi tiết. Tại đây đã thu thập được 13 hòên
vật đá, chủ yếu là rìu không có vai cùng với một số đồ gốm.
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 38 -
- Tại vùng bán bình nguyên Ia Súp đã phát hiện 1 đòa điểm Ia Rốp, huyện Ia
Súp. Đây là vùng đòa hình thuộc dạng đồng bằng bóc mòn với đồi núi sót lượn
sóng, độ cao tuyệt đối chỉ đạt 300 – 200m, có lẽ là một trong những vùng thấp nhất
của Nam Tây Nguyên.
Đòa điểm Ia Rốp, huyện Ia Súp được phát hiện đầu năm 2000, trong khi đào
đất làm vườn, dân đòa phương đã thu được 2 cuốc có vai, cuốc đá dạng phác vật,
chưa mài. Cuốc làm từ đá phtanite, màu trắng đục; có vai xuôi, thân hình chữ nhật,
mỏng, mặt bụng gần phẳng, mặt lưng hơi cong khum, toàn thân có vết ghè nhỏ,
chưa được mài. Mặt bổ dọc hình chữ “V” hơi vát về mặt trong, mặt cắt ngang gần
hình thang đáy cong lồi. Nhìn chung, cuốc được chế tác với kỹ thuật ghè khá hoàn
thiện. Trên rìa lưỡi có nhiều vết ghè nhỏ tu chỉnh tạo rìa lưỡi mỏng và sắc. Kích
thước 1 chiếc thân dài 12,6 cm, lưỡi dài 9 cm, lưỡi rộng 6,8 cm, vai rộng 6 cm, thân
dài 1,7 cm, chuôi dài 3,6 cm, rộng 2,2 cm, dày 1,6 cm; chiếc còn lại thân dài 12,5
cm, lưỡi dài 9,5 cm, lưỡi rộng 6,8 cm, vai rộng 6 cm, thân dài 1,8 cm, chuôi dài 3,8
cm, rộng 2,5 cm, dày 1,7 cm.
+ Tại vùng cao nguyên Đắc Nông đã phát hiện 10 đòa điểm khảo cổ. Vùng cao
nguyên Đắc Nông nằm ở sườn tây của dẫy Trường Sơn Nam, phía bắc giáp với
vùng Ia Súp, phía đông và đông nam giáp vùng núi thấp Chư Yang Sơn, có diện
tích 3820m2. Đòa hình vùng này là cao nguyên basalte bò xâm thực chia cắt mạnh,
phần lớn diện tích của vùng có độ cao tuyệt đối trung bình từ 700 – 800 m. Đây là
một trong những vùng có đòa hình cao nhất Nam Tây Nguyên .
1. Đòa điểm Đồi chợ (Gò Chợ), nằm ở thò trấn Kiến Đức, huyện Đắc R’lấp,
cách thành phố Ban Mê Thuật 180 km nề phía tay nam, cách quốc lộ số 14 từ Sài
Gòn đi Ban Ma Thuật 1 km về phía bắc. Di chỉ được phát hiện 1987, dân đòa
phương đã sưu tầm được 32 hiện vật đá, 1 hiện vật gốm.
2. Đòa điểm Đồi Nghóa trang, cách di tích Gò Chợ khoảng 1 km theo đường
chim bay về phía bắc. Di tích phân bố trên phần gần đỉnh quả đồi, nơi quy hoạch
xây dựng Nghóa Trang liệt sỹ của huyện Đắc R’lấp (mới tách ra từ huyện Đắc
Nông năm 1985). Do vậy hầu như toàn bộ di tích đã bò san ủi để làm Nghóa Trang
liệt sỹ. Tại đây thám sát 4m2 và khai quật 30 m2, có tầng văn hóa mỏng, thu được
đồ đá và đồ gốm.
3. Vườn cà phê nhà ông Phạm Kiên, cách Đồi Nghóa Trang khoảng 900 m về
phía bắc. Tại đây đã đào một hố thám sát với diện tích thu được 2 bàn mài và một
số mảnh gốm về chất liệu, màu sắc và hoa văn giống gốm ở Đồi Nghóa Trang.
4. Vườn nhà ông Hoàng Văn Đăng ở bên trái con đường từ thò trấn xuống xã
Châu Giang, cách di chỉ Đồi Nghóa Trang hơn 1km về phía đông bắc. Di tích nằm ở
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 39 -
độ cao khoảng 20m so với mực nước suối về mùa khô, tầng văn hóa gần như đã bò
phá hủy, chỉ còn nhặt được một số mảnh gốm.
5. Vườn nhà ông Hoan, cách vườn nhà anh Đăng khoảng 200m. Tầng văn hóa
ở đây cũng bò phá hủy, chỉ nhặt được một số mảnh gốm.
6. Vườn nhà anh Nguyễn Văn Hòa, cách vườn nhà anh Hoan 450 m, hố thám
sát cho thấy tầng văn hóa đã bò phá hoại gần hết, thu được 3 bàn mài và một số
mảnh gốm.
7. Vườn nhà anh Quyết, cách vườn nhà anh Hoan hơn 200m. Tại đây chỉ thu
được một số mảnh gốm, tầng văn hóa đã bò phá hoại hết.
8. Vườn nhà ông Phú, cách vườn nhà anh Hoà gần 200m, di tích cũng đã bò
phá hủy hết bởi máy ủi san đồi làm vườn, chỉ còn nhặt được một số mảnh gốm.
9. Vườn nhà ông Khoan, cách trụ sở Ủy ban Nhân dân huyện Đắc R’lấp cách
di chỉ Đồi Nghóa Trang khoảng 1,2 km về phía đông. Năm 1994 , khi đào hố làm
vườn ông Khoan đã phát hiện được 3 rìu tứ giác bằng đá phtanit , 5 phác vật rìu tứ
giác. Một hố thám sát mở cách hố đào của ông Khoan 50 m cũng chỉ thu được một
vài mảnh gốm, tầng văn hóa đã bò phá hủy hết.
10. Đòa điểm Đraisi ở bờ sông Mado, gần buôn Đraisi, trên điểm cao 510 –
520m.Buôn Đraisi thuộc xã 10, huện 5 (trước 1975), nay thuộc huyện Đắc R’lấp.
Năm 1974, cán bộ Viện Khảo cổ học đào thám sát. Tầng văn hóa nằm ở độ sâu 0,8
– 1,3m, đã thu được 1 cuốc đá , 2 dầm đá, 1 rìu vai xuôi, 1 bàn mài, 45 mảnh gốm
và một số mảnh đá nguyên liệu. Di vật đáng chú ý nhất là 1 chiếc cuốc chim và 2
dầm đá.
Ngoài 10 đòa điểm nói trên, trong vùng đòa lý này còn phát hiện lẻ tẻ nhiều đồ
đá, đáng chú ý là các sưu tập sau:
- Sưu tập Quảng Trực – Quảng Tân gồm 15 hiện vật đá ;
- Sưu tập Đắc Nang, huyện Krông Nô gồm 18 cuốc hình thang.
- Sưu tập Đắk Tôn, xã Thường Xuân, huyện Đắc Nông gồm 4 hiện vật đá (1
viên đá ghè tròn có lỗ thủng ở giữa, 2 bôn tứ giác và 1 bôn có vai).
Với 10 đòa điểm và một số sưu tập nói trên cho thấy, vùng đòa lý cao nguyên
Đắc Nông là nơi tập trung cao nhất các di tích hậu kỳ đá mới – sơ kỳ kim khí ở
Nam Tây Nguyên. Trong đó xung quanh thò trấn Đắc R’Lấp, trong diện tích khoảng
4 km2 (mỗi chiều 2 km) là nơi tập trung nhất.
+ Tại vùng trũng Krông Pak – Lác đã phát hiện 5 đòa điểm. Vùng trũng Krông
Pắk – Lác, nằm kẹp giữa cao nguyên Buôn Ma Thuật và dãy núi Chư Yang Sin; có
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 40 -
bề mặt san bằng cổ, kiểu đòa hình đồng bằng tích tụ bóc mòn với đầm hồ và đồi
sót. Do hoạt động của sông Krông Ana và sông Krông Knô nên bề mặt đòa hình
vùng này tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình 400 – 500m. Khí hậu hơi khô hơn
các vùng khác. Hệ thống sông suối thưa, có hồ nước lớn (hồ Lăk rộng 876 km2).
Các phát hiện di tích và di vật ậu kỳ đá mới ở huyện Krông Ana, huyện Lăc gồm :
1. Đòa điểm Quảng Điền, ở huyện Krông Ana, người dân làm vườn phát hiện
một số rìu đá. Tháng 4 – 1991, Nguyễn Thò Mai sưu tập thêm ở đây một số rìu bôn
đá. Năm 1993, cán bộ Viện Khảo cổ đã đào thám sát đòa điểm này và thu thập trên
mặt được một số di vật đặc trưng cho hậu kỳ đá mới. Di tích hầu như đã bò phá hủy
hoàn toàn do quá trình cánh tác, sau ủi vườn để trồng cây. Trong các hố thám sát,
tầng văn hóa dày khoảng 5 cm – 10cm, đã bò xáo trộn.
2. Đòa điểm Buôn Triết, cạnh Hồ Lắc, thuộc huyện lắc, cách thò xã Buôn Mê
Thuật 50 km về phía đông nam, giáp với tỉnh Lâm Đồng là một di chỉ khảo cổ học
quan trọng. Cuốn năm 1978, trong lúc canh tác, dân đòa phương đã thu nhặt được
nhiều rìu bôn đá và thông báo cho Bảo tàng Đắc Lắc. Năm 1991, cán bộ Bảo tàng
Đắc Lắc đã tới điều tra vùng này, mở một hố thám sát và đã thu thập được một số
hiện vật đá cùng đồ gốm.
3. Cuối năm 1993, cán bộ Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Đắc Lắc đã đào
một hố thám sát có diện tích 2m2 tại vườn nhà ông Trí, xã Buôn Triết. Trong hố
đào đã tìm thấy một chiếc cuộc đá, 2 rìu bôn có vai, 2 mộ vò gốm được chôn úp
miệng vào nhau, 2 hiện vật gốm chân cao đã bò vỡ và nhiều mảnh gốm. Ngoài ra
còn thu thập được trong nhân dân cư trú trong khu di tích được 7 rìu bôn mài toàn
thân (1 bôn có vai, 1 bôn hình răng trâu và 5 rìu bôn tứ giác.
Tháng 12 – 1994, Viện Khảo cổ học và bảo tàng Đắc Lắc đã khai quật di chỉ
Buôn Triết. Hố khai quật cạnh hố thám sát, thu được 2 rìu có vai, 2 phác vật rìu, 3
dọi xe chỉ và 1187 mảnh gốm.
Đòa điểm Buôn Duc Đôn, xã Ngang Tao, cách đòa điểm Buôn Triết khoảng 17
km về phía đông nam, vào cuốn năm 1997, anh Ma Din tức Y Nô Lức đã phát hiện
2 cuốc đá, 3 rìu tứ giác và một bàn mài trong một hố đào lấy nước, ở độ sâu 1,3 m
so với mặt vườn hiện nay. Chúng tôi đã tới kiểm tra , nhưng không tìm thấy dấu vết
tầng văn hóa trong hố đài này. Mở rộng khu vực tìm kiếm, chúng tôi phát hiện một
số mảnh gốm văn thừng và văn chải trên mât vườn. Một hố thám sát 2m2 được mở
cho thấy, tầng văn hóa đã bò xáo trộn và bò phá hủy hầu hết.
4. Đòa điểm Ea Ga, xã Cư Ni, Huyện Ea Ka. Tháng 4 - 2000, khi đào đất
trong vườn cà phê, tới độ sâu 1m, ông Ama Thi đã tìm thấy một số cuốc đá trong
vùng đất đen. Tin này được báo về Phòng Văn hóa huyện, rồi về Bảo tàng tỉnh.
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 41 -
Tháng 5 – 2000, cán bộ Viện Khảo cổ học trở lại di tích này, nhưng dân đã đào phá
di tích để tìm hiện vật. Tại đây hiện còn 7 cuốc và 1 bàn mài nằm sâu dưới 1m, tập
trung vào góc đông nam của hố đất đen. Diện tích vùng đất màu đen khá rộng, có
hình gần bầu dục, chiều dài tới 4m, chiều rộng 3,5 m.
Những người khảo sát cho rằng, đây không phải là di tích mộ hoặc cư trú. Hố
đất đen này có thể liên quan đến việc cất trữ dạng nhà kho, không loại trừ khả
năng là vết tích nhà phòng hộ của các bộ lạc cổ. Cần tiếp tục đào rộng trong khu
vực này.
5. Đòa điểm Xuân Phú, huyện Ea Kar do cán bộ Viện Khảo cổ học và Bảo
tàng Đắc Lắc dưới sự chủ trì của TS Vũ Thế Long xác minh tháng 8 – 2000. Di chỉ
rộng gần 10.000m2, chưa tìm thấy tầng văn hóa và đồ gốm. Chỉ trong thời gian rất
ngắn, đoàn đã thu được 8 phác vật rìu có vai, 140 mảnh tước, 11 hạch đá , 5 bàn
mài. Trừ 5 bàn mài bằng sa thạch, số còn lại đều là đá lửa. Những hiện vật này
nhặt được trên mặt đất do dân đào xới làm vườn. Đây là một di chỉ xưởng chế tác
rìu đá với quy mô lớn ở Đắc Lắc.
+ Tại vùng đồi Cát Tiên đã phát hiện được 1 đòa điểm Phù Mỹ, ở ven bờ tả
ngạn thượng lưu sông Đồng Nai thuộc huyện cát Tiên, cách trung tâm huyện lỵ Cát
Tiên hơn 1km. Di chỉ được cán bộ Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Lâm Đồng đào
thám sát năm 1996 và khai quật vào năm 1998.
Hai hố khai quật đều ở trong vườn nhà ông Trần Đình Kha với tổng diện tích
97m2 (hố I rộng 63m2, hố II rộng 35 m2). Hai hố cách nhau 4.4 m. Trong quá trình
khai quật do bò rễ cây dừa ăn ra quá nhiều không thể khai quật sâu được nên diện
tích khai quật hố II chỉ còn 28m2.
Tầng văn hóa dày trung bình 20 – 25 cm, trong đó tìm thấy 16 hiện vật đá và
116 hiện vật đất nung.
Từ những điểm trình bày ở trên có thể chỉ ra một số đặc trưng chính về diện
phân bố các di tích hậu kỳ đá mới – sơ kỳ kim khí Nam Tây Nguyên như sau:
- Các đòa điểm khảo cổ hậu kỳ đá mới – sơ kỳ kim khí Nam Tây Nguyên
phân bố rải rác ở một số vùng đòa lý với mật độ không đều: Cao nguyên Buôn Mê
Thuật (2 đòa điểm), Bán bình nguyên Ia Súp (1 đòa điểm), Trũng Krông Pak – Lắc
(5 đòa điểm), cao nguyên Đắk Nông (10 đòa điểm) và đồi Cát Tiên (1 đòa điểm).
Trong đó, Cao nguyên Đăk Nông và Trũng Krông Pak – Lắc là nơi tập trung cao
nhất.
- Các di tích hậu kỳ đá mới – sơ kỳ kim khí Nam Tây Nguyên phân bố
cạch các sông suối, chủ yếu thuộc hệ thống các sông đổ nước về phía tây hoặc
cạnh hồ lớn - Hồ Lắc.
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 42 -
Ngoài di chỉ Phù Mỹ (Lâm Đồng) thuộc hệ thống sông Đồng Nai ra số còn lại
đều thuộc hệ thống các sông đổ nước sang Campuchia.
1.2. Đặc trưng mộ táng.
Cho đến nay trong các đòa điểm hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí ở Nam Tây
Nguyên duy nhất tìm thấy mộ nồi vò úp nhau trong hố thám sát buôn Triết vào
năm 1993.
Tại đây trong vườn nhà ông Tân, một doi đất nằm liền kề bên hồ Lắc trong hố
thám sát với diện tích 2m x 2m được mở theo hướng Bắc – Nam, sau khi đào qua
tầng văn hoá với độ dày trung bình 0,3m -0,4m chúng tôi thấy xuất hiện ở một phần
phía Bắc của hố thám sát có một vệt đất màu xám hơi đen. Tiếp tục đào hố đất
màu xám đen này chúng tôi đã tìm thấy hai mộ nồi vò úp nhau cùng một số hiện
vật chôn theo ở ngoài hai chiếc vò.
Cả 2 chiếc vò đều đã bò vỡ, chúng chỉ giữ nguyên được hình dạng khi còn đang
nằm trong đất và được chôn nghiêng khoảng 15o so với mặt bằng. Hai chiếc vò đều
có mầu xám hồng, gốm mỏng. Một chiếc có đường kính miệng 30cm, chiếc còn lại
đường kính miệng là 32cm. Trong cả hai chiếc vò không có xương, răng, dấu vết
than tro cùng hiện vật chôn theo. Trong hố đất màu xám đen bên cạnh 2 chiếc vò
chúng tôi còn tìm được 1 chiếc rìu có vai và 2 hai chiếc cuốc có vai. Cả 2 chiếc
cuốc có vai đều là loại vai vuông, được chế tác từ đá badan. Chiếc cuốc mang ký
hiệu 93BTTS1 có chiếc dài đo được 20,5cm; rộng lưỡi 6,0cm; rộng vai 5,2cm; rộng
chu 2,3cm; dầy 2,2cm, mặt cắt ngang hình gần chữ nhật, là một chiếc cuốc khá đẹp.
Hố đất tìm thấy mộ nồi vò nằm ở độ sâu 0,6m và ăn sâu vào sinh thổ ở độ sâu
1,05m.
Như trên đã biết cho đến nay ở cả khu vực nam Tây nguyên chỉ mới tìm thấy 2
mộ nồi vò úp nhau ở di chỉ buôn Triết, bởi vậy việc khái quát một đặc trưng về mộ
táng ở khu vực nam Tây Nguyên là điều rất khó khăn.
Qua so sánh, đối chiếu mộ nồi vò ở di chỉ buôn Triết với mộ nồi vò ở các di chỉ
Lung Leng, Trà Dôm ở khu vực Bắc Tây Nguyên chúng tôi thấy rằng chúng có
những mặt tương đối giống nhau:
Các mộ vò úp nhau đều nằm trong các hố đất xám đen ở lớp sớm của tầng
văn hoá và đều ăn sâu vào sinh thổ.
Đây là lớp tìm thấy rìu, cuốc có vai thuộc giai đoạn sớm.
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 43 -
2. ĐẶC TRƯNG DI VẬT.
2.1. Giới thiệu khái quát các sưu tập hiện vật
Để tìm hiểu đặc trưng di vật đá và gốm của các di chỉ hậu kỳ đá mới - sơ kỳ
kim khí ở nam Tây Nguyên, chúng tôi xin giới thiệu khái quát các sưu tập ở khu
vực này. Chúng tôi chủ yếu dựa vào tổ hợp hiện vật đồ đá và đồ gốm trong 3 di chỉ
đã khai quật là Nghóa Trang, Buôn Triết và Phù Mỹ; đồng thời giới thiệu thêm một
số sưu tập hiện vật tiêu biểu từ các đòa điểm khác do thám sát hoặc sưu tập nhặt
có đòa chỉ rõ ràng.
Trước hết xin giới thiệu sơ bộ 3 sưu tập hiện vật do khai quật:
- Sưu tập hiện vật Đồi Nghóa Trang
Trong hố thám sát 4m2 đã thu được 28 mảnh gốm, 15 mảnh tước, 1 bàn mài.
Trong đợt này còn thu lượm được: 5 rìu tứ giác, 4 mảnh bàn mài đã bò lộ ra trong
quá trình san ủi. Trong hố khai quật thu được: 2 rìu tứ giác, 1 phác vật rìu tứ giác, 3
mảnh vòng, 25 bàn mài và 3.241 mảnh gốm.
Cả 2 chiếc rìu tứ giác đều được làm từ đá badan, chiếc ký hiệu 95 ĐrL H1- 01,
trên một mặt vẫn còn những vết ghề đẽo chưa được mài hết: thân dài 5,7cm, rộng
lưỡi 2,9cm, rộng đốc 1,4cm, dày 2cm.
Trong số 25 bàn mài có 1 chiếc bàn mài rãnh, mang ký hiệu 95ĐrL H1 - 09; số
còn lại đều là loại bàn mài có vết mài phẳng hoặc hơi lõm. Tất cả bàn mài đều
được làm từ đá cát có hạt tương đối mòn. Phần lớn có kích thước nhỏ và mỏng.
Những chiếc bàn mài thu được ở Đồi Nghóa Trang khác với những chiếc bàn
mài ở khu vực Gia Lai - Kon Tum. Tại các đòa điểm Biển Hồ, Lung Leng số lượng
bàn mài thu được ít hơn, kích thước nhỏ hơn. Bàn mài ở đây đều có kích thước lớn
hơn, chúng được chế tác từ loại đá có độ cứng và hạt mòn hơn nhiều và đều là loại
bàn mài lõm.
Cả ba mảnh vòng thu được ở Đồi Nghóa Trang đều có thiết diện cắt ngang hình
tam giác như những mảnh vòng ở Gò Chỗ.
Gốm ở đòa điểm đồi Nghóa Trang chủ yếu là loại gốm mỏng: 2.760 mảnh trên
tổng số 3.241 mảnh gốm cả hố khai quật, chiểm 85,15%.
Căn cứ vào màu sắc của gốm chúng được chia thành mấy loại sau:
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 44 -
Gốm nâu hồng: 1.872 mảnh, chiếm 57,75%.
Gốm nâu xám: 834 mảnh, chiếm 25,73%.
Gốm xám hồng: 715 mảnh, chiếm 16,50%.
Gốm được làm từ đất sét pha cát và một ít bã thực vật. Xương gốm có màu nâu
đen lẫn những hạt nâu xám trắng, gốm tương đối mòn và cứng.
Trong tổng số 3.241 mảnh gồm có:
430 mảnh gốm văn thừng thô, chiếm 13,26%
202 mảnh gốm văn thừng mòn, chiếm 6,23%
90 mảnh gốm văn chải, chiếm 2,77%
14 mảnh gốm văn chấm giải, chiếm 0,43%
28 mảnh gốm văn in vỏ sò, chiếm 0,86%
12 mảnh gốm văn khắc vạch, chiếm 0,37%
Số lượng mảnh gốm trang trí văn chấm giải, khắc vạch, in vỏ sò chiếm tỷ lệ rất
nhỏ. Chúng được trang trí thành hàng thẳng trên cổ của đồ gốm, hoặc được chấm
trong khuông của những đường khắc vạch giống như gốm Phùng Nguyên. Văn khắc
vạch được trang trí kết hợp với văn chấm giải tạo thành những đồ án đẹp.
Số lượng mảnh miệng thu được 324 mảnh, trong đó: Miệng loe là 213 mảnh,
chiếm 65,74% tổng số mảnh miệng; miệng khum 91 mảnh, chiếm 28,08% và loại
miệng gần đứng 20 mảnh, chiếm 6,17%.
Tổng số có 82 mảnh đế, gồm loại đế choãi chân cao và đế thấp.
Từ kết quả thám sát năm 1993 và khai quật năm 1995 cho thấy di tích Đồi
Nghóa Trang vừa là nơi cư trú, vừa là nơi chế tác công cụ, một di chỉ – xưởng.
- Sưu tâp hiện vật Buôn Triết
Di chỉ Buôn Triết được đào một hố thám sát có diện tích 2m2 vào năm 1993.
Trong hố đào tìm thấy 1cuốc đá, 2 rìu bôn có vai, 2 mộ vò gốm được chôn úp
miệng vào nhau, 2 hiện vật gốm chân cao đã bò vỡ và nhiều mảnh gốm. Ngoài ra
còn thu thập trong khu di tích được 7 rìu bôn mài toàn thân (1 bôn có vai, 1 bôn
hình răng trâu và 5 rìu bôn tứ giác).
Hố khai quật mộ trùm lên hố thám sát của năm 1993 với diện tích 80m2.
Trong hố khai quật chỉ thu được: 1 rìu có vai; 1 rìu có vai lưỡi nhon; 1 cuốc tứ giác
(đã bò gẫy phần chuôi); 3 dọi xe chỉ và 1184 mảnh gốm.
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 45 -
Chiếc rìu có vai lưỡi nhọn mang ký hiệu 94BT.4 có thể được chế tác từ một
chiếc cuốc có vai kích thước lớn đã bò gẫy phần lưỡi. Kích thước của hiện vật đo
được là: dài 10,1cm; rộng chuôi 3,2cm; dài chuôi 3,7cm; dày 2,0cm.
Trong 3 chiếc dọi xe chiû, hai chiếc có tiết diện nửa hình cầu kếp hợp với nón
cụt.
Gốm Buôn Triết có mầu nâu hồng, xương gốm màu xám đen, độ nung tương
đối cao.
Trong tổng số 1184 mảnh gốm thu được trong hố khai quât có 87 mảnh được
trang trí văn chải, chiếm tỷ lệ 7,34%; 52 mảnh văn thừng chiếm tỉ lệ 4,38%; 22
mảnh văn sóng chiếm tỉ lệ 1,85%; 11 mảnh văn khắc vạch chiếm tỉ lệ 0,92%; 7
mảnh văn chấm rãi chiếm tỉ lệ 0,59%. Các loại văn này thường kết hợp với nhau
thành đồ án tương đối đẹp.
Số mảnh miệng thu được là 25 mảnh và 8 mảnh đế..
Loại hình miệng với 2 loại: miệng loe và miệng khum.
- Sưu tập hiện vật Phù Mỹ.
Một phát hiện khảo cổ học đáng chú ý ở Lâm Đồng là di tích Phù Mỹ huyện
Cát Tiên vào năm 1996. Tại đây, cán bộ Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Lâm Đồng
đã đào thám sát, xác nhận di chỉ có tầng văn hoá chứa hiện vật đá và gốm thuộc
thời đại kim khí.
Cuối năm 1998, Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Lâm Đồng đã tiến hành khai
quật đòa điểm Phù Mỹ.
Di tích Phù Mỹ nằm ở ven bờ tả ngan thượng lưu sông Đồng Nai thuộc huyện
Cát Tiên, cách trung tâm huyện lỵ Cát Tiên hơn 1km.
- Đồ đá: 16 tiêu bản gồm:
Khuôn đúc đồng: 9 chiếc (1 chiếc loại nhiều mang và 8 chiếc 2 mang). Khuôn
nhiều mang ký hiệu 98 PM H2 L1- 4(HV3), làm bằng đá sa thạch hai bên khuôn có
hình mẫu vật lõm vào, đó là vật có mũi (hay góc) nhọn. Khuôn có hình gần chữ
nhật, chiều dài còn lại 5,5cm, chiều rộng 6,5cm, dày 2,4cm.
Khuôn hai mang tìm được 8 chiếc. Chiếc ký hiệu 98 PM H2 L16 làm từ đá cát,
có dạng một nửa hình trụ bổ dọc, chiều dài 13,3cm, rộng 6,5cm, dày 2,3cm, vật đúc
là 1 chiếc rìu có 2 cạnh đều cong lõm, đốc tương đối phẳng. Phần đốc rìu có trang
trí một con chồn, hai bên góc có hoa văn gần vòng tròn, có đường xuyên giữa là
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 46 -
mũi nhọn là góc rìu. Đặc biệt người xưa tạo ra đậu rót cũng là đậu ngót ở phần rìa
của lưỡi rìu.
Bàn mài: 4 chiếc, điển hình là chiếc ký hiệu 18 PM H1L1 - 30, bằng đá cát,
nhiều vết sử dụng, vết mài hơi lõm, kích thước dài 10,4cm, rộng 8,2cm, dày 2,2cm.
Rìu đá: 2 chiếc đều ở trong hố I. Chiếc thứ nhất, rìu tứ giác, ký hiệu 48 PM
H1L121 có màu xám xanh, được chế tác từ đá badan, ở một mặt được mài nhẵn,
mặt kia ở một rìa cạnh bò vỡ, phần đốc và rìa cạnh kia bò vỡ một miếng lớn. Rìu dài
8,0cm, rộng 3,9cm, dày 2,6cm.
Chày: 1 chiếc, ký hiệu 98 PM H1L2 - 46, làm từ đá cuội, một đầu đã bò vỡ,
chày có hình trụ, thuôn dần về một phía, chày dài 7,5cm, dày 3,7cm.
Đồ gốm: 116 hiện vật với các loại:
Bàn đập: 95 chiếc, chiếm 81,7% tổng số hiện vật gốm. Bàn đập gốm có chung
một dáng hình, đó là hình chóp cụt dài ở phần tay cầm, phía dưới bè ra như chiếc
bánh dày, ở đầu phần phía tay cầm thường có lỗ. Toàn bộ các hiện vật đều không
được trang trí hoa văn.
Chiếc bàn đập mang ký hiệu 98 PM L1 - 32 còn nguyên vẹn, tay cầm hình
chóp cụt dài, phía dưới loe ra như hình nón, có xuyên lỗ ở phần giữa tay cầm.
Không trang trí hoa văn, gốm thô màu đỏ. Kích thước dài 9,0cm đường kính lớn
nhất 6,5cm.
Dọi xe chỉ: 11 chiếc (ở hố I có 10 chiếc). Dọi xe chỉ đều cùng một loại hình
chóp cụt với các độ cao khác nhau, tất cả đều không được trang trí hoa văn.
Chiếc dọi xe chỉ mang ký hiệu 98 PM H1 L2 - 109 được làm bằng đất nung
pha nhiều cát, màu hồng nhạt có hình chóp cụt đáy phẳng, có lỗ xuyên tâm. Đường
kính trên 2,0cm, đường kính dưới 3,2cm, cao 1,1cm.
Chiếc ký hiệu 98 PM H1 L1 - 15 có màu hồng nhạt, hình chóp cụt có lỗ xuyên
tâm; đường kính trên 2,4cm; đường kính dưới 3,0cm; cao 2,1cm.
Con dấu: 1 chiếc, được làm băng đất nung pha nhiều cát màu hồng xám, có
dáng nửa hình cầu, mặt dưới gần phẳng, tròn được trang trí hoa văn hình xoắn ốc
tròn. Đường kính lớn nhất 2,5cm, cao1,7cm.
Bát: 1 chiếc, ký hiệu 98 PM H1 L2 - 45 còn nguyên vẹn, có màu nâu hơi đỏ,
làm bằng gốm thô pha nhiều cát, bát có miệng loe rộng; đường kính miệng 19cm;
cao 6,9cm.
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 47 -
Hiện vật gốm hình sừng bò: 1 chiếc ký hiệu 98 PM H1 L2 (chưa rõ công dụng)
làm từ gốm thô có màu xám nhạt, hình dáng hơi giống sừng bò bên trong rỗng, đầu
gần nhọn. Thân dài 2,5cm; đường kính lớn nhất 4,2cm; đường kinh lỗ 1,3cm.
Nghiên gốm: 1 chiếc ký hiệu 98 PM L1 H2 - 112 có màu vàng sẫm, đường
kính 4,2cm, đường kính lỗ 2,0cm, cao 2,7cm.
Bi gốm: 2 viên, chiếc ký hiệu 98 PM H1 L2 - 113 có màu hồng nhạt, làm bằng
đất nung pha nhiều cát, đường kính 2,2cm.
Ngoài số hiện vật trên đây, ở hai hố khai quật còn thu được 28.850 mảnh gốm.
Những người khai quật cho rằng, di tích Phù Mỹ có niên đại vào khoảng trên
dưới 3000 năm cách ngày nay, tương đương với các di tích Cái Lủng, Cái Vạn phân
bố ở hạ lưu sông Đồng Nai.
2.2. Các sưu tập khác ở Nam Tây Nguyên.
- Sưu tập đồ đá ở đòa điểm Ea H’Leo có 7 rìu bôn đá.
- Sưu tập hiện vật ở Ea Kao, thành phố Buôn Mê Thuật gồm 3 hiện vật
gốm và 13 hiện vật đá.
3 đồ gốm có chân đế của đồ đựng chân cao, kích thước và hình dáng khác nhau
nhưng về chất liệu và kỹ thuật chế tác giống nhau. Đó là loại gốm đất sét, pha cát,
hạt tương đối thô, độ nung khá cao, cứng, màu nâu đỏ, không trang trí hoa văn.
Đồ đá có 13 tiêu bản, gồm 6 rìu nguyên vẹn, 3 mảnh rìu, 1 hòn ghè, 2 bàn mài,
6 chiếc rìu ở dạng phác vật rìu tứ giác hoặc hình hạnh nhân, vết ghè nhỏ và đều,
có môt vài chiếc được mài, tất cả làm từ đá ba dan màu xanh sẫm, mặt ngoài ít
nhiều bò phong hoá, kỹ thuật chế tạo không được trau truốt. Kích thước tương đối
lớn.
- Sưu tập hiện vật Đồi Chợ, thò trấn Đắc R’lập, thuộc cao nguyên Đắc
Nông. Năm 1987, anh Phạm Văn Hải đã thu nhập ở Gò Chợ do máy ủi tiến san
quả đồi được 5 phác vật rìu, 21 chiếc rìu bôn đá, 5 mảnh vòng trang sức, 1 chiếc
bàn đập vỏ cây; 1 dọi xe sợi bằng gốm hình bánh xe có xuyên lỗ. Cán bộ Viện
Khảo cổ và Bảo tàng Đắc Lắc đã phân loại sưu tập này.
- Cuốc có vai: 1 chiếc, được làm từ đá badan có màu xám nhạt, vai xuôi
được mài nhẵn toàn thân, rìa có vết mẻ do quá trình sử dụng. Cuốc dài 27cm, rộng
lưỡi 6,6cm, rộng chuôi 30cm, rộng vai 4,8cm, dài chuôi 6,0cm, dày chuôi 2,0cm.
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 48 -
- Bàn đập khắc rãnh, có ký hiệu 87 GC - 11 được làm từ đá cát hạt tương
đối mòn. Các rãnh của bàn đập được tạo ở hai mặt bên có diện hẹp hơn so với hai
mặt kia. Ở 2 mặt rộng không được tạo rãnh có hai vết lõm xuống theo chiều dọc.
Thiết diện ngang của bàn đập có hình chữ nhật với 1 góc hơi khuyết. Kích thước:
dài 9,3cm, rộng 5,1cm, dày 4,3cm. Hình dáng và kích thước chiếc bàn đập này
giống loại bàn đập khắc rãnh trong di chỉ Phùng Nguyên.
- Hiện vật hình bánh xe có lỗ thủng giữa, ký hiệu 87 GC – 31, làm từ đá
badan, màu xám hơi đen; đường kính ngoài 9,6cm, đường kính lỗ 2cm, thân dày
4cm.
- Vòng tay: 5 mảnh, đều được chế tác từ đá badan, màu xám hơi xanh, mặt
cắt ngang hình tam giác.
- Rìu tứ giác: 12 chiếc, chiếm 50% sưu tập rìu bôn. Rìu tứ giác thường có
tiết diện ngang thân hình gần chữ nhật, chuôi nhỏ hơn lưỡi, với chiêu dài tập trung
trong khoảng từ 7,5cm đến 9,5cm, đều được làm bằng đá badan với kỹ thuật chế
tác không thật là hoàn hảo.
- Rìu có vai ở Gò Chợ có 8 chiếc, trong đó 6 chiếc vai xuôi, 2 chiếc vai
ngang. Chiếc mang ký hiệu 87 GC - 23 thuộc vai xuôi, chế tác từ đá badan, có màu
xám nhạt, lưỡi có vết mẻ, kích thước thân dài 67cm, lưỡi rộng 4,2cm, chuôi rộng
2,2cm, vai rộng 3,8cm, chuôi dài 2,0cm, thân dày 1,2cm. Rìu có vai ngang ký hiệu
87 GC - 10 có phần chuôi dài gần gấp đôi phần thân, được làm từ đá badan, màu
xanh nâu; thân dài 5,0cm, thân dầy 1,8cm, chuôi dài 3,2cm, chuôi rộng 3,9cm,
chuôi dày 1,7cm.
- Rìu hình tam giác: 4 chiếc, chuôi hẹp, lưỡi xòe rộng, đều làm từ đá badan,
trên thân có vết mài nhưng còn dấu ghè đẽo. Chiếc mang ký hiệu 87 GC - 8 có
chuôi rất nhỏ, lưỡi xoè rộng, thân dày, được chế tác từ đá badan, dọc thân rìu vẫn
còn vết ghè chưa được mài hết. Rìu dài 8,8cm, rộng lưỡi 3,7cm, rộng chuôi 0,9cm,
dày 1,8cm. Chiếc ký hiệu 87GC - 13, rìa lưỡi có vết mẻ do sử dụng, dọc thân còn
vết ghè chưa mài hết. Kích thước thân dài 7,0cm, rộng lưỡi 3,3cm, rộng chuôi
1,4cm, dày 1,7cm.
- Sưu tập Đắc Min, thò trấn Đắc R’Lấp, gần biên giới Việt – Campuchia.
Sưu tập có 8 rìu bôn chưa hoàn thiện, 7 rìu bôn mài toàn thân (rìu tứ giác và
bôn răng trâu)
- Sưu tập hiện vật đá ở Quảng Trực, Quảng Tân.
Gồm 3 rìu tứ giác, 4 bôn răng trâu, 8 rìu, bôn có vai.
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 49 -
Về nguyên liệu và kỹ thuật chế tác cả 3 chiếc rìu tứ giác Quảng Trực đều rất
giống với những chiếc rìu tứ giác tìm được ở vườn nhà ông Khoan. Chúng đều được
chế tác từ đá phtanit, được mài chủ yếu ở phần lưỡi, trên thân còn rất nhiều vết
ghè. Một trong 3 chiếc này là chiếc rìu mang ký hiệu BTĐL 601.Đ38 KC91 có
màu xám trắng, lưỡi có vết mẻ do sử dụng và được mài, còn lại hầu như toàn bộ
phần thân rìu vẫn còn vết ghè đẽo. Kích thước: Thân dài 10,6cm, rộng lưỡi 4,7cm,
rộng chuôi 2,8cm, dày 1,2cm.
Bốn bôn răng trâu đều còn khá nguyên vẹn, được chế tác từ đá phtanit. Chiếc
mang ký hiễu BTĐL 604/Đ41. KC 91 có màu xám nhạt, mài nhẵn toàn thân, vai rất
xuôi. Kích thước: thân dài 6,6cm, rộng lưỡi 4,0cm, rộng vai 3,7cm, dài chuôi 3,3cm,
rộng chuôi 2,2cm.
Tám rìu, bôn có vai ở Quảng Trực, Quảng Tân đều được chế tác từ đá phtanit.
Trong đó 4 chiếc có ký hiệu: BTĐL 615/52. KC91, BTĐL 614/51 KC91, BTĐL
613/49 KC91 còn mang vết ghè hầu như trên toàn thân, nhưng rìa lưỡi vẫn sắc bén
có thể sử dụng được. Kích thước: thân dài 10cm; rộng lưỡi 5,1cm; rộng vai 3,9cm,
dài chuôi 2,7cm; rộng chuôi 1,8cm; dày 1,3cm.
Bốn chiếc rìu có vai còn lại đều bò vỡ, gãy lưỡi, trong đó chiếc mang ký hiệu
KBTĐL 611/48. KC91 được ghè lại lưỡi. Về mặt hình dáng, chất liệu, cũng như kỹ
thuật sử dụng cho thấy nó giống với những hiện vật tìm thấy ở di tích Lung Leng
(Kon Tum). Ở Lung Leng phát hiện được rất nhiều di vật thuộc loại này và được
chúng tôi gọi là “rìu lưỡi nhọn”. Đó là những chiếc rìu có vai đã bò vỡ, gãy phần
lưỡi trong quá trình sử dụng sau đó chúng được ghè tạo lại lưỡi bằng cách ghè thu
nhỏ 2 bên rìa cạnh thân rìu lại, tạo cho chiếc rìu có hình dáng như một mũi nhọn có
chuôi.
Sưu tập hiện vật đá ở Quảng Trực - Quảng Tân dù nằm gần cụm di chỉ ở thò
trấn Đắc R’Lấp, nhưng có sự khác biệt về loại hình công cụ. Trong sưu tập Quảng
Tân - Quảng Trực ngoài 3 chiếc rìu tứ giác còn có 4 chiếc bôn răng trâu và 8
chiếc rìu có vai. Sự có mặt của những chiếc bôn răng trâu cùng với chiếc rìu lưỡi
dầm đá. Cuốc thân dày, dài, cong khum, mặt lớn gần hình tam giác, lưỡi rộng chuôi
thu nhọn, 2 cạnh bên phẳng, mặt cắt ngang hình thang mà cạnh lớn là lưng, toàn
thân được mài nhẵn. Hai dầm đá có dạng mai mực, thân mỏng, dẹt, dài và cong
khum. Hai đầu thuôn nhỏ đều, mỏng dần ra 2 rìa cạnh, mặt cắt ngang nửa hình bầu
dục. Chiếc lớn thân dài 27,2cm, ngang rộng 5cm, lưỡi rộng 5cm, thân dày 1,8cm.
Đây là công cụ làm đất khá độc đáo, cho đến nay chưa gặp ở di chỉ nào trên đất
nước ta.
- Sưu tập Đắc Nang (huyện Krông Nô)
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 50 -
Gồm 18 cuốc, bôn đá do Quang Văn Nghiêm phát hiện đầu tiên năm 1999 ở
sườn đồi Cánh Nam, xã Đăk Nang. 18 di vật đều tìm thấy trong 1 hố, được người ta
đặt và vùi xuống có chủ ý. Tất cả đều có dạng hình thang, làm từ đá basalte, có
màu đen nhạt, mặt ngoài bò phong hoá, vết mài không nhẵn bóng. Mặt cắt ngang
thân gần hình chữ nhật, lưỡi mài vát về một mặt. Chúng chỉ khác nhau về kích
thước, trong đó: 4 chiếc lớn (thân dài 21cm, rộng 5,5cm, dày 2,5cm), 7 chiếc trung
bình (thân dài 15,0cm, rộng 5,0cm, dày 2,0cm) và 7 chiếc nhỏ (thân dài 8,2, rộng
4,0cm và dày 1,5cm).
- Sưu tập Đắc Tôn, xã Trường Xuân (huyện Đăk Nông)
Ở ven bờ suối Đắc Tôn, hai ông Nguyễn Xuân An và Nguyễn Thiệu Dũng đã
thu nhặt được 14 chiếc rìu đá, 3 mảnh vòng tay và 1 chiếc bàn đập vỏ cây có tay
cầm.
Năm 1999 tại đây anh Lê Bình đã sưu tầm thêm 4 hiện vật: 1 viên đá ghè tròn
có lỗ thủng giữa, 2 bôn tứ giác và 1 bôn có vai. Viên đá ghè đẽo hình cầu dẹt, làm
từ đá badan, patin phủ ngoài màu đen, có đục lỗ thủng giao nhau. Đường kính
ngoài 13cm, đường kính trong 3,5cm, dày 6,5cm. Đây là loại di vật gặp ở Giai Lai
và Kon Tum, lần đầu tiên thấy ở Đắc Lắc. Bôn tứ giác (2 chiếc), làm từ đá badan,
thân hình thang, đốc hẹp, lưỡi rộng, mặt cắt ngang hình chữ nhật, lưỡi mài vát về
một bên. Chiếc lớn thân dài 10cm, rộng lưỡi 5,5cm, rộng chuôi 2,0cm, dày 1,6cm.
Chiếc nhỏ thân dài 7,0cm, rộng lưỡi 3,6cm, dày thân 1,8cm, rộng chuôi 2cm. Bôn
có vai nhọn (1chiếc), mặt cắt ngang hình chữ nhật, lưỡi mài vát lệch về một mặt.
Thân dài 3,5cm, lưỡi rộng 3,2cm, dày 0,6cm; chuỗi dài 2,5cm, rộng 1,2cm, dày
1,2cm.
- Sưu tập đồ đá ở Bảo tàng Đắc Lắc Gồm 44 tiêu bản, thu thập lẻ tẻ ỏ
Huyện Lắc, Đăk R’lấp, Krông Nô và Đăk Nông.
Nét nổi bật trong sưu tập đồ đá ở huyện Đăk R’lấp (Đắc Lắc) là bàn đập vỏ
cây ( hoặc bàn đập hoa văn) có khắc rãnh và những viên đá ghè tròn có khoét lỗ
giữa để tra vào gậy chọc lỗ.
Sưu tập Ea Ga, xã Cư Ni, huyện Ea Ka gồm 8 cuốc (1 chiếc đã thất lạc), 7
chiếc còn lại có kích thước. Một trong 7 chiếc bò gẫy chuôi, người xưa đã mài hơi
vát theo vết vỡ và dùng nó như một cuốc tứ giác. Cuốc có vai vuông, thân hình chữ
nhật, mỏng, mài toàn thân vát hơi cong về lưỡi.
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 51 -
CHƯƠNG BỐN
VĂN HÓA ÓC EO
1. LỊCH SỬ PHÁT HIỆN VÀ KHAI QUẬT
Văn hóa Óc Eo được mệnh danh bởi tên di chỉ đầu tiên được phát hiện 1942.
Sau đây là thống kê các di tích của văn hóa này phân bố theo đơn vò hành chính
tỉnh.
A. AN GIANG
1. Di tích Óc Eo (thuộc đòa phận xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn).
2. Di tích này nằm trên cánh đồng Giồng Cát – Giồng Xoài chân núi Ba Thê,
huyện Thoại Sơn. Di tích này do Malleret phát hiện nắm 1942. Đây là khu di
tích tôn giáo - mộ táng.
3. Di tích Ba Thê (thuộc đòa phận xã Vọng Thê -Thoại Sơn).
4. Di tích Đá Nổi (thuộc ấp Hoà Tây B xã Phú Hoà -Thoại Sơn).
5. Di tích Đònh Mỹ(Di tích thuộc xã Đònh Mỹ (Thoại Sơn), cách núi Sập 3 km
về phía tây bắc. Từ kinh Long Xuyên – Núi Sập, theo dòng kinh, có tên cũ là
kinh Núp – lê, đi về phía tây khoảng 3km gặp doi đất cát nhỏ, xưa thuộc sở
hữu của điền chủ người Pháp tên là Núp-lê(Noblet).
6. Di tích Tráp Đá (thuộc đòa phận xã Đònh Mỹõ - Thoại Sơn).
7. Di tích Lung Gầy Mé (thuộc đòa phận xóm Vọng Đông (cũ), xã Vọng Thê Thoại Sơn).
8. Di tích Lỗ – Mô (nay còn gọi là Lò Mo, thuộc đòa phận xã Mỹ Tú - Châu
Phú).
9. Di tích Núi Sam (thuộc đòa phận ấp Vónh Đông, xã Vónh Tế-thò xã Châu
Đốc).
10. Di tích Phum Quao (Phum Kvao) (nằm về phía đông ấp Tân Long trong đòa
phận xã Tân Lợi -Tònh Biên).
11. Di tích Trà Cột (Cũng được gọi là Gò Cây Tung, ấp Thới Thuận, xã Thới Sơn
-Tònh Biên).
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 52 -
12. Di tích Đam Pô(nằm về phía tây ấp An Ninh, thuộc xã Ninh Hoà - Tri Tôn).
13. Di tích Gò Me – Gò Sành (ấp Tân Bình, thuộc đòa phận xã Ba Chúc -Tri
Tôn).
14. Di tích “Chòm Cây Gáo” (di tích nằm trên khu đất có tên gọi “Chòm Cây
Gáo” thuộc ấp Phú Qùi, xã Phú Thành - Phú Tân).
15. Di tích Nền Chùa (thuộc đòa phận ấp Phú Y, xã Phú Lộc).
B. KIÊN GIANG
16. Di tích Nền Chùa (di tích cũng có tên gọi là Tà Kêv, có nghóa là “Ông Ngọc”
(Louis Malleret) thuộc ấp 3, xã Tân Hợi -Tân Hiệp).
17. Di tích Mốp Văn (thuộc xã Mỹ Lâm, huyện Hòn Đất).
18. Di tích Đá Nổi (thuộc ấp Đá Nổi, xã Thạnh Đông B, huyện Tân Hiệp).
19. Di tích Kè Một (thuộc xã Vónh Bình Bắc, Vónh Thuận).
20. Di tích Cạnh Đền (thuộc ấp Cạnh Điền 2, xã Vónh Phong, Vónh Thuận).
C. MINH HẢI
21. Di tích Vónh Hưng (thuộc ấp Trung Hưng 1, thôn Vónh Hưng, huyện Vónh
Lợi).
D. CẦN THƠ (HẬU GIANG CŨ)
22. Di tích Nhơn Thành (thuộc ấp Nhơn Thành, xã Nhơn Thành, huyện Châu
Thành).
23. Di tích Mỹ Xuyên (cũng được gọi là Thạnh Lợi, thuộc ấp Thạnh Lợi - Hà
Bổ, thò trấn Mỹ Xuyên).
24. Di tích Xuân Hoà (cũng được gọi là Phú Hoà, thuộc xã Xuân Hoa,huyện Kế
Sách).
25. Di tích Kim Hoà (cũng gọi kênh G1, thuộc xã Thạnh An, Thốt Nốt).
26. Di tích Thạnh Trung (thuộc ấp Thạnh Trung, xã Trung Hưng, huyện Thốt
Nốt).
27. Di tích Đông Phú ( thuộc ấp Đông Phú, xã Đông Phước, huyện Châu Thành).
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 53 -
28. Di tích Long Phụng (thuộc xã Long Thạch, huyện Phụng Hiệp).
E. TRÀ VINH (CỬU LONG CŨ).
29. Di tích Lưu Cừ (thuộc ấp Lưu Cừ, xã Lưu Nghiệp Anh, huyện Trà Cú).
30. Di tích Sóc Chà (thuộc khu dân cư Sóc Chà, xã Thạnh Sơn, Trà Cú).
31. Di tích Chùa Tháp (cũng có tên chùa Chệt Đề, thuộc ấp Đồn Điền, xã Tập
Sơn, Trà Cú).
32. Di tích Chong Bát (cũng có tên Trồ Tra Bát, thuộc ấp Chong Bát, xã Nhò
Trường, Cầu Ngang).
33. Di tích Mỹ Cần (thuộc ấp Mỹ Cần, xã Lương Hoà, Châu Thành).
34. Di tích Chùa Gò Gạch (thuộc khu dân cư ấp Ba Xê A, xã Lương Hoà, Châu
Thành).
35. Di tích Chùa Trà Kháu (cũng gọi là Sam Bua, thuộc ấp Trà Kháu, xã Hoà
Ân, huyện Cầu Kè).
36. Di tích Chùa Giữa (cũng có tên là chùa Ma Chum – Na ran, thuộc ấp Trà
Kháu, xã Hoà An, Cầu Kè).
37. Di tích Tân Trung Giồng (thuộc ấp Tân Trung Giồng, xã Hiếu Tử, Tiểu Cần).
38. Di tích Chùa Cây Hẹ (cũng có tên là Chùa Cần Chông, thuộc thò trấn Tiểu
Cần, huyện Tiểu Cần).
G. VĨNH LONG (CỬU LONG CŨ)
39. Di tích Thành Mới (thuộc ấp 5, xã Trung Hiệp và ấp Bình Thành, xã Trung
Điền, Vũng Liêm).
H. TIỀN GIANG
40. Di tích Gò Thành (thuộc ấp Tân Thành, xã Tân Thuận Bình, huyện Chợ
Gạo).
41. Di tích Chùa Bà Kết (thuộc xã Bình Phan, huyện Chợ Gạo).
42. Di tích Giồng Bà Phúc (thuộc xã Song Bình, Chợ Gạo).
43. Di tích Trường Sơn A (thuộc ấp I, xã Lương Hoà Lạc, Chợ Gạo).
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 54 -
44. Di tích Gò Chùa Bửu Tháp (ấp Tân Phong, xã Tân Hội, Cai Lậy).
45. Di tích Đìa Tháp (thuộc ấp 4, xã Mỹ Thành Bắc, Cai Lậy).
I. ĐỒNG THÁP
46. Di tích Gò Tháp (có tên gọi Pratsat Pream Loven (Chùa Năm Gian hoặc
Tháp Mười), thuộc ấp Tháp Mười, xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười).
47. Di tích Phú Long (thuộc Thò xã Sa Đéc)
48. Di tích Gò Tàu (cũng gọi là Gò Bói, thuộc xã Tân Hợi Cơ, huyện Tân Hồng).
49. Di tích Gò Chùa (cũng có tên gọi là Gò Cây Điệp, thuộc xã Bình Phú, huyện
Tân Hồng).
50. Di tích Gò Chùa Phước Thiện (thuộc xã Bình Phú, huyện Tân Hồng).
51. Di tích Gò Công c (thuộc xã Thông Bình, huyện Tân Hồng).
52. Di tích Gò Chùa Tám u (thuộc xã Tân Thnàh B, huyện Tân Hồng).
K. LONG AN
53. Di tích Gò Hàng (thuộc xã Vónh Đại, huyện Vónh Hưng).
54. Di tích Gò Gòn (thuộc ấp Gò Gòn, xã Hưng Thạnh, huyện Vónh Hưng).
55. Di tích Gò Pháo (thuộc ấp 7, xã Hưng Điền B, Vónh Hưng).
56. Di tích Bàu Xã Keo (còn gọi là di tích Gò Chùa, thuộc xã Hưng Điền B,
huyện Vónh Hưng).
57. Di tích Láng Biền (thuộc xã Hưng Điền B, Vónh Hưng).
58. Di tích Tà Nu (thuộc ấp Tà Nu, xã Kháng Hưng huyện Vónh Hưng).
59. Di tích Gò Chùa (thuộc xã Hưng Điển A, huyện Vónh Hưng).
60. Di tích Gò Rộc Chanh (cũng gọi là gò Ông Tà hoặc Gò Lớn, thuộc ấp Rộc
Chanh, xã Vónh Thạnh, huyện Vónh Hưng).
61. Di tích Gò Vónh Châu A (thuộc xã Vónh Châu A, Vónh Hưng).
62. Di tích Gò Chùa (thuộc xã Hậu Thạnh Trò, huyện Mộc Hoá).
63. Di tích Gò Đế (thuộc xã Tuyên Thạnh, huyện Mộc Hoá).
64. Di tích Gò Dung (cũng gọi là Gò Bắc Dung, thuộc xã Hậu Thanh, huyện Tân
Thạnh).
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 55 -
65. Di tích Gò Bảy Liếp (thuộc xã Nhân Hoà Lập, huyện Tân Thạnh).
66. Di tích Gò Năm Chiêm (thuộc xã Hậu Thạnh, huyện Tân Thạnh).
67. Di tích Gò Chùa (thuộc xã Hậu Thạnh, huyện Tân Thạnh).
68. Di tích Gò Chùa (thuộc xã Mỹ Quý Tây, huyện Đức Huệ).
69. Di tích Bình Tả (thuộc ấp Bình Tả, xã Đức Hoà Hạ).
70. Di tích Gò Chàm (thuộc xã Đức Lập Hạ, huyện Đức Hoà).
71. Di tích Tho Mo (cũng gọi là di tích Đình, thuộc ấp Thuận Hoà(tên cũ là Tho
Mo), xã Hoà Khánh Nam, huyện Đức Hoà).
72. Di tích Rừng Đình (thuộc ấp Trầm Lạc, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hoà).
73. Di tích Rừng Muỗi (thuộc xã Tân Mỹ, Đức Hoà).
74. Di tích Gò Sao (thuộc x Tân Phú, Đức Hoà).
75. Di tích Giồng Lót (thuộc ấp Giồng Lót, xã Đức Hoà Thượng, Đức Hoà).
76. Di tích Bàu Thành (thuộc ấp So Đo, thò trấn Hậu Nghóa).
77. Di tích Bến Đò(thuộc ấp Bến Đò, xã Lộc Giang, Đức Hoà).
L.TÂY NINH
78. Di tích Thanh Điền (thuộc xã Thanh Điền, huyện Châu Thành).
79. Di tích Phước Thạnh (di tích còn có tên là Gò Miếu, thuộc ấp Phước Thạnh,
xã Phước Vónh , huyện Châu Thành).
80. Di tích Tiên Thuận (thuộc xã Tiên Thuận, huyện Bến Cầu).
81. Di tích Phước Chỉ (thuộc xã Phước Chỉ, huyện Trảng Bàng).
82. Di Tích Chóp Mạt (thuộc ấp Mới, xã Tân Phong, huyện Tân Biên).
M. THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
83. Di tích Cấn Giờ (thuộc 2 xã Cần Thạnh và Lý Nhân, huyện Duyên Hải).
84. Di tích Gò Chùa Phụng Sơn (thuộc quận 11).
N. ĐỒNG NAI
85. Di tích Cây Gáo (thuộc xã Cây Gáo 2, huyện Vónh Cửu).
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 56 -
86. Di tích Đồng Bơ (thuộc khu vực Đồng Bơ, xã Phú Lý, huyện Tân Phú).
87. Di tích Miếu Ông Chồn (thuộc đòa phận lâm trường Vónh An, xã Phú Lý, Tân
Phú).
88. Di tích Gò Bường (thuộc ấp II, xã Long Phước, huyện Long Thành)
O. LÂM ĐỒNG
89. Di tích Đồng Nai (thuộc xã Đồng Nai, huyện Đạ Tẻ).
90. Di tích Quảng Ngãi (thuộc xã Quãng Ngãi, Đạ Tẻ).
2. LOẠI HÌNH DI TÍCH VĂN HÓA ÓC EO
2.1. Di chỉ kiến trúc tôn giáo.
Loại hình di tích này là những kiến trúc đền, tháp thờ. Có thể phân chia loại
hình di tích này thành các nhóm sau đây.
-Nhóm 1: Các di tích thuộc nhóm này này thường tìm thấy trên các gò đất đắp
nhân tạo. Bên dưới lớp đất phủ trên mặt là kiến trúc đá gạch. Toàn bộ bình đồ kiến
trúc thường có hình chữ nhật. Phần trên của kiến trúc thường đã sụp đổ, sau đó
người ta đã cố ý đắp đất phủ lên. Biên gò được kè bởi đá và gạch rất kiên cố. Nền
gò là lớp sét dày được xử lý nện chặt vững chắc trong phạm vi gò. Chìm trong lòng
gò là nền móng gồm các tường gạch được bẻ thành các góc vuông. Trung tâm gò là
một kiến trúc thường có dạng hình vuông có nền đá và tường bao được xây bằng
gạch và đá lớn rất dày và kiên cố. Trong kiến trúc phát hiện ngẫu tượng Linga,
Yoni. Loại di tích này phát hiện ở Nền Chùa, Gò Tháp Mười, Gò Minh Sư…
- Nhóm 2 là loại kiến trúc chỉ có một nền gạch bằng phẳng hình chữ nhật với
các đường gạch thấp dưới 1m chia nền thành các ô. Loại kiến trúc này không có
tường, mái, phù điêu. Tiêu biểu cho loại kiến trúc này là di tích Gò Cây Trôm.
2.2. Loại hình kiến trúc mộ táng.
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 57 -
Các mộ táng Óc Eo thường nằm trong các gò đất đắp được xử lý vững chắc.
Mộ táng chia thành hai loại
- Loại một là những gò lớn hình dạng không nhất đònh trong đó chôn nhiều mộ
không có nấm mồ. Cấu trúc mộ hình phễu. Loại này tìm thấy ở gò Bà Chúa Xứ A
và B…
- Loại hai là mộ nằm trong các gò nhỏ riêng biệt hình bát úp hoặc mu rùa, mỗi
gò chỉ có một mộ. Loại này phát hiện ở Phật Nổi, Takev, Nền Chùa…
+ Cấu trúc mộ có loại huyệt vuông xung quanh xây đá, gạch hoặc ghép gỗ.
Lòng mộ tấn nhiều lớp đá và cát trắng mòn. Trung tâm mộ là một trụ gạch hình
vuông, có hộc rỗng nhỏ. Đáy hộc là lớp cát trắng sạch và có than tro, mảnh gốm
hoặc lá vàng.
+ Loại khác là mộ huyệt vuông không có cấu trúc xây ở trung tâm. Trong mộ
được tấn đá cát tạo thành khối vuông. Tâm là một lỗ nhỏ tạo bằng vật nhọn. Trong
điền đầy cát sạch, thường tìm thấy hiện vật vàng lá, đá quý, đồ trang sức.
+ Mộ có cấu trúc huyệt hình phễu, phần trên tấn đá hoa cương và cát, đáy là
lớp sét dẻo có lẫn than tro, di cốt, gốm
2.3. Loại hình di tích cư trú
Di tích cư trú ở Óc Eo thường tìm thấy trong lớp sâu, dưới lớp đất canh tác hiện
nay. Chúng có dạng những liếp đất cổ, khả năng là những nền nhà. Trong lớp đất
cư trú thường chứa nhiều gốm, công cụ, than tro, tàn tích thức ăn. Khảo cổ học cũng
tìm thấy dấu vết nhà sàn, đó là những cấu trúc cọc gỗ tập trung thành nhóm hoặc lỗ
chôn cột.
Loại di tích này tìm thấy ở Nền Chùa, Cạnh Đền. Ba Thê, Óc Eo…
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 58 -
3. DI VẬT VĂN HÓA ÓC EO.
3.1.Tượng thờ và linh vật
a) Tượng Phật
- Tượng Phật bằng gỗ
Là di vật quý hiếm, có số lượng khá ít so với các loại hiện vật khác của văn
hoá Óc Eo ở vùng đồng bằng Nam Bộ.
Vào cuối những năm 30, theo tài liệu đã công bố, có bốn pho tượng Phật gỗ đã
được tìm thấy ở vùng Đồng Tháp Mười. Gồm 1 tượng ở Tháp Mười, 1 tượng ở
Phong Mỹ và hai tượng ở Bình Hoà. Những pho tượng này đã được nghiên cứu,
phân tích và đã được xét nghiệm bằng phương pháp các bon phóng xạ(C14) cho chỉ
số niên đại vào khoảng giữa thế kỷ thứ IV (tượng Tháp Mười) đến cuối thế kỷ thứ
VII SCN (tượng Hoà Bình) (L. Malleret, 1963, tr 164).
Từ sau năm 1975, trong các cuộc điều tra, đào thám sát và khai quật khảo cổ
học, đã phát hiện được 15 tượng và 1 bàn tay tượng trong các di tích Gò Tháp: 11
tượng, Giồng Xoài thuộc khu di tích Óc Eo: 2 tượng, Vónh Hưng: 1 tượng và Nhơn
Thành : 1 tượng và 1 bàn tay. Đây là những tượng được phát hiện trong các di tích
khảo cổ văn hoá Óc Eo, có vò trí đòa tầng và có cùng phong cách nghệ thuật giống
với các tượng đã được L. Malleret công bố trước đây. Trong đó:
+ 12 tượng tạc theo phong cách nghệ thuật Dvarati (Gò Tháp 10, Giồng Xoài 1,
Vónh Hưng 1). Đây là những tượng tạc theo quy cách đứng trên toà sen, có thân
hình mảnh mai, thon cao, hong hơi vẹo về bên phải. Thân mặc áo cà sa dài đến
chân. Kích thước các tượng lớn nhỏ không đều nhau. Tượng nhỏ nhất thu thập ở Gò
Tháp cao 0,165m. Tượng lớn nhất đồng thời là tượng nguyên nhất tìm thấy ở Giồng
Xoài cao 2,30m (tính cả bệ) có đầu đội mũ chóp tròn, mặt nghiêm, tai dài, cổ cao.
Thân khoác áo cà sa dài đến chân. Tượng có hai tay đều bò gãy, tay phải gãy đến
vai, tay trái gãy đến cùi chỏ.
+ 3 tượng tạc theo phong cách Amaravati (Gò Tháp 1, Giồng Xoài 1, Nhơn
Thành 1) còn khá nguyên dạng. Đây là loại tượng được tạo theo quy cách đứng
thẳng trên toà sen hoặc trên bệ, đầu đội mũ hình chóp, mặt không rõ nét. Tai dài.
Thân khoác áo cà sa phủ kín bên vai trái, để hở vai phải và một phần ngực, dài phủ
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 59 -
đến chân. Cả 3 tựơng đều bò gãy mất hai tay. Tay trái gãy ít hơn tay phải. Tượng
nhỏ nhất tìm thấy ở Giồng Xoài cao o,46m (tính cả bệ). Tượng lớn nhất tìm thấy ở
Gò Tháp cao 0,94m (tính cả bệ).
Việc tìm thấy những pho tượng Phật bằng gỗ được tạc theo hai phong cách nghệ
thuật có ý nghóa trong việc nhận thức về trình độ của nghề chạm khắc gỗ, về những
mối quan hệ giao lưu văn hoá và về vò trí xã hội của Phật giáo trong đời sống văn
hoá tinh thần của cư dân cổ Óc Eo.
- Tượng Phật bằng đá
Gồm các tiêu bản thu thập được ở các di tích Óc Eo (1), Gò Tháp (3), Đá
Nổi(Kiên Giang) (1), Chùa Phật (1), Mỹ Thạnh Đông (1), Bàu Công (1). Dựa vào
quy cách, có thể phân biệt các tượng này ra thành những nhóm như sau :
+ Nhóm tượng tạc trong tư thế ngồi xếp hàng : 5 tượng (Óc Eo : 1, Gò Tháp :2,
Mỹ Thạnh Đông :1, Bàu Công : 1) được làm bằng loại sa thạch màu xám và xanh
đen có kích thước lớn nhỏ khác nhau. Chúng gồm 1 tượng nhỏ còn khá nguyên
dạng thu thập đượpc ở di tích Óc Eo. Tượng cao 0,13m, đầu đội mũ có chóp tròn,
mặt tròn. Trên mặt không có những nét chạm thể hiện mắt, mũi, miệng và tai.
Tượng được tạc trong tư thế ngồi xếp bằng trên toà sen, hai tay để trước bụng. Tay
trái còn nguyên, tay phải gãy mất đoạn từ vai đến cổ tay. Chân phải đặt trên chân
trái. Bàn chân duỗi thẳng. Các ngón tay và ngón chân không thể hiện rõ nét.
- Tượng nhỏ ở Bàu Công bò gãy chỉ còn phần dưới có dạng tương tự tượng ở
Óc Eo.
- 2 pho tượng Gò Tháp đều bò vỡ chỉ còn lại phần từ khuỷu tay xuống. Trong đó,
tượng lớn có phần còn lại cao 0,52m, được tạc theo qui cách ngồi xếp bằng trên bệ,
hai tay để trước bụng. Bàn tay phải đặt úp vào lòng bàn tay trái. Chân phải gác
trên chân trái. Bàn chân duỗi thẳng, có 5 ngón, 3 ngón giữa dài hơn ngón cái. Bệ
ngồi thấp, không cân đối. Trên bệ không có trang trí hoa văn.
- Tượng Mỹ Thạnh Đông được tạc bằng loại sa thạch màu xanh đen cao 0,50m,
còn khá nguyên. Tượng được tạc thành Phật ngồi trên bệ đá có đầu đội mũ chóp
tròn. Mặt tròn. Mày cong. Mắt lim dim, hơi xếch. Mũi lớn, sống mũi bò vỡ. Miệng
nhỏ, có râu mép. Tai lớn, dài thỏng xuống ngang cằm. Cổ to bạnh. Hai tay để trước
bụng. Lòng bàn tay đặt úp vào nhau. Bàn tay phải nằm trên bàn tay trái. Chân phải
gác lên chân trái. Bàn chân không tạc ngón.
- Tượng Phật ngồi thẳng có 1 tượng, thu thập được ở di tích Gò Tháp. Tuy bò vỡ
mất đầu và chân nhưng qua phần còn lại cũng có thể nhận thấy pho tượng này được
tạc theo qui cách ngồi thẳng trên bệ cao, hai chân chống xuống dưới, hai tay đặt
trên đùi. Đây là pho tượng ngồi theo “phong cách Âu châu”.
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 60 -
- Tượng bán tròn tạc theo tư thế đứng 1 tượng, bằng sa thạch màu xám sáng, tìm
thấy ở di tích đá nổi (Kiên Giang). Tượng gãy đầu và hai tay, phần còn lại tính cả
bệ cao 0,25m được tạc theo tư thế đứng, chân phải thẳng, chân trái như bước lên
phía trước. Bàn chân thô, không có ngón. Thân khoác áo cá sa dài phủ xuống đến
chân và có một dây dải vắt qua hai đầu gối.
Ngoài các tượng nói trên, còn có một đầu tượng bằng sa thạch màu xám nâu
thu thập được ở đòa điểm Chùa Phật. Tượng có đầu đội mũ có chóp trên đỉnh, tóc
xoắn thành từng cuộn tròn đều nhau xếp thành hàng ngang phủ kín đầu. Mũi
thẳng. Miệng cười mỉm, ,cằm tròn, tai lớn, dài đến ngang cằm. Cổ tròn có ngấn nhỏ
Các tượng Phật hiện có, tuy phát hiện được trong các di tích văn hoá Óc Eo
nhưng không nằm trong đòa tầng khảo cổ học. Vì vậy, không thể xác đònh niên đại
một cách chính xác. Tuy nhiên, dựa vào phương pháp so sánh, đối chiếu có thể đònh
niên đại của những pho tượng này vào khoảng thế kỷ thứ V cho đến thể kỷ thứ
VII.
- Tượng Phật bằng đồng
Một tượng Phật còn nguyên phát hiện được ở phía Tây đòa điểm Gò Cây Thò
thuộc di tích Óc Eo. Tượng được đúc bằng đồng, lớp patin bên ngoài màu xám đen,
cao 0,31m, nặng 3,8kg. Phía sau có hai móc : một ở giữa sống lưng, một ở sau
khuỷu chân. Lư tượng có 5 dấu ấn hình chữ nhật. Tượng được tạo trong tư thế đứng
trên toà sen, đỉnh đầu có chóp tròn, tóc xoăn mòn từng cụm nhỏ, nét mặt hiền hoà,
mắt lim dim, hơi xếch, mũi thẳng, miệng cười trầm tónh. Hai tay đưa ngang tầm
ngực, lòng bàn tay phải đưa ra phía trước, các ngón tay khép lại, tay trái ngửa ra,
chếch xuống phía dưới. Hai chân trần, hơi thô, có đủ các ngón. Tượng khoác áo cá
sa phủ đến chân, gồm hai lớp. Áo phủ kín 2 vai, để hở cổ và một phần trước ngực
phủ xuống thành những nếp gấp rộng. Lớp áo trong để lộ 4 nếp gấp ở ngực. Lớp
ngoài, từ bụng đến gối có 8 nếp. Áo phủ rộng lên vai cánh trước, một dải áo vắt
qua phủ xuống phía ngoài cánh tay trái. Lai áo phủ xuống chân gấp thành nếp cách
điệu hoá…
Xét về phong cách nghệ thuật, so với các tượng cổ cùng loại trong bối cảnh lòch
sử của sự du nhập Phật giáo vào vùng này, Võ Sỹ Khải đã đònh niên đại sớm nhất
của pho tượng này là nửa đầu thế kỷ V sau công nguyên.
Hai cánh tay và một mảnh vỡ của 3 tượng đồng khác nhau được tìm thấy ở
trung tâm di tích kiến trúc Lưu Cừ. Trong đó có một cánh tay còn nguyên bàn tay
năm ngón, ngón cái và ngón trỏ làm thành vòng tròn, các ngón còn lại khép kín và
chỉ về phía trước; mảnh vỡ thuộc phần vai của 1 tượng khá lớn. Trên vai có hoa văn
trang trí hình bình hành thể hiện áo cà sa nhà Phật.
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử
Khảo cổ học Việt Nam
- 61 -
b) Tượng thần
- Brahma bằng đá: Tượng tìm thấy ở Óc Eo, đầu đội mũ hình trụ. Brahma bằng
đồng tìm thấy ở tháp Vónh Hưng
- Visnu gồm tám tượng.
- Siva ở Óùc Eo còn lại ba tiêu bản.
- Ganesa là thần vật thể hiện dưới dạng mình người đầi voi có 3 tượng.
- Dvarapala
- Uma – Mahisvara hoặc Mahisardramardini
- Yaksa
- Tượng nam thần, nữ thần
- Đầu người bằng đất nung
c) Linh vật.
- Linga có 22 tiêu bản gồm các loại sau:
Loại thứ nhất gồm hai phần, phần trên hình trụ tròn, phần dưới hình trụ bát giác.
Loại thứ hai cấu tạo 3 phần, phần trên hình trụ tròn, phần giữa hình trụ bát giác,
phần chân hình trụ vuông.
Loại thứ ba có đầu bằng, cấu tạo 3 phần tiết diện như loại hai.
Loại thứ tư có đầu tròn, phần tr6n hình trụ tròn, phần dưới hình vuông
Ngoài ra còn một loại Linga kích thước nhỏ bằng thủy tinh, đá quý…
- Linga – yoni gồm 10 bộ có thể tạc liền khối, cũng có loại ghép rời
- Yoni có 18 tiêu bản gồm các loại lỗ gần vuông hoặc chữ nhật, loại hình bát
giác, loại lỗ tròn
- Bệ thờ là những viên đá ghép chồng lên nhau theo quy cách đối xứng.
Trần Văn Bảo
Khoa Lịch sử