BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VÊN
THAM GIA XÉT GIẢI THƯỞNG
“SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP HỌC VIỆN”
Đề tài: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHƯƠNG THỨC ĐẦU TƯ
THEO HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ
Thuộc nhóm ngành khoa học: Kinh tế
Nhóm sinh viên thực hiện:
1.Phan Thị Thơ
2.Hồ Thị Quỳnh Như
3.Bùi Anh Phương
4.Đinh Hoài Thu
5.Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Dân tộc : Kinh
Lớp : KHPT3
khoa: Kế hoạch phát triển
Năm thứ: 3 / số năm đào tạo: 4
Ngành học: kế hoạch phát triển
Người hướng dẫn: Th.s An Thị Xuân Quỳnh
LỜI CẢM ƠN
Nữ
Nữ
Nữ
Nữ
Nữ
Trên thực tế đằng sau mỗi thành công của một bài nghiên cứu không thể nào không
nhắc đến sự giúp đỡ từ phía các thầy cô giáo cũng như những chuyên gia có uy tín .
Trong suốt thời gian làm nghiên cứu chúng tôi đã nhận được sự hướng dẫn tận tình
của các thầy cô và các chuyên gia kinh tế . Bên cạnh đó là sự ủng hộ và động viên
nhiệt tình cho đề tài nghiên cứu “ Giải pháp thúc đẩy phương thức đầu tư theo hình
thức đối tác Công –Tư PPP ở Việt Nam”.
Để hoàn thành bài nghiên cứu khoa học này, chúng tôi xin chân thành cảm
ơn các thầy cô Học viện Chính sách và Phát triển đã tổ chức ra một sân chơi khoa học
bổ ích , giúp cho sinh viên có cơ hội được tiếp cận với cách nghiên cứu khoa học .Đặc
biệt là các thầy cô trong khoa Kế Hoạch Phát triển ( TS. Lê Huy Đoàn, ThS. Bùi
Hoàng Mai… ) ; các thầy cô Khoa Quản lý đấu thầu ( Ths Nguyễn Thế Vinh,Ths An
Thị Xuân Quỳnh… ) và TS. Lê Văn Hinh- chuyên gia của Ngân hàng nhà nước Việt
Nam đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài này.
Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới Ths. An Thị Xuân Quỳnh đã
tận tâm hướng dẫn nhóm nghiên cứu qua từng buổi học trên lớp cũng như những buổi
nói chuyện, thảo luận về đề tài nghiên cứu khoa học.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất, song
do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu khoa học cũng như hạn chế về
kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản
thân nhóm nghiên cứu chưa thấy được. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của
quý thầy cô giáo và những người quan tâm để tài được hoàn chỉnh hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn
MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết, lý do lựa chọn đề tài
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát
triển kinh tế - xã hội. Góp phần quan trọng vào đó là đường lối chính sách huy động sự
tham gia của các thành phần kinh tế, tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng
và động lực cho tăng trưởng, nỗ lực xây dựng thể chế, cải cách hành chính và nâng cao
hiệu quả khu vực công… Trong bối cảnh ngân sách quốc gia của nước ta còn eo hẹp,
nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA sụt giảm thì việc huy động sự tham gia của
khu vực tư nhân vào các dự án kết cấu hạ tầng là rất cần thiểt, mà phương thức đầu tư
theo hình thức đối tác công – tư ( PPP ) là một phương thức thích hợp đã được áp dụng
ở nhiều nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, phương thức đầu tư theo hình thức đối tác công – tư (PPP) đã
xuất hiện từ những năm 90 với các mô hình BOT, BTO, BT…. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện, phương thức này đang phải đối mặt với những khó khăn cả trên khía
cạnh lý luận khoa học, khuôn khổ pháp lý, chính sách và năng lực triển khai.
Xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn, và yêu cầu của phát triển kinh tế xã
hội, chúng tôi đã chọn đề tài: “Giải pháp thúc đẩy phương thức đầu tư theo hình
thức đối tác công-tư (PPP) ở Việt Nam” để nghiên cứu.
2 Mục đích nghiên cứu
- Về mặt lý luận: Nghiên cứu cơ sở lý luận về phương thức đầu tư theo hình thức đối
-
tác công – tư (PPP) trên thế giới và ở Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc
vận dụng phương thức đầu tư theo hình thức đối tác công – tư (PPP) và tình hình thực
-
hiện ở việt nam.
Đề xuất các giải pháp: Đề tài thực hiện nhằm đưa ra các giải pháp để thúc đẩy phương
thức đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP) ở Việt Nam thông qua việc nghiên
cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và tình hình vận dụng phương thức
đầu tư theo hình thức đối tác công – tư (PPP) của nước ta.
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phương thức
-
đầu tư theo hình thức đối tác công – tư (PPP)
Phạm vi nghiên cứu: hệ thống hóa các phương thức đầu tư theo hình thức đối tác công
– tư trên thế giới và ở Việt Nam, trên cơ sở thu thấp dữ liệu từ năm 1990 đến năm
2014.
4 Phương pháp nghiên cứu:
-
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp tiếp cận: phương pháp truyền thống, bao gồm tổng quan tài liệu, tổng
hợp, thống kê, so sánh, mô tả, lấy ý kiến chuyên gia và khảo sát thực tiễn nắm bắt tình
hình thông qua các cuộc làm việc, trao đổi với các cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung
ương và địa phương. Cũng như lấy ý kiến đóng góp của các đối tác tư nhân để tim ra
những giải pháp tốt nhất nhằm thúc đẩy phương thúc đẩy phương thức đầu tư PPP tại
-
Việt Nam.
Thông tin/ dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu, bao gồm thông tin, dữ liệu thứ cấp,
sơ cấp: sẽ được thu thập từ các cơ quan quản lý (Cục Quản lý đấu thầu, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư) và các cơ quan thống kê (Tổng Cục thống kê), những bài phát biểu của lãnh
đạo các đơn vị liên quan ( Bộ trưởng Bùi Quang Vinh, Cục trưởng Cục Quản lý đấu
thầu Lê Văn Tăng. Đại diện ngân hàng nhà nước Việt Nam TS Lê Văn Hinh cùng một
-
số đại diện các đối tác tư nhân khác.)
Phương pháp phân tích thông tin/ dữ liệu đã thu thập đượctổng hợp và phân tích
những lý thuyết về phương thức đầu tư theo hình thức đối tác công-tư (PPP) trên thế
giới và ở Việt Nam.
5 Kết cấu đề tài:
Nội dung của đề tài được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phương thức đầu tư theo hình thức đối tác công-tư
(PPP)
Chương 2: Thực tiễn ứng dụng phương thức đầu tư theo hình thức đối tác
công-tư (PPP) trên thế giới và ở Việt Nam
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy phương thức đầu tư theo hình thức đối tác côngtư (PPP) ở Việt Nam.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG THỨC ĐẦU TƯ THEO
1.1.
HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG –TƯ(PPP)
Tổng quan về phương thức đầu tư theo hình thức đối tác công-tư
1.1.1. Khái niệm về Đối tác công tư (Public Private Partnership-PPP)
Theo Luật Đầu tư công năm 2014 của Việt Nam thì “ Đầu tư theo hình thức đối
tác công - tư là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa Cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện, quản lý, vận
hành dự án kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công”
Còn Trong cuốn sách “PPP: Hướng dẫn chính quyền địa phương” xuất bản
tháng 5/1999, Chính quyền bang British Columbia, Canada coi đối tác công tư là “sự
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chính phủ và tổ chức tư nhân nhằm mục đích cung
cấp cơ sở hạ tầng công, các tiện nghi cho cộng đồng và các dịch vụ liên quan”
(Ministry of Municipal Affair, 1999).
Trong khi đó, trong sổ tay hướng dẫn về PPP do Ngân hàng nhà phát triển
châu Á (ADB) phát hành năm 2008 coi thuật ngữ “mối quan hệ đối tác nhà nước-tư
nhân” miêu tả một loạt các mối quan hệ có thể có giữa các tổ chức nhà nước và tổ
chức tư nhân liên quan đến lĩnh vực cơ sở hạ tầng và các lĩnh vực dịch vụ khác”
(ADB,2008)
Một số tổ chức chuyên hoạt động trong lĩnh vực PPP như Hội đồng PPP của
Canada (Canadian Council for Public Private Partnership), Hội đồng quốc gia về PPP
của Mỹ (National Council for Public Private Partnership) cũng đưa ra những khái niệm
riêng của mình về PPP. Chẳng hạn như “PPP là một liên doanh hợp tác giữa khu vực
công và tư, dựa trên lợi thế của mỗi bên nhằm xác định nhu cầu của cộng đồng thông
qua việc phân bố hợp lý nguồn lực, rủi ro và lợi ích”.
1.1.2. Đặc điểm của phương thức đầu tư theo đối tác công- tư (PPP)
Đầu tiên là chia sẻ và phân bổ rủi ro (lợi ích) là vấn đề trung tâm và là đặc
điểm quan trọng nhất của mô hình PPP. Có rất nhiều loại rủi ro và nguyên nhân dẫn
đến chúng cũng vô cùng đa dạng. Đầu tiên, rủi ro trong quá trình xây dựng do sự đổ
vỡ của nhà thầu, môi trường bị tàn phá. Thứ hai là rủi ro về thị trường do nguyên nhân
cầu không tương xứng, mức thuế sử dụng dịch vụ không thức tế. Thứ ba là rủi ro về tài
chính do sự thay đổi tỷgiá, lãi suất,thuế tăng lên, do lạm phát… Thứ tư là rủi ro trong
qua trình vẫn hành và bảo trì do hợp đồng bị ngừng lại, những rủi ro về mặt khoa học,
công nghệ hoặc lao động. Cuối cùng là rủi ro về mặt pháp lý do những thay đổi của hệ
thống luật pháp hoặc do tình trạng vỡ nợ của nhà cung cấp.
Thứ hai là mối quan hệ lâu dài giữa đối tác công với đối tác tư. Như chúng ta
đã biết đặc trưng của dự án PPP là những dự án xây dựng kết cấu hạ tầng cơ bản có
quy mô vốn lớn và thời gian thực hiện kéo dài 5 năm đến 30 năm. Chưa kể là đến
những sự cố bất khả kháng có thể xảy ra và làm cho dự án kéo dài hơn nữa.
Thứ ba là các nội dung chính của dự án PPP bao gồm “thiết kế, xây dựng. vận
hành và bảo trì” gắn liền với nguồn tài chính từ đối tác tư nhân. Và phần nguồn vốn
ngân sách của chính phủ sẽ được phục vụ cho các nội dung liên quan đến việc : giải
phóng mặt bằng, trả lương cho công nhân…
Cuối cùng là chủ thể tham gia PPP về đối tác công ở đây có thể là các bộ
ngành, chính quyền địa phương hoặc các doanh nghiệp nhà nước. Trong khi đó đối tác
tư nhân có thê là các doanh nghiệp, doanh nghiệp dự án hoặc các nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài.
1.1.3. Vai trò của phương thức đầu tư theo hình thức đối tác công-tư(PPP)
Vai trò quan trọng nhất khi áp dụng phương thức đầu tư theo hình thức đối tác
công – tư (PPP) là tận dụng được lợi thế, điểm mạnh của cả khu vực công và khu vực
tư nhân, và điều đó mang lại lợi ích cho tất cả các bên, nhà nước, khu vực tư nhân và
người thụ hưởng sản phẩm dịch vụ của mối quan hệ hợp tác công-tư.
Vai trò của PPP đối với Nhà nước và xã hội
Chia sẻ rủi ro. Những rủi ro có thể phát sinh trong quá trình triển khai dự án
như sự vỡ nợ của nhà thầu, môi trường bị tàn phá, rủi ro về thị trường, tài chính….
Việc nhận diện và chuyển giao rủi ro từ đối tác công sang đối tác tư nhân ngày càng
phát triển, với độ chính xác ngày càng cao và xu hướng dịch chuyển (rủi ro) sang khu
vực tư nhân (Forward và Aldis, 2009). Xu hướng dịch chuyển này không có nghĩa là
Nhà nước đổ mọi rủi ro lên vai tư nhân mà nó được phân bổ theo nguyên tắc: rủi ro sẽ
được phân chia cho bên nào có khả năng giải quyết tốt hơn, với chi phí thấp hơn. Đối
tác tư nhân sẽ gánh vác và xử lý rủi ro về tài chính, xây dựng và vận hành, trong khi
đó đối tác công (Nhà nước) sẽ gánh chịu trách nhiệm với rủi ro chính trị. Với nhiều
trường hợp Nhà nước sẽ là bên có trách nhiệm giải quyết những rủi ro liên quan đến
cộng đồng, môi trường hoặc bảo lãnh vay vốn do tiếng nói của Nhà nước “có trọng
lượng” hơn đối với các đối tượng đó. Ngược lại khu vực tư nhân ưu việt hơn trong
việc xử lý những rủi ro liên quan tới quản lý, sử dụng đồng vốn… Ngoài ra có thể kể
đến một số vài trò quan trọng của việc áp dụng mô hình PPP đó là:
Cải thiện chất lượng dịch vụ cung cấp: theo các chuyên gia nghiên cứu thì chất
lượng các dự án áp dụng hình thức PPP thường tốt hơn so với các hình thức đấu thầu
truyền thống do cơ chế PPP tận dụng được những lợi thế nhất của các bên, với Nhà
nước là chính sách và khả năng quản trị, bên tư nhân là các yếu tố kỹ thuật như thiết
kế, xây dựng, vận hành và quản lý
Không làm tăng nợ công. Trong bối cảnh tình hình nợ cộng của Việt Nam
đang ở mức rất cao và đang có xu hướng tăng nhanh. Bên cạnh đó nhu cầu phát triển
cơ sỏ hạ tầng của Việt Nam đang rất lớn. vậy nên việc ứng dụng phương thức đầu tư
PPP ( hình thức huy động nguồn lực từ nhà nước và đối tác tư nhân không tại áp lục
lên nợ nước ngoài ) là một những hướng phát triển bền vũng cho tương lai.
Một số vai trò mà PPP mang lại như nâng cao khả năng quản lý công, tạo thêm
doanh thu, uy tín về mặt chính trị tốt hơn cho Nhà nước (một khi các công trình PPP
được tiến hành hiệu quả hơn, ít tốn kém hơn, chất lượng tốt hơn, thời gian ngắn hơn và
ít tham nhũng hơn.. )
Tạo ra nhiều khoản đầu tư hơn cho cơ sở hạ tầng: Với cơ chế PPP, nhà nước
sẽ giảm gánh nặng phải tìm kiếm, săp xếp và phân bổ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách
cho cơ sở hạ tầng. Bởi vậy Nhà nước có thể tiến hành nhiều dự án đầu tư hơn hoặc
tăng quy mô của các dự án đầu tư cho cơ sở hạ tầng.
Góp phần vào việc minh bạch hóa hoạt động đầu tư công. Đầu tư công vốn là
một mảng tồn tại nhiêù bất cập. Với việc cho tư nhân tham gia sẽ giúp cho việc vận
hành dự án trỏ nên minh bạch hơn.
Vai trò đối với đối tác tư nhân.
Tao ra sự ổn định và tăng trưởng cho khu vực tư nhân: Với việc tham gia vào
cơ chế PPP, khu vực tư nhân có được nhiều cơ hội đầu tư mang tính dài hạn hơn, ít rủi
do hơn với sự đảm bả của Nhà nước. Từ đó, tạo ra sự ổn định và tăng trưởng cho khu
vực nhân, thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp địa phương cũng như tạo ra nhiều
công ăn việc làm cho người lao động
Tiết kiệm chi phí: việc kết hợp hai khâu Thiết kế và xây dựng trong cùng một
hợp đồng, cơ chế PPP cho phép nhà thiết kế có tính sáng tạo cao hơn và cùng với nhà
xây dựng thiết lập mối liên hệ gần gũi và sâu sắc hơn, tiết kiệm được nhiều chi phí
đồng thời cũng giúp giảm thời gian quá trình xây dựng, để dịch vụ sớm được đưa vào
sử dụng. Hơn thế nữa, hầu hết các dự án PPP cần dịch vụ vận hành và bảo trì trong
suốt vòng đời của dự án, và việc này được giao cho khu vực tư nhân. Do vậy, khu vực
tư nhân sẽ có động lực và các giải pháp nhằm giảm thiểu chi phí vận hành và bảo trì
trong suốt vòng đời của công trình.
1.1.4. Các mô hình đối tác công-tư (PPP) trên thế giới và ở Việt Nam
1.1.4.1 Lịch sử hình thành phương thức đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) trên
thế giới.
Mô hình PPP đã được áp dụng trong việc xây dựng các kênh đào ở Pháp vào
thế kỷ 18, các cây cầu ở London vào thế kỷ 19 hay cây cầu Brooklyn nổi tiếng ở New
York cũng vào thế kỷ 19. Tuy nhiên, mô hình này chỉ thực sự bắt đầu phổ biến trên thế
giới từ đầu thập niên 1980 và nó đã đóng một vai trò nhất định trong việc phát triển cơ
sở hạ tầng ở các nước phát triển.
Vương quốc Anh là một trong những quốc gia đầu tiên xây dựng và triển khai
thành công dự án PPP. Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX Vương quốc Anh đã có
những bước đi ban đầu cho việc hình thành cơ chế PPP cho các dự án cung cấp dịch
vụ công và từ thập niên 80 đã áp dụng rộng rãi.
PPP tại Vương quốc Anh được hiểu theo nghĩa rất đơn giản và hiệu quả như
sau: Khu vực công chỉ trả tiền nếu những yêu cầu dịch vụ được cung cấp, trả theo từng
năm. Cũng theo Bộ Ngân khố Vương quốc Anh, PPP chiếm 11% trong tổng đầu tư
công ở Anh; môi trường và giao thông vận tải là 2 lĩnh vực áp dụng PPP nhiều nhất tại
Vương quốc Anh hiện nay. Đến nay tại Anh đã có 667 hợp đồng PPP đã được ký kết
với giá trị vốn 56,6 tỷ bảng Anh và 590 dự án đang thực hiện.
Ở các nước đang phát triển, mô hình PPP bắt đầu phổ biến từ đầu thập niên
1990, nhất là ở khu vực Mỹ Latinh. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới,
trong 20 năm (1990-2009), đã có 4.569 dự án được thực hiện theo phương thức PPP ở
các nước đang phát triển với tổng vốn cam kết đầu tư 1.515 tỉ đô la Mỹ. Con số này
bao gồm cả việc tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Tổng mức đầu tư nêu trên
chỉ tương đương với 1% GDP của các nước đang phát triển trong hai thập kỷ qua. Với
mức đầu tư cho cơ sở hạ tầng vào khoảng 5-6% GDP thì đầu tư theo phương thức PPP
chỉ chiếm khoảng 20%. Đây là một con số khá khiêm tốn.
1.1.4.2. Các mô hình đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) trên thế
giới
Các mô hình PPP phân bổ trách nhiệm và rủi ro giữa các đối tác nhà nước và
tư nhân theo những cách khác nhau tùy theo tính chất của dự án, cơ cấu hợp đồng/thỏa
thuận được sử dụng cho các dự án:
• Mô hình nhượng quyền khai thác (Franchise)/cho thuê (Leasing)
- Mô hình nhượng quyền khai thác, theo nghĩa rộng, là một hình thức tổ chức
thực hiện PPP, trong đó khu vực nhà nước dựa trên các tài sản/cơ sở hạ tầng do nhà
nước xây dựng và sở hữu (sau đây gọi là tài sản/cơ sở hạ tầng sẵn có), nhượng lại
quyền khai thác, kinh doanh cho khu vực tư nhân. Trong mô hình này, đối tác tư nhân
được lựa chọn sẽ được dành quyền vận hành và duy trì dịch vụ công. Có hai hình thức
cụ thể đối với mô hình này, đó là: Nhượng quyền khai thác (Franchise) và cho thuê
(Leasing).
+ Hình thức cho thuê (Leasing): Với hình thức này, Cơ quan nhà nước cho đối
tác tư nhân thuê tài sản/tiện ích/cơ sở hạ tầng sẵn có thuộc sở hữu của cơ quan nhà
nước, để thực hiện khai thác, vận hành, và cung cấp các dịch vụ công. Theo thoả thuận
cho thuê, đối tác tư nhân phải thanh toán tiền thuê cho cơ quan nhà nước một khoản cố
định, không phụ thuộc vào khả năng thu phí từ người sử dụng. Và do đó, đối tác tư
nhân chịu hoàn toàn rủi ro kinh doanh.
+ Hình thức nhượng quyền khai thác (Franchise): Là hình thức PPP trong đó,
cơ quan nhà nước nhượng lại quyền vận hành, khai thác và cung cấp dịch vụ công cho
đối tác tư nhân dựa trên các tài sản/tiện ích/cơ sở hạ tầng sẵn có, thuộc quyền sở hữu
của khu vực nhà nước. Nhưng khác với hình thức cho thuê, đối tác tư nhân phải trả
một khoản phí cố định theo thoả thuận cho cơ quan nhà nước, thì trong hình thức
nhượng quyền, đối tác tư nhân được phép thu phí từ người sử dụng dịch vụ và trả một
khoản phí cho cơ quan nhà nước theo tỷ lệ trên một đơn vị dịch vụ bán ra, đồng thời
được phép giữ lại một phần doanh thu từ việc cung cấp dịch vụ công. Theo đó, với
hình thức nhượng quyền khai thác, rủi ro kinh doanh của khu vực tư nhân thường thấp
hơn so với hình thức cho thuê.
• Mô hình hợp đồng dịch vụ/quản lý
- Hợp đồng dịch vụ: là hợp đồng thoả thuận giữa một cơ quan/ đơn vị thuộc
khu vực công (sau đây gọi là cơ quan nhà nước) có thẩm quyền với một đơn vị/công ty
tư nhân, trong đó cơ quan nhà nước thuê đơn vị tư nhân thực hiện một hoặc một số
nhiệm vụ, dịch vụ cụ thể trong một thời gian nhất định.
•
Mô hình thiết kế - xây dựng - tài trợ - vận hành (DBFO: Design - Build -
Finance - Operate)
Trong mô hình này đối tác tư nhân thực hiện tất cả các giai đoạn của một dự án
để cung cấp dịch vụ công, bao gồm: thiết kế (D), xây dựng (B), tài trợ (F) và vận hành
dự án (O) thông qua một hợp đồng dài hạn.
• Mô hình xây dựng- chuyển giao ( BT: Build-and-Transfer)
Là một thỏa thuận dưới dạng hợp đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và nhà đầu tư, theo đó nhà đầu tư sẽ cam kết về mặt tài chính và tiến hành xây dựng cơ
sở kết cấu hạ tầng. Sau khi hoàn thành sẽ chuyển giao nó cho cơ quan chính phủ hoặc
các đơn vị chính quyền địa phương có liên quan. Chính phủ sẽ tạo điều kiện cho nhà
đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho
nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng BT. Hình thức hợp đồng này có thể được
sử dụng trong việc xây dựng bất kỳ dự án cơ sở hạ tầng, kể cả các cơ sở hạ tầng trọng
điểm và có tính chất quan trọng. Vì lý do bảo mật hoặc chiến lược, hợp đồng BT phải
được điều hành trực tiếp của Chính phủ.
• Mô hình xây dựng- cho thuê- chuyển giao (BLT: Build-Lease-and-Transfer)
Là hợp đồng ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư. Theo
đó nhà đầu tư chịu trách nhiệm về mặt tài chính và xây dựng cơ sở hạ tầng. Khi hoàn
thành, cơ sở hạ tầng sẽ được chuyển giao qua cơ quan chính phủ hoặc các cơ quan đơn
vị chính quyền địa phương liên quan dưới dạng một thỏa thuận cho thuê trong khoảng
thời gian cố định. Sau thời gian này, quyền sở hữu của cơ sở hạ tầng tự động được
chuyển sang cơ quan chính phủ, đơn vị chính quyền địa phương có liên quan.
• Mô hình xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT: Build-Operate-and-Transfer)
Là hợp đồng ký kết giữa cơ quan nhà nước với nhà đầu tư. Theo đó, nhà đầu
cam kết xây dựng cơ sở hạ tầng, tiến hành quản lý, kinh doanh và bảo trì cơ sở hạ tầng
trong một thời hạn nhất định. Trong khoảng thời gian đó thì nhà đầu tư được phép thu
phí người sử dụng cơ sở hạ tầng với một mức phí phù hợp. Các khoản phí không được
vượt quá những đề xuất trong hồ sơ dự thầu hoặc trong hợp đồng nhằm cho phép nhà
đầu tư thu hồi chi phí đầu tư, quản lý điều hành và bảo trì dự án. Nhà đầu tư sẽ tiến
hành chuyển giao cơ sở hạ tầng cho cơ quan Chính phủ, đơn vị chính quyền địa
phương có liên quan vào cuối của thời hạn qui định.
• Mô hình xây dựng – chuyển giao – vận hành (BTO: Build – Transfer – Operate)
Là hợp đồng được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư
để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, sau khi xây dựng xong công trình Nhà
đầu tư chuyển giao lại cho nhà nước, nhà nước dành cho nhà đầu tư quyền quản lý
khai thác sử dụng công trình đó trong một thời hạn nhất định; việc phân chia lợi ích
của mỗi bên trong quá trình khai thác sử dụng công trình là một trong những nội dung
chủ yếu của hợp đồng.
• Mô hình xây dựng- sở hữu- vận hành- chuyển giao ( BOOT: Build-Own-Operate-andTransfer )
Là hợp đồng ký kết giữa cơ quan nhà nước với nhà đầu tư. Theo hợp đồng này,
nhà đầu tư được ủy quyền tiến hành xây dựng, quản lý hoạt động và bảo trì cơ sở hạ
tầng trong một thời hạn nhất định trước khi chuyển giao. Trong suốt thời gian quản lý
cơ sở hạ tầng, nhà đầu tư có quyền sở hữu và có toàn quyền điều hành cơ sở hạ tầng và
doanh thu tạo ra từ cơ sở hạ tầng để thu hồi các khoản chi phí tài chính và đầu tư, cùng
các khoản chi phí bảo trì và vận hành cơ sở hạ tầng.
• Mô hình xây dựng- sở hữu- vận hành ( BOO: Build-Own-and-Operate)
Là một hợp đồng ký kết giữa cơ quan nhà nước và nhà đầu tư, theo đó nhà đầu
tư chịu trách nhiệm về tài chính, xây dựng, sở hữu, điều hành và bảo trì cơ sở hạ tầng.
Nhà đầu tư được phép thu hồi tổng mức đầu tư, chí phí điều hành và bảo trì cộng với
một mức lợi nhuận hợp lý bằng cách thu phí, lệ phí, tiền thuê hay các chi phí từ người
sử dụng cơ sở hạ tầng.
• Mô hình xây dựng- vận hành- chia sẻ- chuyển giao ( BOST: Build-Operate-ShareTransfer)
Là một hợp đồng ký kết giữa cơ quan nhà nước và nhà đầu tư, theo đó nhà đầu
tư chịu trách nhiệm về tài chính, xây dựng, điều hành và bảo trì, chia sẻ một phần
doanh thu và chuyển giao cơ sở hạ tầng cho cơ quan nhà nước quản lý vào cuối một
khoản thời gian nhất định được thể hiện trong hợp đồng. Nhà đầu tư được phép thu hồi
chi phí đầu tư, điều hành và chi phí bảo dưỡng cộng với một mức lợi nhuận hợp lý
bằng cách thu lệ phí cầu đường, phí, cho thuê hoặc các khoản thu khác từ người sử
dụng cơ sở hạ tầng.
• Mô hình xây dựng - sở hữu - vận hành - chia sẻ - chuyển giao ( BOOST: Build-OwnOperate-Share-Transfer )
Là một hợp đồng ký kết giữa cơ quan nhà nước và nhà đầu tư. Theo hợp đồng
này, nhà đầu tư chịu trách nhiệm về mặt tài chính, xây dựng, sở hữu, điều hành hoạt
động, bảo trì, chia sẻ một phần doanh thu và chuyển giao cơ sở hạ tầng vào cuối của
một thời hạn nhất định được thể hiện trong hợp đồng. Nhà đầu tư được phép thu hồi
tổng chi phí đầu tư, vận hành và chi phí bảo trì, bảo dưỡng công trình cộng với một
mức lợi nhuận hợp lý bằng cách thu lệ phí cầu đường, phí, cho thuê hoặc các khoản
thu khác từ người sử dụng cơ sở hạ tầng.
Hình 1 : Mức độ tham gia của tư nhân trong các tổ chức thực hiện PPP
Kết luận : Chương 2 đi sâu phân tích các mô hình PPP trên thế giới và ở Việt
Nam. Thông qua việc nghiên cứu những ứng dụng của phương thức PPP tại một số
nước trên thế giới để rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Ngoài ra, chương
này còn đề cập đến tình hình thực hiện PPP ở Việt Nam và đưa ra những hạn chế cùng
với những nguyên nhân chủ yếu gây ra những hạn chế này.
1.1.4.2. Các mô hình đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) ở Việt
Nam
Theo Nghị định số: 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công – tư
của Chính phủ đã quy định các mô hình PPP như sau:
• Mô hình xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT)
Là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để
xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư được
quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư
chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
• Mô hình xây dựng – chuyển giao – kinh doanh ( BTO)
Là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để
xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư chuyển
giao cho nhà nước có thẩm quyền và được quyền kinh doanh công trình đó trong một
thời gian nhất định.
• Mô hình xây dựng – chuyển giao (BT)
Là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để
xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và được thanh toán bằng quỹ đất để thực hiện dự án
khác theo các điều kiện quy định tại Khoản 3 Điều 14 và Khoản 3 Điều 43 Nghị định
15/2015/CĐ-CP.
• Mô hình xây dựng – sở hữu – kinh doanh (BOO)
Là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để
xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư sở
hữu và được quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định.
• Mô hình xây dựng – chuyển giao – thuê dịch vụ (BTL)
Là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để
xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư chuyển
giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở
vận hành, khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định; cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư theo các điều kiện quy định tại
Khoản 2 Điều 14 Nghị định này.
• Mô hình xây dựng – thuê dịch vụ - chuyển giao (BLT)
Là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để
xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư được
quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời
hạn nhất định; cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà
đầu tư theo các điều kiện và quy định tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định này; hết thời hạn
cung cấp dịch vụ, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
• Mô hình kinh doanh – quản lý (O&M)
Là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để
kinh doanh một phần hoặc toàn bộ công trình trong một thời hạn nhất định.
Ở Việt Nam, theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, trong giai đoạn 19942009 đã có 32 dự án được thực hiện theo mô hình PPP với tổng mức vốn cam kết
khoảng 6,7 tỉ đô la. Cũng giống như các nước khác, mô hình BOT và BOO chiếm tỷ
phần chủ yếu. Hai lĩnh vực chiếm tỷ phần lớn nhất là điện và viễn thông. Ngoài ra, có
thể kể đến nhiều dự án hợp tác công - tư khác đã và đang được triển khai từ thập niên
1990 đến nay như: BOT cầu Cỏ May, BOT cầu Phú Mỹ, điện Phú Mỹ, và rất nhiều
nhà máy điện nhỏ và vừa khác đang được thực hiện theo phương thức BOO.Về mô
hình BOT, tổng cộng có 26 dự án với tổng mức đầu tư là 128 ngàn tỷ đồng.
Riêng năm 2010, theo thống kê của cục đầu tư nước ngoài, tổng số dự án cấp
mới được đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là 969 dự án, trong đó theo mô hình đầu tư
BOT, BT, BTO có 6 dự án chiếm 1% trên tổng số dự án cấp mới. Nhưng số lượng dự
án cấp mới chiếm 55% so với số dự án đầu tư theo hình thức BOT,BTO,BT là 11 dự
án, chiếm tỷ lệ phần trăm cao nhất trong số tất cả các hình thức đầu tư, so với năm
2009 không có dự án mới nào đầu tư theo hình thức BOT,BT,BTO và điều này là một
sự khởi sắc tốt.
1.2.
Những vấn đề cơ bản về phương thức đầu tư theo hình thức đầu tư đối tác công
tư ( PPP).
1.2.1. Lựa chọn kế hoạch vốn đầu tư Nhà nước tham gia thực hiện dự án PPP
Phân loại dự án đầu tư xây dựng công trình và quy định về tổng mức đầu tư đối với
mỗi loại
Cùng là dự án theo phương thức đầu tư công- tư (PPP) nhưng lại được chia
thành nhiều loại khác nhau dựa trên tính chất và tổng mức đầu tư của từng dự án cụ
thể. Theo nghị định số 12/2009/NĐ-CP , Điều 49-luật Xây dựng và các văn bản pháp
luật khác quy định: các dự án đầu xây dựng công trình quan trọng quốc gia được chia
làm ba loại đó là nhóm A,B,C.(Ban hành kèm theo Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày
10 tháng 02 năm 2009 của Chính phủ)
Bảng 1: Các loại dự án đầu tư công trình và tổng mức đầu tư
STT
LOẠI DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH
I
Dự án quan trọng quốc gia
I
Nhóm A
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuộc lĩnh vực bảo vệ an
ninh, quốc phòng có tính chất bảo mật quốc gia, có ý nghĩa chính
trị - xã hội quan trọng.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: sản xuất chất độc hại, chất
nổ; hạ tầng khu công nghiệp
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp điện, khai thác
dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim,
khai thác chế biến khoáng sản, các dự án giao thông (cầu, cảng
biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ), xây dựng
khu nhà ở.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuỷ lợi, giao thông (khác ở
điểm I - 3), cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ thuật
điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị
y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính, viễn
thông.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp nhẹ, sành sứ,
thuỷ tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất
nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm, thuỷ
sản.
1
2
3
4
5
TỔNG MỨC
ĐẦU TƯ
Theo Nghị quyết số
66/2006/QH11 của Quốc hội
Không kể mức vốn
Không kể mức vốn
Trên 1.500 tỷ đồng
Trên 1.000 tỷ đồng
Trên 700 tỷ đồng
STT
6
II
1
STT
2
3
4
III
1
2
3
4
LOẠI DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn hoá, giáo dục,
phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng
khu nhà ở), kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa
học và các dự án khác.
Nhóm B
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp điện, khai thác
dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim,
khai thác chế biến khoáng sản, các dự án giao thông (cầu, cảng
biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ), xây dựng
khu nhà ở.
LOẠI DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuỷ lợi, giao thông (khác ở
điểm II - 1), cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ
thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược,
thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính,
viễn thông.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: hạ tầng kỹ thuật khu đô thị
mới, công nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh, in, vườn quốc gia, khu
bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ
sản, chế biến nông, lâm, thuỷ sản.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn hoá, giáo dục,
phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng
khu nhà ở), kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa
học và các dự án khác.
Nhóm C
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp điện, khai thác
dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim,
khai thác chế biến khoáng sản, các dự án giao thông (cầu, cảng
biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ). Các trường
phổ thông nằm trong quy hoạch (không kể mức vốn), xây dựng
khu nhà ở.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuỷ lợi, giao thông (khác ở
điểm III - 1), cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ
thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược,
thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính,
viễn thông.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp nhẹ, sành sứ,
thuỷ tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất
nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm, thuỷ
sản.
Các dự án đầu tư xây dựng công trình: y tế, văn hoá, giáo dục,
phát thanh, truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng
khu nhà ở), kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa
học và các dự án khác.
TỔNG MỨC
ĐẦU TƯ
Trên 500 tỷ đồng
Từ 75 đến 1.500 tỷ đồng
TỔNG MỨC
ĐẦU TƯ
Từ 50 đến 1.000 tỷ đồng
Từ 40 đến 700 tỷ đồng
Từ 30 đến 500 tỷ đồng
Dưới 75 tỷ đồng
Dưới 50 tỷ đồng
Dưới 40 tỷ đồng
Dưới 30 tỷ đồng
(Nguồn: Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 02 năm 2009)
Nguyên tắc quản lý vốn Nhà nước tham gia thực hiện dự án PPP
Nguyên tắc số 1: Tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng
vốn đầu tư công. Theo khoản 2 - Điều 33- Luật Đầu tư công thì việc quyết định chủ
trương đầu tư đối với dự án theo hình thức đối tác công tư phải đảm bảo 3 nguyên tắc
cơ bản. Đầu tiên là tuân thủ các điều kiện quyết định chủ trương đầu tư chương trình
dự án. Thứ hai là đảm bảo quản lý chặt chẽ nguồn vốn đầu tư công. Thứ ba là tạo điều
kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chủ động quản lý , sử dụng phần
vốn góp của mình và dự án theo đúng mục tiêu đầu tư và cam kết với Nhà nước.
Nguyên tắc số 2: Phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 05 năm của đất nước, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
và quy hoạch phát triển ngành. Để tránh tình trang xây dựng các dự án không đem lại
nhiều lợi ích cho người dân cũng như trùng lặp giữa các quốc gia gây lãnh phí nguồn
lực và hao tổn long tin của nhân dân.
Nguyên tắc số 3 : Thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản
lý nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan đến quản lý và sử dụng vốn đầu tư công.Ví dụ
như trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước là giải quyết các vấn đề liên quan đến
giải phóng mặt bằng, chi trả lương cho công nhân… Về phần tổ chức cá nhân tham gia
đầu tư có trách nhiệm đảm bảo đủ số vốn đầu tư xây dựng cũng như có vai trò tham
gia vào việc quẩn lý và sử dụng nguồn vốn đó.
Nguyên tắc số 4: Quản lý việc sử dụng vốn đầu tư công theo đúng quy định
đối với từng nguồn vốn; bảo đảm đầu tư tập trung, đồng bộ, chất lượng, tiết kiệm, hiệu
quả và khả năng cân đối nguồn lực; không để thất thoát, lãng phí.
Nguyên tắc số 5: Bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động đầu tư công.
Muốn làm được như vậy đầu tiên là phải xây dựng được khung pháp lý chặt chẽ .
Thêm vào đó cần có cơ quan thi hành và đảm bảo thực hiện một cách hiệu quả.
Nguyên tắc số 6: Khuyến khích tổ chức, cá nhân trực tiếp đầu tư hoặc đầu tư
theo hình thức đối tác công tư vào dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và cung cấp
dịch vụ công.
Quy trình lập kế hoạch, xác định phần vốn NN thực hiện dự án PPP quy định tại Dự thảo
Nghị định PPP
CQNNCTQ/ Nhà đầu tư lập ĐXDA (điều 15,16,21)
Thẩm định, phê duyệt ĐXDA, quyết định chủ trương đầu tư vốn Nhà nước tham gia thực
hiện dự án ( Điều 17)
CQNNCTQ công bố dự án ( Điều 18 )
CQNNCTQ lập, tổng hợp kế hoạch vốn đầu tư Nhà nước tham gia thực hiện dự án trong kế
hoạch trung hạn 5 năm ( khoản 1 Điều 13 )
Thẩm định, phê duyệt BCNCKT, bao gồm xác định phần vốn đầu tư Nhà nước tham gia
thực hiện dự án ( Khoản 2 điều 12 )
Căn cứ kế hoạch đầu tư công trung hạn và BCNCKT được phê duyệt, CQNNCTQ lập và
tổng hợp kế hoạch vốn đầu tư Nhà nước tham gia thực hiện dự án trong kế hoạch đầu tư công
hằng năm ( Khoản 2 điều 13)
Quy trình lập kế hoạch, xác định phần vốn của nhà nước thực hiện dự án PPP
phải thông qua bảy bước cơ bản . Đầu tiên là các Cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét
duyệt dự án đầu tư mà Nhà đầu tư lập đề xuất dự án cho phù hợp với các nguyên tắc
tính khả thi cũng như các quy hoạch tổng thể cả quốc gia và của vùng các ngành. Bước
tiếp theo là cơ quan có thẩm quyền sẽ thẩm định phê duyệt các dự án này để đảm bảo
dự án PPP là phù hợp với chủ trương đầu tư của nhà nước, đảm bảo tính khả thi cho
dự án (Điều 17). Sau qua trình thẩm định phê duyệt dự án PPP, các dự án được duyệt
sẽ được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, các nhà đầu tư đề xuất dự án, những người quan tâm có đầy đủ
thông tin về dự án PPP được phê duyệt này. Giai đoạn tiếp theo, Cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sẽ tiến hành lập, tổng hợp kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn 5 năm
(khoản 1, điều 13). Sau đó cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành thẩm định, phê duyệt
báo cáo nghiên cứu khả thi bao gồm xác định phần vốn nhà nước tham gia thực hiện
dự án (khoản 2, điều 12) và giai đoạn cuối cùng Cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ
căn cứ vào kế hoạch đầu tư công trung hạn và báo cáo nghiên cứu khả thi được duyệt
để lập và tổng hợp kế hoạch vốn đầu tư nhà nước tham gia vào thực hiện dự án trong
kế hoạch vốn đầu tư công hàng năm.
Thẩm quyền phê duyệt
(Bảng 2 : Thẩm quyền phê duyệt các dự án các cấp)
Dự án
Dự án quan trọng Quốc
gia
Dự án nhóm A
Dự án nhóm B, C
Thẩm quyền phê duyệt chủ
trương đầu tư vốn đầu tư Nhà
nước tham gia thực hiện dự án
( khi phê duyệt ĐXDA)
Thẩm quyền xác định phần vốn đầu tư Nhà nước
tham gia thực hiện Nhà nước tham gia thực hiện dự án ( khi
phê duyệt BCNCKT)
Quốc hội
Thủ tướng Chính phủ
Thủ tướng chính phủ
Người đứng đầu các Bộ, cơ quan
trung ương
Bộ trưởng, Thứ trưởng cơ quan ngang Bộ,
UBND cấp tỉnh ( trừ dự án sử dụng ODA và vốn vay ưu đãi
của các nhà tài trợ nước ngoài trong lĩnh vực an ninh, quốc
phòng, tôn giáo do thủ tướng Chính phủ phê duyệt)
Mốc thời gian lập kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020
- 31/12/2014 : các Bộ, các ngành, địa phương lập, thẩm định kế hoạch đầu tư công trung
hạn 5 năm 2016 – 2020 gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- 30/4/1015 : Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ tài chính và các cơ quan
liên quan thẩm định kế hoạch và phương án phân bổ vốn kế hoạch đầu tư trung hạn.
- 30/6/2015: Căn cứ ý kiến thẩm định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ tài chính, địa
phương hoàn thiện kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2016-2020 báo cáo cấp có thẩm
quyền xem xét theo quy định của Luật Đầu tư công và gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ
tài chính
- 31/7/2015: Bộ Kế hoạch và Đầu tư tự chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính rà soát và
tổng hợp kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020 báo cáo Thủ tướng
Chính phủ.
1.2.1 Lựa chọn đề xuất dự án và nghiên cứu khả thi PPP
Đề xuất dự án
Đề xuất dự án là một đánh giá ngắn gọn, tập trung về tính khả thi của dự án và
chi phí cho nghiên cứu đánh giá này ít tốn kém hơn nghiên cứu khả thi. Mục đích của
Đề xuất dự án là nhằm xác định dự án, và tổng hợp các thông tin cơ bản cần thiết cho
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (ASA) và Bộ KHĐT xây dựng khung dự án về
các mặt thiết kế, kỹ thuật, vận hành và dự toán chi phí xây dựng, vận hành, bảo dưỡng,
các dư báo về nhu cầu sử dụng, mức phí thu dự kiến và ước tính các kết quả và tác
động của dự án.
Thứ nhất cần phân tích sơ bộ về dự án, chứng minh rằng dự án là khả thi và
phù hợp với chính sách, sự cần thiết phải tiền hành phân tích và thiết kế sâu hơn và
sang lọc các tác động tiêu cực về môi trường và xã hội.
Thứ hai cần tìm hiểu tính khả thi về mặt kĩ thuật dựa trên phân tích nhu cầu,
thiết kế sơ bộ và dự thảo Thông số kĩ thuật đề ra.
Thứ ba là xem xét về mặt pháp lý để xác định những quy định pháp lý có liên
quan đến các thực thể kí hợp đồng và phê duyệt, các vấn đề về sử dụng đất và quy
hoạch, các trở ngại về việc thu phí sử dụng và các hình thức hợp đồng PPP
Nghiên cứu tiền khả thi
Nghiên cứu khả thi về mặt tài chính, đặc biệt về mô hình tài chính dự án, các
phương án và phân tích độ nhạy và các chi phí vòng đời và rủi ro.
Đề xuất dự án do nhà đầu tư lập. Nhà đầu tư tự chịu rủi ro khi lập đề xuất, nhà
đầu tư có thể được trao quyền riêng trong khoảng thời gian xác định để xây dựng đề
xuất dự án.
Đánh giá đề xuất dự án: đề xuất dự án phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch
phát triển ngành, vùng và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tiếp
theo đề xuất dự án phải phù hợp với lĩnh vực đầu tư . Thứ ba đề xuất dự án có khả
năng thu hút và tiếp cận nguồn vốn thương mại, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của
nhà đầu tư. Thứ tư là có khả năng cung cấp sản phẩm, dịch vụ ổn định, đạt chất lượng
đáp ứng nhu cầu người sử dụng. thứ năm là có tổng mức đầu tư từ 20 tỷ đồng trở lên,
trừ dự án đầu tư theo hợp đồng O&M và dự án thuộc lĩnh vực nông nghiệp và phát
triển nông thôn thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
. Cuối cùng là dự án có khả năng thu hồi vốn từ khoản thu của người sử dụng được ưu
tiên lựa chọn
Báo cáo nghiên cứu khả thi
Để xác định tính hiệu quả, cần xác định các yêu cầu về thu hồi đất và giải
phóng mặt bằng, đánh giá tác động môi trường và xã hội và xác định các yêu cầu hỗ
trợ của Nhà nước bao gồm bảo lãnh và vốn hỗ trợ VGF. Việc định lượng phí sử dụng
cần thiết/phần thanh toán sẵn có từ ngân sách nhà nước giúp đảm bảo tính khả thi về
tài chính. Cần báo cáo về tham vấn thị trường và sự quan tâm của thị trườn, trong đó
định nghĩa đầy đủvề tiêu chuẩn đầu ra và yêu cầu dịch vụ, đề xuất phân bổ rủi ro và dự
thảo hợp đồng dự án. Kế hoạch đấu thầu và tuyển chọn các tư vấn giao dịch, quản lý
và giám sát dự án, bao gồm Kế hoạch đầu thầu.
- Đầu vào cố vấn:
+ Kỹ thuật :
• Các nghiên cứu về nhu cầu
• Khảo sát về tình trạng và địa chất
• Thiết kế sơ bộ
• Tiêu chuẩn kỹ thuật đầu ra và yêu cầu dịch vụ
• Các chi phí về xây dựng, bảo trì và vận hành
• Đánh giá các tác động về môi trường và xã hội
+ Pháp lý :
• Đánh giá văn bản pháp lý liên quan
• Dự thảo hợp đồng dự án
• Hồ sơ đấu thầu
+ Tài chính:
• Mô hình tài chính của dòng tiền dự án
• Mô hình dự thầu mô phỏng và cơ cấu tài chính
• Phân tích lợi ích – chi phí về mặt kinh tế
• Phân tích sự hỗ trợ của chính phủ về tài chính( bảo lãnh)
Thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi
Nội dung thẩm định là sự cần thiết của việc thực hiện dự án, đánh giá các yếu
tố cơ bản của dự án và tính khả thi của dự án, hiệu quả của dự án. Từ đó nêu lên
phương án tài chính của dự án và các nội dung cần thiết khác.
Phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi
Tham vấn với các Bộ, ngành như Bộ tài chính, bộ Tư pháp, bộ Kế hoạch và
Đầu tư và các Bộ ngành có liên quan.
Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt là Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thứ
trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch UBND Tỉnh
Cơ quan phê duyệt phần vốn đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án là
Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, chủ tịch UBND tỉnh.
1.3.
Khung pháp lý hiện hành về PPP ở Việt Nam hiện nay
1.3.1. Môi trường thể chế PPP ở Việt Nam
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh PPP: Trong thu hút vốn
đầu tư PPP; sự minh bạch và bình đẳng giữa các bên tham gia đóng vai trò hết sức
quan trọng. Cùng với đó, môi trường pháp lý cần phải hạn chế tối đa những rủi ro liên
quan đến các xung đột về lợi ích. Để làm được điều này, khung pháp lý phải được thiết
kế đủ rộng để giúp nhà đầu tư tư nhân tránh các rủi ro như: rủi ro đấu thầu, rủi ro đàm
phán, rủi ro xây dựng, rủi ro đầu tư, rủi ro môi trường, rủi ro ngoại tệ,v.v… Hiện nay,
trong khung pháp lý luật điều chỉnh PPP tại Việt Nam, văn bản có tính pháp lý cao
nhất là Luật Đấu thầu, Luật xây dựng, Luật Ngân sách nhà nước và Luật Đầu tư. Luật
Đầu tư quy định việc quản lý hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh, bao gồm
đầu tư, kinh doanh vốn của nhà nước vào tổ chức kinh tế, đầu tư của nhà nước vào
hoạt động công ích, đầu tư bằng nguồn tín dụng phát triển. Luật Đấu thầu quy định về
quy trình, thủ tục, các hình thức đấu thầu để lựa chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư
vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp đối với các gói thầu của các dự án có vốn nhà nước
chi cho đầu tư phát triển, dự án sử dụng vốn nhà nước để mua sắm tài sản. Luật Ngân
sách nhà nước quy định tổng thể về chi đầu tư phát triển, bao gồm xây dựng các công
trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn do trung ương
quản lý; đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài
chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực
cần thiết có sự tham gia của Nhà nước; chi bổ sung dự trữ nhà nước và các khoản chi
khác theo quy định của pháp luật. Luật Xây dựng quy định quản lý nhà nước đối với
các dự án đầu tư có hoạt động xây dựng, bao gồm thẩm quyền lập và phê duyệt dự án
đầu tư xây dựng. Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 (có hiệu lực thi hành kể từ ngày
1/7/2014) và Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/8/2014), Đấu
thầu lựa chọn nhà đầu tư xây dựng các cơ sở giáo dục, dạy nghề, y tế, thể thao, môi
trường: được quy định tại Nghị định 69/2008/NĐ-CP; Đấu thầu cung cấp dịch vụ sự
nghiệp công: được quy định tại Quyết định 39/2008/QĐ-TTg; Đấu thầu cung ứng sản
phẩm, dịch vụ công ích: được quy định tại Quyết định 256/2006/QĐ-TTg,vv…
1.3.2. Khung pháp lý hiện hành về PPP ở Việt Nam
Trước đây, chúng ta mới chỉ có các quy định về đầu tư theo hình thức công tư
dưới dạng các quy định về đầu tư theo hình thức công - tư dưới dạng các quy định về
BOT, BTO và BT và Quyết định 71/2010/QĐ-TTg về thí điểm dự án PPP, Nghị định
108/2009/NĐ-CP về BOT, BTO, BT. Các văn bản này ra đời đã làm cho các nhà quản
lý, nhà đầu tư, cơ quan tư vấn lẫn lộn, gây khó khăn trong quá trình thực hiện. Có ý
kiến cho rằng PPP chính là BOT, BTO, BT; có ý kiến ngược lại thì không phải; cũng
có ý kiến cho rằng PPP chính là BOT, BTO, BT hiện đại…trước những nhận thức
thiếu nhất quán như vậy, Chính phủ đã giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm cơ quan
đầu mối, tham mưu cho Chính phủ xây dựng khung chính sách về đầu tư nói chung và
đầu tư PPP nói riêng.
Ngày 25/3/2015, tại Hà Nội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức Hội nghị giới
thiệu Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 về đầu tư theo hình thức đối tác
công tư (PPP) và Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/3/2015 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư. Đây được coi là khung
pháp lý cơ bản cho việc triển khai các dự án PPP tại Việt Nam, mở ra một cách làm
mới thu hút vốn đầu tư nhằm phát triển kết cấu hạ tầng của Việt Nam.
(Hình 2: Sơ đồ khung pháp lý hiện hành về PPP ở Việt Nam)
Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công tư PPP
được Chính phủ ban hành vào ngày 14/2/2015, có hiệu lực từ ngày 10/4/2015. Nghị
định được xây dựng trên cơ sở khắc phục những hạn chế trong khung pháp lý trước
đây về PPP, tiếp thu những kinh nghiệm thực tiễn tại Việt Nam cũng như theo thông lệ
quốc tế với mười nội dung cơ bản. Nghị định số 30/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư được Chính phủ ban hành
vào ngày 17/3/2015, có hiệu lực từ ngày 5/5/2015 gồm mười nội dung. Đây là lần đầu
tiên việc hướng dẫn về quy trình, thủ tục lựa chọn nhà đầu tư được quy định tại cấp
nghị định. Điều đó góp phần xây dựng môi trường đầu tư công bằng, minh bạch và
hiệu quả kinh tế, đặc biệt đối với các dự án PPP.
Đầu tư theo hình thức đối tác công tư PPP nhằm thu hút nguồn vốn từ khu vực
tư nhân là một kênh hiệu quả. Vì vậy, Chính phủ Việt Nam đang triển khai kế hoạch
xây dựng và hoàn thiện một hành lang pháp lý rõ ràng, có hệ thống về đầu tư theo hình
thức PPP, bao gồm: Luật đầu tư công; Luật đầu tư; Luật đấu thầu; Luật xây dựng;
Nghị định về đầu tư theo hình thức đối tác công tư; Nghị định hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư và các thông tư, văn bản hướng dẫn
khác có liên quan. Điều này thể hiện quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc
phát huy mọi nguồn lực nhằm thúc đẩy đầu tư phát triển hạ tầng ở Việt Nam.
1.3.3.
a
Ban chỉ đạo PPP ở Việt Nam
Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo
Ban Chỉ đạo PPP có chức năng giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiên
cứu, chỉ đạo, triển khai thực hiện mô hình đầu tư theo hình thức đối tác công - tư. Ban
Chỉ đạo PPP có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
phương hướng, kế hoạch, giải pháp chiến lược thực hiện hiệu quả mô hình PPP; giúp
Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, đôn đốc, điều phối hoạt động giữa các bộ, ngành và địa
phương trong việc thực hiện thí điểm mô hình PPP. Chỉ đạo các bộ, ngành có liên
quan xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn việc triển khai thí
điểm mô hình PPP; xem xét, hoàn thiện quy định pháp luật nhằm thống nhất quản lý
mô hình đầu tư có sự phối hợp giữa nhà nước và tư nhân hiện nay.
b
Thành phần Ban Chỉ đạo
(i). Trưởng ban: Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải.
(ii) . Các Phó Trưởng ban:
- Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Phó Trưởng ban Thường trực;
- Thứ trưởng Bộ Tài chính.
(iii) Các Ủy viên là 01 Thứ trưởng (hoặc tương đương) thuộc các Bộ, cơ quan
ngang Bộ:
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
- Văn phòng Chính phủ;
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;