Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận đường lối công nghiệp hóa của việt nam thời kì trước đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.14 KB, 22 trang )

HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC

TIỂU LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA CỦA VIỆT NAM
THỜI KÌ TRƯỚC ĐỔI MỚI

1


LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự hỗ
trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong
suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại học đến nay, em đã nhận
được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý Thầy Cô, gia đình và bạn bè.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi đến quý thầy cô ở khoa Quản Lý
Giáo Dục – Học Viện Quản Lý Giáo Dục đã cùng với tri thức và tâm huyết của
mình để truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho chúng em trong suốt thời gian học
tập tại trường.
Em xin chân thành cảm ơn GV. ThS Vũ Thị Thơ đã tận tâm hướng dẫn chúng
em qua từng buổi học trên lớp. Nếu như không có những lời hướng dẫn, dạy bảo
của cô thì em nghĩ bài tiểu luận này của em rất khó để hoàn thiện được. Một lần
nữa, em xin chân thành cảm ơn cô.
Bài tiểu luận được thực hiện trong khoảng thời gian 2 tuần. Do kiến thức của
bản thân còn kém và số lượng tài liệu tìm được còn ít ỏi, vì vậy không tránh khỏi
những thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đống góp quý báu của Cô
và các bạn học vùng lớp để bài tiểu luận của em ngày càng hoàn thiện hơn.
Sau cùng em xin kính chúc quý Thầy Cô trong Khoa Quản Lý Giáo Dục thật
dồi dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là
truyền đạt lại những kiến thức cho thế hệ mai sau.
Trân trọng.


Hà nội, ngày … tháng … năm 2014
Nhóm sinh viên thực hiện
Nhóm 6 – K7D - QLGD

2


Lời mở đầu
Ngay từ nghị quyết đảng 3(1960) Đảng ta đã khẳng định nước ta đi lên chủ
nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm thấp, lại không phải qua giai đoạn phát triển
Tư bản chủ nghĩa, cho nên toàn bộ cơ sở ta chưa có, nền kinh tế còn kém phát
triển chưa có điều kiện hội nhập với nền kinh tế thế giới. Vì vậy để tạo ra cơ sở
vật chất kinh tế cho nền sản xuất lớn, để phát triển kinh tế, để đưa nền kinh tế
Việt nam hội nhập với nền kinh tế thế giới thì chúng ta phải phát triển công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hiện nay các nước đang nhanh chóng thực hiện các chính sách kinh tế nhằm
đưa nền kinh tế phát triển mạnh mẽ trong đó con người là vị trí trung tâm. Muốn
vậy các nước không còn con đường nào khác là phải thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Vì vậy vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là vấn đề
chung mang tính toàn cầu khiến cho tất cả mọi người, tất cả các nước trên thế
giới đều quan tâm nghiên cứu và ra sức thực hiện. Phát triển kinh tế là quy luật
khách quan của tồn tại xã hội và phát triển xã hội loài người và bất cứ ở giai
đoạn nào, ở đất nước nào trên thế giới. Vấn đề khác nhau ở các nước chỉ là mục
tiêu, nội dung và cách thức phát triển. Đặc trưng của cơ sở vật chất kinh tế cảu
nền sản xuất lớn, hiện đại chỉ có thể là nền công nghiệp hiện đại cân đối phù hợp
dựa trên trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng cao. Việt nam hiện nay đang từng
bước đưa đất nước đi theo con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa để từng
bước chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại làm biến đổi căn bản bộ
mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị…
Đây chính là lý do giải thích cho việc tại sao chúng ta cần thực hiện công

nghiệp hóa hiện đại hóa và tìm hiểu, phân tích kĩ đường lối công nghiệp hóa của
Việt Nam thời kì trước đổi mới nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm, cũng
như nhìn lại 1 chặng đường đã qua của đất nước. Từ đó đúc rút ra những kĩ năng,
kiến thức nhằm phục vụ cho sự phát triển của quốc gia.

3


A.

PHẦN MỞ ĐẦU

TÍNH CẤP THIẾT CỦA VẤN ĐỀ
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa là một chủ trương lớn của Đảng, chính phủ
nước ta hiện nay, đang thực sự trở thành vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà
lãnh đạo, các nhà nghiên cứu, của mọi doanh nghiệp và của toàn xã hội.
Ở nước ta vấn đề công nghiệp hóa nền kinh tế được đặt ra từ năm 1960 trong
văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III. Nhưng sau đó chúng ta phải tập
trung nhân, tài, vật lực cho việc hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân giải phóng miền nam thống nhất đất nước, chống chiến tranh phá hoại
miền Bắc của đế quốc Mỹ, nên việc thực hiện chủ trương công nghiệp hóa chưa
được bao nhiêu, mặt khác trong tổ chức chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa đã có
những biểu hiện nôn nóng muốn đốt cháy giai đoạn, chưa xuất phát từ đặc điểm
tình hình của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu trên 90% dân số sống ở
nông thôn.
Từ đại hội Đảng lần thứ VIII đến nay Đảng ta luôn xác định công nghiệp hóa
là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Thực hiện nhiệm vụ đó trong những
năm qua, nhất là những năm đổi mới chúng ta đã thu được nhiều thành tựu quan
trọng tạo ra thế và lực mới chuyển sang một thời kỳ phát triển cao hơn đẩy tới
một bước tiến mới về công nghiệp hóa nước nhà. Tuy nhiên trong quá trình công

nghiệp hóa những năm trước đây, do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên
nhân nóng vội chủ quan, đốt cháy giai đoạn mà chúng ta đã mắc phải một số
khuyết điểm sai lầm mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI và lần thứ VII đã
vạch ra.
Muốn tiếp tục phát huy thành tích, khắc phục yếm kém đẩy lùi nguy cơ tụt
hậu về kinh tế, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng một nước nghèo, cải thiện
đời sống nhân dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh, củng cố vững chắc
độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất ra
đời phù hợp với quan hệ sản xuất mới thì không còn con đường nào khác là
chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, rút ra những bài học
kinh nghiệm từ những thành công và cả những sai lầm trong đường lối công
4


nghiệp hóa của đất nước thời kỳ trước đổi mới để làm nền tảng cho sự phát triển
của nước nhà.
Qua đó chúng ta có thể thấy rõ được tính tất yếu và sự cấp thiết, quan trọng
của vấn đề công nghiệp hóa hiện đại hóa cùng với vai trò vị trí của nó như thế
nào trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Đây là vấn đề cấp bách giúp
chúng ta nhìn lại về chặng đường công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước để từ
đó đưa ra những phương án tốt nhất cho sự phát triển của nước nhà. Nhóm em
xin đi vào phân tích nội dung của đường lối công nghiệp hóa hiện đại hóa của
Việt Nam thời kỳ trước đổi mới.

KHÁI NIỆM CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA
Khái niềm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Công nghiệp hóa: ở thế kỉ
XVII, XVIII khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở tây âu, công nghiệp
hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc.
Còn theo định nghĩa của tổ chức phát triển nông nghiệp của Liên hợp quốc
(UNIDO) thì : “công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế. Trong các

quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn thu của quốc dân được
đông viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kĩ thuật hiện
đại. Đặc điểm trong cơ cấu kinh tế này là một bộ phận chế biến luôn thay đổi để
sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho
nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm sự tiến bộ về kinh tế xã hội.
Hiện đại hóa: Khoa học và công nghệ là nhân tố, then chốt của hiện đại hóa.
Hiện đại hóa có nội dung lớn và phong phú, bao gồm các mặt kinh tế, chính trị
và văn hóa. Hiện đại hóa là một quá trình nhờ đó mà các nước đang phát triển
tìm cách đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến hành cải cách cơ cấu
chính trị và củng cố cơ cấu xã hội, nhăm tiến tới một xã hội hệ thống kinh tế, xã
hội và chính trị giống hệ thống của những nước phát triển

5


B.
I.

PHẦN NỘI DUNG

HOÀN CẢNH ĐẤT NƯỚC

Sau chiến thắng lịch sử mùa xuân 1975 đất nước ta bắt đầu bước vào quá
trình khôi phục và phát triển đất nước. Trong nhiều thập kỷ trước đổi mới, cũng
giống như các nước XHCN khác, miền Bắc Việt Nam thực hiện công cuộc xây
dựng đất nước theo mô hình XHCN được quan niệm lúc bấy giờ, thực hiện công
nghiệp hóa và đạt những thành tựu to lớn và toàn diện, xây dựng được những cơ
sở vật chất – kĩ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội, nên Đảng và nhà nước tiếp
tục áp dụng và mở rộng mô hình công nghiệp hóa ra phạm vi cả nước. Theo đó,
chế độ sở hữu toàn dân và tập thể về tư liệu sản xuất và cơ chế kế hoạch hoá tập

trung đóng vai trò là những yếu tố chủ đạo của mô hình phát triển. Cần nhấn
mạnh rằng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, nhân dân Việt Nam phải ra
sức động viên và tập trung sức mạnh toàn dân tộc để vừa xây dựng đất nước, vừa
thực hiện cuộc chiến tranh không cân sức nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, thống
nhất Tổ quốc. Việc thực hiện mô hình phát triển này đã mang lại những kết quả
to lớn không thể phủ nhận. Đó là sự bảo đảm quyết định để giành thắng lợi trong
cuộc chiến giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, tạo lập những cơ sở vật chất - kỹ thuật
ban đầu rất quan trọng của XHCN, mang lại cho nhân dân cuộc sống tự do, việc
làm, quyền làm chủ xã hội cùng với những cải thiện đáng kể trong đời sống vật
chất và tinh thần.
Tuy nhiên, nền kinh tế mang đậm bản sắc nông dân - nông nghiệp, lại bị
chiến tranh tàn phá nặng nề, nhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc
sống nhân dân (ăn, mặc, ở) vẫn chưa được giải quyết; phương thức phát triển của
đất nước còn kém; tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm
trọng ; nhiệt tình lao động và năng lực sáng tạo của nhân dân, tài nguyên và các
nguồn lực chưa được khai thác, phát huy. Sau giải phóng 1975 phải nói là nền
kinh tế Việt Nam hết sức khó khăn. Bởi vì lúc đó đất nước vừa ra khỏi cuộc
chiến tranh, nền kinh tế bị kiệt quệ với rất nhiều cơ sở vật chất bị tàn phá. Từ
đường xá giao thông đến các nhà máy xí nghiệp ở phía Bắc, rồi đồng ruộng phía
Nam rất nhiều nơi không canh tác được. Bom đạn và cả chất độc háo học đã trút
6


xuống rất nhiều trong cuộc chiên. Nền kinh tế Việt Nam vốn dựa vào nông
nghiệp ngay bản thân nền nông nghiệp cũng bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh.
Sau năm 75 thì cả hai miền tuy nhập lại cùng một nước nhưng hệ thống kinh tế
thì khác nhau và những rối loạn ban đầu sau chiến tranh về mặt xã hội cũng ảnh
hưởng rất lớn đến kinh tế. Về mặt đối ngoại lúc bấy giờ sau năm 75 thì các nước
phương Tây theo chính sách của Mỹ cấm vận Việt Nam cho nên rất dè dặt trong
chuyện phát triển quan hệ với Việt Nam; Về cơ bản Việt Nam vẫn duy trì liên hệ

với khối Liên Xô, với Đông Âu và một phần Trung Quốc và vì vậy cho nên nền
kinh tế rất khó khăn. Những năm sau còn khó khăn hơn bởi vì vài năm đầu sau
75 vẫn còn một chút những tiềm lực cũ của miền Nam còn đó nhưng sau này khi
không còn những nguồn bổ trợ vào thì những tiềm lực đó giảm sút dần. Kinh tế
miền Nam được hỗ trợ rất lớn từ Mỹ cũng như các nước phương Tây trước đây
và vì vậy nền kinh tế chung của đất nước càng khó khăn hơn. Cộng thêm với hệ
thống kinh tế theo hệ thống XHCN cũ từ miền Bắc đưa vào đã đẩy nền kinh tế
rơi vào cuộc khủng hoảng rất nặng nề vào những năm 70 và đầu 80. Lạm phát
đến ba chữ số không làm cho chính quyền mới lo âu. Men chiến thắng gần như
làm cho hầu hết cán bộ sống trong hào quang của kinh điển XHCN thỏa mãn
hoàn toàn. Cảm giác khó khăn về kinh tế được khỏa lấp bởi những lý thuyết duy
ý chí khiến đời sống người dân trở thành gần như tuyệt vọng. Lúc đó không ai
trong chính quyền thừa nhận có lạm phát trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Cũng không ai dám đưa vấn đề ra để phân tích, bàn luận công khai. Người dân
miền Nam không thể làm quen với chế độ tem phiếu nên ngay sau khi đợt đổi
tiền lần thứ nhất xảy ra cả miền Nam sống trong tâm trạng ngột ngạt chưa từng
có. Đối phó với tình trạng này là một ý tưởng hết sức duy ý chí được đưa ra.
Cụm từ Giá-Lương-Tiền hình thành từ đấy đã mau chóng thúc đẩy nền kinh tế
Việt Nam rơi sâu hơn nữa vào cơn khủng hoảng.
Trước tình hình đất nước đang gặp nhiều khó khăn biến động, việc thực hiện
công nghiệp hóa là hết sức cần thiết và quan trọng, để đưa đất nước thoát khỏi
khó khăn, khắc phục mọi yếu kém về mặt kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân.

7


Việt Nam đã lựa chọn mô hình chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập
khẩu mà nhiều nước, cả các nước Xã Hội Chủ Nghĩa và nước Tư Bản Chủ Nghĩa
đã và đang thực hiện lúc đó.

Điển hình của việc thực hiện mô hình công nghiệp hóa là Liên Xô. Trong
thời kì Liên Xô phục hồi (1945 – 1955), chiến tranh lạnh và thời kì tan băng từ
(1955 – 1965) Liên Xô đã liên tục phát triển mạnh mẽ không ngừng và đạt mức
phát triển cao nhất và có vị thế chưa từng có trong lịch sử, ngay cả khi so với
nước Nga đầu thế kỷ 21. Năm 1972, nếu so với năm 1922 (năm Liên Xô thành
lập), tổng sản lượng công nghiệp Liên Xô đã tăng 321 lần, thu nhập quốc dân
tăng 112 lần. Năm 1975, chỉ cần 2 ngày rưỡi, Liên Xô đã sản xuất ra lượng sản
phẩm bằng cả năm 1917 (năm cao nhất của Đế quốc Nga cũ), sản lượng công
nghiệp chiếm 20% thế giới, chỉ đứng sau Mỹ. Liên Xô là nước dẫn đầu trên thế
giới về trình độ học vấn tại thập niên 1970, với gần 3/4 công dân có trình độ đại
học và trung học. Một số lĩnh vực như khoa học vũ trụ, điện hạt nhân, luyện kim,
công nghệ vũ khí... Liên Xô đã có được vị trí dẫn đầu thế giới. Là nước Xã hội
chủ nghĩa lớn và hùng mạnh nhất, Liên Xô trở thành đối trọng cân bằng với khối
Tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu và là nguồn viện trợ chính cho các phong trào
giải phóng dân tộc tại các nước Á-Phi-Mỹ latinh. Các phong trào cách mạng tại
châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh liên tiếp thành công, phần nhiều các phong trào
này coi Liên Xô là đồng minh hữu hảo, khiến vị thế quốc tế của Liên Xô tăng lên
rất cao, khiến Mỹ và phương Tây lo ngại rằng "làn sóng Đỏ" dường như sắp bao
vây họ.[ 2.4.1 Liên Xô phục hồi (1945 – 1955), Chiến tranh Lạnh, 2.4.2 Tan
băng (1955 – 1965) Liên Xô Wiki].

II.

MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA
1. Mục tiêu, phương hướng
 Đại hội III (1960)

Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III (tháng
9-1960) của Đảng.


8


Quá trình công nghiệp hóa của nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình trong
nước và quốc tế luôn diễn biến phức tạp và không thuận chiều. Thực hiện công
nghiệp hóa được 4 năm (1960 – 1964) thì đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá
hoại ra miền Bắc.Đất nước phải trực tiếp thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược: Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa xây dựng kinh tế,
miền Nam thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc. Khi đất nước vừa thống nhất
(1975), cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội được vài năm thì lại xảy ra chiến tranh
biên giới phía bắc, rồi kết thúc cuộc chiến này lại kéo theo sự cấm vận của Mỹ.
Như vậy, trước thời kỳ đổi mới, nước ta có khoảng 25 năm tiến hành công
nghiệp hóa theo 2 giai đoạn: “Từ 1960 đến 1975 công nghiệp hóa ở miền Bắc và
từ 1975 – 1985 công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước, hai giai đoạn này có mục
tiêu, phương hướng rõ rệt.”
- Ở miền Bắc, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua phát triển chủ nghĩa tư bản, mặt
khác, vừa phải xây dựng CNXH vừa phải chiến đấu chống Mỹ. Điểm xuất phát
của Việt Nam khi bước vào thực hiện công nghiệp hóa rất thấp. Năm 1960, công
nghiệp chiếm tỷ trọng 18,2% và 7% lao động xã hội; tương ứng nông nghiệp
chiếm tỷ trọng 42,3% và 83%. Sản lượng lương thực/người dưới 300 kg;
GDP/người dưới 100 USD. Trong khi phân công lao động chưa phát triển và
LLSX còn ở trình độ thấp thì quan hệ sản xuất đã được đẩy lên trình độ tập thể
hóa và quốc doanh hóa là chủ yếu ( đến năm 1960: 85,8% nông dân vào hợp tác
xã ; 100% hộ tư sản được cải tạo, gần 80% thợ thủ công cá thể vào hợp tác xã
tiểu thủ công nghiệp).
Trong bối cảnh đó, Đại hội Đảng III xác định rõ mục tiêu cơ bản của công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là: “Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân
đối và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội”. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.

Về cơ cấu kinh tế, Đảng xác định: kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và
lấy công nghiệp nặng làm nền tảng. (Tỷ trọng giá trị công nghiệp tăng từ 18,2% /
1960 lên 22,2%/1965; 26,6%/1971; 28,7%/1975)
Về chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị TW lần thứ 7 (khóa III) nêu
phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là:



Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.
Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.
9






Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng. (Vốn đầu tư cho công nghiệp nặng trong thời kỳ 1960 1975 tăng 11,2 lần, cho công nghiệp nhẹ tăng 6,9 lần, nông nghiệp tăng 6
lần)
Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển
công nghiệp địa phương. (Hình thành các trung tâm công nghiệp như Hải
Phòng, Quảng Ninh, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định…)

 Về thực chất, đây là sự lựa chọn mô hình chiến lược CNH thay thế nhập
khẩu mà nhiều nước, cả nước XHCN và nước TBCN đã và đang thực hiện lúc
đó. Chiến lược này được duy trì trong suốt 15 năm ở miền Bắc (1960 – 1975) và
10 năm tiếp theo trên phạm vi cả nước ( 1976 – 1986).



Đại hội IV (1976)

Giai đoạn mới của sự nghiệp cách mạng đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội mở đầu bằng kế hoạch 5 năm 1976-1980. Miền Nam được hoàn toàn giải
phóng, đất nước thống nhất, chúng ta có thêm nhiều năng lực sản xuất mới rất
phong phú; kinh tế hai miền hỗ trợ và bổ sung cho nhau; tiềm lực kinh tế và tiềm
lực mọi mặt của nước ta tăng lên gấp bội đã tạo ra những triển vọng rất to lớn,
mở ra tiền đồ sáng lạn cho Tổ quốc ta. Những bài học và những kinh nghiệm về
xây dựng và quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cùng với những
kinh nghiệm trong xây dựng và quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trên phạm
vi cả nước kể từ sau ngày chiến thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, là vô cùng
quý báu đối với chúng ta. Cũng như trước đây trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước, ngày nay trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong quá trình thực
hiện kế hoạch 5 năm 1976-1980, chúng ta ra sức phát huy truyền thống và bản
lĩnh của dân tộc, động viên mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, tranh thủ sự
ủng hộ của anh em và bè bạn, vận dụng một cách thông minh những bài học lớn
vào việc phát triển kinh tế và văn hoá. Kế hoạch 5 năm 1976-1980 phải vận dụng
đường lối chung và đường lối kinh tế của Đảng hợp với tình hình kinh tế, văn
hoá, xã hội hiện nay, đồng thời mở ra hướng tiến lên tốt đẹp của cả nước ta.
Để thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế của Đảng, kế hoạch 5
năm 1976-1980 phải thực hiện một sự bố trí chiến lược đúng đắn, nhằm hai mục
tiêu cơ bản:
10






Xây dựng một bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,

bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước mà bộ phận chủ
yếu là cơ cấu công - nông nghiệp.
Cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao
động.

Làm tốt hai việc đó là chuẩn bị cơ sở và tiền đề, tạo ra bàn đạp để đẩy mạnh
hơn nữa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những kế hoạch tiếp sau.
Xây dựng một bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu
hình thành cơ cấu kinh tế mới trong 5 năm 1976-1980 đòi hỏi phải tổ chức lại
nền sản xuất xã hội, phân bố lại lao động, đi đôi với một chính sách đầu tư đúng
hướng nhằm sử dụng tốt nhất lực lượng lao động, các thiết bị, máy móc, vật tư,
tác động ngay đến các loại tài nguyên cần khai thác trước nhất và nhanh nhất,
tăng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo một nhịp độ nhanh. Đồng thời,
phải bước đầu hình thành một cơ cấu kinh tế phù hợp với đường lối của Đảng,
quán triệt nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa, cho phép giải quyết tốt các mối quan hệ lớn của nền kinh tế quốc dân, như
đã được nêu rõ trong đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cải thiện
một bước đời sống của nhân dân (đặc biệt chú trọng nhân dân các vùng bị chiến
tranh tàn phá nặng nề) là nhằm trước hết những nhu cầu thông thường về ăn,
mặc, ở, đồ dùng hàng ngày, về học tập, bảo vệ sức khoẻ..., thực hiện phân phối
công bằng, hợp lý, thuận tiện cho nhân dân, chú trọng những tầng lớp nhân dân
lao động hiện đang làm những việc khó khăn, nặng nhọc, đòi hỏi kỹ thuật cao,
sản xuất nhiều sản phẩm quý, xây dựng những công trình quan trọng. Đi đôi với
việc chăm lo đời sống vật chất, phải chú trọng cải thiện đời sống văn hoá của
nhân dân, tạo ra cuộc sống mới, với những quan hệ xã hội tốt đẹp, là nguồn phấn
khởi và niềm vui của người lao động.

Về phương hướng, nhiệm vụ:



Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là tập trung cao độ mọi lực lượng của
chúng ta để đưa nông nghiệp phát triển một cách toàn diện, mạnh mẽ

11












và vững chắc; đồng thời đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp và công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng.
Xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp nặng.
Phát triển giao thông vận tải. Đẩy mạnh xây dựng cơ bản.
Chuyển hướng mạnh công tác lưu thông, tài chính, ngân hàng theo yêu
cầu cải tạo, xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học ứng dụng tiến bộ kỹ thuật,
phát huy vai trò then chốt của cách mạng khoa học - kỹ thuật .
Xây dựng, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
trong cả nước.
Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa, phát triển công tác văn hoá,
xã hội, đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hoá.
Cải thiện một bước đời sống của nhân dân.


Đại hội V (1982)

Sau khi thực hiện kế hoạch 5 năm (1976 – 1980) Đảng ta lại tiếp tục thực
hiện kế hoạch 5 năm (1981 – 1985) Báo cáo chính trị đã trình bày những chủ
trương có tính nguyên tắc, chỉ đạo việc xây dựng chiến lược kinh tế và xã hội
cho chặng đường những năm 80 của quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
nước nhà, nêu lên những nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội trong 5 năm (1981 1985). Những chủ trương chiến lược đó là sự vận dụng đường lối cách mạng xã
hội chủ nghĩa và đường lối xây dụng kinh tế xã hội chủ nghĩa của Đảng phù hợp
với điều kiện cụ thể của chặng đường hiện nay.
Báo cáo nêu lên những mục tiêu tổng quát về kinh tế và xã hội trong những năm
80 như sau:


Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định,
tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân,
trước hết giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm, đáp ứng
tốt hơn những nhu cầu về mặc, về học hành, chữa bệnh, về ở, đi lại, về
chăm sóc trẻ em và các cầu tiêu dùng thiết yêu khác.

12








Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ

yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu,
đồng thời tăng thêm trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế khác, và
chuẩn bị cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của công nghiệp nặng
trong chặng đường tiếp theo.
Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam,
tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước.
Đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc
phòng an ninh, trật tự.

Sau đây là phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu của những ngành và lĩnh vực
quan trọng:











2.

Mặt trận nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản.
Sản xuất hàng tiêu dùng.
Công nghiệp nặng.
Giao thông, vận tải và thông tin bưu điện.
Xây dựng cơ bản.

Lao động và dân số.
Mặt trận phân phối, lưu thông.
Quan hệ kinh tế với nước ngoài, xuất nhập khẩu.
Công tác khoa học và kỹ thuật.
Công tác giáo dục, đào tạo và văn hoá, y tế, xã hội.

Phương pháp thực hiện


Tổ chức lại nền sản xuất xã hội, phân bố lại lực lượng sản xuất
trong cả nước

Để phục vụ việc tổ chức lại nền sản xuất xã hội, phân bố lại lực lượng sản
xuất, Nhà nước cần có kế hoạch, chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi
người có sức lao động đều có việc làm có ích cho xã hội, đồng thời đòi hỏi mỗi
13


người làm tốt nghĩa vụ lao động của mình. Các ngành quản lý kinh tế, nội chính,
văn hoá, y tế, giáo dục phải phục vụ tốt công tác phân bố lại lực lượng sản xuất.
Từng ngành, từng địa phương, từng cơ sở, phải soát xét lại sự phân bố lực
lượng sản xuất trong ngành, trong địa phương, trong cơ sở mình, từ đó mà bố trí
lại lao động một cách hợp lý, xác định biên chế. Đối với số lao động không cần
thiết trong các cơ quan, xí nghiệp, cần kiên quyết chuyển sang sản xuất, hoặc
làm một việc gì thật sự có ích cho xã hội. Đối với số lao động thừa ở địa phương
sau khi cân đối lao động, cần kiên quyết chuyển đi các vùng kinh tế mới, hoặc
chuyển sang các ngành, nghề đang cần lao động.


Cải tiến phương thức quản lý


Chính là nhằm yêu cầu tổ chức lại nền sản xuất xã hội và phân bố lại lực
lượng sản xuất trong mấy năm qua, nhất là trong năm 1976, Đảng ta và Nhà
nước ta đã đề ra những chủ trương và biện pháp cải tiến quản lý trong nhiều nghị
quyết quan trọng. Đó là những văn bản đánh dấu một bước tiến rõ rệt của chúng
ta về kiến thức và kinh nghiệm quản lý, có nội dung thiết thực, phù hợp với
nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1976-1980. Cần tiếp tục phấn đấu
thực hiện các nghị quyết đó, từ kinh nghiệm thực tiễn mà bổ sung và cụ thể hoá
các biện pháp quản lý kinh tế, mau chóng thống nhất quản lý và kế hoạch hoá
nền kinh tế trong cả nước, tiến lên xây dựng phương thức quản lý kinh tế xã hội
chủ nghĩa của nước ta.






Cải tiến phương thức quản lý, trước hết phải cải tiến công tác kế hoạch
hoá.
Trong hệ thống quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa, chế độ hạch toán
kinh tế là một nhân tố cơ bản, giúp xoá bỏ lối bao cấp. Tuy chế độ
hạch toán kinh tế thực hiện tại các đơn vị sản xuất và kinh doanh,
nhưng đó là kết quả tổng hợp của sự hoạt động của cả hệ thống quản
lý, của toàn thể bộ máy quản lý.
Trong hệ thống quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa các chính sách kinh tế
có tác dụng rất lớn, vừa bảo đảm thực hiện tốt kế hoạch nhà nước, vừa
14


bảo đảm thúc đẩy quản lý kinh doanh theo chế độ hạch toán kinh tế.

Các chính sách quản lý kết hợp chặt với kế hoạch, tác động cùng một
hướng vào mục tiêu chung.


Tăng cường hiệu lực của bộ máy nhà nước

Tăng cường và hoàn thiện Nhà nước là tăng cường hiệu lực của bộ máy hành
chính, của tổ chức quản lý kinh tế và văn hoá. Song, vì hoạt động kinh tế là hoạt
động làm nền tảng cho những hoạt động xã hội khác, đồng thời là một nhiệm vụ
tương đối mới mẻ và khó khăn đối với Nhà nước ta, cho nên trước hết phải đặc
biệt chú ý tăng cường hiệu lực của Nhà nước về mặt tổ chức quản lý kinh tế.


Phát động một phong trào quần chúng sôi nổi, rộng khắp nhằm
thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch.

Thực hiện sự chuyển biến sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế và
xã hội nước ta nhằm hoàn thành những nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch 5
năm là một cuộc đấu tranh cách mạng gay go, phức tạp giữa hai con đường, và
chúng ta nhất định giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Đó là ý chí sắt đá của
Đảng ta và Nhà nước ta, của nhân dân Việt Nam ta. Cách mạng bao giờ cũng là
sự nghiệp của quần chúng. Sự nghiệp cách mạng trong thời gian sắp tới đòi hỏi ý
chí đấu tranh, đòi hỏi bàn tay và khối óc của hàng chục triệu người lao động Việt
Nam. Sự nghiệp ấy chỉ có thể thực hiện được bằng cách động viên và tổ chức
quần chúng, tạo ra phong trào cách mạng sôi nổi, mạnh mẽ, liên tục. Đường lối
của Đảng do Đại hội lần thứ IV của Đảng vạch ra, những mục tiêu phấn đấu của
kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, Điều lệ mới của Đảng sẽ đem lại cho nhân dân
nước ta niềm phấn khởi và những mục tiêu phấn đấu to lớn, thúc đẩy mọi người
hăng hái hơn bao giờ hết, góp phần xứng đáng nhất của mình vào sự nghiệp vĩ
đại của dân tộc. Đó là những thuận lợi để chúng ta tổ chức phong trào lao động,

sản xuất sôi nổi, mạnh mẽ và liên tục, thi đua lập thành tích trên mặt trận kinh tế
và văn hoá.
Chúng ta có những căn cứ lịch sử để tin tưởng vào sức mạnh vĩ đại của nhân
dân. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhân dân ta đã và sẽ làm nên những
việc lay trời chuyển đất. Phải làm cho nhân dân cả nước ai ai cũng hiểu rõ đường
15


lối của Đảng, hiểu rõ con đường của dân tộc trong giai đoạn cách mạng mới,
biến đường lối, chủ trương của Đảng thành ý chí và hành động cách mạng của
mình. Phải động viên và tổ chức quần chúng tiến lên với tinh thần phấn khởi và
khí thế cách mạng tiến công, hưởng ứng và hăng hái thực hiện việc tổ chức lại
nền sản xuất xã hội, phân bố lại lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ba cuộc cách
mạng để hoàn thành vượt mức những nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch.

III. KẾT QUẢ, HẠN CHẾ, Ý NGHĨA.
1. Kết quả thực hiện chủ trương và

ý nghĩa

Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới diễn ra trong cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, những tiền đề vật chất cần thiết cho công nghiệp hóa còn hết sức hạn chế
và trong điều kiện có chiến tranh phá hoại.
Trên phạm vi cả nước: sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước độc lập
thống nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chiến lược “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng…” tiếp tục được khẳng
định lại sau 16 năm tại Đại hội IV của Đảng (1976) nhưng chính sách thì đã có
thay đổi chút ít “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ
lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách

hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng
công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công – nông
nghiệp vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết
hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân
thống nhất”.
Những thay đổi trong chính sách CNH dù còn chưa thật rõ nét song cũng đã
tạo một sự thay đổi nhất định trong phát triển:
+ Số xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng từ 1913 cơ sở năm 1976 lên
2627 cơ sở năm 1980 và 3220 cơ sở năm 1985.

16


+ 1976 – 1978 công nghiệp phát triển khá. Năm 1978 tăng 118,2% so với
năm 1976. Tuy nhiên, do trên thực tế chúng ta chưa có đủ điều kiện để thực hiện
(nguồn viện trợ từ nước ngoài đột ngột giảm, cách thức quản lý nền kinh tế nặng
tính quan liêu, bao cấp, nhiều công trình nhà nước xây dựng dở dang vì thiếu
vốn, công nghiệp trung ương giảm, nhiều mục tiêu không đạt được…) nên đây
vẫn là sự biểu hiện của tư tưởng nóng vội trong việc xác định bước đi, và sai lầm
trong việc lựa chọn ưu tiên giữa công nghiệp và nông nghiệp.
Kết quả là thời kỳ 1976 – 1980 nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, suy thoái,
cơ cấu kinh tế mất cân đối nghiêm trọng.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) đã xác định trong chặng đường đầu tiên
của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức
phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công
nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết
thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Đại hội V coi đó là nội dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường
trước mắt. Đây là bước điều chỉnh rất đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nhờ vậy, nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ này đã có sự tăng trưởng khá hơn so

với thời kỳ 5 năm trước đó.
Cụ thể là:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế 1981: 2,3% 1985: 5,7%
+ Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1981: 9,5%
+ Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 1981: 5,3% 1985: 3%
+ Năm 1985, công nghiệp nhóm A chiếm 32,7%, công nghiệp nhẹ 67,3%,
tiểu thủ công nghiệp 43,5%, công nghiệp địa phương 66%, công nghiệp quốc
doanh và công tư hợp doanh 56,5%.
+ Tỷ trọng công nghiệp tăng từ 20,2%/1980 lên 30%/1985.

17


+ Nhập khẩu lương thực giảm hẳn so với 5 năm trước (từ 5,6 triệu tấn thời
kỳ 1976-1980 xuống 1 triệu tấn thời kỳ 1981-1985).
Tuy nhiên, trên thực tế chính sách này vẫn không có mấy thay đổi so với
trước. Mặc dù nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu nhưng Đại hội
vẫn xác định “Xây dựng cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp hiện đại, lấy hệ thống
công nghiệp nặng tương đối phát triển làm nòng cốt”. Sự điều chỉnh không dứt
khoát đó đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam không tiến xa được bao nhiêu, trái
lại còn gặp nhiều khó khăn và khuyết điểm mới, tình hình kinh tế - xã hội và đời
sống nhân dân sau 5 năm không những không ổn định được mà còn lâm vào
khủng hoảng trầm trọng.
Mặc dù vậy, quá trình công nghiệp hóa vẫn đạt được những kết quả quan
trọng. So với năm 1955, số xí nghiệp tăng lên 16,5 lần. Nhiều khu công nghiệp
lớn đã hình thành, đã có nhiều cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng
quan trọng như điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất được xây dựng. Đã có
hàng chục trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề đã đào
tạo được đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật xấp xỉ 43 vạn người, tăng 19 lần so
với 1960 là thời điểm bắt đầu công nghiệp hóa. Trong điều kiện đi lên từ điểm

xuất phát thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, thì những kết quả đạt được trên
đây có ý nghĩa hết sức quan trọng - tạo cơ sở ban đầu để nước ta phát triển nhanh
hơn trong các giai đoạn tiếp theo.

2.

Hạn chế và nguyên nhân

- Hạn chế:
Bên cạnh những kết quả đạt được, công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới
còn nhiều hạn chế. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn hết sức lạc hậu. Những ngành
công nghiệp then chốt còn nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức
làm nền tảng vững chắc cho nên kinh tế quốc dân. Lực lượng sản xuất trong
nông nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển, nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu
cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội.

18


Đất nước vẫn trong tình trạng nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển, rơi vào
khủng hoảng kinh tế - xã hội. Những hạn chế trên xuất phát từ nguyên nhân:
+ Về khách quan, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc
hậu, nghèo nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề,
vừa không thể tập trung sức người sức của cho công nghiệp hóa.
+ Về chủ quan, chúng ta mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác
định mục tiêu, bước đi về cơ sở vật chất kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu
đầu tư… Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý trí trong nhận thức và
chủ trương công nghiệp hóa.

3.


Đánh giá sự thực hiện đường lối công nghiệp hóa

Nhìn chung trong thời kỳ 1960-1985, cúng ta đã nhận thức và tiến hành công
nghiệp hóa theo kiểu cũ dẫn tới hạn chế. Sai lầm sau đây:
Công nghiệp hóa theo mô hình nên kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về
phát triển công nghiệp nặng.
Công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và
nguồn viện trợ của các nước XHCN; chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà
nước và các doanh nghiệp nhà nước; việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa
được thực hiện thông qua cơ chế kế hoạch hóa quan liêu, bao cấp, không tôn
trọng các quy luật của thị trường.
Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không
quan tâm đến hiệu quả kinh tế - xã hội. Trong diều kiện chiến trah phá hoại, tiếp
theo lại bị bao vây, cô lập, những sai làm trên đây đã trở thành một nguyên nhân
chủ yếu dẫn tới cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ké dài nhiều năm.
Những hạn chế trên xuất phát từ nguyên nhân:
+ Về khách quan, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc
hậu, nghèo nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề,
vừa không thể tập trung sức người sức của cho công nghiệp hóa.
+ Về chủ quan, chúng ta mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác
định mục tiêu, bước đi về cơ sở vật chất kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu
19


đầu tư… Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý trí trong nhận thức và
chủ trương công nghiệp hóa.

C.


PHẦN KẾT LUẬN

Nhìn chung trong thời kỳ 1960-1985, cúng ta đã nhận thức và tiến hành công
nghiệp hóa theo kiểu cũ dẫn tới hạn chế. Sai lầm sau đây:
Công nghiệp hóa theo mô hình nên kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về
phát triển công nghiệp nặng. Công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao
động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ của các nước XHCN; chủ lực thực
hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước; việc phân bổ
nguồn lực để công nghiệp hóa được thực hiện thông qua cơ chế kế hoạch hóa
quan liêu, bao cấp, không tôn trọng các quy luật của thị trường. Nóng vội, giản

20


đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả
kinh tế - xã hội. Trong diều kiện chiến trah phá hoại, tiếp theo lại bị bao vây, cô
lập, những sai làm trên đây đã trở thành một nguyên nhân chủ yếu dẫn tới cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội ké dài nhiều năm.
Từ thực tiễn chỉ đạo công nghiệp hóa 5 năm (1976-1981), Đảng ta rút ra kết
luận: từ một nên sản xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định đúng bước
đi của công nghiệp hóa cho phù hợp với mục tiêu khả năng của mỗi chặng
đường. Với cách đặt vấn đề như trên, Đại hội lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982)
đã xác định trong chặng đường đầu tiên thời kí quá độ ở nước ta phải lấy nông
nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng; việc xây dựng và phát triển công ngiệp nặng trong giai đoạn này cần có
mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội dung chính của công nghiệp hóa trong chặng
đường trước mắt. Đây là sự điều chỉnh rất đúng đắn mục tiêu và bước đi công
nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tiếc rằng, trên thực tế chúng ta đã
không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược quan trọng này, gây hậu quả nghiêm

trọng.

D.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

PGS. TS. Đinh Xuân Lý – CN. Nguyễn Đăng Quang (2011), “Giáo
trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam” , Chương
IV: Đường lối công nghiệp hóa, tr 118 – 122, NXB Chính trị quốc
gia – sự thật, Hà Nội -2014.

2.

VĂ N KI Ệ N ĐẠI HỘI ĐẠI B IỂ U CỦA ĐẢ NG TOÀ N
QUỐC L Ầ N THỨ IV (Tháng 12 năm 1976)

21


3.

VĂ N KI Ệ N ĐẠI HỘI ĐẠI B IỂ U CỦA ĐẢ NG TOÀ N
QUỐC L Ầ N THỨ V (1982)

4.

VĂ N KIỆ N ĐẠI HỘI ĐẠI BI ỂU TOÀ N QUỐC LẦ N THỨ
II I CỦA ĐẢ NG LA O ĐỘNG V IỆ T NA M VỀ NHIỆ M V Ụ

VÀ ĐƯ ỜN G LỐI CỦA ĐẢ NG TR ONG GIA I ĐOẠ N
MỚI (Ngày 10 tháng 9 năm 1960)

5.

/>
6.

/>
7.

/>
22



×