Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH tín DỤNG đối với các DOANH NGHIỆP vừa và NHỎ ở CHDCND lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.49 KB, 77 trang )

Đề tài: HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở CHDCND LÀO.
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Đại hội Đảng nhân dân cách mạng Lào lần thứ 4 năm 1986 đã đề
ra một nghị quyết mang tính lịch sử nhằm cải cách kinh tế cho đến
năm 2000 được biết đến với tên gọi Cơ chế kinh tế mới. Cơ chế
kinh tế mới này chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận đống theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Sau hơn 10 năm đổi mới, đất nước Lào đã đạt được những thành
tựu đáng kể so với thời kỳ trước đó: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
tình hình kinh tế xã hội ổn định, giải quyết ngày một tốt hơn các
chính sách và công bằng xã hội. Trong sự tăng trưởng của nền kinh
tế có một đối tượng góp phần quan trọng đó là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế
hoạt động tại Lào thuộc diện vừa và nhỏ. Có đến 85% các doanh
nghiệp nhà nước và 97% các doanh nghiệp tư nhân thuộc loại hình
doanh nghiệp này. Việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ là
phù hợp với điều kiện vốn, kỹ thuật và kinh tế Lào trong giai đoạn
hiện nay. Trong những năm qua Đảng nhân dân cách mạng và nhà
nước Lào đã nỗ lực giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát
triển sản xuất kinh doanh thông qua các chính sách đúng đắn của
mình. Cùng với chính sách tín dụng của các ngân hàng đã tháo gỡ
được rất nhiều khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.


Tuy nhiên, do hậu quả của nền kinh tế tập trung bao cấp trong một
thời gian dài nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Lào còn gặp
không ít khó khăn như: vốn ít, thiết bị lạc hậu, quản lý yếu kém,


thiếu lao động có kỹ năng, chất lượng sản phẩm kém, thiếu sức
cạnh tranh… Tuy nhiên con đường để giải quyết các khó khăn trên
lại nằm ở nguồn vốn. Vậy cần phải hoàn thiện hệ thống chính sách
tín dụng của ngân hàng để đáp ứng đòi hỏi của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong giai đoạn này. Chính vì vậy đề tài “ Hoàn thiện
chính sách tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào” được chọn để viết luận văn.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN
VĂN.
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn để đề xuất những chính sách tín dụng hợp lý cho sự phát triển
cúa các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Lào trong thời điểm hiện tại.
Để đạt được mục đích đó luận văn có các nhiệm vụ sau:
-

Thứ nhất: Hệ thống hóa những lý luận về doanh nghiệp vừa
và nhỏ cũng như vai trò của nó với nền kinh tế và chính sách
tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

-

Thứ hai: Phân tích đánh giá thực trạng chính sách tín dụng từ
những năm đầu thời kỳ đổi mới (1986) cho đến khi tạm thời
ổn định ( 2003) và tác động của nó đến nền kinh tế trong giai
đoạn hiện nay. Nghiên cứu kinh nghiệm một số nước trong
lĩnh vực này

-

Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp tín dụng ngân hàng đối với

các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Lào trong thời gian tới.


3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Hệ thống ngân hàng nhà nước, ngân hàng thương mại của Lào
- Hệ thống các chính sách tín dụng, văn hóa tín dụng
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử đồng thời kết hợp với phương pháp phân tích tổng hợp để làm
sáng tỏ nhưng đề xuất với chính sách tín dụng.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Khái quát và làm rõ vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Đưa ra các bài học của các nước đi trước nhằm áp dụng cho Lào
- Tóm lược lại các chính sách của nhà nước trong giai đoạn đổi
mới và thành tựu của chúng để tiếp tục rút kinh nghiệm và phát
triển.
- Giải quyết vấn đề tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tín dụng cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ
6. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Chương 1: Sự cần thiết hoàn thiện chính sách tín dụng đối với các
DNVVN Lào.
Chương 2: Chính sách tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Lào trong thời gian qua.
Chương 3: Hoàn thiện chính sách tín dụng đối với các DNVVN.


Từ viết tắt: Anh phải dành 1 trang riêng ở trước khi viết mở
đâu, bao gồm:

-

Lời cam đoan ( 1 trang riêng)

-

Danh mục viết tắt (một trang riêng)

-

Danh mục biểu bảng (trang riêng)

-

Mục lục (trang riêng)

DNVVN: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
TCTD: Tổ chức tín dụng
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTW: Ngân hàng trung ương
CBTD: Cán bộ tín dụng
TCTC: Tổ chức tài chính

CHƯƠNG I:
SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÍN
DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA
LÀO.



1.1.

Tín dụng và chính sách tín dụng

1.1.1 Khái niệm
-

Tín dụng

Tín dụng là một khái niệm khá quen thuộc trong đời sống xã hội
chúng ta. Nó xuất phát và hình thành từ khả năng tách rời giữa
quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản. Trong thực tế thuật ngữ tín
dụng được hiểu theo nhiều cách khác nhau, tùy theo từng bối cảnh
cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ
tài chính tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau:
Trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết
kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là
phương pháp chuyển dịch quỹ từ người đi vay sang người cho vay.
Trong quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch tài
sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty bán
hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người
bán chuyển giao hàng hóa cho bên mua và sau một thời gian nhất
định theo thỏa thuận bên mua phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến
hơn cả là giao dịch giữa ngân hàng và các định chế tài chính khác
với doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức
là ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời hạn nhất
định người đi vay phải thanh toán vốn gốc và lãi.
Nếu xem xét tín dụng như là một chức năng cơ bản của ngân
hàng thì tín dụng được hiểu là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc
hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế khác) và

bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó
bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một


thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn
trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh
toán.
Từ các quan niệm trên có thể rút ra: Tín dụng là sự chuyển
nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện
vật) từ người sở hữu sang người sử dụng, sau đó hoàn trả lại tại
một thời điểm nhất định trong tương lai với giá trị lớn hơn giá trị
ban đầu.
Qua khái niệm trên, bản chất tín dụng là một giao dịch về tài
sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc điểm cơ bản:
- Sự tin tưởng đối với khách hàng: người cho vay khi chuyển
giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng
người đi vay sẽ hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi. Đây là yếu tố cơ
bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế, một số nhân viên tín
dụng khi xét duyệt cho vay không đánh giá cao sự tín nhiệm của
khách hàng mà chú trọng nhiều đến các đảm bảo do đó làm chất
lượng tín dụng bị ảnh hưởng. Do vậy cần biết kết hợp giữa các yếu
tố để việc hợp tác tín dụng được lâu dài và bền vững.
- Tính hoàn trả: Thông thường giá trị hoàn trả thường lớn hơn
giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm
phần lãi ngoài vốn gốc. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng cấp tiền
vay trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện của khách hàng. Về
khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như
hợp đồng tín dụng, khế ước… thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên
đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn
thanh toán.

- Tính thời hạn: trên cơ sở hợp đồng đã ghi thì khi đến hạn
thanh toán bên đi vay phải hoàn trả gốc và lãi vô điều kiện cho bên


cho vay. Tuy nhiên trong thực tế thì khi đến hạn thanh toán thì sẽ
xảy ra nhiều trường hợp như khách hàng trả nợ đúng hạn, khách
hàng chưa trả hết hoặc khách hàng không trả được nợ. Chính vì thế
tùy từng trường hợp cụ thể mà ngân hàng có những hướng giải
quyết phù hợp khác nhau.

-

Chính sách tín dụng

Chính sách tín dụng là hệ thống các chủ trương, định hướng quy
định chi phối hoạt động tín dụng do Hội đồng quản trị các ngân
hàng đưa ra nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài trợ cho các
doanh nghiệp, các hộ gia đình và cá nhân trong phạm vi cho phép
của những quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Các ngân hàng lập ra chính sách tín dụng nhằm mục đích:
+ Xác định những giới hạn áp dụng cho các hoạt động tín
dụng. Đồng thời cũng thiết lập môi trường nhằm giảm bớt rủi ro
trong hoạt động tín dụng.
+ Bảo đảm rằng mỗi quyết định tín dụng đều khách quan, tuân
thủ quy định của Ngân hàng Nhà nước và phù hợp với thông lệ
chung của quốc tế. Không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp
trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu nợ
của các NHTM.

1.1.2. Nội dung của chính sách tín dụng



Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của ngân hàng. Với tầm
quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một
chính sách rõ ràng và được xây dựng hoàn thiện qua nhiều năm, đó
là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng phản ánh định hướng
tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho toàn bộ
cán bộ tín dụng và nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn
hóa trong hoạt động tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt
động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
Chính sách khách hàng.
Thông thường, các ngân hàng thường xuyên tiến hành việc phân
loại khách hàng thành khách hàng truyền thống, khách hàng quan
trọng và khách hàng khác. Những khách hàng truyền thống và
quan quan trọng thường được hưởng những chính sách ưu đãi của
ngân hàng về nhiều mặt như thủ tục vay vốn, lãi suất... Việc ngân
hàng xác định đối tượng DNVVN là đối tượng khách hàng quan
trọng ảnh hưởng rất lớn đến việc mở rộng hoạt động cho vay đối
với đối tượng doanh nghiệp này, doanh nghiệp sẽ có được những
điều kiện ưu đãi tốt nhất để có thể tiếp cận với nguồn vốn của ngân
hàng.
Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng.
Ngân hàng cho khách hàng vay tối đa bằng nhu cầu của khách
hàng và phù hợp với các quy định dựa trên tính toán của ngân hàng
về rủi ro và sinh lời. Ngoài các giới hạn do luật quy định mỗi ngân
hàng còn có quy định riêng về quy mô và các giới hạn của mình.
Ví dụ quy mô cho vay tối đa với từng đối tượng doanh nghiệp,
từng ngành nghề kinh tế…Việc ngân hàng mở rộng giới hạn tín
dụng đối với đối tượng khách hàng là các DNVVN cũng là một
nhân tố thúc đẩy việc cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này.



Chính sách về các khoản đảm bảo.
Vấn đề nổi cộm mà các DNNVV hiện đang rất khó tháo gỡ là sự
khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn để đầu tư và hoạt động
kinh doanh. Các doanh nghiệp thiếu vốn nhưng lại rất khó tiếp cận
được các nguồn vay. Trong khi đó các ngân hàng đang có nhu cầu
cần cho vay đối với các doanh nghiệp nhằm mở rộng thị phần và
tăng thu nhập nhưng lại không thể cho vay.
Nguyên nhân lớn gây nên trở ngại này do hai bên chưa có sự đồng
thuận và bảo đảm cho việc vay vốn đã tạo nền cái vòng luẩn quẩn:
doanh nghiệp không đủ tài sản thế chấp, không vay được vốn,
không mở rộng được sản xuất kinh doanh, không nhiều lợi nhuận
và tài sản vì thế cũng chẳng có nhiều tài sản để thế chấp... đã diễn
ra nhiều năm nay.
1.1.3. Tương quan giữa môi trường kinh doanh của DNVVN và
chính sách tín dụng
- Môi trường pháp lý
Khi các ngân hàng trong hệ thống tài chính thực hiện nghiệp vụ
nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ tài chính khách cho
khách hàng, họ phải tiến hành những công việc trong một khung
pháp lý chặt chẽ được xây dựng chủ yếu để bảo vệ lợi ích của toàn
xã hội. Trong đó, những quy định có liên quan đến hoạt động cho
vay có ảnh hưởng rất lớn đến danh mục cho vay của ngân hàng vì
danh mục cho vay có vai trò rất lớn tới sự an toàn trong hoạt động
của ngân hàng.


Việc mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNVVN nhằm thúc
đẩy sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này phụ thuộc rất lớn

vào chính sách tiền tệ của NHNN, vào việc chính phủ có xây dựng
được một môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng cho các
DNVVN trong việc tiếp cận với nguồn vốn theo hướng: cơ chế
chính sách phải đồng bộ; xoá bỏ những phân biệt đối xử về tín
dụng, đơn giản hóa cơ chế và thủ tục hành chính của Nhà nước
như vấn đề công chứng, đăng ký giao dịch đảm bảo…
Sự ổn định trong chính sách của nhà nước đối với các ngành kinh
tế cũng ảnh hưởng rất lớn đến dự mở rộng cho vay đối với các
DNVVN. Ví dụ Ở Lào hiện nay chính sách trong một số ngành
như: lắp ráp xe máy, chế biến gỗ… không ổn định gây rất nhiều
khó khăn cho doanh nghiệp khi đầu tư dài hạn và Ngân hàng
không thể mạo hiểm mở rộng cho vay trung và dài hạn đối với
những DNVVN hoạt động trong những lĩnh vực này.
-Môi trường kinh tế-xã hội
Hoạt động ngân hàng mà đặc biệt là hoạt động cho vay của ngân
hàng là hoạt động cực kỳ nhạy cảm với các diễn biến của nền kinh
tế. Sự phát triển kinh tế có tác động trực tiếp đến khả năng cung
ứng tín dụng của ngân hàng cũng như nhu cầu tín dụng trong nền
kinh tế. Một nền kinh tế đang trên đà phát triển, một môi trường
chính trị ổn định, thuận lợi là cơ hội để các doanh nghiệp đầu tư
phát triển sản xuất. Nhu cầu đầu tư sản xuất tăng khiến nhu cầu
vay vốn ngân hàng cũng tăng lên. Đồng thời, khi nền kinh tế tăng
trưởng ổn định, thu nhập của người dân cao hơn, vì vậy tiết kiệm
tăng và nguồn tiền gửi vào các ngân hàng cũng dồi dào hơn. Và
hoàn toàn ngược lại trng một nền kinh tế suy thoái.
-Môi trường khoa học - công nghệ


Thực tế là hiện nay phần lớn công nghệ đang được sử dụng
trong các DNVVN Lào đã trở nên lạc hậu từ 1-2 thế hệ. Với nhiều

doanh nghiệp mua công nghệ chỉ đơn giản là mua máy móc, thiết
bị. Họ không quan tâm hoặc quan tâm không đầy đủ đến các
phương pháp, bí quyết sản xuất. Do ảnh hưởng của tư duy sản xuất
nhỏ và phần lớn là do thiếu vốn, rất nhiều DNVVN đầu tư nhỏ
giọt, làm từng phần, mỗi năm mua thêm một số máy móc, thiết bị
rồi vừa làm vừa cải tiến.
Song, với xu hướng hội nhập toàn cầu cùng với tốc độ phát
triển khoa học-công nghệ chóng mặt như hiện nay, sớm muộn các
doanh nghiệp cũng phải giải các bài toán về công nghệ. Và lời giải
cho bài toán này thuộc về sự mở rộng hoạt động cho vay của ngân
hàng vì để có thể đổi mới công nghệ thì vấn đề đặt ra đầu tiên là
vốn.
Chính sách tín dụng với sự phát triển các DNVVN

1.2
1.2.1.

Đặc điểm các DNVVN

- Khái niệm:
Ở mỗi nước khác nhau quan niệm về DNVVN cũng khác nhau.
Nhưng hiểu một cách chung nhất thì DNVVN là những doanh
nghiệp có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu.
Trong thực tế, phần lớn các nước đều sử dụng hai tiêu thức vốn
điều lệ và số lao động thường xuyên để xác định DNVVN. Chúng
ta có thể thấy rõ tiêu thức phân loại của các nước thông qua bảng
sau đây:
Bảng 1.1. Tiêu thức xác định DNVVN tại một số quốc gia.
Nước


Số lao động

Tổng vốn

Doanh thu


Thái lan

< 100

Indonesia < 100
Hàn
Quốc

< 20 triệu Baht
0.6 tỷ Rupi

< 2 tỷ Rupi

< 300 trong công <0.6 triệu USD
nghiệp, xây dựng.
< 200 trong thương 0.25 triệu USD
mại, dịch vụ

< 1.4
USD

triệu


< 1.4
USD

triệu

Đài Loan < 300 trong công 1.4 triệu USD
nghiệp, xây dựng.
< 50 trong thương
mại, dịch vụ
Nhật Bản < 100 trong bán < 30 triệu yên.
buôn.
< 10 triệu yên
< 50 trong bán lẻ.
Canada

< 500 trong công
nghiệp, dịch vụ

< 20 triệu đô
la Canada

Tại Lào, Bộ công nghiệp và thủ công nghiệp ( Ministry of Industry
and Handicraft – MIH ) vào năm 1996 đã đưa ra một định nghĩa
định lượng để phân loại quy mô của các doanh nghiệp như sau:
Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có từ 1 đến 9 công nhân, doanh
nghiệp vừa là doanh nghiệp có từ 9 đến 29 công nhân, doanh
nghiệp lớn là doanh nghiệp có trên 29 công nhân.
Năm 2000, trung tâm thống kê quốc gia Lào đã định nghĩa lại như
sau: DN nhỏ có từ 1 đến 9 công nhân, doanh nghiệp vừa có từ 9
đến 99 công nhân, doanh nghiệp lớn có từ 99 công nhân trở lên.



Theo văn phòng Thủ tướng chính phủ năm 2004 thì:
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp độc lập dược
thành lập theo pháp luật và hoạt động tuân thủ theo đúng quy định
của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và được phân loại theo tiêu
thức
sau:
- Doanh nghiệp nhỏ là DN có số công nhân không vượt quá 19
người, có tổng tài sản không vượt quá 250 000 000 kíp, và doanh
thu hàng năm không vượt quá 400 000 000 kíp.
- Doanh nghiệp vừa là DN có số công nhân không vượt quá 99
người, có tổng tài sản không vượt quá 1 200 000 000 kíp và doanh
thu hàng năm không vượt quá 2 000 000 000 kíp.
- Có thể nói, các DNNVV là một thực thể kinh tế mang những đặc
điểm riêng không giống bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh
tế. DNNVV có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Có bộ máy tổ chức quản lý gọn nhẹ, đơn giản.
Ở DNNVV tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý kinh doanh gọn
nhẹ, các quyết định quản lý được thực hiện nhanh, công tác kiểm
tra, điều hành trực tiếp dễ dàng. Hoạt động kinh doanh của các
DNNVV rất linh hoạt và năng động: Các chủ doanh nghiệp luôn vận
động, tìm kiếm các lĩnh vực mà ở đó có sự cạnh tranh chưa cao song
lại đem lại lợi nhuận nhanh chóng. DNNVV có khả năng chuyển
hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh, tăng giảm lao
động dễ dàng và thậm chí chuyển địa điểm cũng dễ dàng hơn các
doanh nghiệp lớn. Do đó, họ luôn tìm kiếm phát hiện được những
ngành, lĩnh vực, mặt hàng xã hội đang thiếu, đang cần đầu tư sản
xuất, đồng thời không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất



lao động và chất lượng sản phẩm để có ưu thế trong cạnh tranh và
thu được lợi nhuận cao. Tuy nhiên các DNNVV có qui mô về vốn
và nhân lực bị hạn chế khiến cho DNNVV gặp không ít khó khăn
về nhiều mặt.
- Phần lớn các DNNVV được hình thành và phát triển từ
các hộ sản xuất nhỏ.
Phần lớn các DNNVV hình thành và phát triển từ các hộ sản
xuất nhỏ do tư nhân tự bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh thông thường
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân quanh khu vực,
chủ yếu phát triển ở thành thị và nông thôn, nhưng thường tập
trung ở các đô thị lớn, ven đô thành phố. Một số doanh nghiệp phát
triển từ hình thức hợp tác xã và tổ hợp tác cho nên hoạt động của
những doanh nghiệp này còn mang tính địa phương, do quy mô
nhỏ nên việc lập kế hoạch sản xuất, phân phối, tiêu thụ hàng hóa
cũng như nắm bắt các công nghệ hiện đại và có kế hoạch lâu dài
nhằm mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
- Ít tiếp cận được với các khách hàng lớn.
Có một số ngành nghề, lĩnh vực mà các DNNVV không thể
tham gia, hoặc rất ít khả năng tham gia như: các ngành công
nghiệp nặng, luyện kim, khai thác mỏ, ngân hàng tài chính do tiềm
lực về vốn và nhân lực bị hạn chế. Điều này không những làm
giảm khả năng cạnh tranh mà còn kìm hãm sự hợp tác của các
DNNVV với các doanh khách hàng lớn trong lĩnh vực này. Hơn
nữa các DNNVV luôn tiềm ẩn rủi ro trong kinh doanh, do hạn chế
về năng lực quản lý, về vốn. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới
quan hệ hợp tác đối với các doanh nghiệp lớn. Ít tiếp cận được với
các khách hàng lớn và những nguồn vốn rẻ nên cơ hội để mở rộng
quy mô sản xuất bị hạn chế làm cho lợi nhuận của DNNVV không



cao, ảnh hưởng tới sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Vì vậy
muốn mở rộng quy mô cho các DNNVV nhà nước và các NHTM
cần có những chính sách ưu đãi đối với họ.
- Sức cạnh tranh thấp, chịu nhiều ảnh hưởng của môi
trường kinh doanh liên ngành.
Các DNNVV ít có khả năng huy động vốn để đầu tư đổi mới
công nghệ giá trị cao, khả năng hạn hẹp trong đào tạo con người,
đầu tư cho nghiên cứu, thiết kế, cải tiến công nghệ, đổi mới sản
phẩm. Do đó sản phẩm ít có khả năng cạnh tranh. Các DNNVV có
số lượng đông đảo và đều có mục đích giống nhau là tìm kiếm
những thị trường còn bỏ trống. Các thị trường này quá nhỏ bé để
có thể chứa nhiều doanh nghiệp trong đó cho dù đó là những doanh
nghiệp nhỏ.
Khó khăn trong việc thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác với
nước ngoài. Bên cạnh đó thì nền kinh tế nước Lào còn ở trong giai
đoạn phát triển thấp, trước ngưỡng cửa hội nhập vào nền kinh tế
khu vực và thế giới, do trình độ còn hạn chế nên các DNNVV còn
bộc lộ rất nhiều yếu kém trong quá trình hoạt động. Khi xảy ra
tranh chấp thì bên bị thiệt thường là các DNNVV do năng lực pháp
lý và hiểu biết về pháp luật của các DNNVV còn hạn chế, không
nắm bắt kịp thời những thay đổi của thị trường trong nước và thế
giới.

1.2.2.

Vai trò của tín dụng và chính sách tín dụng đối với các
DNVVN.



- Vai trò của tín dụng đối với các DNVVN.
Chúng ta phải thừa nhận rằng hiện nay nhu cầu vốn cho phát triển
nền kinh tế nói chung và nhu cầu vốn phát triển các doanh nghiệp
lớn và các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn. Nhưng các doanh
nghiệp vừa và nhỏ lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm nguồn
tài trợ. Nguồn tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
chiếm một vai trò rất quan trọng. Nó thể hiện ở các điểm sau:
Một là, nguồn vốn vay đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, mở rộng hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Có thể nói đây là vai trò quan trọng nhất của nguồn vốn vay đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong các doanh nghiệp vừa và
nhỏ vốn tự có rất thấp nên hạn chế việc huy động vốn để mở rộng
hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiều trường hợp doanh nghiệp có
phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả song lại không thể huy
động đủ vốn để thực hiện. Ngoài việc vay vốn để đầu tư và tài sản
lưu động, doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể vay vốn để đầu tư vào
trang thiết bị. dây chuyền sản xuất hay nhà xưởng kho bãi, hay mở
rộng sản xuất kinh doanh, thực hiện các dự án kinh tế. Như vậy
việc vay vốn đóng vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ, họ rất cần có những khoản vay đó để đáp ứng nhu cầu sản
xuất kinh doanh của mình; những khoản vay đó cũng ảnh hưởng
đến qui mô kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai.
Hai là, Nguồn vốn vay của Ngân hàng góp phần nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Khi vay vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh thì hiệu quả
của các hoạt động sản xuất kinh doanh là vấn đề được cả doanh
nghiệp và ngân hàng quan tâm. Đối với doanh nghiệp thì hiệu quả
sản xuất sẽ tạo ra lợi nhuận và thu nhập để doanh nghiệp có thể trả



nợ ngân hàng và để doanh nghiệp đó có thể tồn tại và phát triển
được. Còn đối với ngân hàng, doanh nghiệp sẽ đủ khả năng trả cả
gốc và lãi khi đến hạn. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp vừa và
nhỏ khi đã vay được vốn rồi thì phải cố gắng nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn thông qua các biện pháp quản lý và điều hành hoạt động
sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thị trường một cách tốt nhất.
Có như vậy doanh nghiệp mới có thể tạo ra nguồn trả nợ cho ngân
hàng và tạo thu nhập cho mình.

Ba là, tín dụng ngân hàng có vai trò điều chỉnh cơ cấu ngành
nghề, khuyến khích phát huy lợi thế về tài nguyên và kỹ thuật
truyền thống để phát triển DNVVN.
Điều chỉnh cơ cấu ngành nghê, mở rộng ngành nghề truyền thống
để khai thác và phát huy lợi thế so sánh là chính sách nhằm thực
hiện mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa mà đảng Nhân dân cách mạng Lào và Nhà nước
Lào đã đề ra. Việc khuyến khích mở rộng hay thu hẹp ngành nghề
sẽ tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý để phát triển nền kinh tế một
cách bền vững. Tuy nhiên để làm được điều này Nhà nước phải sử
dụng nhiều công cụ vĩ mô. Thuộc loại công cụ này, tín dụng ngân
hàng đóng vai trò rất quan trọng. Các ngân hàng thương mại có thể
thông qua các công cụ chính sách tiền tệ quốc gia, như hạn mức tín
dụng để nới rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng cấp cho doanh
nghiệp, hạ thấp lãi suất đối với doanh nghiệp sản xuất sản phẩm
cần khuyến khích; và ngân hàng có thể thông qua các chính sách
khác như ưu tiên điều kiện vay vốn, ưu tiên ngoại tệ để nhập khẩu,
ổn định tỷ giá khi thu nợ bằng ngoại tệ…


Tính linh hoạt và kịp thời vốn có của tín dụng ngân hàng sẽ có vai

trò điều chỉnh tất cả các mối quan hệ vay vốn giữa doanh nghiệp
vừa và nhỏ đối với ngân hàng thương mại. Mặt khác, trong nền
kinh tế thị trường thì ngân hàng là tổ chức đi vay để cho vay song
không thể bỏ qua vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với khu
vực kinh tế đặc biệt này. Bởi vậy các chính sách tín dụng của ngân
hàng thương mại đối với DNVVN đã bao hàm trong nó vai trò
điều chỉnh của nhà nước.

- Vai trò của chính sách tín dụng đối với các DNVVN.
Thực hiện chính sách tín dụng đối với doanh nghiẹp vừa và nhỏ
đem lại những hiệu ứng sau đây:
Một là, Xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý là để thống nhất,
đảm bảo hiệu quả, an toàn và phát triển bền vững nhằm nâng cao sức
mạnh cạnh tranh, tạo được hiệu quả tốt trong kinh doanh tín dụng.
Bên cạnh đó, chính sách tín dụng cũng phải đảm bảo tuân
thủ pháp luật, quy định của ngân hàng trung ương. Do đó, chính sách
tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, là hướng
dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các bộ phận liên quan, tăng cường
chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung
trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng
sinh lời.
Để mở rộng hoạt động tín dụng đòi hỏi ngân hàng phải xây dựng
chính sách tín dụng hợp lý, đúng đắn, linh hoạt, phù hợp với từng
giai đoạn phát triển. Để mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ thì ngân hàng phải có chính sách tín dụng đáp ứng nhu cầu


của doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời mang lại hiệu quả kinh
doanh cho ngân hàng.
Hai là, Chính sách tín dụng hỗ trợ phát triển của các doanh nghiệp

vừa và nhỏ của ngân hàng:
Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt các ngân hàng như hiện nay,
các ngân hàng thường đưa ra nhiều chính sách để thu hút khách
hàng. Có ngân hàng tập trung vào đối tượng là doanh nghiệp lớn,
có tiềm lực tài chính lớn để giảm thiểu rủi ro. Họ đưa ra các ưu
tiên cho các doanh nghiệp lớn khi vay vốn. Điều đó làm các doanh
nghiệp vừa và nhỏ càng khó khăn hơn khi vay vốn. Tuy nhiên,
hiện nay một số ngân hàng đã có những chính sách hỗ trợ các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ tuy có qui
mô nhỏ số lượng vay thường không lớn bằng các doanh nghiệp lớn
nhưng tổng số các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại rất lớn. Đây chính
là lượng khách hàng tiềm năng của các ngân hàng thương mại
trong bối cảnh cạnh tranh khách hàng như hiện nay.
Hiện nay một số ngân hàng đã dành nhiều ưu tiên cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ như hỗ trợ làm hồ sơ vay vốn, miễn phí thẩm
định dự án và có biểu phí ưu đãi với loại hình doanh nghiệp này.
Việc làm đó giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận dễ
dàng hơn với ngồn vốn vay trung hạn và dài hạn.
- Sự cần thiết phải tăng cường chính sách tín dụng cho các
DNVVN của Lào (anh viết thêm phần này nhé)
1.3.Kinh nghiệm một số nước hỗ trợ vốn tín dụng cho DNVVN
phát triển.
1.3.1.Cộng hòa Liên Bang Đức cấp tín dụng cho DNVVN.


Ở Công hòa Liên Bang Đức vai trò của DNVVN được đánh giá rất
cao, nhà nước coi khu vực kinh tế này là xương sống của nền kinh
tế quốc dân. Bởi vì nó thu hút 65% lao động ở khu vực tư nhân,
sản xuất cung cấp trên 50% tổng sản phẩm nội địa. Thậm chí, vai
trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ còn được nhấn mạnh ở khía cạnh

ổn định an ninh, chính trị và xã hội ở Cộng hòa liên bang Đức.
Chính phủ cộng hòa liên bang Đức có một nỗ lực rất lớn, hợp tác
chặt chẽ với phòng thương mại( tổ chức đại diện cho doanh nghiệp
trong toàn quốc) trong việc hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc
hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn được kết hợp
đồng
bộ
với
hỗ
trợ
đào
tạo


vấn:
- Về hỗ trợ đào tạo cho DNVVN:
Phòng thương mại Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức thành lập
trung tâm đào tạo, hướng nghiệp, dậy nghề cho công nhân và nhân
viêc các DNVVN gửi đến học tập. Chi phí đào tạo các lớp học do
một phần doanh nghiệp chịu, một phần được chính phủ hỗ trợ.
- Về trợ giúp tư vấn tư vấn cho DNVVN:
Tư vấn cho DNVVN được phòng thương mại thường xuyên quan
tâm trong suốt quá trình hình thành và hoạt động của từng DN. Nội
dung tư vấn không chỉ về sử dụng công nghệ cho sản xuất, mà còn
về thị trường đầu vào và đầu ra, thủ tục hành chính để thành lập
doanh nghiệp. Hình thức tư vấn thông qua các dịch vụ tư vấn của
phòng thương mại: một là, trực tiếp với chủ doanh nghiệp hoặc với
chủ doanh nghiệp tương lai; hai là, tổ chức các cuộc hội thảo, hội
nghị mà diễn dàn gồm các chủ doanh nghiệp tham gia. Phần lớn
các doanh nghiệp được tư vấn không phải trả lệ phí mà nguồn kinh

phí này được chính ra từ nguồn tài chính tự nguyện của các tổ chức
Phi chính phủ và cá nhân.


- Chính nhờ phối hợp đồng bộ giữa hỗ trợ tài chính và hỗ trợ đào
tạo và trợ giúp tư vấn nói trên nên các DNVVN tiếp cạn nguồn vốn
tín dụng ngân hàng dạt két quả khả quan. Tuy nhiên, Chính phủ
Cộng hòa Liên Bang Đức cũng như chính quyền các cbang của
Đức đã xem vấn đề hỗ trợ vốn tín dụng đóng vai trò trụ cột trong
nhiệm vụ hỗ trợ DNVVN phát triển. Việc hỗ trợ vốn cho DNVVN
thể hiện qua công cụ: lãi suất và bảo lãnh:
+ Lãi suất cho vay ưu đãi được áp dụng đối với các dự án như:
thành lâp doanh nghiệp mới, các doanh nghiệp chỉ có chi nhánh tại
khu vực kém phát triển, đầu tư công nghệ mới, đầu tư bảo vệ môi
trường, đầu tư vào các dkhu vực hành chính mới hình thành.
Những khoản tín dụng theo chương trình hỗ trợ này được ba ngân
hàng đặc biệt cho chức năng mà Chính phủ giao thực hiện.
+ Bảo lãnh cho các khoản tín dụng cấp cho DNVVN: Các tổ chức
bảo lãnh tín dụng này được ra đời và hoạt động ở CHLB Đức từ
những năm đầu thập kỷ 50. Việc ra đời của nó dựa trên cơ sở như
là một định chế tài chính trung gian hỗ trợ cho DNVVN không đủ
tài sản thế chấp vay vốn tại một ngần hàng hoặc một quỹ tiết kiệm
được tổ chức bảo lãnh tín dụng nhận bảo lãnh và chấp nhận bồi
thường tối đa 80% số vốn vay khi doanh nghiệp thua lỗ không trả
được nợ; song một phần các khoản tín dụng đó lại được Chính phủ
tái bảo lãnh 70%. Để bảo lãnh, tổ chức bảo lãnh tín dụng phải được
chấp nhận của Ủy ban Bảo lãnh tín dụng. Ủy ban này được thành
lập bao gồm đại diện của phòng thương mại, đại diện ngân hàng
của Chính phủ và đại diện các hiệp hội khu vực doanh nghiệp. Do
hoạt động có hiệu quả của tổ chức bảo lãnh tín dụng và sự phối

hợp chặt chẽ giữa các thành viên Ủy ban Bảo lãnh tín dụng hướng
về các khoản tín dụng cấp cho DNVVN nên đã hạn chế đáng kể
các rủi ro mất vốn xảy ra.


1.3.2.Cấp tín dụng cho DNVVN ở Nhật Bản
- Nét nổi bật ở Nhật Bản là Chính phủ đã phân bổ hẳn cho ba tổ
chức tín dụng. Chính phủ đã cấp tín dụng cho khu vực doanh
nghiệp vừa và nhỏ, đó là:
+ Ngân hàng và các hợp tác xã công thương có chức năng chủ
yếu cấp bổ sung tín dụng vốn lưu động cho các DNVVN thực
hiện chính sách của Chính phủ địa phương.
+ Tổ chức tài chính cho DNVVN, chủ yếu cấp tín dụng dài hạn
để bổ sung vốn cố định cho các DNVVN.
+ Tổ chức tài chính nhân dân, chủ yếu cấp tín dụng cho các DN
gia đình.
Tất cả những doanh nghiệp được vay vốn của ba tổ chức tín
dụng nói trên là những DNVVN có nhu cầu vay vốn song không
đủ tài sản để thế chấp cho khoản vay tại các ngân hàng tư nhân
Nhật Bản. Việc phân vùng cấp tín dụng cho DNVVN ở Nhật
Bản nhằm mục đích nâng cao trách nhiệm của từng tổ chức tín
dụng, thể hiện tính chuyên môn hóa nghiệp vụ tín dụng và cũng
tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận tín dụng đối với từng
DNVVN.
1.3.3.Cấp tín dụng cho DNVVN ở Hàn Quốc.
- Chính phủ Hàn Quốc thành lập các tổ chức tín dụng chuyên đảm
nhận cấp tín dụng cho các DNVVN, bao gồm:


+ Ngân hàng công nghiệp vừa và nhỏ chuyên tài trợ cho DNVVN.

+ Quỹ phát triển công nghiệp vừa và nhỏ được hình thành bằng
vốn của Chính phủ, song hoạt động của nó chịu sự quản lý của
Ngân hàng Công nghiệp vừa và nhỏ và Ngân hàng quốc gia nhân
dân. Quỹ này tài trợ vốn trên cơ sở ưu tiên theo chỉ đạo của Chính
phủ, trước hết ưu tiên loại hình DNVVN có ưu thế phát triển thuộc
các ngành công nghiệp.
Năm 1976, Hàn quốc đã thành lập Quỹ bảo đảm tín
dụng do Chính phủ và các định chế tài chính đồng tài trợ,
Quỹ bảo đảm cho các DNVVN vay vốn ngân hàng thương
mại. Mức bảo đảm của Quỹ cho các khoản tín dụng tối đa là
30 tỷ Won và để được đảm bảo các DNVVN phải nộp 1%
của khoản tín dụng yêu cầu bảo đảm.
-

Chính phủ Hàn Quốc có qui định bắt buộc các tổ chức
tín dụng trích một tỷ lệ nhất định để tài trợ cho DNVVN, tỷ
lệ qui định cụ thể như sau:
-

+ Đối với Ngân hàng thương mại Trung ương là 45%
+ Đối với Ngân hàng thương mại địa phương trích ít nhất là
80%
+ Đối với các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài hoạt động tại
Hàn Quốc cũng phải dành 35% mức tín dụng để cho vay
DNVVN.
+ Ngoài ra các công ty tài chính, quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm cũng
phải dành một nguồn tài chính để tài trợ cho DNVVN với lãi
suất ưu đãi.
1.3.4 Kinh nghiệm của Trung Quốc.



Cùng với công cuộc cải tổ nền kinh tế, Trung Quốc đã cải tổ nền
kinh tế, Trung Quốc đã cải tổ hệ thống tín dụng đáp ứng những
nhu cầu mới của nền kinh tế hàng hóa. Tín dụng Nhà nước cho đầu
tư cho phát triển ngày càng được hoàn thiện cụ thể là:
Về chính sách huy động vốn: Trung Quốc sử dụng công
cụ phát hành trái phiếu kho bạc làm nguồn vốn cho tín dụng
Nhà nước cho đầu tư phát triển. Để đáp ứng nhu cầu đa dạng
của thị trường và bảo đảm giá trị của các khoản tiền mua trái
phiếu, Trung Quốc đã phát hành rất nhiều loại trái phiếu khác
nhau, như trái phiếu Kho bạc Nhà nước thông thường, trái
phiếu xây dựng các công trình trọng điểm, trái phiếu được
điều chỉnh theo chỉ số giá. Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác
huy động vốn cho đầu tư phát triển dưới hình thức phát hành
trái phiếu trên thị trường trong nước, Trung Quốc cũng đã
tiến hành huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu,
hiện tại Trung Quốc cho phép Ngân hàng phát triển Trung
Quốc mua bán vốn từ khu vực Ngân hàng Thương mại để tạo
nguồn vốn hoạt động. Nguồn vốn mua từ các Ngân hàng
thương mại này chiếm khoảng 85% nguồn vốn hoạt động của
Ngân hàng phát triển Trung Quốc.
Về đối tượng được hưởng tín dụng Nhà nước cho đầu
tư phát triển.
-

Một trong những nội dung của công cuộc cải cách cơ chế quản lý
vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Trung Quốc là xác định rõ phạm
vi đầu tư từ Ngân sách và phân biệt ranh giới các hạng mục công
trình dự án đầu tư công cộng và danh mục các dự án đầu tư có khả
năng thu hồi vốn. Trung Quốc chủ định thu hẹp dần qui mô đầu tư



Nhà nước trên cơ sở chú trọng đầu tư vào danh mục các công trình,
dự án công ích và đầu tư cơ bản, hạn chế dần việc đầu tư nguồn
vốn Nhà nước vào danh mục các dự án có khả năng sinh lợi. Danh
mục các dự án này sẽ được nhường cho khu vực doanh nghiệp và
khu vực đầu tư tư nhân. Theo quy định hiện nay trong cơ chế quản
lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách Nhà nước của
Trung Quốc thì:
+ Đối tượng đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách qua
hình thức cấp phát chỉ tập trung vào các các ngành phục vụ công
cộng có đặc điểm là không sinh lời và mang tính xã hội cao.
+ Tín dụng Nhà nước cho đầu tư phát triển sẽ được áp dụng đối
với những công trình, dự án đầu tư có khả năng sinh lời, bao gồm:
các công trình nhà ở đô thị, đường bộ, giao thông công cộng, vận
tải, năng lượng, thông tin bưu điện; các công trình dự án đâu tư
thuộc các ngành chủ chốt cần tập trung vào quốc lực như điện cơ,
hóa dầu, kiến trúc, chế tạo xe hơi; những công trình, dự án có hàm
lượng khoa học cao, có ý nghĩa chiến lược như công nghệ tiết kiệm
nhiên liệu, công nghệ vi sinh,… Đối với những công trình dự án
đầu tư này ngoài hình thức đầu tư của Trung ương và địa phương
thông qua các tổ chức tín dụng hay các tổ chức đầu tư mang tính
chính sách, Trung quốc chủ trương khuyến khích các doanh
nghiệp, cá nhân và các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư, thu
hút vốn từ nhiều kênh thông qua cơ chế đấu thầu.
- Về tổ chức bộ máy thực hiện chính sách tín dụng Nhà nước cho
đầu tư phát triển do các ngân hàng chính sách triển khai bao gồm:
Ngân hàng phát triển Trung Quốc, ngân hàng phát triển nông
nghiệp Trung Quốc và ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc.
Việc phân định ranh giới giữa các ngân hàng dựa vào phạm vi hoạt



×