Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Những giải pháp chủ yếu nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty xây dựng công trình giao thông 889

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.6 KB, 115 trang )

1

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình làm luận văn tôi đã được sự giúp đỡ tận tình
của GS TSKH Nghiêm Văn Dĩnh và các thầy trong khoa Kinh tế
của PGS. TS Lê Văn Doanh và Khoa sau đại học Đại học Giao
thông vận tải; của Công ty 889; sự động viên của gia đình và bè
bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Tôi đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót; tôi mong nhận được những ý kiến, góp ý quý báu
để luận văn được hoàn thiện. Tôi xin chân thành cảm ơn.
ĐÀM THÁI SƠN


2

MỤC LỤC
Phần mở đầu

6

Chương I: Một số vấn đề lí luận cơ bản về khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp xây dựng trong đấu thầu

8

1.1. Cạnh tranh và các tiêu thức đánh giá khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp xây dựng

8


1.2. Khái quát chung về đấu thầu xây dựng

23

Chương II: Phân tích khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của Công
ty xây dựng công trình giao thông 889

30

2.1. Giới thiệu về Công ty xây dựng công trình giao thông 889
30
2.2. Kết quả đấu thầu và hoạt động sản xuất kinh doanh của Công
ty thời gian qua

38

2.3 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của
Công ty xây dựng công trình giao thông 889

42

2.4. Đánh giá tổng quát về khả năng cạnh tranh của Công ty 889 53
Chương III: những giải pháp chủ yếu nâng cao khả năng cạnh tranh
của Công ty xây dựng công trình giao thông 889 trong đấu thầu
xây dựng

54

3.1. thị trường xây dựng công trình giao thông ở Việt Nam tiếp tục
mở ra với tiềm năng lớn


54

3.2. Các giải pháp chủ yếu nâng cao khả năng cạnh tranh của Công
ty xây dựng công trình giao thông 889 trong đấu thầu xây dựng 61


3

3.3. Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện quy chế đấu thầu tạo cơ sở
pháp lý bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch trung thực trong đấu thầu
77
Kết luận
Phụ lục
Danh mục tài liệu tham khảo

85


4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
• KNCT

:Khả năng cạnh tranh

• CTXDCTGT 889 : Công ty xây dựng công trình giao thông
889
• CSHTGT


: Cơ sở hạ tầng giao thông
• CĐT

: Chủ đầu tư


5

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
-

Biểu số 1: Một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Công ty xây
dựng công
trình giao thông 889

32

-

Biểu số 2: Tình hình đấu thầu 1997 - 2001

38

-

Biểu số 3: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
Công ty 889

-


Biểu số 4: Giá trị khối lượng các công trình thực hiện qua
các năm

-

39

40

Biểu số 5: Giá trị sản lượng thực hiện của các Tổng Công ty
giai đoạn 1998 - 2000

44

-

Biểu số 6: Tình hình cán bộ quản lý chủ chốt

47

-

Biểu số 7: So sánh chất lượng lao động của Công ty 889 với
một số
Công ty xây dựng công trình giao thông tương

đương
-

48


Biểu số 8: So sánh khả năng tài chính của Tổng Công ty với
một số
Tổng Công ty khác

50

-

Biểu số 9: Tình hình tăng trưởng vốn qua các năm

50

-

Biểu số 10: Cơ cấu vốn qua các năm

51


6

-

Biểu số 11: Các thiết bị chủ yếu của Công ty

52

-


Biểu số 12: Nhu cầu đầu tư phát triển CSHTGT 2002-2010
60

-

Biểu số 13: Quyết định mua hoặc thuê thiết bị

64

-

Biểu số 14: Các phương án lựa chọn mức giá vào thầu

72


7

DANH MỤC SƠ ĐỒ
− Sơ đồ 1: Quá trình cạnh tranh trong đấu thầu của các doanh
nghiệp xây
dựng

11

− Sơ đồ 2: Biểu diễn mối quan hệ mua bán giữa các chủ đầu tư
và các
doanh nghiệp xây dựng

25


− Sơ đồ 3: Trình tự và trách nhiệm của các bên trong đấu thầu29
− Sơ đồ 4: Công ty 889 trong Tổng Công ty 8

34

− Sơ đồ 5: Cơ cấu tổ chức của Công ty

34

DANH MỤC ĐỒ THỊ
− Đồ thị số 1: Mối quan hệ giữa tỷ lệ lợi nhuận và mức giá bỏ
thầu

71


8

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài:
Trong những năm tới nhu cầu xây dựng các cơ sở hạ tầng nói
chung và nhu cầu xây dựng các công trình giao thông nói riêng
tăng nhanh. Thị trường xây dựng sẽ mở rộng và hoạt động sôi nổi.
Số lượng doanh nghiệp xây dựng trong nước và ngoài nước tham
gia vào thị trường sẽ tăng lên. Do đó tình hình cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp xây dựng sẽ ngày càng gay gắt.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng chủ yếu thông
qua hình thức đấu thầu. Ở các nước phát triển hình thức đấu thầu

được áp dụng từ lâu. Ở Việt Nam đấu thầu còn là một hình thức
mới, các văn bản pháp lý đang trong quá trình hoàn thiện.
Trong điều kiện thị trường xây dựng hiện nay, yêu cầu của
các chủ thầu ngày càng khắt khe, mỗi cuộc đấu thầu dự kiến mở là
có nhiều chục (thậm chí cả trăm) hồ sơ xin dự thầu. Trước tình
hình đó các công trình xây dựng rất chú trọng đến việc nâng cao
khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của mình.
Trong quá trình nghiên cứu hoạt động của Công ty xây dựng
công trình giao thông 889 tôi đã chọn : "Những giải pháp chủ yếu
nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty xây dựng công
trình giao thông 889 trong đấu thầu xây dựng" làm đề tài để


9

nghiên cứu và viết luận văn thạc sỹ. Nhằm góp phần nhỏ bé của
mình vào sự phát triển của Công ty.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề xuất các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của
Công ty xây dựng công trình giao thông 889 trong đấu thầu xây
dựng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
a. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu công tác đấu thầu và
kinh nghiệm cạnh tranh trong đấu thầu của Công ty xây dựng công
trình giao thông 889.
b. Phạm vi nghiên cứu:
Về mặt thời gian chủ yếu từ 1999 - 2001 - 2002.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu:
quan sát, điều tra, phân tích, thống kê, so sánh, khái quát hóa, hệ

thống hóa.
5. Những đóng góp của luận văn.
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài, làm rõ
nhận thức về một số vấn đề.
- Luận văn đã phân tích thực trạng cạnh tranh trong đấu thầu
của Công ty, có so sánh với các Công ty khác cùng ngành. Từ đó
đánh giá tổng quát những điểm yếu, điểm mạnh, cơ hội và nguy cơ
của Công ty 889 cần phải xem xét.


10

- Đề suất một hệ thống giải pháp nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh của Công ty 889 trong đấu thầu xây dựng; và các đề
nghị hoàn thiện quy chế đấu thầu.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn có 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lí luận cơ bản về khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp xây dựng trong đấu thầu
Chương II: Phân tích khả năng cạnh tranh trong đấu thầu
của Công ty xây dựng công trình giao thông 889
Chương III: Những giải pháp chủ yếu nâng cao khả năng
cạnh tranh của Công ty xây dựng công trình giao thông 889 trong
đấu thầu xây dựng.


11

CHƯƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH CỦA CÁC DNXD TRONG ĐẤU THẦU
1.1. CẠNH TRANH VÀ CÁC TIÊU THỨC ĐÁNH GIÁ
KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP XÂY
DỰNG:
1.1.1. Thực chất của cạnh tranh trên thị trường xây dựng:
Cạnh tranh là một đặc trưng của nền kinh tế thị trường, nhưng
có nhiều cách hiểu khác nhau.
Theo Kac-Marx: Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay
gắt giữa các nhà tư bản để giành giật những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu
ngạch.
Theo từ điển Bách Khoa (tập 1 - trang 357 xuất bản năm
1995) thì: Cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt động ganh đua
giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các
nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan hệ
cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường
có lợi nhất
Theo cuốn KT học và BA Samuelson thì: cạnh tranh là sự kình
địch giữa các Doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách
hàng, thị trường.
Theo kinh tế vi mô mà R.S. Pindyck thì một thị trường cạnh
tranh hoàn hảo có rất nhiều người mua, người bán để cho không có


12

một người mua hoặc người bán duy nhất nào có ảnh hưởng, có ý
nghĩa đối với giá cả.
Theo các tác giả của cuốn "Các vấn đề pháp lý và thể chế về

chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh" thì cạnh
tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong
việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng
cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được mục tiêu kinh
doanh cụ thể…
Còn có thể dẫn ra nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm
cạnh tranh… Có thể thấy các định nghĩa trên có những nét chung
như sau:
- Khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua nhằm lấy phần
thắng của nhiều chủ thể cùng tham dự (trong đó có một loại chủ thể
là các doanh nghiệp xây dựng).
- Mục đích trực tiếp của cạnh tranh là một đối tượng cụ thể nào
đó mà các bên đều muốn giành giật (một cơ hội, một sản phẩm,
một công trình, dự án). Một loạt điều kiện có lợi (một thị trường,
một khách hàng v.v…). Mục đích cuối cùng là kiếm được lợi
nhuận cao.
- Cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có các ràng
buộc chung mà các bên tham gia phải tuân thủ như: đặc điểm sản
phẩm, thị trường, các điều kiện pháp lí, các thông lệ kinh doanh…
- Cạnh tranh có thể phân loại theo nhiều cách: theo phạm vi
kinh tế có: cạnh tranh nội bộ ngành; cạnh tranh giữa các ngành;
theo chủ thể tham gia thị trường có: cạnh tranh giữa người mua và


13

người bán; cạnh tranh giữa các người mua, cạnh tranh giữa các
người bán;… căn cứ vào tính chất có: cạnh tranh hoàn hảo, cạnh
tranh không hoàn hảo, độc quyền…
- Trong quá trình cạnh tranh các doanh nghiệp có thể sử dụng

nhiều công cụ khác nhau: cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng
sản phẩm, cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm (chính sách định giá
thấp; chính sách định giá cao; chính sách ổn định giá; định giá theo
thị trường; chính sách giá phân biệt; bán phá giá); cạnh tranh bằng
nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm (tổ chức các kênh tiêu thụ); cạnh
tranh nhờ dịch vụ bán hàng tốt; cạnh tranh thông qua hình thức
thanh toán…
Trên thị trường xây dựng, luôn tồn tại ba quan hệ cạnh tranh:
cạnh tranh giữa chủ đầu tư với Nhà thầu, cạnh tranh giữa các Nhà
thầu với nhau và cạnh tranh giữa Nhà thầu với Người cung cấp.
Cuộc cạnh tranh gay go quyết liệt nhất là cạnh tranh giữa
những Nhà thầu thông qua hình thức đấu thầu do Chủ đầu tư tổ
chức. Đây là cuộc cạnh tranh đặc biệt của các doanh nghiệp xây
dựng. Các doanh nghiệp xây dựng muốn giành được phần thắng
trong cuộc cạnh tranh phải có năng lực, lợi thế hơn hẳn so với đối
thủ nhằm thoả mãn tốt nhất các yêu cầu của Chủ đầu tư.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng trong đấu thầu
được hiểu theo hai nghĩa sau:
- Theo nghĩa hẹp: Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng
trong đầu thầu là quá trình các doanh nghiệp đưa ra những giải
pháp về kỹ thuật, tài chính, trang thiết bị máy móc, nguồn nhân


14

lực, tiến độ thi công, giá bỏ thầu nhằm thoả mãn một cách tối ưu
các yêu cầu của Chủ đầu tư.
Khái niệm này đưa ra các điều kiện, khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp đối với một công trình, một dự án cụ thể mà không
chỉ rõ được sự cạnh tranh của doanh nghiệp trong suốt quá trình

hoạt động sản xuất kinh doanh, tham gia đấu thầu nhiều dự án khác
nhau. Đồng thời khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc
xây dựng mục tiêu chiến lược cạnh tranh.
- Theo nghĩa rộng: Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây
dựng trong đấu thầu là quá trình được bắt đầu từ việc tìm kiếm thu
thập thông tin, đưa ra các giải pháp tham gia đấu thầu, ký kết, thực
hiện hợp đồng cho tới khi hoàn thành dự án, bàn giao, đưa vào sử
dụng và bảo hành công trình theo đúng yêu cầu của Chủ đầu tư.
Những công đoạn quá trình cạnh tranh của các doanh nghiệp
xây dựng trong đấu thầu được mô phỏng theo sơ đồ sau:


15

Sơ đồ 1
Quá trình cạnh tranh trong đấu thầu của các doanh nghiệp xây
dựng

Tìm kiếm
thu thập
thông tin

Chuẩn bị
giải pháp

Trượt
thầu

Tham gia đấu thầu


Trúng thầu

Ký kết hợp đồng

Bảo hành công

Bàn giao đưa

trình

vào sử dụng


16


17

Tóm lại, doanh nghiệp muốn có khả năng cạnh tranh phải có
thực lực về con người, tài chính, trang thiết bị công nghệ hiện đại.
Song đó mới chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ là doanh nghiệp
phải tạo ra ưu thế hơn hẳn so với các đối thủ khác.
1.1.2. Hệ thống những tiêu thức cơ bản đánh giá khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng
Khi đánh giá KNCT của doanh nghiệp xây dựng cần lưu ý các
khía cạnh sau:
- Phải lấy yêu cầu của khách là chuẩn mực.
- Thực lực của doanh nghiệp là yếu tố cơ bản để bảo đảm thoả
mãn nhu cầu của khách hàng.
- Khi nói KNCT là bao hàm ý so sánh với các đối thủ cạnh

tranh của doanh nghiệp. Muốn giữ và lôi kéo được khách hàng
doanh nghiệp phải có thực lực được thể hiện thành các lợi thế so
với các đối thủ cạnh tranh.
- Ít có doanh nghiệp nào có đầy đủ các lợi thế mà thường thì
mạnh mặt này lại yếu mặt khác. Vì thế, doanh nghiệp cần đánh giá
từng mặt yếu, mặt mạnh mà và có kế hoạch khắc phục mặt yếu,
phát huy thế mạnh.
Việc đánh giá khả năng cạnh tranh nếu chỉ dừng lại ở định
tính, thì không tránh được các yếu tố cảm tính, bởi vậy, phải cố
gắng lượng hoá. Tuy nhiên, khó có được một chỉ tiêu tổng hợp đo
lường khả năng cạnh tranh. Do vậy phải có một hệ thống chỉ tiêu:
* Các chỉ tiêu chung:
• Hệ số doanh lợi bao gồm:


18

=
=
Hệ số này phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Hệ số này càng cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh càng
lớn.
• Hệ số vay nợ =
Hệ số ngày càng cao, khả năng tự chủ về mặt tài chính của
doanh nghiệp càng giảm.
• =
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán lãi tiền vay của
doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ này quá thấp sẽ làm giảm khả năng trả lãi,
đồng thời lợi nhuận của doanh nghiệp cũng không thể cao. Đó là
một trong các căn cứ của ngân hàng khi quyết định việc cung cấp

các khoản vay tiếp theo.
• =


=



=

* Các chỉ tiêu riêng:
• Giá trị trúng thầu và số lượng công trình thắng thầu:


19

Chỉ tiêu này cho biết một cách khái quát tình hình kết quả dự
thầu của doanh nghiệp. Qua đó có thể đánh giá được chất lượng,
hiệu quả của công tác dự thầu trong năm và quy mô của các công
trình đã trúng thầu. Cũng từ đó cho thấy được tiềm lực của doanh
nghiệp.


Xác suất trúng thầu:

Tính theo số hợp đồng
P1 = * 100%
Tính theo giá trị hợp đồng
P2 = * 100%
Trong đó:

P1 : Xác suất trúng thầu theo số hợp đồng.
Htt : Hợp đồng trúng thầu
Hdt : Hợp đồng tham dự thầu.
P2 : Xác suất trúng thầu theo giá trị hợp đồng.
Gtt : Giá trị hợp đồng trúng thầu
Gdt : Giá trị hợp đồng tham dự thầu.
• Thị phần và uy tín của doanh nghiệp:
Đây chỉ là chỉ tiêu đánh giá một cách khái quát khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp. Trong đó thị phần biểu hiện thành hai mặt:
Phần thị trường tuyệt đối và phần thị trường tương đối.
=


20

Hoặc

=

Phần thị trường tương đối: Được xác định trên cơ sở của sự so
sánh phần thị trường tuyệt đối của doanh nghiệp với phần thị
trường tuyệt đối của một hoặc số đối thủ cạnh tranh mạnh nhất.
Uy tín của doanh nghiệp: Chỉ tiêu này liên quan với tất cả
những chỉ tiêu trên và các yếu tố khác như: chất lượng công trình,
tổ chức doanh nghiệp, tổ chức các dự án thi công, marketing,…
1.1.3. Những phương thức cạnh tranh của các doanh
nghiệp xây dựng trong đầu thầu xây dựng
Để đánh giá, cho điểm và lựa chọn Nhà thầu trúng thầu, Chủ
đầu tư căn cứ vào những chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Kỹ thuật, chất lượng công trình.

- Kinh nghiệm và năng lực của Nhà thầu.
- Giá dự thầu.
- Khả năng tài chính.
- Tiến độ thi công.
Trong các chỉ tiêu trên, Chủ đầu tư đặc biệt chú trọng đến ba
chỉ tiêu hàng đầu mà các doanh nghiệp xây dựng sử dụng như
những phương thức trọng tâm trong quá trình cạnh tranh đấu thầu,
cụ thể:
* Phương thức 1: Cạnh tranh bằng chất lượng công trình
Chất lượng công trình là tổng thể các chỉ tiêu, các đặc trưng về
kinh tế, kỹ thuật đáp ứng nhu cầu trong những điều kiện nhất định


21

mà Chủ đầu tư đặt ra như tính năng, thời gian sử dụng, mức độ an
toàn, tính hiệu quả, mỹ thuật công trình…
Theo phương thức này, các doanh nghiệp sử dụng cạnh tranh
với nhau trên cả hai phương diện:
- Cạnh tranh bằng chất lượng của chính công trình đang được
tổ chức đấu thầu xây dựng.
- Cạnh tranh bằng chất lượng là công cụ hữu hiệu trong đấu
thầu xây dựng.
Cạnh tranh thông qua chất lượng là công cụ hữu hiệu trong đấu
thầu xây dựng. Đây là sự cạnh tranh không giới hạn. Vì vậy, việc
nâng cao chất lượng, hoàn thiện cải tiến sản phẩm là cơ sở của sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh.
Phương thức cạnh tranh này đòi hỏi doanh nghiệp phải có
năng lực thực sự về đội ngũ nhân lực, thiết bị công nghệ, tài chính
và phẩm chất kinh doanh.

* Phương thức 2: Cạnh tranh bằng giá dự thầu
Trong cạnh tranh, doanh nghiệp có trúng thầu hay không thông
thường giá dự thầu có tác dụng quyết định. Bảng Giá dự thầu hợp
lý vừa làm cho doanh nghiệp sinh lời, vừa tiết kiệm vốn cho Chủ
đầu tư.
Bảng giá dự thầu liên quan đến rất nhiều yếu tố như trình độ
của cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, đội ngũ làm hồ sơ thầu…
Đồng thời nó cũng thể hiện tổng hợp các phẩm chất của doanh
nghiệp xây dựng như:
- Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp.


22

- Kỹ thuật thi công, khả năng ứng dụng công nghệ tiên tiến.
- Phẩm chất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để giá dự thầu của doanh nghiệp có ưu thế cạnh tranh đòi hỏi
phải có chính sách về giá một cách linh hoạt dựa trên cơ sở: năng
lực thực sự của doanh nghiệp, mục tiêu tham gia đấu thầu, quy mô,
đặc điểm của dự án, vị trí thi công dự án, phong tục tập quán tại địa
phương có dự án được thi công…
Thông thường, các Nhà thầu thường căn cứ vào giá dự toán
được lập ban đầu để tiến hành xây dựng giá bỏ thầu. Giá bỏ thầu
được phân làm các mức khác nhau liên quan đến các mục tiêu
tương ứng về lợi nhuận, công ăn việc làm hoặc thâm nhập thị
trường mới.
Tóm lại, bảng giá dự thầu phải được xây dựng dựa trên nhiệm
vụ công trình, tiềm lực nguồn lao động, khả năng về vốn, thiết bị
máy móc… của bản thân doanh nghiệp để đưa ra mức giá bỏ thầu
hợp lý.

* Phương thức 3: Cạnh tranh bằng tiến độ thi công
Tiến độ thi công thể hiện ở việc bố trí tổng thể của doanh
nghiệp trong công tác thi công công trình định xây dựng, là sự hứa
hẹn đối với chất lượng, an toàn và thời hạn hoàn thành công trình.
Đồng thời, đó cũng là "ô cửa" để Chủ đầu tư tìm hiểu tình hình về
các khía cạnh trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật thi công và năng
lực máy móc thiết bị của Nhà thầu.
Trên đây là ba phương thức chủ yếu được các doanh nghiệp
xây dựng sử dụng trong cạnh tranh đấu thầu. Những phương thức


23

này có thể sử dụng một cách độc lập hoặc kết hợp tuỳ thuộc vào
từng tình huống, tầm quan trọng cũng như ý nghĩa kinh tế của mỗi
dự án.
1.1.4. Các nhân tố tạo thành khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp xây dựng.
1.1.4.1. Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
a. Vai trò của Chính phủ
Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh
của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Hoạt động của doanh
nghiệp bị chi phối bởi các điều luật, các quy định do Chính phủ đặt
ra.
Hiện nay, trên thị trường xây dựng hoạt động của các doanh
nghiệp xây dựng dựa theo các Nghị định và văn bản hướng dẫn đặc
biệt là các Nghị định:
- Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 về việc ban
hành quy chế quản lý đầu tư và XDCB, Nghị định 12/2000/NĐ-CP
ngày 05/05/2000 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế

quản lý đầu tư ban hành kèm theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP.
- Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 về việc ban
hành quy chế đấu thầu, Nghị định 14/2000/NĐ-CP ngày
05/05/2000 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế đấu
thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP.
Ngoài ra còn có các quy định về khung giá, mức giá, những
quy định về thuê mướn, thuế, cho vay, quảng cáo, bảo vệ môi
trường… các chế tài bắt buộc doanh nghiệp phải tuân thủ.


24

Chính phủ có thể tạo ra cơ hội hoặc làm hạn chế hoạt động
của doanh nghiệp. Chẳng hạn, điều 10 quy chế đấu thầu ban hành
kèm theo Nghị định 88/199/NĐ-CP ngày 01/09/1999, quy định
điều kiện đấu thầu quốc tế và ưu đãi Nhà thầu: "Nhà thầu nước
ngoài khi tham dự đấu thầu quốc tế tại Việt Nam hoặc phải liên
doanh với Nhà thầu Việt nam, hoặc phải cam kết sử dụng thầu phụ
Việt Nam…" nghĩa là quy định này tạo ra ưu đãi cho các Nhà thầu
Việt Nam khi tham gia đấu thầu quốc tế.
Nếu chỉ tuân thủ các quy định hiện hành của Nhà nước thì
chưa đủ, các doanh nghiệp cần phải tính đến việc phản hồi thông
tin, đề nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung hoặc đưa ra các quy định
mới phù hợp, tự mình gây ảnh hưởng đối với các quy định có thể
được ban hành.
b. Những đối thủ cạnh tranh.
Sự hiểu biết về đối cạnh tranh có một ý nghĩa quan trọng đối
với các doanh nghiệp do nhiều nguyên nhân. Các đối thủ cạnh
tranh quyết định tính chất và mức độ tranh đua hoặc thủ thuật
giành ưu thế trên thị trường. Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào mối

tương tác giữa các yếu tố như số lượng doanh nghiệp tham gia
cạnh tranh, tốc độ tăng trưởng của các ngành, cơ cấu chi phí cố
định hoặc chi phí dự trữ chiếm tỷ trọng lớn, đa dạng hoá của các
đối thủ cạnh tranh.
Hiện nay, trên thị trường xây dựng có rất nhiều các doanh
nghiệp cả trong và ngoài nước cùng tham gia, làm tăng tính chất và
quy mô cạnh tranh trong ngành, làm giảm mức lợi nhuận của


25

doanh nghiệp. Nếu trên thị trường có một số doanh nghiệp dẫn đầu
thì cạnh tranh gay gắt chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp yếu thế
hơn. Trong đấu thầu xây dựng, các doanh nghiệp có khả năng cạnh
tranh mạnh (các doanh nghiệp ở vị trí dẫn đầu) thường sử dụng
phương thức cạnh tranh bằng giá dự thầu, chất lượng công trình,
tiến độ thi công để giành được dự án thi công. Ngược lại, các
doanh nghiệp trung bình, sức cạnh tranh sẽ suy yếu đi nếu đối thủ
dùng phương thức cạnh tranh bằng giá dự thầu.
c. Quyền lực của Nhà cung cấp
Trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần phải quan hệ
với các tổ chức cung cấp các nguồn hàng khác nhau như vật tư,
thiết bị, tài chính, nguồn nhân lực. Các tổ chức cung cấp vật tư sẽ
tận dụng mọi ưu thế để kiếm được lợi nhuận thông qua việc tăng
giá, giảm chất lượng sản phẩm hoặc giảm mức độ dịch vụ đi kèm.
Giữa các Nhà cung cấp và doanh nghiệp thường diễn ra các
cuộc thương lượng về giá cả, chất lượng và thời hạn giao hàng.
Khả năng thương lượng về giá cả của các Nhà cung cầp tùy thuộc
vào mức lời gộp và chất lượng hàng hoá (hay dịch vụ) mà họ dự
định cung ứng cho doanh nghiệp.

Những ưu thế và đặc quyền của các Nhà cung cấp cho phép
họ có những ảnh hưởng nhất định đối với doanh nghiệp. Do đó, họ
có thể tạo ra những áp lực đối với doanh nghiệp. Họ có rất nhiều
cách để tác động vào khả năng thu lợi nhuận của các doanh nghiệp,
họ có thể nâng giá, giảm chất lượng những loại vật tư kỹ thuật mà
họ cung ứng, hoặc không đảm bảo đúng tiến độ cung cấp theo yêu


×