Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Luận văn tác động của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu lào cai đến đời sống kinh tế xã hội của tỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 122 trang )

LUẬN VĂN:

Tác động của sự phát triển khu kinh
tế cửa khẩu Lào Cai đến đời sống kinh
tế - xã hội của tỉnh


mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trung Quốc là nước láng giềng "núi liền núi, sông liền sông" với Việt Nam, có
nền kinh tế quy mô, tăng trưởng mạnh, đang thực thi chiến lược nhất thể hóa kinh tế khu
vực mà Việt Nam được coi là "cầu nối" giữa các nước phương Nam với Trung Quốc, là
"cầu nối" Đông Nam á với Đông Bắc á. Do vậy, củng cố, phát triển quan hệ hợp tác toàn
diện với Trung Quốc, phát huy vai trò "cầu nối" trước hết trong khuôn khổ khu vực mậu
dịch tự do ASEAN- Trung Quốc, tích cực khai thác thị trường Trung Quốc, đặc biệt là thị
trường Tây Nam Trung Quốc, sẽ là hướng chiến lược kinh tế đối ngoại quan trọng, góp
phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế nhanh, ổn định lâu dài của Việt Nam. Trong
đó đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam với Vân Nam cũng như với Quảng Tây
có vai trò then chốt.
Từ thời Hán Tần, miền Tây Nam Trung Quốc đã có con đường giao thông quốc tế
qua Côn Minh để đi đến các nước phía Nam được gọi là "Trục thân độc đạo"- con đường
tơ lụa ngày xưa. Còn ngày nay, khi hai nước Việt - Trung bước vào thế kỷ XXI cùng nỗ
lực cải cách mở cửa nền kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu thì cơ hội phát triển
quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Vân Nam Trung Quốc vô cùng rộng lớn nhờ
những nhân tố khách quan và chủ quan sau đây:
Bước vào thế kỷ XXI mặc dù vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn, khó lường,
song hòa bình và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo trong sự phát triển thế giới và khu vực;
hơn nữa đây còn là thời kỳ mở đầu thời đại tri thức hóa kinh tế toàn cầu; toàn cầu hóa, khu
vực hóa kinh tế phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy. Đây là xu thế phát triển khách quan
đang cuốn hút mọi quốc gia vào quĩ đạo kinh tế toàn cầu, mở ra cơ hội lớn cùng những


thách thức lớn đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam và Trung Quốc. Là
cơ hội lớn nếu quốc gia đang phát triển đó có năng lực cải cách, mở cửa, tận dụng mọi lợi
thế của nước đi sau, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiệu quả, sẽ có nhiều khả năng
tiến nhanh, đuổi kịp các nước tiên tiến. Là thách thức lớn nếu quốc gia đang phát triển đó
không có năng lực cải cách, mở cửa, không tận dụng mọi lợi thế của nước đi sau trong hội


nhập kinh tế quốc tế và khu vực, sẽ bị tụt hậu, thậm chí bị đào thải khỏi quĩ đạo phát triển
của thế giới.
Xu thế phát triển khách quan trên đã được chính phủ và nhân dân hai nước Việt
Nam - Trung Quốc đón bắt kịp thời, thông minh và sáng tạo. Cả hai nước đều nỗ lực cải
cách mở cửa với cách đi thích hợp, từng bước hoàn thiện kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa (XHCN) phù hợp với thông lệ quốc tế, nên đã tạo nên sự phát triển ngoạn mục:
dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm, đạt được những thành
tựu tuyệt vời trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Cuối năm 2001 Trung
Quốc trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đánh dấu sự hội
nhập kinh tế toàn cầu của Trung Quốc, tạo ra thế và lực của Trung Quốc trên trường
quốc tế. Rất có thể cuối năm 2005 Việt Nam cũng sẽ gia nhập WTO, thể hiện tinh thần
chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu, tạo cơ sở thuận lợi hơn cho sự phát triển quan hệ
kinh tế thương mại Việt Nam - Vân Nam Trung Quốc.
Sự kiện ảnh hưởng mạnh và trực tiếp hơn đến quan hệ kinh tế thương mại Việt
Nam - Vân Nam Trung Quốc là tháng 11/2002 Hiệp định thương mại hợp tác kinh tế toàn
diện ASEAN - Trung Quốc đã được ký kết, mở đường cho việc xây dựng khu vực mậu
dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) mà Việt Nam - Vân Nam Trung Quốc có vị trí
vai trò "cửa ngõ" của ACFTA.
Lào Cai là một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam
Trung Quốc, có nhiều tiềm năng về kinh tế, với nhiều tuyến đường sắt, đường bộ, đường
thủy và khả năng phát triển đường hàng không, có tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai được
nối


thông

với

Côn

Minh

-

Trung

Quốc.

Lào Cai còn có ưu thề về tiềm năng khoáng sản (35 loại khoáng sản), 150 điểm mỏ và nổi
tiếng là nơi nhiều tiềm năng phát triển du lịch với những danh lam thắng cảnh như Sa Pa,
Bắc Hà. Tuy nhiên, Lào Cai vẫn là một tỉnh nghèo, cơ cấu kinh tế là nông, lâm - công
nghiệp, xây dựng - thương mại, du lịch. Đến nay sau gần 10 năm thực hiện Quyết định
100/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm một số cơ chế, chính sách
đối với khu kinh tế cửa khẩu (KTCK) đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ qua hệ kinh tế thương mại của Lào Cai với Vân Nam Trung Quốc, cơ sở hạ tầng của khu KTCK đã được
nâng cấp với nhiều dự án. Việc hình thành và phát triển khu KTCK Lào Cai đã đẩy mạnh


hơn nữa giao lưu kinh tế qua cửa khẩu giữa hai nước, qua đó đẩy mạnh phát triển kinh tế
hàng hóa trong nước. Chúng ta cần nhìn nhận những tác động này không chỉ trong thời
gian trước mắt mà về lâu dài, khu KTCK Lào Cai sẽ có mức phát triển nhanh hơn, trở
thành vùng động lực kinh tế để kéo các vùng nghèo hơn cùng đi lên, cùng phát triển.
Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò quan trọng của việc phát triển khu KTCK Lào
Cai trong công cuộc đổi mới, cần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của việc phát triển kinh tế
của cửa khẩu Lào Cai, qua đó chỉ rõ sự tác động của khu KTCK Lào Cai đối với đời sống

kinh tế - xã hội của tỉnh, đồng thời đề ra những giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát
triển khu KTCK ở Lào Cai là vấn đề cấp thiết hiện nay. Do vậy, tác giả luận văn chọn vấn
đề " Tác động của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đến đời sống kinh tế - xó
hội của tỉnh " làm đề tài luận văn thạc sĩ, với hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ của mình
cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sau 14 năm mở cửa chính thức (1991) và 17 năm kể từ khi nhân dân hai bên biên
giới tự phát mở đường thăm nhau (1988), mỗi nước đều thấy được tác động kinh tế - xã
hội to lớn của sự kiện này. Hệ quả trực tiếp mà mở cửa đem lại là sự phát triển thương mại
qua biên giới hai nước với tốc độ cao, đã thu hút sự chú ý của báo giới, các nhà quản lý,
các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, thậm chí có lúc người ta gọi là "vùng biên nóng
bỏng".
Những năm gần đây, có nhiều tác giả nghiên cứu và viết bài xung quanh vấn đề
này, tiêu biểu như: "Tác động kinh tế - xã hội của mở cửa biên giới" của TS. Trịnh Tất Đạt,
TS Vũ Tuấn Anh, TS Hoàng Công Hoàn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; "Phát
triển thương mại trên hành lang kinh tế Côn Minh, Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng" của
TS. Nguyễn Văn Lịch, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2005; "Các khu kinh tế cửa khẩu biên
giới

Việt

-

Trung

và tác động của nó tới sự phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam" của
TS. Phạm Văn Linh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; "Quá trình mở cửa đối ngoại
của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" của Nguyễn Thế Tăng, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1997; "Chính sách ngoại giao hòa bình độc lập tự chủ coi trọng phát triển mối quan



hệ láng giềng hữu nghị với các nước Đông Nam á" của GS. Cổ Tiểu Tùng, Tạp chí
Nghiên cứu Trung Quốc, số 2(48), 2003; "Buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc
và một số nhận xét về những điều kiện để phát triển buôn bán qua biên giới giữa hai
nước" của ThS. Lê Tuấn Thanh, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 4 (56), 2004…
Song chưa có một đề tài nghiên cứu nào trình bày một cách có hệ thống về sự tác động
kinh tế - xã hội của khu KTCK Lào Cai dưới dạng một luận văn thạc sĩ khoa học để đánh
giá thực trạng, đề ra những giải pháp phát triển khu KTCK ở Lào Cai.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích của đề tài
Phân tích thực trạng sự tác động kinh tế - xã hội của khu KTCK ở Lào Cai, từ đó
đề xuất và kiến nghị những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển KTCK ở tỉnh Lào Cai.
- Nhiệm vụ của đề tài
+ Hệ thống lại những vấn đề lý luận cơ bản về KTCK: khái niệm và các mô hình
khu KTCK, sự cần thiết, vai trò của khu KTCK, các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành
và phát triển khu KTCK…
+ Phân tích, đánh giá thực trạng sự phát triển, tác động kinh tế - xã hội của khu
KTCK Lào Cai.
+ Phân tích rõ triển vọng, phương hướng và giải pháp nhằm phát triển khu KTCK
ở Lào Cai.
- Phạm vi nghiên cứu
Thực trạng phát triển khu KTCK Lào Cai từ 2001 - 2005; tác động của khu KTCK
Lào Cai đến kinh tế - xã hội của tỉnh.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quan hệ kinh tế đối
ngoại, những chủ trương, chính sách, pháp luật về khu KTCK. Luận văn còn kế thừa có


chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học, các bài viết đã được công
bố có liên quan đến đề tài.

- Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; phương pháp logic kết hợp với lịch sử để phân tích,
đánh giá sự tác động kinh tế - xã hội của khu KTCK Lào Cai. Ngoài ra, luận văn còn sử
dụng các phương pháp khác như thống kê, khảo sát, tổng hợp, so sánh.
5. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Trình bày có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về khu KTCK.
- Đưa ra những đặc thù của khu KTCK Lào Cai.
- Đánh giá đúng thực trạng sự phát triển khu KTCK Lào Cai, sự tác động kinh tế xã hội của khu KTCK Lào Cai.
- Luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban
ngành của tỉnh tham khảo trong việc hoạch định các chính sách phát triển khu KTCK của
tỉnh. Đồng thời, luận văn còn là tư liệu tham khảo cho những người làm công tác nghiên
cứu, giảng dạy bộ môn Mác - Lênin.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 7 tiết.


Chương 1
Cơ sở khoa học hình thành và phát triển
khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai

1.1. Những nhận thức chung về khu kinh tế cửa khẩu
1.1.1. Khái niệm khu kinh tế cửa khẩu và các phạm trù liên quan
Thuật ngữ khu kinh tế cửa khẩu mới được dùng ở Việt Nam trong một số năm gần
đây, khi quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc đã có bước phát triển mới
đòi hỏi phải có mô hình kinh tế phù hợp nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh kinh tế
của hai nước thông qua cửa khẩu biên giới. Trong lịch sử, việc trao đổi hoạt động kinh tế thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia có chung đường biên giới đã diễn ra từ rất lâu,
song chủ yếu là các dạng thông thường như: xuất nhập khẩu (XNK) chính ngạch, tiểu
ngạch, trao đổi, mua bán thông qua các chợ biên giới. Nhưng, mô hình kinh tế trong đó
chúng ta chủ động áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả trao

đổi kinh tế - thương mại giữa hai quốc gia thông qua cửa khẩu biên giới còn rất hạn chế.
Nước ta là một quốc gia có đường biên giới trên bộ tiếp giáp với ba nước: Trung
Quốc, Lào, Campuchia. Trong ba nước này thì Trung Quốc là đất nước rộng lớn, có nét
tương đồng với nước ta về quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Trung Quốc lại là một thị
trường với hơn 1,3 tỉ dân, tốc độ phát triển cao từ nhiều năm nay. Lào và Campuchia tuy là
các quốc gia nhỏ có nhiều khó khăn về kinh tế nhưng cũng có vị trí hết sức quan trọng,
nằm trong tiểu vùng Mê Kông (gồm Việt Nam, Lào, Campuchia và Thai Lan - cửa ngõ
thông ra các nước trong khối ASEAN). Hiện nay, giữa các quốc gia tiểu vùng sông Mê
Kông đang có nhiều dự án xây dựng cầu, đường thúc đẩy phát triển kinh tế theo tuyến
hành lang Đông - Tây trên cơ sở dòng chảy tự nhiên của sông Mê Kông. Tất cả các điều
kiện thuận lợi trên chỉ có thể phát huy tốt khi có mô hình kinh tế thích hợp, đặc biệt phải
kể đến khu KTCK.
Khái niệm khu KTCK được hình thành trên cơ sở hàng loạt các khái niệm có liên
quan. Trước hết là khái niệm: "Giao lưu kinh tế qua biên giới". Theo nghĩa hẹp, khái niệm


này bao gồm các hoạt động trao đổi thương mại, trao dổi hàng hóa giữa các cư dân, các
doanh nghiệp nhỏ đóng tại địa bàn biên giới xác định, thường là những nơi có các cửa
khẩu biên giới. Trên thực tế, những hình thức này có thể được thực hiện ở các dạng chợ
biên giới, thậm chí ở các đường mòn biên giới với một khối lượng hàng hóa và giá trị theo
quy định của Nhà nước hoặc chính quyền địa phương. Với nhiều mức độ khác nhau, giao
lưu kinh tế biên giới theo nghĩa hẹp là hình thức diễn ra phổ biến ở tất cả các quốc gia có
đường biên giới chung trong điều kiện hòa bình. Tuy nhiên, có một điều dễ thấy là quy mô,
mức độ hoạt động kinh tế - thương mại diễn ra khác nhau giữa các vùng, miền, khu vực
biên giới cả nước vì nó phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân khác nhau: trình độ phát triển
kinh tế; điều kiện tự nhiên; vị trí địa lý; chính sách biên mậu; các tiềm năng, thế mạnh tại
chỗ; sự ổn định về an ninh chính trị... Vì vậy, xuất hiện một nội dung rộng hơn, bao quát
hơn trước tức giao lưu kinh tế qua biên giới là tất cả các hoạt động kinh tế - thương mại,
đầu tư khoa học và công nghệ qua các cửa khẩu biên giới, giữa các quốc gia có đường biên
giới chung. Nội dung của giao lưu kinh tế qua biên giới theo nghĩa rộng không chỉ đơn

thuần là buôn bán, trao đổi hàng hóa thông thường, mà còn bao hàm cả các hoạt động về
hợp tác khoa học - công nghệ, đầu tư lẫn nhau, hoạt động XNK, liên doanh phát triển kết
cấu hạ tầng, du lịch qua biên giới... Chúng ta thấy rõ rằng, giao lưu kinh tế qua biên giới
được phát triển từ hình thức trao đổi hàng hóa đơn giản trở thành các hoạt động sản xuất
kinh doanh đa dạng. Kinh nghiệm của các nước Trung Quốc, Thái Lan cho thấy, đây chính
là một hướng phát triển quan trọng để thành lập các khu mậu dịch tự do biên giới, khu hợp
tác kinh tế tiểu vùng, khu KTCK. Đây là những điều kiện chuẩn bị cho sự hội nhập, mở
cửa với kinh tế khu vực và thế giới. Trong lịch sử, các hình thức kinh tế song phương hoặc
đa phương giữa các quốc gia có đường biên giới chung, hoặc giữa các quốc gia trong khu
vực đã có nhiều hình thức liên kết thông thường, với những cấp độ khác nhau như: Khu
vực thương mại tự do; liên minh thuế quan; thị trường chung; liên minh kinh tế; liên minh
tiền tệ. Bên cạnh đó, ở những vùng, địa phương có những điều kiện khác nhau đã xuất hiện
nhiều hình thức, mô hình kinh tế cụ thể, bao gồm:
+ Các vùng tăng trưởng kinh tế, là hình thức hợp tác kinh tế giữa các vùng nằm kề
nhau về địa lý của các nước láng giềng. thậm chí ở một số địa phương trong cùng một
quốc gia, cho phép khai thác những thế mạnh và hỗ trợ lẫn nhau nhằm đạt mục tiêu tăng


trưởng nhanh hơn về thời gian, thấp hơn về chi phí. Hơn nữa, chúng còn cho phép tận
dụng những ưu điểm, bổ sung lẫn nhau trong mỗi thành viên để đạt hiệu quả kinh tế với
quy mô lớn.
+ Các thỏa thuận về thương mại miễn thuế giữa các quốc gia, thực hiện các quy
định miễn trừ thuế quan cho một số loại hàng hóa được trao đổi giữa các nước thành viên,
là cơ sở để phát triển tới hình thức liên kết kinh tế cao hơn, đó là liên minh thuế quan.
Hình thức này đã được phát triển ở một số nước như Trung Quốc, ấn Độ, Nê Pan...
+ Các đặc khu kinh tế như khu công nghiệp, khu chế xuất... được áp dụng ở một số
nước: Trung Quốc, các nước ASEAN trong vài thập kỷ gần đây.
Tính đa dạng trong các loại hình và yếu tố quyết định cho sự lựa chọn một mô
hình cụ thể phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, những điều kiện cần và đủ để quyết
định những loại hình phù hợp, có hiệu quả. Thông qua các hình thức, các cấp độ phát triển

khác nhau của liên kết kinh tế, căn cứ theo đặc điểm của một loại hình KTCK cho phép áp
dụng những chính sách riêng trong một phạm vi không gian, thời gian xác định mà ở đó đã
có giao lưu kinh tế biên giới phát triển sẽ hình thành khu KTCK.
Qua những phân tích trên, chúng ta có thể hiểu: Khu kinh tế cửa khẩu là một
không gian kinh tế xác định gắn với cửa khẩu, có dân cư hoặc không có dân cư sinh sống
và được thực hiện những cơ chế, chính sách phát triển riêng phù hợp với đặc điểm ở đó
nhằm đưa lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ
quyết định thành lập.
Khái niệm về khu KTCK cho thấy có những điểm giống và khác so với các mô
hình kinh tế: Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao... Để rõ hơn về khu
KTCK, chúng ta xem xét nó trong sự so sánh với các mô hình kinh tế khác:
- Khu công nghiệp, là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định,
không có dân cư sinh sống, được hưởng một số chế độ ưu tiên của Chính phủ hay địa
phương, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
- Khu chế xuất, là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu,
thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu với hoạt động xuất khẩu, có ranh giới


xác định, không có dân cư sinh sống, được hưởng một số chế độ ưu tiên đặc biệt của Chính
phủ, do Chính phủ hay Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
- Khu công nghệ cao, là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao
và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, gồm nghiên cứu, triển khai
khoa học - công nghệ, đào tạo các dịch vụ có liên quan, có ranh giới địa lý xác định, được
hưởng chế độ ưu tiên nhất định, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành
lập.
Như vậy, khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao là ba loại hình của
đặc khu kinh tế, chúng có những đặc điểm khác nhau xuất phát từ mục đích, đối tượng
tham gia, mối liên kết của chúng đối với nền kinh tế. Khu công nghiệp thường được thành
lập ở những vùng đình trệ về kinh tế, nơi có nhiều người thất nghiệp, nhưng lại có sẵn ưu

thế phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý thuận lợi. Được nhận sự ưu tiên
nhất định từ phía chính quyền địa phương và Chính phủ, có vai trò thúc đẩy phát triển kinh
tế địa phương. Khu công nghiệp bao gồm những doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp
nước ngoài. So với khu công nghiệp, khu chế xuất cũng được xác định là khu công nghiệp
nhưng tập trung những doanh nghiệp chuyên sản xuất, chế biến các hàng xuất khẩu, được
sự ưu tiên đặc biệt của Chính phủ, có vai trò then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế
khép kín sang nền kinh tế mở. Còn khu công nghệ cao, điểm khác biệt chính là ở mục đích
phát triển công nghệ kỹ thuật cao, thu hút công nghệ nước ngoài, tiếp thu và chuyển giao
công nghệ cao, nâng cao năng lực công nghệ trong nước [34, tr. 15].
Những đặc điểm cơ bản của các loại hình kinh tế trên cho thấy, khu KTCK có
điểm giống và khác cơ bản như sau:
Những điểm giống nhau: Về tư cách pháp nhân, các mô hình kinh tế này đều được
thành lập do quyết định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ; được hưởng một số chế
độ ưu đãi của Chính phủ và chính quyền địa phương; có một không gian kinh tế xác định.
Các hình thức kinh tế này đều nhằm mục đích nâng cao hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh
tế vùng, thông qua việc phát huy đặc điểm hoạt động của từng loại hình này đối với vùng
hay kinh tế cả nước.


Những điểm khác nhau: Điểm khác nhau dễ thấy giữa khu KTCK với các hình
thức kinh tế nói trên là ở vị trí và điều kiện hình thành. Để thành lập được khu KTCK, điều
kiện tiên quyết là phải gắn với vị trí cửa khẩu, là khu vực có hoặc không có dân cư sinh
sống, có các doanh nghiệp trong nước, nước ngoài. Mục đích thành lập khu KTCK nhằm
ưu tiên phát triển thương mại, XNK, dịch vụ, du lịch và công nghiệp. Trong đó, quan trọng
nhất là hoạt động thương mại, dịch vụ gồm có: Hoạt động XNK, tạm nhập, tái xuất, vận
chuyển hàng hóa quá cảnh, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế, hội chợ triển lãm, cửa
hàng giới thiệu sản phẩm, các cơ sở sản xuất, gia công hàng xuất khẩu và các chi nhánh
đại diện các công ty trong nước, nước ngoài, chợ cửa khẩu. Khác với khu chế xuất và khu
công nghiệp, nguồn hàng hóa để trao đổi ở khu KTCK có thể là tại chỗ, có thể là từ nơi
khác đưa đến. Các chính sách ưu tiên cũng khác nhau phù hợp với đặc thù của từng loại

hình và địa phương nơi chúng được thành lập. Một vấn đề cần lưu ý là do đặc điểm riêng
có, khu KTCK đặt lên hàng đầu là các hoạt động về thương mại, dịch vụ, gắn với cửa khẩu
chịu tác động mạnh mẽ của khu vực kinh tế, chính sách biên mậu của các nước láng giềng
có đường biên giới chung. Do vậy, nguồn hàng hóa tại chỗ và từ nơi khác (các vùng kinh
tế, khu công nghiệp, khu chế xuất) là rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả hoạt động của nó.
Mặt khác, hoạt động của khu KTCK còn liên quan nhiều đến thông lệ quốc tế, vấn đề chủ
quyền, an ninh biên giới, các chính sách chung của hai nước thông qua cặp cửa khẩu và hệ
thống các đường giao thông. Từ đó, một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã đưa ra những mô
hình cụ thể về khu KTCK, trên cơ sở đó tùy điều kiện từng vùng (địa phương) có thể áp
dụng cho phù hợp.
* Mô hình không gian: Là mô hình đòi hỏi được xây dựng trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản như tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, thềm lục địa, các hiệp
định và hiệp ước quốc tế; đảm bảo sự phối hợp tốt tất cả các yếu tố để các quốc gia có
đường biên giới chung đều có lợi, đảm bảo về môi trường, sự phối hợp các nguồn lực khi
triển khai; tìm kiếm các yếu tố tương đồng, các vị trí tạo ra khả năng phát triển đối xứng,
Mặt khác, có mối liên hệ tốt trong nội địa dể bù đắp sự thiếu hụt về nguồn lực và trao đổi
hàng hóa, cũng như tránh các vị trí bất lợi xảy ra tranh chấp, lấn chiếm, nơi chứa chấp các
hoạt động tội phạm. Trong mô hình không gian có một số loại hình cụ thể sau:


- Mô hình đường thẳng: Đây là mô hình có ưu điểm là một mặt giảm sự tập trung
cao về biên giới, một mặt có thể sử dụng kênh hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trên cơ sở
đường giao thông. Vì thế nó phải có các tuyến đường sắt, đường bộ hoặc đường sông, kèm
theo đó là các khu công nghiệp, đô thị, cảng biển ở mỗi bên với một cự ly hợp lý. Thông
thường, mô hình này được lựa chọn ở những nơi có lối mòn dân cư hai bên qua lại, do nhu
cầu trao đổi tăng, giao thông phát triển trở thành cửa khẩu. Đây là mô hình cơ sở cho các
mô hình khác (hình 1.1.a).
- Mô hình có quạt giao nhau ở cán: Là mô hình dựa trên cơ sở hai bên đã có hàng
loạt các đô thị, khu công nghiệp, các vùng sản xuất nông nghiệp có khoảng cách thích hợp
với đường biên giới, khoảng cách này được hình thành tự nhiên hoặc do quy ước giữa hai

bên, việc trao đổi hàng hóa tập trung về khu kinh tế theo đường giao thông gần nhất. Mô
hình này có tính tập trung cao về thương mại, còn gọi là khu thương mại tự do (hình 1.1.b).
- Mô hình quạt giao nhau ở cánh: Là mô hình được xây dựng dựa trên việc các
khu đô thị, khu công nghiệp tập trung, hàng hóa ở hai bên trao đổi phân tán ở nhiều cặp
chợ biên giới, thích hợp cho những nơi có địa hình bằng phẳng, đông dân cư (hình 1.1.c).
- Mô hình lan tỏa: Mô hình lan tỏa được sử dụng thích hợp dựa trên
cơ sở tập quán sinh hoạt của dân cư, phù hợp với các cặp chợ, thị trấn ven đường biên giới.
Sử dụng mô hình này sẽ tận dụng được các yếu tố tự nhiên, các công trình kết cấu hạ tầng
sẵn có hoặc do hai bên cùng hợp tác xây dựng (hình 1.1.d).


Hình 1.1.a: Mô hình
đường thẳng

Hình 1.1.c: Mô hình quạt
giao ở cánh

Hình 1.1.b: Mô hình quạt
giao nhau ở cán
Chú thích:
Khu kinh tế cửa khẩu:

Hình 1.1.d: Mô hình
lan tỏa

Đường giao thông đô thị

Khu công nghiệp:

Đường biên giới:


Hình 1.1: Một số mô hình khu kinh tế cửa khẩu
* Mô hình một khu kinh tế cửa khẩu: Mô hình này phải đảm bảo một số nguyên
tắc cơ bản như thuận lợi cho việc kiểm soát các phương tiện, người, hàng hóa qua lại, được
thiết kế chi tiết cho hai khu đô thị giáp nhau, đồng thời được phối hợp, hỗ trợ các công
trình công cộng gồm điện, nước, chiếu sáng, cây xanh, môi trường đảm bảo dịch vụ tốt cho
người lưu trú, hàng hóa, phương tiện quá cảnh. Có hai mô hình cụ thể:
- Mô hình đối xứng, được xây dựng trên sự thỏa thuận của địa phương hai nước có
đường biên giới chung và cặp cửa khẩu đối diện nhau. Mỗi bên xây dựng khu KTCK độc
lập, cạnh tranh cùng phát triển. Do đó chúng có những điểm bố trí tương đồng nhau về kết


cấu, bao gồm: Khu dân cư; khu thương mại và dịch vụ; khu vui chơi giải trí; khu sản xuất
và khu hành chính.

Khu sản xuất

Các cửa kiểm soát

Khu hành chính

Các cửa kiểm soát

Khu hành chính

Khu thương mại
và dịch vụ

Dải phân cách


Khu sản xuất

Khu thương mại
và dịch vụ

Sơ đồ 1.1: Mô hình khu KTCK đối xứng
- Mô hình đặc biệt, là mô hình liên kết giữa hai quốc gia, tạo ra vùng lãnh thổ đặc
biệt. Sự liên kết này dựa trên hiệp ước, theo đó chỉ ra vùng lãnh thổ hợp lý, có hàng rào,
không có dân cư sinh sống. Mô hình này có nhiều điểm tích cực khi hai bên cùng phối hợp
tốt, có khả năng thu hút đầu tư quốc tế, tuy nhiên cơ chế quy định trách nhiệm và lợi ích
mỗi bên cần rõ ràng để tránh mâu thuẫn.
Khu sản xuất
(công ty liên
doanh đầu tư

Các cửa kiểm

phát triển và kinh

soát

Khu hành chính

Khu thương mại
và dịch vụ

doanh hạ tầng
thuê đất)
Đường phân cách
Khu sản xuất

(công ty liên
doanh đầu tư
phát triển và kinh
doanh hạ tầng

Các cửa kiểm
soát

Khu hành chính

Khu thương mại
và dịch vụ


thuê đất)
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ khu KTCK đặc biệt
* Mô hình thể chế: Đây là phương thức để Nhà nước soạn thảo chính sách phù hợp
với thực tế hoạt động của khu KTCK ở các quốc gia có đường biên giới chung. Việc xây
dựng thể chế, chính sách phải đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, các hiệp định, thỏa
thuận song phương hoặc đa phương, truyền thống và tập quán, bản sắc văn hóa của mỗi
quốc gia. Đảm bảo giữ gìn hòa bình, cùng có lợi, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Chủ động cùng trao đổi với nhau những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc, tạo điều kiện tốt
nhất cho các doanh nghiệp, cư dân mỗi nước tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh.
Những thông tin về tình hình xây dựng cơ chế, chính sách phát triển khu KTCK mỗi nước
cần được trao đổi thường xuyên, cùng phối hợp điều chỉnh, thực hiện cho phù hợp. Các
nhóm thông tin cần thường xuyên trao đổi bao gồm:
- Khảo sát thực tế nguồn lực trong khu vực hai bên cùng quy ước: Điều kiện tự
nhiên; kinh tế, xã hội, văn hóa; dân tộc, tập quán, các thế mạnh và những hạn chế được bổ
sung.
- Những vấn đề về cơ chế, chính sách chung như đường lối, chủ trương, chính sách

của Nhà nước Trung ương và địa phương, những văn bản pháp lý gắn với việc xây dựng,
phát triển khu KTCK, cũng như những hiệp định, thỏa ước có liên quan.
- Các thông tin về chính sách thực hiện cụ thể trong hoạt động XNK, các biểu thuế
và thủ tục hải quan, thủ tục xuất nhập cảnh đối với người, phương tiện; những văn bản quy
định về đầu tư trong nước và nước ngoài vào khu vực KTCK, cũng như tất cả các biện
pháp bảo vệ an ninh, môi trường cho sự phát triển khu KTCK.
- Những văn kiện dự kiến đưa ra trao đổi, thỏa thuận và phân cấp hợp tác giữa hai
bên, các dự án phối hợp tiến hành cùng với những đối tác trực tiếp tham gia.
Do đặc điểm của khu KTCK, Nhà nước khoanh vùng một số khu dân dư, cho phép
thí điểm cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện để có một khu vực phát triển hơn, được
Trung ương phân cấp quản lý, trực tiếp chịu tác động của cơ chế, chính sách kinh tế biên
mậu quốc gia có đường biên giới chung. Do vậy, ở đây có sự giao thoa về cơ chế, chính


sách giữa Trung ương, địa phương và nước bạn. cũng vì lẽ đó, các cơ chế, chính sách cần
được xác định rõ ràng, công khai, tránh mâu thuẫn và triệt tiêu lợi ích của nhau. Trong
điều kiện kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, đầu tư của Nhà nước còn ít mà yêu cầu về sự
phát triển kinh tế ở đây đòi hỏi phải được đẩy mạnh hơn, vì vậy, trong một số năm đầu,
những nguồn thu từ lệ phí, thuế và các nguồn thu khác cần được dành lại một phần thích
đáng để đầu tư phát triển tại chỗ. Sau này khi điều kiện, khả năng cho phép sẽ tăng dần sự
đóng góp của khu KTCK cho ngân sách nhà nước [34, tr. 18-26].
Sự giao thoa thể chế, chính sách tại khu KTCK được biểu diễn dưới dạng mô hình
như sau:

Trong đó:
1 - Chính sách quốc gia.
2 - Quy định của địa
phương.
3 - Chính sách của nước
láng giềng có đường

biên giới chung.
4 - Thể chế kinh tế cửa

Sơ đồ 1.3: Mô hình thể chế
1.1.2. Vai trò của khu kinh tế cửa khẩu đến sự phát triển kinh tế - xã hội
1.1.2.1. Cơ sở lý luận về sự tác động của khu KTCK đến sự phát triển kinh tế xã hội
Xét về mặt lý thuyết, các khu KTCK được hình thành nhằm mục đích phát huy lợi
thế về quan hệ kinh tế - thương mại cửa khẩu biên giới, thu hút các kênh hàng hóa, đầu tư,
dịch vụ và du lịch từ các nơi trong cả nước, từ nước ngoài vào nội địa thông qua các cơ
chế, chính sách ưu đãi tại khu KTCK. Chính sự thu hút này đã làm cho các ngành, các địa
phương trong cả nước, tùy theo quy mô, sự hấp dẫn của cơ chế, chính sách ưu đãi mà thực
hiện sự chuyển dịch sản xuất, lưu thông hàng hóa cho phù hợp. Trong điều kiện của Việt Nam,
nông nghiệp hàng hóa đang cần mở rộng thị trường đầu ra, cần sự đầu tư và trình độ khoa
học - công nghệ tiên tiến. Những nhu cầu này sẽ được đáp ứng tốt nếu chúng ta biết sử
dụng, khai thác có hiệu quả mô hình KTCK. Đối với các ngành thuộc lĩnh vực công


nghiệp, dịch vụ và du lịch cũng có yêu cầu như vậy, thậm chí còn cao hơn, vì thế phải mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế để nhanh chóng hội nhập với các nước trong khu vực, trên
thế giới. Điều này càng có ý nghĩa đối với nền kinh tế hàng hóa chậm phát triển, thị trường
nhỏ hẹp, sức mua thấp, khả năng cạnh tranh còn yếu như nước ta.
Khu KTCK là nơi tiếp giáp, cửa ngõ của mỗi quốc gia với bên ngoài. Trong điều
kiện hòa bình, hữu nghị đây thường là nơi qua lại thăm thân nhân và diễn ra trao đổi, buôn
bán giữa dân cư biên giới hai nước, bên cạnh đó khi môi trường kinh tế phát triển thuận lợi,
khu KTCK cũng là nơi thể hiện sự giao thoa về các chính sách kinh tế đối ngoại của các
quốc gia có đường biên giới chung. Cho nên, những nhu cầu về kinh tế cả cho sản xuất,
tiêu dùng ở phạm vi hẹp, trực tiếp phục vụ cho nhu cầu tại chỗ của địa phương, vùng lân
cận. ở phạm vi rộng, nó sẽ trực tiếp đáp ứng nhu cầu của địa phương các vùng trong cả
nước thông qua sự luân chuyển các kênh hàng hóa từ khu KTCK đến các nơi và ngược lại
theo sự vận động của quan hệ cung cầu, sự mách bảo của giá cả trên thị trường đối với các

chủng loại hàng hóa trao đổi ở đây. Do đó, nếu phạm vi ảnh hưởng lớn khu KTCK càng
phát triển sẽ trực tiếp tác động tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phân công lao
động, làm cho thị trường được thông suốt trong cả nước, khai thác tối đa những tiềm năng,
thế mạnh của từng vùng thông qua lợi thế về vị trí, cơ chế, chính sách ưu đãi nhờ đó thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Trong những giai đoạn đầu, đối với một số tỉnh miền núi
biên giới phía Bắc - nơi có khu KTCK, còn góp phần đẩy nhanh xu hướng đô thị hóa, hình
thành những thị trấn, thị tứ, các khu thương mại dịch vụ...
Các ưu thế đảm bảo cho khả năng tác động của khu KTCK đối với kinh tế - xã hội
của một địa phương nói riêng, đất nước nói chung trước hết là ở chức năng riêng có của nó.
Khu KTCK bao giờ cũng được hình thành gắn với cửa khẩu. Tuy nhiên, không phải cửa
khẩu nào cũng có thể thành lập được khu KTCK, mà đó phải là những cửa khẩu thuận tiện
về đường giao thông, nằm ở nơi kinh tế phát triển, có kết cấu hạ tầng tốt hơn các nơi khác.
Ngoài ra, đây cũng là khu vực mà phía bạn cũng có những điều kiện thuận lợi, môi trường
thích hợp để phát triển giao lưu kinh tế, xã hội, văn hóa. Bởi vậy, các cơ chế, chính sách
ưu tiên ở khu KTCK phải hướng vào thúc đẩy trao đổi thương mại, dịch vụ, du lịch. Nhiều
nơi còn có những ưu đãi để phát triển thêm cả công nghiệp và nông nghiệp. Thực tế cho
thấy đây là mô hình kinh tế mới được hình thành ở Việt Nam, cho nên để nâng cao khả


năng tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi phải phát triển bản thân
mô hình này, làm cho nó phát huy đầy đủ chức năng, hiệu quả của các cơ chế, chính sách
ưu đãi. Mà yêu cầu phải là định hình rõ mô hình kinh tế mới với các chức năng nhiệm vụ
cụ thể. Đầu tiên là xác định các cơ chế chính sách thí điểm, tiếp đó là khẳng định trên thực
tế hiệu quả và tính đúng đắn của nó để thực hiện lâu dài, trên cơ sở đó thúc đẩy mối quan
hệ giữa kinh tế - xã hội với khu KTCK. Khu KTCK phát triển sẽ trực tiếp tạo ra nhu cầu,
khơi thông và đưa ra các tín hiệu để thông tin giúp cho các kênh hàng hóa, dịch vụ, du lịch
trong cả nước phát triển, nhờ đó kinh tế - xã hội của vùng (địa phương) cũng ngày càng
phát triển. Ngược lại, kinh tế - xã hội càng tiến bộ sẽ có điều kiện tạo ra nhiều loại hàng
hóa phong phú, giá thành rẻ, khả năng cạnh tranh cao đáp ứng nhu cầu giao lưu kinh tế thương mại cửa khẩu, từ đó quy mô, vị trí và tỷ trọng thương mại KTCK cũng tăng lên là
nền tảng thúc đẩy khu KTCK phát triển. Mối quan hệ này gắn bó chặt chẽ hữu cơ với nhau,

thúc đẩy nhau cùng phát triển nếu trong quá trình thực hiện biết xác định đúng mục tiêu,
khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế và đảm bảo sự hỗ trợ kịp thời về mặt pháp lý của Nhà
nước các cấp từ Trung ương đến địa phương
1.1.2.2. Vai trò của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu
* Thúc đẩy mở rộng thị trường và lưu thông hàng hóa
Khu KTCK phát triển tạo điều kiện để tỉnh Lào Cai và các địa phương khác trong
nước mở rộng thị trường XNK, giảm chi phí trung gian do đó nâng cao sức cạnh tranh
của hàng hóa, dịch vụ trao đổi. Khu KTCK Lào Cai thúc đẩy quá trình chuyển dịch nền
kinh tế tự cung tự cấp sang nền sản xuất hàng hóa, tạo ra sự phát triển ở các vùng để hình
thành nên một khu vực thị trường rộng lớn có khả năng thu hút và thâm nhập với các khu
vực thị trường khác. Sự phát triển của thị trường do khu KTCK tạo ra còn có tác động
thúc đẩy nhanh quá trình phân công lao động xã hội, tạo thêm những ngành nghề mới,
góp phần giải quyết việc làm cho hàng vạn người lao động không chỉ ở khu vực cửa khẩu
mà ở nhiều vùng lân cận. Trao đổi thương mại thông qua khu KTCK đã góp phần tạo ra
sự biến đổi mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế của khu, vùng và cả nước, đặc biệt là các tỉnh
thuộc hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng từ tình trạng sản xuất
tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa.


* Thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội vùng cửa khẩu
- Thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn: Khu KTCK nói chung, Lào Cai
nói riêng góp phần hiện đại hóa nông thôn và thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Thông qua
hoạt động của khu KTCK, các sản phẩm nông nghiệp có được thị trường tiêu thụ, hạ giá
thành, nâng cao chất lượng. Mặt khác, chúng ta sẽ có điều kiện nhập từ nước khác nhiều
thiết bị, vật tư, giống cây trồng, vật nuôi cần thiết, học hỏi được nhiều kinh nghiệm của họ
để phát triển nông nghiệp. Sự phát triển khu KTCK nói chung, Lào Cai nói riêng còn tạo
điều kiện thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn, tạo thêm nhiều ngành công nghiệp,
dịch vụ thu hút lao động nông nghiệp, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn của tỉnh, của vùng và cả nước.
- Thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp: Khu KTCK sẽ tạo môi trường thuận

lợi

để

thu

hút

đầu

tư,

chuyển

giao

công

nghệ,

khai

thác

hiệu

quả nguồn tài nguyên và nhân lực để phát triển các ngành công nghiệp địa phương cũng
như khả năng hợp tác để phát triển các ngành công nghiệp mới như bưu chính viễn thông,
công nghệ thông tin, các ngành chế tạo, công nghiệp chế biến.
- Quá trình phát triển khu KTCK sẽ tạo điều kiện cải thiện đáng kể hệ thống kết

cấu hạ tầng của tỉnh. Hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông, thông tin liên lạc... sẽ
từng bước được hiện đại hóa. Điều kiện kết cấu hạ tầng được cải thiện sẽ góp phần làm
cho thương mại phát triển, tăng sức đầu tư, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân.
- Mở rộng hoạt động du lịch: Phát triển khu KTCK sẽ tạo điều kiện để khai thác
tốt hơn tiềm năng du lịch. Khách du lịch nước ngoài sẽ có điều kiện tiếp cận với các trung
tâm du lịch của nhau, thông qua đó đến các khu du lịch khác trong tỉnh và cả nước.
- Góp phần tăng trưởng kinh tế: Trao đổi kinh tế thương mại ở khu KTCK góp
phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, vùng theo hướng phát triển
công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ, khơi dậy tiềm năng thế mạnh của tỉnh,
vùng, từ đó giảm bớt những khó khăn trong sản xuất kinh doanh, giúp địa phương và vùng
phụ cận cải thiện cơ bản tình hình kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự ra đời trong tương lai một
số trung tâm thương mại quan trọng. Hoạt động của khu KTCK còn tạo điều kiện để địa


phương thu hút đầu tư phát triển các ngành kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa,
phát triển các ngành dịch vụ. Kết quả những thay đổi nói trên bắt nguồn từ việc khai thác
có hiệu quả khu KTCK.
- Góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống vật chất, tinh thần, tạo thêm
công ăn, việc làm cho nhân dân địa phương.
Việc hình thành và phát triển khu KTCK thúc đẩy trao đổi thương mại, phát triển
ngành nghề sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế do đó kích thích tăng trưởng kinh tế và
thu nhập dân cư. Buôn bán tại khu KTCK cũng làm giảm bớt tỉ lệ đói nghèo, đời sống
nhân dân được nâng cao từng bước. Sự phát triển khu KTCK còn tạo điều kiện hình thành
các khu dân cư tập trung dọc biên giới, phát triển kết cấu hạ tầng, các tuyến đường giao
thông, hệ thống bưu chính viễn thông, hệ thống chợ, mạng lưới cung cấp điện... góp phần
cải thiện đời sống văn hóa tinh thần của dân cư, đẩy mạnh giao lưu kinh tế văn hóa, đẩy lùi
các tệ nạn xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng khu vực biên giới, thắt chặt tình hữu nghị
giữa hai nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
- Thúc đẩy quan hệ hợp tác về khoa học, đào tạo và các lĩnh vực khác: Phát triển

khu KTCK sẽ là cơ sở để thúc đẩy quan hệ hợp tác về khoa học, đào tạo. Cùng với việc
thực hiện các chương trình hợp tác kinh tế hai bên sẽ có điều kiện trao đổi nghiên cứu
khoa học, phối hợp đào tạo. Trong quá trình phát triển khu KTCK Lào Cai một vài năm
gần đây, việc hợp tác khoa học giữa Vân Nam và Việt Nam đã được đẩy mạnh một bước
trong các lĩnh vực kỹ thuật nông nghiệp, kỹ thuật chế biến sản phẩm, công nghiệp khai
thác tài nguyên và hương liệu thiên nhiên. Hợp tác kinh tế tại khu KTCK Lào Cai cũng tạo
điều kiện để hai nước Việt Nam - Trung Quốc tăng cường hợp tác văn hóa như tôn tạo,
bảo

tồn

các

khu

di

tích,

thắng

cảnh,

phát

triển

kết

cấu


hạ tầng du lịch như đường sá, khách sạn, dịch vụ y tế, khu vui chơi giải trí. Ngoài ra, hai
nước còn hợp tác trong việc bảo vệ môi trường, xã hội: sử dụng có hiệu quả tài nguyên
rừng, nước; ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường qua biên giới; hợp tác chống ma túy,
buôn lậu, gian lận thương mại; bảo vệ sức khỏe cộng đồng, ngăn ngừa các dịch bệnh lây
lan qua biên giới. Tuy nhiên, đi kèm với những vai trò tích cực do khu KTCK đem lại là
nhiều vấn đề xã hội nhức nhối như buôn lậu, ma túy, mại dâm, khoảng cách giàu nghèo...
ngày càng gia tăng


1.2. Sự cần thiết và những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển
khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai
1.2.1. Sự cần thiết hình thành và phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai
Trong vài thập niên đây gần qua, khu vực Châu á - Thái Bình Dương được đánh
giá là khu vực phát triển kinh tế thương mại năng động nhất với sự cất cánh kinh tế của
nhiều quốc gia. Khu vực này tập hợp nhiều cường quốc kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản,
Trung Quốc, Liên bang Nga và nhiều nước khác đang trong thời kỳ phát triển nhanh như
Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Newzeland...Tại đây đã hình thành nhiều tổ chức liên kết
kinh tế khu vực: Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC); Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam á (ASEAN); Khu vực Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA); Khu vực
Thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc. Những hình thức liên kết nói trên sẽ tạo thêm
điều kiện để các quốc gia trong khu vực tận dụng những cơ hội toàn cầu hóa đẩy mạnh
kinh tế - xã hội phát triển. Đồng thời tạo ra sức mạnh của khu vực trong việc cạnh tranh
với các khu vực khác. Nhiều dự báo cho rằng, thế kỷ 21, trung tâm kinh tế - thương mại của
thế giới sẽ chuyển sang châu á- Thái Bình Dương. ở khu vực Đông Nam á, quá trình hợp
tác kinh tế cũng diễn ra hết sức mạnh mẽ với việc thành lập khu vực Mậu dịch tự do các
nước ASEAN (AFTA), Hợp tác các nước tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS)...
Bối cảnh quốc tế thuận lợi nói trên là một trong những điều kiện để Việt Nam và
Trung Quốc tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại. Vì vậy, việc xây dựng
khu KTCK Lào Cai sẽ tạo điều kiện để hai nước mở rộng quan hệ hợp tác với các nước

trong khu vực và trên thế giới. Việc xây dựng khu KTCK Lào Cai là hết sức cấp thiết, đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao về hội nhập kinh tế quốc tế của hai nước, đặc biệt là yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của các vùng, địa phương cả nước. Sự cần thiết phát triển khu
KTCK Lào Cai bao gồm các nội dung:
Thứ nhất, khu KTCK Lào Cai được hình thành và đóng vai trò quan trọng trong
quan hệ giao thương giữa Việt Nam với vùng Tây Nam Trung Quốc đã từ bao đời nay bởi
cửa khẩu Lào Cai có vị trí rất đặc biệt.
- Cửa khẩu Lào Cai là lối mở ngắn nhất, thuận tiện nhất cho tỉnh Vân Nam nói
riêng, vùng Tây Nam rộng lớn của Trung Quốc nói chung để ra các cảng biển, nối với


vùng Đông Nam á và cả thế giới. Nếu đi bằng đường sắt từ thành phố Côn Minh (thủ phủ
tỉnh Vân Nam) qua Lào Cai về cảng biển Hải Phòng dài 854 km, trong khi đó tuyến đường
sắt nội địa ngắn nhất đi từ Côn Minh ra cảng Phòng Thành tỉnh Quảng Tây Trung Quốc
dài hơn 1.800 km. Tuyến đường bộ hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải
Phòng cũng là tuyến đường ngắn nhất, thuận tiện nhất trong vận chuyển hàng hóa XNK quá
cảnh từ Vân Nam đi Việt Nam, ra các nước thứ ba và ngược lại.
- Cửa khẩu Lào Cai - Hà Khẩu là cửa khẩu duy nhất giữa Việt Nam - Trung Quốc
hội đủ tất cả các loại hình vận tải: Đường sắt, đường bộ, đường sông và trong tương lai sẽ
có cả đường hàng không. Tuyến đường sắt Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng dài 854 km
được Pháp xây dựng trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 20 là tuyến vận tải ngắn nhất, hiệu
quả nhất. Hiện nay được xác định là tuyến đường xuyên á: Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội Thành phố Hồ Chí Minh. Tuyến đường bộ hành lang Côn Minh - Hải Phòng đi qua cửa
khẩu Quốc tế Lào Cai đã và đang là tuyến đường huyết mạch vận chuyển hàng hóa giữa
hai nước Việt - Trung. Tuyến đường sông Hồng - con sông cái của vùng đồng bằng Bắc
Bộ Việt Nam được bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam Trung Quốc, qua Lào Cai, về Hà Nội cũng
là tuyến giao thông quan trọng. Nếu được khai thông, nạo vét, tuyến giao thông này sẽ
đem lại hiệu quả to lớn trong việc vận chuyển hàng hóa, phục vụ du lịch cho cả hai bên.
- Cửa khẩu Lào Cai là cửa khẩu duy nhất ở phía Bắc Việt Nam nằm trong lòng
một thành phố trực thuộc tỉnh, nên có cả hệ thống dịch vụ của một thành phố phục vụ cho
nhu cầu giao lưu thương mại, XNK, quá cảnh và du lịch giữa hai nước. Đây là lợi thế rất

quan trọng của cửa khẩu Lào Cai.
Song song với những thuận lợi trên, đối diện với cửa khẩu Lào Cai là cửa khẩu Hà
Khẩu của cả vùng Tây Nam Trung Quốc rộng lớn, bao gồm 12 tỉnh, thành phố với diện tích
hơn 5 triệu km2, chiếm 60 % diện tích toàn Trung Quốc, dân số hơn 300 triệu người. Đây
là vùng miền núi, nhiều dân tộc, trình độ sản xuất và mức sống của nhân dân chưa phát
triển bằng vùng duyên hải Trung Quốc như: Quảng Đông, Phúc Kiến, Thượng Hải. Nhằm
cải thiện đời sống nhân dân, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa miền Đông
và miền Tây, những năm gần đây, Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành triển khai
chính sách "Đại khai phá miền Tây", với nhiều chủ trương, chính sách ưu đãi, tập trung
nguồn vốn lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế thương mại cho vùng này.


Nhu cầu về hàng hóa ở đây rất đa dạng, yêu cầu về tiêu chuẩn, chất lượng hàng hóa không
cao lắm, phù hợp với trình độ sản xuất hàng hóa hiện có của Việt Nam. Như vậy, Tây Nam
là một trong những thị trường giàu tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt Nam và việc
phát triển khu KTCK Lào Cai là tất yếu khách quan.
Thứ hai, xây dựng Khu KTCK Lào Cai là đòi hỏi của sự phát triển sâu rộng hợp
tác toàn diện kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng đang xây dựng, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, có mối quan hệ kinh tế, văn hóa từ lâu đời. Những
năm gần đây, quan hệ giữa hai nước đã bước vào giai đoạn phát triển mới với phương
châm đẩy mạnh hợp tác toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong đó hoạt động
mậu dịch được tăng cường đáng kể, nhất là sau khi Hiệp định Thương mại Việt - Trung
được ký kết (1996).
Quan hệ trao đổi hàng hóa giữa hai nước đã có bề dày truyền thống lịch sử lâu đời
mà chủ yếu xuất phát từ con đường biên mậu thông qua các cửa khẩu trên cơ sở lợi thế của
từng khu vực. Từ chỗ trao đổi tự nhiên các sản vật sẵn có, buôn bán biên giới Việt - Trung
qua các thời kỳ đã trở thành hoạt động thương mại ở nhiều quy mô. Sự hợp tác biên mậu
đã đạt được nhiều kết quả khả quan, mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai phía. Tuy nhiên,
với điều kiện hiện nay, quan hệ kinh tế thương mại Việt - Trung cần được nâng lên ở trình

độ mới. Chính phủ hai nước đã có những chính sách, cam kết, thỏa thuận mới thể hiện sự
quyết tâm đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, trao đổi kinh tế, mậu dịch biên giới cho tương
xứng với tầm quan hệ hai nước. Trong mối quan hệ này thì tỉnh Vân Nam và các tỉnh biên
giới phía Bắc Việt Nam đóng vai trò hết sức quan trọng. Thông qua các cửa khẩu tiếp giáp
với khu vực này là một thị trường rộng lớn đang phát triển của hai nước: Phía Trung Quốc
là khu vực Tây Nam, còn phía Việt Nam là khu kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng Quảng Ninh, toàn bộ vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hợp tác kinh tế thương mại của tỉnh Vân Nam
với Việt Nam có tính bổ trợ cho nhau rất lớn, năm 2000 trong số 95 nước và khu vực có
quan hệ thương mại với tỉnh Vân Nam, tổng kim ngạch XNK giữa Vân Nam, Việt Nam
đứng hàng thứ 6, đạt 100 triệu USD. trong đó kim ngạch XNK biên mậu của hai bên đạt gần
60 triệu USD, chiếm 60% tổng kim ngạch thương mại của tỉnh Vân Nam và Việt Nam [32,
tr. 35]. Chính vì vậy, việc hình thành, phát triển khu KTCK Lào Cai là hết sức cần thiết để


hai nước tăng cường hơn nữa hợp tác về thương mại, đồng thời tìm hướng mở rộng thị
trường ra các khu vực khác.
Thứ ba, phát triển khu KTCK Lào Cai phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực hiện đường
lối đổi mới của Việt Nam và đường lối cải cách, mở cửa của Trung Quốc.
Những năm gần đây, Chính phủ hai nước đều tăng cường hợp tác kinh tế thương mại
với các nước láng giềng thông qua việc mở cửa biên giới. Để thúc đẩy hoạt động biên mậu,
cả phía Việt Nam và phía Trung Quốc đã tiến hành ký kết nhiều hiệp định biên mậu với các
nước có chung đường biên giới. Ngoài việc thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế với khu vực,
mở cửa biên giới còn là chiến lược lâu dài của hai nước nhằm phát triển kinh tế ở các vùng
sâu, vùng xa tạo điều kiện để những vùng này theo kịp nhịp độ phát triển của cả nước và khu
vực.
Chiến lược mở cửa vùng Tây Nam nằm trong chiến lược phát triển kinh tế tổng thể
của Trung Quốc. Liên tục từ năm 1984 - 1992, Trung Quốc đã có một loạt các chính sách
mở cửa và ưu đãi đặc biệt với các vùng phía Tây Nam, Nam Hoa Nam Trung Quốc có
chung đường biên giới với Việt Nam bao gồm các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây. Trong chiến
lược đẩy nhanh phát triển kinh tế của Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình đưa ra tháng 2 năm
1992, một hướng quan trọng là xây dựng, phát triển các khu kinh tế mở đối với các nước

láng giềng. Cũng vào năm 1992, tại Hội nghị hiệp thương kinh tế của vùng Tây Nam, Thủ
tướng Quốc vụ viện Lý Bằng đã khuyến khích "các tỉnh, khu tự trị vùng Tây Nam liên hợp
lại, tăng nhanh nhịp độ cải cách, mở rộng cửa ngõ để bước vào Đông Nam á" [32, tr 36].
Về cơ bản, chiến lược mở cửa của Trung Quốc được thực hiện với phương châm phát triển:
"Mở cửa liên kết với bên ngoài, có chính sách ưu đãi, trao quyền tự chủ cho các địa
phương ven biên giới, lấy mở cửa hướng về Đông Nam á làm trọng điểm nhằm mở rộng
thị trường sang các nước láng giềng, trước hết là các nước Đông Dương, Mianma" [32, tr.
36]. Một điểm cần được nhấn mạnh trong chiến lược khai phá miền Tây Nam, Trung Quốc
hết sức coi trọng tuyến huyết mạch của vùng này qua cửa khẩu Lào Cai và cảng Hải Phòng.
Đây là cửa ngõ gần nhất để miền Tây Trung Quốc mở rộng trao đổi thương mại với khu
vực và các nước khác.


Chính sách phát triển các vùng núi phía Bắc cũng là một trong những chủ trương
lớn của Chính phủ Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010. Nhà nước ta xác định, vùng núi phía
Bắc có vai trò quan trọng trong quan hệ thương mại với Trung Quốc - một thị trường rộng
lớn đầy tiềm năng và có kim ngạch trao đổi thương mại ngày càng tăng với Việt Nam. Đây
cũng chính là cửa ngõ trên bộ thông thương với Trung Quốc. Hợp tác kinh tế giữa vùng
núi phía Bắc Việt Nam và Trung Quốc đã có lịch sử từ lâu đời và ngày nay được Chính
phủ Việt Nam xác định là hướng chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực này, tạo điều
kiện để thâm nhập sâu hơn vào thị trường Trung Quốc. Với chủ trương thúc đẩy hoạt động
biên mậu phát triển, tăng cường giao lưu kinh tế thương mại qua các cửa khẩu trên đất liền,
nâng cao đời sống của các dân tộc vùng núi phía Bắc, Chính phủ Việt Nam đã sớm nhận
thức được tầm quan trọng của chính sách mở cửa, dành ưu tiên đặc biệt cho vùng núi phía
Bắc. Một mặt nhằm rút ngắn sự chênh lệch về mức sống giữa các vùng núi phía Bắc với
các vùng khác trên cả nước. Mặt khác, tận dụng tối đa các điều kiện tự nhiên, vị thế địa lý
mà Tây Nam Trung Quốc không có nhằm khai thác các nguồn lợi, đóng góp vào sự nghiệp
phát triển chung của đất nước.
Như vậy, với định hướng chiến lược hai nước đã đưa ra thì việc hình thành và phát
triển khu KTCK Lào Cai sẽ thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại của hai nước, đồng thời

tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở những vùng miền núi khó khăn.
Thứ tư, phát triển khu KTCK Lào Cai góp phần phát triển Hành Lang kinh tế Côn
Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng.
ý tưởng về xây dựng hành lang kinh tế trong sự hợp tác tiểu vùng được nêu ra trong
bản kỷ yếu và bản tuyên bố chung phát biểu tại Hội nghị cấp Bộ trưởng tiểu vùng sông Mê
Kông tổ chức vào năm 1998 (Manila). Khái niệm "Hành lang kinh tế" đã được các bên hợp
tác ở tiểu vùng tiếp nhận, đang thực hiện với nhiều hình thức khác nhau. Hành lang kinh tế
Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng là tuyến hành lang phía Đông - một hành lang có
cự ly ngắn nhất, có nhiều thành phố lớn nhất, điều kiện giao thông tương đối tốt, nền kinh tế
khá sôi động nên có đủ thuận lợi để dẫn đầu trong việc xây dựng hành lang kinh tế. Việc xây
dựng kinh tế là một trong những định hướng hợp tác kinh tế tiểu vùng sông Mê Kông nhằm
thúc đẩy sự phát triển khu vực Đông Nam á được nhiều tổ chức quốc tế quan tâm tài trợ.
Ngoài việc phát triển mạnh kinh tế - xã hội vùng miền núi của cả hai nước, kết nối với các


×