Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Đề cương Tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.87 KB, 16 trang )

cau1: phan tich khai niem TTHCM va neu y nghia hoc tap doi vs sv hien nay?
Tư tưởng là sự khái quát hiện thực thông qua ý thức con người.
Một người xứng đáng là một nhà tư tưởng, theo Lênin khi người đó biết giải quyết
trước người khác tất cả những vấn đề chính trị sách lược, các vấn đề về tổ chức, về
những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự phát.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của đảng (4-2001) xác định rõ khá toàn
diện và hệ thống khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh. Văn kiện đại hội lần thứ IX
của đảng viết: “ tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của
sự vận dụng và phát trển sáng tạo chủ nghĩa Mác-lênin vào điều kiện cụ thể
của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, giảI phóng giai cấp giả phóng con người”
Trong định nghĩa này, Đảng ta đã bước đầu làm rõ được:
- Một là bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh: Đó là hệ thống các
quan điểm lý luận, phản ánh những vấn đề có tính quy luật của cách mạng VN; tư
tưởng HCM cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành
động của đảng và dân
tộc VN.
- Hai là nguồn gốc tư tưởng lý luận của tư tưởng HCM: chủ nghĩa Mác-Lênin, giá trị
văn hoá dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại.
- Ba là nội dung cơ bản nhất của tư tưởng HCM bao gồm những vấn đề có liên quan
trực tiếp đến cách mạng VN.
- Bốn là giá trị, ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của tư tưởng HCM: soi đường
thắng lợi cho cách mạng VN; tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc
**Bài học cho học sinh, sinh viên:
- Học sinh sinh viên cần rèn luyện đạo đức, tác phong theo tư tưởng của Người, cần


kiệm liêm chính, chí công vô tư.
- Học sinh sinh viên cần phấn đấu hết mình trong học tập theo lời dạy của Người
"Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang...."
- Yêu nước, thường nòi, đề cao các giá trị truyền thống... .


cau: 7 Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân? Liên
hệ đến vấn đề xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh trong giai đoạn hiện nay của
nước ta?

*) Phân tích quan điểm của HCM về xdung nhà nước của dân, do dân, vì
dân?
a) Nhà nước của dân
- Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là tất cả mọi quyền lực trong Nhà
nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân.
Điều 1 Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Năm 1946) nói: “Nước
Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,
giai cấp, tôn giáo”.
- Nhân dân có quyền quyết định những vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc
gia, dân tộc.
Điều 32 (Hiến pháp 1946 quy định: “Những việc liên quan đến vận mệnh quốc
gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết...”, thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý,
một hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta.
Hoặc khi dân bầu ra các đại biểu, uỷ quyền cho họ bàn và quyết định những
vấn đề quốc kế dân sinh, thì nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc
hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu họ không xứng đáng với sự tín nhiệm
của nhân dân.
- Nhà nước của dân th́ dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ,
có quyền làm những việc pháp luật không cấm và có nghĩa vụ chấp hành

nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, là người chủ cũng phải thể
hiện năng lực, trách nhiệm làm chủ của mình.
Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền
làm chủ của người dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa uỷ quyền
của dân, là “công bộc” của dân; phải làm đúng chức trách và vị thế của mình,
không phải đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên
rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”.
b. Nhà nước do dân
- Nhà nước phải do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình
Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt
động, vận hành bộ máy để phục vụ nhân dân.
Nhà nước đó do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ.
Nhà nước do dân tạo ra và tham gia quản lý, thể hiện ở chỗ:
+ Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà
nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.
+ Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng
Chính phủ (nay gọi là Chính phủ).
+ Hội đồng Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước, thực hiện


các nghị quyết của Quốc hội và chấp hành pháp luật.
+ Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện
ý chí của dân (Thông qua Quốc hội do dân bầu ra).
- Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào
dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của
nhân dân.
c. Nhà nước vì dân
- Đó là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân,
không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong
nhà nước đó, cán bộ từ chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân.

- Mọi hoạt động của chính quyền phải nhằm mục tiêu mang lại quyền lợi cho
nhân dân và lấy con người làm mục tiêu phấn đấu lâu dài.
- Hồ Chí Minh chú ý mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân dân với cán
bộ nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân uỷ quyền. Là
người phục vụ, nhưng cán bộ nhà nước đồng thời là người lãnh đạo, hướng
dẫn nhân dân. “Nếu không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực lượng. Nếu
không có chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường”. Cán bộ là đày tớ của
nhân dân là phải trung thành, tận tuỵ, cần kiệm liêm chính...; là người lãnh đạo
thì phải có trí tuệ hơn người, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi với dân,
trọng dụng hiền tài... Cán bộ phải vừa có đức vừa có tài, vừa hiền lại vừa
minh.
Hồ Chí Minh là người Chủ tịch suốt đời vì dân. Người tâm sự: “Cả đời tôi chỉ
có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của
nhân dân.


cau: 5 Anh (chị) hãy làm rõ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quan điểm về sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam?

Trả lời:
*) nêu các quan điểm của HCM về ĐCS VN ?
1. CM trước hết pải có Đảng CM
- Đây không pải là pát hiện mới của HCM mà Mac – Anghen Lenin đã khẳng
định từ trước
Tính tất yếu pải có đảng CM, sự cần thiết pải có Đảng CM, nhất thiết pải thành
lập ra Đảng CM vì : +) Xuất pát từ xứ mệnh lịch sử của giai cấp CN
+) Có ĐCS mới lãnh đạo được CM
- HCM : đến với quan điểm của Mac – Lenin người khẳng định: CM trước hết
pải có đảng CM để trong thì tổ chức vận động quần chúng nhân dân ngoài thì
liên lạc với vô sản giai cấp và bị áp bức khắp mọi nơi

Vì: +) Xuất pát từ yêu cầu cách mạng là đánh đuổi đế quốc và phong kiến
giành độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân cày. Vì thế pải có ĐCS để đề ra
đường lối lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ CM
+) Có ĐCS để giáo dục, giác ngộ nhân dân vì trình độ dân trí thấp và kẻ thù
xâm lược thực hiện chính sách ngu dân
+) CMVN muốn có được sức mạnh thì pải liên lạc đc với phong trào CMTG để
nhận sự giúp đỡ
+) Có ĐCS mới gắn kết chặt chẽ được phong trào CN với phong trào yêu nước
từ đó đảm bảo cho giai cấp CN có thể lãnh đạo được CM
2.ĐCSVN ra đời là sự kết hợp của CN Mac Lenin(yếu tố vật chất) – phong trào
CNTG (yếu tố tinh thần), phong trào yêu nước VN
- Mac – Anghen – Lenin chỉ ra quy luật chung sự ra đời của ĐCS đó là sự kết
hợp CN Mac Lenin(yếu tố vật chất) – phong trào CNTG (yếu tố tinh thần)
- HCM đi từ quy luật chung Người bổ sung thêm yếu tố phong trào yêu
nước →ĐCS VN ra đời theo 1 quy luật đặc thù CN MacLenin – pt CN – pt yêu
nước
HCM đưa thêm pt yêu nước vì:
+) Dân tọc VN có truyền thống yêu nước
+) Tự thân phong trào yêu nước cũng có khả năng tập hợp sức mạnh dân tộc
+) Có thêm phong trào yêu nước mới đảm bảo cho CMVN phát huy đc sức
mạnh và đảm bảo cho giai cấp công nhân lãnh đạo đc CM
3.ĐCS VN là đảng của giai cấp CN, của nhân dân lao động và của dân tộc VN
- ĐCS VN là đảng CM chân chính của giai cấp của nhân dân lao động đồng


thời cũng là Đảng của dân tộc VN
+) Trước hết ĐCS VN là Đảng mang bản chất của giai cấp CN. Biểu hiện trên
3 vấn đề:
1. Hệ tư tưởng của Đảng mang hệ tư tưởng của giai cấp CN


Giai cấp CN là giai cấp triệt để CM nhất vì họ bị bóc lột tài sản là sức
lđ nhưng lại bị bán cho nhà tư bản

Đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất

Có tinh thần quốc tế vô sản

Mang ý thức kỷ luật cao
2. Đường lối lãnh đạo của Đảng pá lập trường của giai cấp CN

Lập trường triệt để CM của giai cấp CN: đấu tranh không khoan
nhượng
3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng

Tuân thủ theo nguyên tắc của CN Mac – Lenin
Tập trung dân chủ : khắc phục bệnh cá nhân
Tư tưởng phê bình và tự phê bình

ĐCS VN là Đảng của nhân dân lao động và dân tộc : Đảng đại biểu
quyền lợi cho nhân dân lao động và dân tộc → nhân dân lao động coi
Đảng là của mình : +) tìm mọi cách để bảo vệ đảng
+) nhân dân lao động đóng góp tích cực vào qua quá trình xây dựng
Đảng
+) Nhân dân lao động coi Đảng là của mình. Vì vậy tìm mọi cách để
thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng
Ở HCM vấn đề giai cấp và dân tộc luôn gắn bó mật thiết với nhau tiến trình
CM → Đảng vừa mang bản chất của giai cấp CN, tính nhân dân, tính dân tộc là
tất yếu
4.ĐCS lấy CN Mac – Lenin làm cốt
Theo Bác “…chỉ có Đảng nào theo lý luận cách mạng tiền phong, Đảng CM

mới làm nổi trách nhiệm CM tiền phong”,”Đảng muốn vững pải có chủ chốt
5.ĐCS VN đc xây dựng theo nguyên tắc Đảng kiểu mới của CN Mac – Lenin
6.ĐCS VN cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành


của nhân dân
7.ĐCS pải đc chấn chỉnh thường xuyen..
cau:3 Qua nội dung quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, anh (chị) hãy cho

biết tại sao Hồ Chí Minh lại lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cho cách mạng
Việt Nam? Hiện nay để giữ vững mục tiêu chủ nghĩa xã hội chúng ta cần phải làm gì?
Trả lời:
- CNXH là chế độ do nhân dân lao động làm chủ. CNXH là do quần chúng nhân dân tự xây
dựng nên dưới sự lãnh đạo của Đảng. Có thể khái quát bản chất của CNXH theo tthcm: Chế
độ do nhân dân làm chủ; có nền kt phát triển cao, dựa trên lực lượng sx hiện đại và chế độ
công hữu về tư liệu sx; một xh phát triển cao về văn hóa, đạo đức; một xh công bằng, hợp lý;
là công trình tập thể của nhân dân do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- CNXH là nền KT phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và chế độ công hữu TLSX chủ yếu.
Nhiệm vụ quan trọng nhất là phát triển sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta.
Người viết:… “lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai
làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên trừ những người già cả, đau yếu và trẻ
em…”.
- CNXH là xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức. Hồ Chí Minh tiếp cận với CNXH bằng
cách xác định động lực xây dựng nó là phải gắn với phát triển khoa học kỹ thuật “nhằm nâng
cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân”. do quần chúng nhân dân tự xây dựng nên
dưới sự lãnh đạo của Đản
- Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân.
- Hồ Chí Minh tiếp cận bằng cách xác định mục tiêu của CNXH: không có người bóc lột
người, ai cũng phải lao động, có quyền lao động; thực hiện công bằng, bình đẳng… “là mọi
người được ăn no mặc ấm, sung sướng tự do”, “là đoàn kết, vui khoẻ”…

- CNXH là xã hội công bằng, hợp lý.
-CNXH là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của ĐCS.
Có thể khái quát bản chất của CNXH theo tthcm: Chế độ do nhân dân làm chủ; có nền kt
phát triển cao, dựa trên lực lượng sx hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sx; một xh
phát triển cao về văn hóa, đạo đức; một xh công bằng, hợp lý; là công trình tập thể của
nhân dân do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Câu 2: Phân tích nội dung của tt HCM về vấn đề dân tộc? (thieu lien he)
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan hệ chính trị, kinh tế, lãnh thổ, pháp lý, tư
tưởng &văn hóa giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc. Tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc bao gồm
những nội dung chủ yếu sau:
a) Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mọi dân tộc.
Đối với người dân mất nước cái quý nhất là độc lập cho tổ quốc, tự do cho nhân dân như lời Bác
trong tuyên ngôn độc lập đã viết: “…tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do...”. Tư tưởng về quyền dân tộc được giải phóng thể
hiện ngày càng rõ nét trong quá trình hoàn thiện đường lối cách mạng của Người:
- Năm 1919, người đã gửi tới hội nghị Vecxây bản yêu sách gồm tám điều, đòi quyền tự do, dân chủ
cho nhân dân Việt Nam. Bản yêu sách tập trung vào hai nội dung cơ bản là đòi quyền bình đẳng về chế độ
pháp lý cho người bản xứ ở Đông Dương và đòi quyển tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân.
- Tháng 5/1941 tại hội nghị lần 8 của ban chấp hành trung ương Đảng do HCM chủ trì đa nêu cao
vấn đề giải phóng dân tộc.
- Cách mạng tháng tám thành công HCM đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình khẳng
định rằng: “nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã thành một nước độc lập”.
- Khi đã giành được độc lập, tự do, Người khẳng định và quyết tâm lãnh đạo dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
b) Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập.
Ở các nước thuộc địa, các giai cấp có sự tương đồng: họ đều bị đế quốc thống trị, đều chịu chung số
phận của người dân mất nước.
Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền thống của dân tộc Việt

Nam: mỗi khi có giặc ngoại xâm, các lực lượng chính trị đều hướng mũi nhộn đấu tranh chống giặc ngoại
xâm. HCM đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc mà những người cộng sản phải nắm lấy và
phát huy.
“Phát động chủ nghĩa dân tộc, tập hợp mọi giai cấp, mọi lực lượng chính trị vào một mặt trận thống
nhất chống đế quốc”
c) Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và CNXH, chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế
• Lý luận của chủ nghĩa Mac – Lênin về kết hợp dân tộc với gia cấp:
- Vấn đề dân tộc ở thời đại nào cũng được nhận thức và giải quyết trên lập trường và theo quan
điểm của một gia cấp.
- Trong thời đại ngày nay, chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích của giai cấp mình
với lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
- Lênin phát triển trong điều kiện TBCN phát triển thành CNĐQ thì: “vô sản toàn thế giới và các
dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”
• HCM phát triển lý luận của Mac – Lênin:
Ngay từ khi lựa chọn con đường cách mạng vô sảnHCM đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc
và gia cấp, dân tộc và quốc tế, dân tộc và CNXH:
- Tư tưởng CM phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu
giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
- Độc lấp dân tộc gắn liền với CNXH là cho dân giàu nước mạnh, mọi người sung sướng, tự do:
“...chỉ có CNXH, CHCS mới giải phóng các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ...”.
- Việc phát triển đất nước tiến theo con đường XHCN đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc vì
chỉ có tiến lên CNXH thì nhân dân mình mới ngày một no ấm thêm, tổ quốc ta mới ngày một giàu đẹp
thêm.
- Độc lập cho dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập cho tất cả các dân tộc khác: “đấu tranh
cho dân tộc mình và các dân tộc


Nờu cao tinh thn dõn tc t quyt... v ngha v quc t...


Câu 4: .Anh (chi) hay cho biờt con ng v bin phỏp quỏ lờn Ch ngha xó hi
Vit Nam theo t tng H Chớ Minh?
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin thì có 2 con đờng quá độ lên CNXH
đó là con đờng trực tiếp từ những nớc t bản phát triển cao và con đờng gián tiếp ở những
mức chủ nghĩa t bản phát triển còn thấp.
Quan niệm của HCM về thời kỳ quá độ: Quan niệm của HCM về thời kỳ quá độ
xuất phát từ quan điểm Mác - Lê nin và không thể tách rời những quan niệm ngự trị trong
hệ thống CNXH lúc bấy giờ:
- HCM đã lu ý cần nhận thức tính quy luật chung và đặc điểm cụ thể của mỗi n ớc
khi bớc vào xây dựng CNXH: Nhng tuỳ hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đờng khác nhau.. có nớc thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi mới tiến lên CNXH..."
- HCM đã chú ý phân tích đặc điểm nớc ta, trong đó nhấn mạnh đặc điểm lớn nhất
là từ một nớc nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn
phát triển TBCN. Chính đặc điểm đó đòi hỏi chúng ta phải xác định đúng con đờng với
những hình thức, bớc đi và cách làm phù hợp: chúng ta phải tiến hành từng bớc. HCM đã
chỉ rõ những khó khăn phức tạp của việc nứoc ta quá độ lên CXH: Việt Nam là một nớc
nông nghiệp lạc hậu, công cuộc đổi xã hội cũ thành xã hội mới phức tạp, gian nan hơn
việc đánh giặc.
Theo Ngời, do những đặc điểm đó nên thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN có những
đặc điểm sau:
- Về độ dài của thời kỳ quá độ: Lúc đầu HCM cũng dự đoán chắc sẽ đòi hỏi ba,
bốn kế hoạch dài hạn Chỉ sau ít lâu Hồ Chí Minh điều chỉnh lại... Hồ chí Minh đã khẳng
định: thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử lâu dài, đầy khó khăn:
+ Đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã hội . Nó
đặt ra và đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau.
+ Đây là việc hết sức mới mẻ với Đảng ta, Xây dựng CNHX mới bao giờ cũng khó
khăn hơn phá bỏ xã hội cũ.
+ Sự nghiệp xây dựng CNXH nớc ta luôn bị các thế lực phản động tìm cách chống
phá.
- Về nhiệm vụ lịch sử: Ngời chỉ rõ phải cải tạo và xây dựng mọi mặt về chính trị,

kinh tế, văn hoá - xã hội.
+ Xây dựng nên tảng vật chất và kỹ thuật, xây dựng các tiền đề kinh tế chính trị
văn hoá t tởng.
+ Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp giữa cải tạo với xây dựng , lấy
xây dựng làm trọng tâm.
- Về nội dung xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ.
+ Trong lĩnh vực chính trị: Quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng, củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất lòng cốt là liên minh
công - nông.
+ Kinh tế: Tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hoá, phát
triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
+ Trong lĩnh vực văn hoá xã hội: Chú ý xây dựng con ngời mới.


LICH SU DANG
cau1:

Tại sao nói ĐCSVN ra đời là một tất yếu lịch sử của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ

XIX đầu thế kỷ XX?
TRẢ LỜI:
NHẬP ĐỀ (Mở bài):
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả của quá trình vận động hợp quy luật, của sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa ba yếu tố : chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam. Đảng ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và
đường lối cứu nước ở nước ta từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Sự kiện đó chứng tỏ giai cấp
công nhân nước ta đã trưởng thành " đủ sức lãnh đạo cách mạng'. Từ đây, giai cấp công nhân
Việt Nam đã có một bộ tham mưu của giai cấp và dân tộc lãnh đạo, đánh dấu sự chiến thắng của
chủ nghĩa Mác-Lênin đối với các trào lưu tư tưởng phi vô sản. Đảng ra đời mở ra một bước
ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam. Với cương lĩnh đúng đắn, Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu

đầu tiên cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, là nhân tố quyết định phương hướng phát
triển và đưa đến thắng lợi trong sự nghiệp giành độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ra đời,
cách mạng Việt Nam thật sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Kể từ
đây, cách mạng Việt Nam nhận được sự ủng hộ của cách mạng thế giới, đồng thời cũng đóng
góp to lớn cho cách mạng thế giới
NỘI DUNG:
+ Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử:
Từ năm 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, đến năm 1884 chúng đã thiết lập sự thống trị
trên toàn đất nước ta. Nhân dân ta rơi vào thân phận nô lệ, mất độc lập, tự do. Thực dân Pháp
đã thi hành những chính sách bóc lột và nô dịch phản động về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Việt Nam chuyển từ xã hội phong kiến độc lập sang xã hội thuộc địa nữa phong kiến.
Không chịu khuất phục, ngay từ khi Pháp xâm lược nhân dân ta từ Nam ra Bắc đã đứng lên
chống Pháp dưới ngọn cờ dân tộc của các sĩ phu yêu nước. Các phong trào yêu nước nổi lên
chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp như: phong trào Đông Du (1906 – 1908) do Phan Bội
Châu lãnh đạo; phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1908) do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền
lãnh đạo; phong trào Duy Tân (1906 – 1908) do Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp khởi xướng;
phong trào của Việt Nam Quang Phục Hội của Phan Bội Châu; phong trào của Việt Nam Quốc
Dân Đảng (1927) do Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Thái Học lãnh đạo… và còn nhiều cuộc khởi nghĩa
khác, nhưng đều bị đàn áp..
Tóm lại, các phong trào yêu nước Việt Nam chống Pháp từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nổi lên
mạnh mẽ, cổ vũ tinh thần yêu nước, căm thù giặc của nhân dân ta. Nhưng do không có đường
lối chính trị khoa học, tổ chức lỏng lẻo, không có cơ sở rộng rãi trong quần chúng nên đều thất
bại. Điều đó chứng tỏ sự khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu nước ở nước ta. Cách mạng Việt


Nam bức thiết đòi hỏi phải có lực lượng lãnh đạo tiên tiến, với đường lối cách mạng đúng đắn để
đưa cách mạng Việt Nam đi đến thành công.
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong hoàn
cảnh lịch sử ấy. Đó là một tất yếu của lịch sử.


Câu 5: Đánh giá những chủ trương phát động tổng khởi nghĩa
giành chính quyền của đảng cộng sản việt nam từ 1939 – 1945.?
- Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La (Hà Nội )
tháng 2.1943 chỉ r” sau 6.1941, tính chất chiến tranh thế giới thay đổi,
chiến tranh sẽ phức tạp, quyết liệt, tàn phá dữ dội; Liên Xô cùng phe dân
chủ sẽ thắng; Pháp - Nhật sẽ xung đột, phong trào cách mạng sẽ lớn
mạnh “có thể bỗng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao”. Nghị quyết
chủ trương mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật - Pháp, đặc
biệt chủ trương đặt mình vào tình thế khẩn cấp, gấp chuẩn bị khởi nghĩa,
tích cực tuyên tuyền, tổ chức tranh đấu, vận động các giới công vận, nông
vận, thanh vận, binh vận, phụ vận, vận động phú hào, dân tộc thiểu số,
chuẩn bị kế hoạch toàn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang sắp tới. “Quân
Anh - Mỹ - Trung Quốc sẽ vào Đông Dương diệt Nhật. Khi ấy ta phải lợi
đúng dịp tốt khởi nghĩa giành chính quyền đồng thời giao thiệp với Anh Mỹ - Trung Quốc để họ công nhận quyền tự do độc lập của nhân dân
Đông Dương và rút ra kh”i Đông Dương sau khi đã cùng ta đánh bại phát
xít Nhật- Pháp “.
- Nghị quyết này là bước phát triển mới và thể hiện sự nhạy bén chính trị,
tư duy đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta.
- Chỉ thị của Ban thường vụ Trung ương Đảng ngày 12.3.1945 “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ra đời trong bối cảnh Nhật
đảo chính Pháp 9.3.1945. Chỉ thị của Trung ương đã nhận xét tình hình,
chỉ r” nguyên nhân, tính chất và mục đích cuộc đảo chính Nhật - Pháp.
Các cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa chín muồi nhanh
chóng. Thời cơ tiền khởi nghĩa đã đến. Kẻ thù trước mắt, duy nhất là phát
xít Nhật. Nhiệm vụ của Đảng là phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước,
lãnh đạo toàn dân gấp rút tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền


trong cả nước. Đảng thay khẩu hiệu “Đánh đuổi Nhật - Pháp” bằng khẩu
hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”; mạnh dạn xuống đường đấu tranh với
khẩu hiệu “phá kho thóc để giải quyết nạn đói”; phương pháp đấu tranh là

chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa, duy trì và
mở rộng chiến tranh du kích. Trung ương dự kiến thời cơ tổng khởi nghĩa
khi quân Đồng Minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, đã bám chắc, tiến
sâu vào đất ta và quân Nhật đã kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng
Minh, để phía sau sơ hở. Trung ương còn cảnh báo tinh thần chủ động,
phải dựa vào sức mình là chính, không được ỷ lại để nếu quân Đồng Minh
chưa đổ bộ, cuộc tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi.
Cần tổ chức Uỷ ban quân sự cách mạng, tổ chức huấn luyện theo Chương
trình Việt Minh và sẵn sàng hưởng ứng quân Đồng Minh.
- Bản Chỉ thị ngày 12.3.1945 thể hiện sự nhạy bén, sáng suốt, chỉ đạo rất
kịp thời của Thường vụ Trung ương Đảng, khích lệ cao độ tinh thần vận
dụng sáng tạo của các cấp uỷ Đảng và cán bộ, đảng viên trong cao trào
kháng Nhật cứu nước và có tác dụng quyết định trực tiếp đối với thắng lợi
của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
- Nghị quyết của toàn quốc Hội nghị Đảng Cộng sản Đông Dương ngày
14,15.8.1945 ra đời trong bối cảnh tình thế cách mạng đã xuất hiện trực
tiếp trên đất nước ta... Nghị quyết chỉ r” tình hình thế giới và Đông Dương
và nêu ra các chủ trương lớn chỉ đạo khởi nghĩa giành độc lập như thành
lập Uỷ ban hành chính nơi ta làm chủ; tránh xung đột, giao thiệp thân
thiện với quân Mỹ, Anh, Tàu vào nước taẶ Đảng chủ trương tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ của Liên Xô, của nhân dân Pháp, nhân dân Trung Quốc;
lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp, Anh, Mỹ, Tưởng để tránh đối phó nhiều kẻ
thù một lúc; nêu các nhiệm vụ tuyên truyền cổ động, đặt Quốc ca và định
Quốc kỳ, quyết định nhiều nhiệm vụ tác chiến quân sự quan trọng.
- Nghị quyết Hội nghị toàn quốc của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng,
thể hiện trí tuệ sáng suốt, sự nhạy bén chính trị, tầm nhìn chiến lược và
quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân ta trước giờ phút quyết định
vận mệnh của Tổ quốc. Nghị quyết này của Đảng, sau đó là Đại hội quốc



dân Tân Trào (16.8) đã chuẩn bị cụ thể, trực tiếp cho thắng lợi của Cách
mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
- Hơn 60 năm đã trôi qua, kể từ khi các Nghị quyết trên của Đảng ra đời
chúng ta có nhiều suy nghĩ về phương pháp xây dựng nghị quyết Đảng.
Đó là các nghị quyết được xây dựng rất công phu, đúng đắn và sáng tạo.
Nội dung rất phong phú. Các nghị quyết đều phân tích kỹ hoàn cảnh lịch
sử trong nước, quốc tế, tương quan lực lượng cách mạng, tác động của
tình hình đó và dự báo sự phát triển của phong trào cách mạng. Quan
điểm và thái độ của Đảng ta trong đánh giá tình hình là thẳng thắn, đúng
sự thật. Nêu ra những chủ trương, chính sách lớn, khẩu hiệu, phương
pháp và hình thức tiến hành cách mạng. Quan điểm của Đảng là gắn bó
cách mạng Việt Nam, Lào và Cămpuchia, nhất quán chính sách đại đoàn
kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp cách mạng nước ta với cách
mạng thế giới. Đảng ta đều chú trọng việc xây dựng lực lượng cách mạng,
xây dựng và củng cố các mặt trận dân tộc thống nhất. Trong bối cảnh
phải tổ chức đấu tranh vũ trang và khởi nghĩa giành chính quyền, nghị
quyết của Đảng rất chú trọng tới đường lối và nghệ thuật quân sự, dự báo
thời cơ và tình thế cách mạng để bám sát và chuẩn bị kỹ khi thời cơ đếnẶ
Các nghị quyết Đảng đã phát huy tinh thần độc lập sáng tạo, kịp thời phát
hiện những vấn đề mới và uốn nắn những lệch lạc trong quá trình thực
hiện.
- Hiện nay toàn Đảng đang tiến hành Đại hội Đảng các cấp hướng tới Đại
hội X của Đảng. Việc tập trung trí tuệ tập thể các cấp uỷ Đảng, tất cả
đảng viên, các nhà khoa học và các tầng lớp nhân dân trong nước, ngoài
nước đang nghiên cứu, góp ý kiến vào các dự thảo các văn kiện của Đảng
bộ các cấp để trình ra Đại hội, xây dựng thành các nghị quyết mới có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Tinh thần của các nghị quyết đúng đắn, sáng
tạo dẫn tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 giúp chúng ta có
tinh thần trách nhiệm hơn trong việc xây dựng nghị quyết, hình thành
đường lối cách mạng trong thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước.


cau 7:
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt Nam ?

Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Phương thức lãnh đạo của Đảng thể hiện bằng quan
điểm, đường lối chính sách được thể chế hóa bằng pháp luật; bằng công tác tổ chức và
cán bộ; bằng kiểm tra, kiểm soát; bằng vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng
viên. Nhân Hội nghị Trung ương lần thứ tư, bài viết đề cập một vài vấn đề cốt lõi trong
công tác lãnh đạo của Đảng.
1. Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật
Thực tế đã minh chứng hùng hồn, từ ngày có Đảng, nhân dân ta từ thân phận nô lệ thành
người tự do. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã giành lại chủ quyền, độc lập, tự do cho
đất nước, dựng nên chế độ dân chủ cộng hòa, một chế độ mang lại quyền làm chủ thật sự
cho nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính lòng yêu nước, lực lượng, trí tuệ, và
trách nhiệm của nhân dân trước vận mệnh của Tổ quốc đã làm nên những thắng lợi có ý
nghĩa lịch sử trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc. Chính từ những ý kiến chân thành, tâm huyết của nhân dân, trực tiếp hay
gián tiếp đã giúp Đảng ta nhìn lại mình, từng bước khắc phục hạn chế và khuyết điểm, tiếp
tục giữ vững ngọn cờ lãnh đạo cách mạng. Sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với dân trước
vận mệnh của Tổ quốc đã giúp Việt Nam vượt qua cơn chấn động chính trị vào cuối thập
kỷ tám mươi, đầu chín mươi của thế kỷ XX; đưa Việt Nam vượt qua cơn khủng hoảng kinh
tế-tài chính trên phạm vi cả nước trong những năm cuối thập niên thứ nhất của thế kỷ XXI,
đảm bảo ổn định tăng trưởng kinh tế bình quân trong nhiều năm trên dưới 6%/năm. Chủ
quyền, lãnh thổ đất nước được bảo vệ vẹn toàn. Những thành tựu trong công tác đối
ngoại tiếp tục khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, giúp cho chúng ta thêm
sức mạnh tổng hợp, tạo ra thế và lực mới trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng hơn tám mươi năm qua trước hết thể hiện ở đường lối

khoa học, cách mạng và nhân văn. Đường lối, chủ trương của Đảng xuất phát từ thực tế
Việt Nam, từ nguyện vọng của nhân dân, thuận xu thế của thời đại, phù hợp quy luật
khách quan. Trong Đảng, nhiều cán bộ, đảng viên noi theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, thật sự “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, góp phần xây dựng
Đảng ta ngày càng trong sạch vững mạnh.
Bên cạnh những thành tựu to lớn không thể phủ nhận, với dũng khí của người cộng sản,
chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng, vẫn còn nhiều khuyết điểm đã ấp ủ từ lâu, khi có
điều kiện thuận lợi là có dịp nảy nở. Nhớ lại Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng sự
mẫn cảm chính trị, với tầm nhìn xa trông rộng, Người đã thấy trước những căn bệnh trong
Đảng sau khi kết thúc sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vì vậy Người dặn lại một công việc
cần kíp “trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ
đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”.
Cùng với thời gian, chúng ta quá “say sưa” với thắng lợi nên chưa làm được như lời Bác
dặn. Tư duy chủ quan đó tiếp tục in dấu ấn trong mười năm sau khi giải phóng miền Nam.
Đại hội VI thừa nhận: “Chúng ta vấp những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ
trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Khuynh hướng


chủ yếu của những sai lầm đó là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản
đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan, đó là khuynh hướng buông lỏng trong
quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và chính sách của Đảng.
Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa “tả khuynh vừa hữu khuynh”. Và cái gì đến sẽ đến. “Chúng
ta đã phải trả giá đắt để thu được những hiểu biết và kinh nghiệm ngày nay, và chúng ta
đã có bước trưởng thành”(1).
Trong quá trình đổi mới, chúng ta có Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây
dựng Đảng hiện nay”. Cuộc vận động này sau đó được Đảng ta đánh giá thu được một số
kết quả nhưng chưa đạt yêu cầu đề ra. Trong nhiệm kỳ Đại hội X, chúng ta có Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đại hội XI đánh giá: “Cuộc

vận động chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả
chưa cao, làm theo chưa đạt yêu cầu”(2).
Vấn đề cần nhìn thẳng vào sự thật ở đây là các nghị quyết của Đảng khi đánh giá nguyên
nhân chủ quan thường lặp đi lặp lại những cụm từ chung chung, từ Đại hội này sang Đại
hội khác. Đại hội X chỉ ra một trong những nguyên nhân chủ quan là “Một bộ phận cán bộ,
đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu
tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ. Những khuyết
điểm nói trên, trước hết thuộc trách nhiệm lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, trực
tiếp là của Bộ Chính trị. Ban Chấp hành Trung ương xin tự phê bình nghiêm túc về những
khuyết điểm của mình trước Đại hội và trước nhân dân”(3). Đại hội XI chỉ rõ: “Tình trạng
chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương chưa được khắc phục...
Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng không
nghiêm”. Về nguyên nhân chủ quan, Đại hội thừa nhận: “Năng lực, phẩm chất của một bộ
phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn bất cập. Ban Chấp hành Trung ương
xin tự phê bình trước Đại hội và trước nhân dân về những khuyết điểm, yếu kém đã làm
hạn chế những thành tựu lẽ ra có thể đạt được nhiều hơn”(4).
Cách phân tích nguyên nhân như vậy là một bước tiến bộ nhưng chưa đủ xung lực để xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
2. Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư, khóa XI đã có bước phát triển trong nhận thức
một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng. Tuy nhiên, với bản lĩnh, dũng khí của một
“Đảng đạo đức, văn minh”, của những người đứng đầu, chủ chốt, với tinh thần “sự gương
mẫu của Trung ương là cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa quyết định”, cần nhận thức sâu sắc,
đầy đủ, có tinh thần cách mạng và khoa học hơn nữa, nghiêm túc nói rõ sự thật hơn nữa
thì hy vọng mới có kết quả.
Theo Hồ Chí Minh, người lãnh đạo phải hiểu rằng, nhân dân là người bị lãnh đạo và có
quyền được biết về những thông tin Đảng đưa ra. Ta nói nhiều, nói đi nói lại bệnh “chạy”,
nhưng ai chạy, chạy ai, chạy đến cấp nào thì không có thông tin “người thật việc thật” nên
những người “chạy” vẫn đứng yên. Trong báo cáo của Đảng đã nói như vậy thì phải có số

liệu và phải có biện pháp giải quyết. Thực tế chúng ta chưa làm được điều này. Đại hội
nào, Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương cũng tự phê bình nghiêm túc trước nhân
dân, trước Đại hội, điều đó là cần thiết. Nhưng điều quan trọng hơn là nhân dân và đảng
viên cần được thấy, cùng với trách nhiệm tập thể thì phải có cá nhân chịu trách nhiệm.
Không thể lúc nào chịu trách nhiệm cũng là tập thể, còn thành tích là cá nhân. Tương tự,
chúng ta nghe quen những cách tự phê bình, nhận trách nhiệm của Chính phủ, bộ này, bộ
kia, nhưng kỳ lạ là không có cá nhân nào chịu trách nhiệm, và vì vậy cũng không có những
xử lý về những yếu kém trong Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, Chính phủ và
các bộ, ban, ngành. Chúng ta báo cáo như vậy trước nhân dân mà những người “chạy”
vẫn “bình an vô sự”, thì đó là một trong những lý do căn bản làm giảm lòng tin của nhân


dân đối với Đảng.
Đặc biệt, nếu chúng ta chỉ nhận thức khuyết điểm, yếu kém của Ban Chấp hành Trung
ương đến độ “đã làm hạn chế những thành tựu lẽ ra có thể đạt được nhiều hơn” thì đó
chưa phải là tinh thần Hồ Chí Minh. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta phải có dũng
khí thừa nhận rằng những khuyết điểm, yếu kém của đảng viên, cán bộ, đặc biệt của Ủy
viên Trung ương và Uỷ viên Bộ Chính trị, lãnh đạo cấp cao liên quan đến sinh mệnh của
Đảng, đến sự tồn vong của chế độ. Chế độ này còn hay mất, Đảng ta còn hay mất không
phải do các thế lực thù địch chống phá, mặc dù đó là sự chống phá hết sức quyết liệt nguy
hiểm, không thể chủ quan, xem thường, mà chính là do sự tha hóa của cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ cấp chiến lược, dẫn đến mất niềm tin của nhân dân với Đảng.
Tại sao các thế lực thù địch không tiến công phá hoại nhân dân ta mà chỉ xuyên tạc, vu
cáo Đảng ta, Nhà nước ta, hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta? Cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã từng lý giải: “Cần thấy hết tình hình, rút ra kết luận nghiêm khắc với ý chí cách
mạng tiến công. Bọn thù địch chống phá ta bằng “diễn biến hòa bình”, chúng biết nhân dân
ta là kiên cường không thể coi thường, chúng biết Đảng ta với chỗ mạnh và chỗ yếu có
thể khai thác. Chúng chờ cơ hội. Điều đáng sợ là “diễn biến hòa bình” từ nội bộ Đảng
ta”(5).
Nhân đây, phải nói rõ thêm xây dựng Đảng thực chất là xây dựng lòng tin của nhân dân

với Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân
chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”(6). Vì vậy, mọi giải pháp, biện pháp đưa
ra và thực hiện phải có tính hiệu quả cao. Nhân dân thấy rõ Đảng nói là Đảng làm, không
phải chỉ hô hào chung chung như sự việc diễn ra qua nhiều đại hội, nói không làm, nói
nhiều làm ít. Ví dụ, những tiêu cực, yếu kém đáng lo ngại trong Đảng như tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, chạy
bằng cấp, lãng phí, quan liêu, hư hỏng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể
cả ở cấp cao chưa được đẩy lùi, thậm chí ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng quan liêu
xa dân; những hành vi vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước như Đảng ta đã chỉ
ra thì phải xử lý nghiêm. Nếu lần này không thực hiện một cách quyết liệt những nhiệm vụ,
giải pháp đã đề ra, biến quyết tâm thành hiện thực trong công tác xây dựng Đảng với
những những kết quả cụ thể thì tiếp tục làm giảm, xói mòn, đi đến mất lòng tin của nhân
dân với Đảng. Mà mất lòng tin của dân là mất tất cả.
Tình trạng suy thoái, hư hỏng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả ở
cấp cao, xét đến cùng là sự tha hóa về văn hóa, tức là mất nền tảng tinh thần của xã hội.
Văn hóa có sứ mệnh khai sáng một dân tộc, soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo quốc
dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mọi thời kỳ phát triển của dân tộc đều có dấu ấn
của văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Văn hóa hiểu rộng cũng là chính trị. Chính trị hiểu
sâu cũng là văn hóa”(6). Những vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng thực chất là văn hóa.
Mà tha hóa về văn hóa là mất tất cả.
Hội nghị Trung ương lần thứ tư đặt ra câu hỏi: “Vướng mắc chính là ở chỗ nào”? Để trả lời
câu hỏi này, từ đó đưa ra những biện pháp tích cực, có hiệu quả, trước hết phải thấy rằng
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả cấp cao đã rơi vào vũng bùn của chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ, tệ hại. Đã rơi thì phải xử lý nghiêm tùy theo mức độ vi phạm. Còn
chưa rơi thì mới tự phê bình và phê bình để tránh rơi vào vũng bùn tệ hại đó. Như vậy,
cần phân biệt rõ người tốt, việc tốt và người xấu, việc xấu, hành vi và mức độ vi phạm. Vì
vậy, lần này nếu chỉ “tự giác, gương mẫu tự phê bình, kiểm điểm, nhìn lại mình, tự điều
chỉnh, cái gì tốt thì phát huy, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa mình” thì kết quả thu được
hết sức nhỏ nhoi. Tự phê bình và phê bình, nếu làm tốt là quy luật phát triển Đảng. Nhưng
chỉ có tự phê bình và phê bình không thôi thì cũng không thể đạt kết quả như mong muốn.

Hội nghị Trung ương, chỉ ra rất đúng là: “Đảng phải tự rèn luyện, tự củng cố, đổi mới,
chỉnh đốn; không ai có thể làm thay được”. Tuy nhiên, kinh nghiệm lịch sử Đảng cho thấy
trong những năm đổi mới, chưa có một cá nhân, tổ chức đảng nào tự nhận tham nhũng,
lãng phí, quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm. Thậm chí còn tranh công, đổ lỗi. Một số bộ,
ngành nhận khuyết điểm chung chung, không có địa chỉ, con người cụ thể. Mặc dù nhiều
hư hỏng, lãng phí trong xây dựng; tai nạn giao thông, tắc đường; mất vệ sinh an toàn thực


phẩm; buôn lậu; ô nhiễm môi trường, rất nhiều vấn đề kinh tế-xã hội gây bức xúc trong dư
luận và nhân dân nhưng không một cá nhân đứng đầu nào chịu trách nhiệm, cuối năm vẫn
nhiều đơn vị, cá nhân nhận huân chương, bằng khen. Nếu chúng ta chỉ làm theo kiểu kêu
gọi “tự gột rửa, tự sửa mình”, mà không có sự xử lý nghiêm theo kỷ luật Đảng và pháp luật
của Nhà nước thì mọi chuyện đâu lại vào đó.
Lần này, theo tinh thần quyết liệt của Trung ương, khi nói về người đứng đầu cấp ủy, tổ
chức đảng, cơ quan nhà nước, cần phải làm rõ ý thức trách nhiệm và tệ quan liêu. Đây là
hai nhân tố gốc đẻ ra tham nhũng, tham ô, lãng phí và mọi tiêu cực khác. Muốn trừ sạch tệ
tham nhũng, lãng phí, hư hỏng của cán bộ, trước hết phải tẩy sạch bệnh quan liêu và thói
vô trách nhiệm. Điều này, cho đến nay, trong hệ thống chính trị của chúng ta, hãy còn khá
xa lạ. Chưa có một cán bộ cấp trên nào chịu trách nhiệm về cán bộ cấp dưới của mình hư
hỏng. Nếu tư duy và cách làm này vẫn tiếp tục thì nhân dân khó có lòng tin vào những
điều chúng ta nói. Chúng ta phải thật sự thấu hiểu và lắng nghe dân nói. Chủ tịch Hồ Chí
Minh dạy rằng: dân nói mười điều thì một hai điều đúng là quý lắm rồi. Đảng không thể
xem thường dư luận và nhất định phải xử lý dứt điểm các vụ việc mà dư luận và nhân dân
quan tâm.
Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khoá XI) nhận thức rõ xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công
việc rất khó, rất phức tạp. Khó nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến sinh mệnh
của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Theo tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh, cần phải
nói thêm rằng “khó, dễ là tại mình”. Với tinh thần trách nhiệm rất cao và thống nhất cao về
sự cần thiết phải ban hành Nghị quyết của Trung ương “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay”, chúng ta có quyền tin tưởng những đột phá mới. Ra được Nghị

quyết lần này là việc làm có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, nhưng thực hiện được nghị
quyết mới là điều có ý nghĩa quyết định. Nhân dân đang rất chờ đợi, tin tưởng và kỳ vọng,
cùng với đón xuân năm mới Nhâm Thìn, bước vào năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại
hội XI, năm bản lề thực hiện kế hoạch 5 năm 2011-2015, Đảng ta sẽ có những kết quả cụ
thể, thiết thực trong công tác chỉnh đốn Đảng lần này. Nếu làm tốt những việc Nghị quyết
nêu ra, chắc chắn chúng ta sẽ được nhân dân ủng hộ, giữ trọn niềm tin của nhân dân với
Đảng. Đó chính là gốc rễ, là động lực giúp Đảng tiếp tục giữ được vai trò lãnh đạo cách
mạng. Ngược lại, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nếu không được lòng dân, thì dân oán. “Dân
oán, dù tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị, là thất bại”(7)./.
------------------------



×