Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tiểu luận hết môn nhận xét, đánh giá tình hình báo chí việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.37 KB, 20 trang )

Học viện Báo chí và Tuyên truyền
KHOA BÁO CHÍ
-----------o0o----------

TIỂU LUẬN MÔN BÁO CHÍ HỌC

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Nga
Người hướng dẫn: PGS.TS Tạ Ngọc Tấn
Lớp: Cao học Báo chí K16


Hà Nội, tháng 10 năm 2011
Trên cơ sở NQ TW5 khóa X, các văn kiện của ĐH XI của Đảng, anh chị hãy
nhận xét, đánh giá tình hình báo chí Việt Nam hiện nay, dự báo xu hướng
phát triển và trình bày quan điểm của mình về việc quản lý và sử dụng báo
chí nhằm phục vụ cho những mục tiêu chính trị của sự nghiệp xây dựng
phát triển đất nước trong thời gian tới.
1. Nhận xét, đánh giá tình hình báo chí Việt Nam hiện nay
Ở nước ta cũng như các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, hệ thống báo
chí do Nhà nước quản lý. Đây là nền báo chí được xây dựng và phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền báo chí này là thông tin nhằm
tích cực hóa đời sống tinh thần của nhân dân, làm cầu nối giữa Đảng Cộng sản
và nhân dân, đấu tranh xây dựng chế độ xã hội tự do, dân chủ, mang lại lợi ích
và sự phát triển của từng người trong sự hài hòa với lợi ích và phát triển của
toàn xã hội.
Trong năm năm đầu của thế kỷ 21, tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam có
những chuyển biến mạnh mẽ. Nhiều năm liền, tỉ lệ tăng trưởng GDP ở mức cao
trung bình 7%, đến năm 2005, đạt mức 8,4%. Không khí sôi động là đặc điểm
chung cho cả nước, đặc biệt là những đô thị trung tâm, phát triển năng động,
dẫn đầu là thành phố Hồ Chí Minh. Đây là điều kiện vô cùng thích hợp cho
những trào lưu đổi mới, cải cách để hội nhập. Với mong muốn vươn lên sánh


vai với các nước trong khu vực và thế giới, Việt Nam đang trong giai đoạn đọc
hiểu về mọi mặt trong thế giới, nắm vững các quy tắc, luật lệ của thế giới. Kinh
tế phát triển, đời sống của người dân được nâng cao, trình độ dân trí phát triển.
Người dân sẵn sàng đầu tư tiền của, thời gian cho việc tiếp cận thông tin, học
tập và vui chơi giải trí, đó là cơ hội dẫn đến sự phát triển tất yếu của báo chí truyền thông, theo đúng tinh thần: Báo chí đồng hành với sự phát triển kinh tế
đất nước. Cùng với tiến trình đổi mới toàn diện đất nước, nền báo chí Việt Nam
đã có bước phát triển mạnh mẽ, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

2


Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Khoá X họp tại thủ đô
Hà Nội từ ngày 5/07 đến 14/07/2007 đã tập trung thảo luận và giải quyết những
vấn đề hết sức có ý nghĩa trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của
nước ta giai đoạn hiện nay. Trước đòi hỏi của thực tiễn, Hội nghị xác định rõ:
Cần phải đổi mới mạnh mẽ cả nội dung, phương thức hoạt động và tổ chức bộ
máy trong các lĩnh vực trên để có thể thích ứng, phục vụ có hiệu quả cao hơn
nữa các mục tiêu lớn của cách mạng nước ta mà Nghị quyết Đại hội X của
Đảng đã xác định.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 về Công tác tư tưởng, lý luận và báo
chí trước yêu cầu mới đã nhấn mạnh và làm rõ vai trò chủ thể là sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng, lý luận, báo chí. Có nghĩa là: đó
chính là công tác của Đảng, không chỉ tăng cường, mà còn phải củng cố, đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả toàn diện của sự lãnh đạo đó.
- Nhấn mạnh và đặt công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu
mới. Ở đây, nội hàm cơ bản của "yêu cầu mới" được Bộ Chính trị xác định như
sau:
+ Công tác tư tưởng, lý luận, báo chí phải thích ứng và phục vụ có hiệu
quả cao nhất các mục tiêu lớn của cách mạng nước ta: sớm ra khỏi tình trạng

kém phát triển, đến năm 2020, về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
+ Công tác tư tưởng, lý luận, báo chí phải đáp ứng những đòi hỏi mới của
quá trình đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế sau khi chúng ta là thành viên của
WTO, nhất là yêu cầu phải bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng chính trị, giữ
vững bản sắc văn hoá trước sự xâm nhập ngày càng mạnh của các trào lưu,
khuynh hướng tư tưởng, văn hoá từ bên ngoài.
+ Trước những sự biến đổi phong phú, mau lẹ và phức tạp của đời sống
đất nước trên các lĩnh vực, trước âm mưu, thủ đoạn mới ngày càng tinh vi, xảo
quyệt của các thế lực thù địch trên mặt trận đấu tranh tư tưởng những năm sắp
tới, công tác tư tưởng, lý luận, báo chí phải đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương
thức hoạt động để đáp ứng những vấn đề mới, đòi hỏi mới.
Nếu coi báo chí là tấm gương phản chiếu xã hội thì tấm gương phản
chiếu xã hội ấy trong những năm qua ngày càng khách quan, trung thực. Theo
3


phát biểu Thứ trưởng Bộ TT&TT Đỗ Quý Doãn tại hội nghị toàn quốc triển
khai nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan báo chí năm 2010 thì : Năm 2009 và
những tháng đầu năm 2010, tình hình thế giới và Việt Nam có những diễn biến
phức tạp, song hầu hết các cơ quan báo chí đã bám sát thực tiễn, cung cấp thông
tin nhanh nhạy, đầy đủ, toàn diện về mọi diễn biến của đời sống chính trị, kinh
tế - xã hội ở trong nước cũng như quốc tế, đáp ứng tốt quyền được thông tin của
nhân dân. Thực hiện tốt chức năng là diễn đàn của nhân dân, báo chí đã góp
phần thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, kịp thời phát hiện những gương
người tốt, việc tốt, những điển hình tiên tiến. Đáng mừng hơn, số cơ quan báo
chí, phóng viên vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong năm 2009 giảm đáng kể so
với những năm trước.
Tại Việt Nam quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được quy định rõ
trong Hiến pháp, pháp luật, được tôn trọng và được bảo đảm trên thực tế, được

cộng đồng quốc tế ghi nhận. Hiến pháp nước Cộng hoà XHCNViệt Nam
(1992), Điều 69, ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có
quyền được thông tin;... theo quy định của pháp luật...”. Để đảm bảo cho quyền
được thông tin, tự do ngôn luận, tự do báo chí của mọi công dân được thực thi
trong cuộc sống theo quy định của Hiến pháp, Nhà nước ta đã ban hành các
luật, như: Luật Báo chí năm 1989 và được sửa đổi, bổ sung năm 1999 (sau đây
gọi là Luật Báo chí 1999); Luật Xuất bản năm 2001… Cùng với đó, Chính phủ
và các cơ quan chức năng đã ban hành những quyết định, nghị định, thông tư,
quy chế... về việc các cơ quan chức năng định kỳ thông tin với báo chí về tình
hình mọi mặt của đất nước. Cùng với xây dựng hành lang pháp lý để đảm bảo
cho báo chí phát triển đúng hướng, việc đào tạo, nâng cao trình độ, nghiệp vụ
báo chí cho những người làm báo luôn được Nhà nước ta hết sức quan tâm. Đến
nay, ở Việt Nam, các trường đào tạo nghiệp vụ báo chí cho những người làm
báo từ trung cấp, cao đẳng đến đại học, sau đại học không ngừng được mở
rộng, củng cố. Cơ sở hạ tầng, chương trình, nội dung dạy-học của hệ thống các
trường ngày càng tiên tiến, hiện đại, đảm bảo phục vụ tốt cho công tác đào tạo.
Hằng năm, các trường đã đào tạo được hằng trăm sinh viên có đủ phẩm chất,
năng lực, trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, sau khi tốt nghiệp, phần lớn đã phát
huy được vai trò trong các cơ quan báo chí phục vụ cho yêu cầu phát triển của
4


đất nước. Không chỉ vậy, Việt Nam còn thường xuyên mở rộng hợp tác quốc tế
để bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm làm báo. Những năm
gần đây, hằng trăm nhà báo được tạo điều kiện để giao lưu, tham quan, học hỏi
kinh nghiệm, bồi dưỡng nghiệp vụ ở các nước trên thế giới như: Mỹ, Pháp,
Đức, Nga, Thuỵ Điển, Trung Quốc… Đồng thời, để bảo vệ quyền lợi của các
nhà báo và giúp nhau nâng cao trình độ nghiệp vụ, Việt Nam đã có Hội Nhà
báo Việt Nam; các cấp Hội được tổ chức thành hệ thống chặt chẽ từ Trung
ương đến địa phương, thu hút gần 2 vạn hội viên. Hội Nhà báo Việt Nam là

thành viên của Hội Nhà báo quốc tế (OIJ) và Liên đoàn Báo chí ASEAN (CAJ).
Hội đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển của báo chí trong khu vực
và trên thế giới vì sự ổn định, hoà bình, hợp tác, phát triển và thịnh vượng.
Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân, những năm qua,
nền báo chí Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc về loại hình và số lượng cơ
quan báo chí, về kỹ thuật chế bản, phá thành, và đặc biệt là về nội dung, chất
lượng thông tin. Mỗi người dân Việt Nam hay bất cứ người nào quan tâm thực
sự đến Việt Nam đều thấy rõ, ở Việt Nam đã có đầy đủ các loại hình báo chí
(báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử). Tính đến tháng 3 năm 2011, Việt Nam
đã có 745 cơ quan báo chí, 24 nhà xuất bản, với 1.003 ấn phẩm (bằng cả tiếng
Việt và tiếng nước ngoài) từ Trung ương đến địa phương, của ngành, các lĩnh
vực chuyên ngành… Đây là hệ thống thông tin đa loại hình, đa phương tiện,
vừa có chức năng, nhiệm vụ tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; thông tin đầy đủ, chính xác mọi mặt
hoạt động của xã hội đến với nhân dân, vừa là diễn đàn của nhân dân, để nhân
dân bày tỏ tâm tư, nguyện vọng; đồng thời, tham gia phản biện, đề xuất ý kiến
về những chính sách kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh đối với Đảng, Nhà
nước, các tổ chức chính trị-xã hội hoặc xã hội-nghề nghiệp. Bằng trí tuệ và bản
lĩnh, gần 17.000 nhà báo (được Nhà nước cấp thẻ Nhà báo) cùng đội ngũ cộng
tác viên đã thường xuyên bám sát thực tiễn cuộc sống, có mặt trên mọi vùng,
miền của đất nước và một số địa bàn trọng điểm trên trường quốc tế để tổnghợp
tin tức, tình hình, phản ánh kịp thời, sinh động các lĩnh vực của đời sống xã hội
trong nước và quốc tế; cổ vũ công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
phát hiện, nêu gương các nhân tố mới, các điển hình tiên tiến, gương “người tốt,
5


việc tốt”… Đồng thời, thông qua hoạt động báo chí, những người làm báo Việt
Nam luôn tích cực đi đầu trong đấu tranh với các tệ nạn xã hội; phòng, chống
tham nhũng, quan liêu, lãng phí; đấu tranh, vạch trần những quan điểm sai trái

của các thế lực thù địch; tích cực đề xuất, phản biện một cách khoa học về
những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước;
góp tiếng nói vào việc xây dựng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc; củng cố, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; làm cầu nối hữu
nghị để mở rộng quan hệ của Việt Nam với bè bạn quốc tế; tạo điều kiện thuận
lợi cho các hãng thông tấn, cơ quan báo chí quốc tế hoạt động… Trên thực tế,
báo chí Việt Nam đã thực sự là một kênh thông tin, phản biện xã hội rộng rãi,
công khai, dân chủ, nhanh và có hiệu quả đến với các cấp chính quyền và mọi
tầng lớp nhân dân. Thông qua báo chí, đã có hàng vạn ý kiến của nhân dân
đóng góp ý kiến vào dự thảo văn kiện của các kỳ đại hội Đảng, mà gần đây nhất
là Đại hội XI; nhiều chủ trương, chính sách của các cấp chính quyền như: xây
dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc-Nam, xây dựng khách sạn ở Công viên
Thống Nhất (Hà Nội), xây dựng đường trục Hồ Tây-Ba Vì (Hà Nội), Luật Thủ
đô… thông qua báo chí, đã được nhân dân ta thảo luận, phản biện sôi nổi, dân
chủ.
Trong những năm qua, các cơ quan lãnh đạo, quản lý, cơ quan chủ quản
và cơ quan báo chí đã có nhiều cố gắng, nỗ lực, triển khai nhiều hoạt động thiết
thực và đạt được kết quả tích cực. Các cơ quan báo chí tiếp tục thể hiện rõ vai
trò là bộ phận tiên phong trong công tác tư tưởng của Đảng, tác động tích cực
đến đời sống xã hội, định hướng chính trị tư tưởng và dư luận, góp phần làm
cho nhân dân nhận thức đúng tình hình, đoàn kết, tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước và xu thế đi lên của đất nước ta.
Chính trong điều kiện phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách, báo
chí nước ta tiếp tục thể hiện phẩm chất tốt đẹp của báo chí cách mạng; nỗ lực
sáng tạo, đổi mới, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn; phát triển
về số lượng, loại hình, đội ngũ, phương tiện tác nghiệp; thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ chính trị được giao; tham gia tích cực vào những hoạt động báo chí
trong khu vực và quốc tế... Một số cơ quan báo chí tiếp tục trăn trở, tìm tòi và
thử nghiệm nhằm tìm ra mô hình hoạt động phù hợp trong điều kiện kinh tế thị
6



trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đã thu được những kết quả đáng ghi
nhận, đưa đến cho công chúng những sản phẩm, ấn phẩm, chương trình mới
mẻ, bổ ích... "Những nỗ lực và kết quả nêu trên cho thấy, báo chí không chỉ là
một bộ phận quan trọng, đi tiên phong trong công tác tư tưởng của Đảng, mà
còn có vai trò góp phần tích cực vào việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề
bức xúc của đất nước trong giai đoạn hiện nay"
2. Dự báo xu hướng phát triển
Chiến lược phát triển thông tin phải là một bộ phận quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, thông tin là công cụ cung cấp
tri thức, dự báo sự phát triển và là động lực thúc đẩy sự phát triển xẫ hội. Chiến
lược thông tin phải đánh giá được thực trạng thông tin ở nước ta, đưa ra được
các quan điểm chỉ đạo phát triển thông tin và mục tiêu phát triển thông tin đến
năm 2020 và những năm tiếp theo, các giải pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu
đó.
Trước đây, chúng ta có Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010, tuy
nhiên, với hoạt động đa dạng của báo chí hiện nay thì chúng ta cần tỉnh táo và
hoạch định một chiến lược thông tin dài lâu, mà nó phải đảm bảo được các yếu
tố chung:
• Phát triển thông tin theo cơ cấu, quy mô hợp lý, đáp ứng quyền được
thông in của nhân dân, theo kịp khả năng và trình độ phát triển thông tin
của các nước trong khu vực và quốc tế
• Phát triển đồng bộ và hiện đại các phương tiện thông tin đại chúng để
đảm bảo có thể phát thông tin tới toàn bộ dân cư, đặc biệt là dân cư ở
nông thôn, vùng sâuu, vùng xa, vùng miền núi, biên giới hải đảo…
• Khắc phục tình trạng thông tin thiếu cân đối, bảo đảm sự đồng đều về
phân bố, thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ thông tin của nhân dân giữa
các vùng miền.
• Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa một số khâu và công đoạn thuộc các lĩnh

vực và hình thức thông tin

7


• Chính sách khuyến khích cụ thể để việc hợp tác, liên doanh, liên kết với
nước ngoài trong lĩn vực thông tin tốt hơn, thu hút vốn đầu tư, kinh
nghiệm quản lý…
Trong giai đoạn toàn cầu hóa thông tin ngày nay, vũ khí quan trọng nhất
chính là thông tin, kiểm soát và tận dụng hiệu quả của thông tin thì quốc gia đó
sẽ tạo dựng được chỗ đứng cho mình trên trường quốc tế. Báo chí Việt Nam
cũng vận động và phát triển không nằm ngoài xu hướng phát triển chung của
báo chí thế giới trong xu thế toàn cầu hóa:
Qúa trình thương mại hóa báo chí và hình thành các tập đoàn báo chí vẫn
tiếp tục phát triển. Báo chí ngày nay sống nhờ nguồn thu từ quảng cáo. Bên
cạnh đó, các cơ quan báo chí đá tự đổi mới và biến mình thành như một tập
đoàn kinh tế, không chỉ hoạt động trong lĩnh vực báo chí mà còn lấn sân sang
các hình thức kinh doanh khác. Xu hướng thương mại hóa báo chí còn đặt ra
thách thức đối với người làm báo đó là: làm thế nào để không bị đồng tiền chi
phối tin tức… nhưng xem ra vấn đề này rất nan giải. Theo PGS.TS Tạ Ngọc
Tấn: “Việc xây dựng và phát triển các Tập đoàn báo chí ấy hầu như một con
đường tất yếu phải dẫn tới. Bởi vì đất nước chúng ta báo chí cũng áp dụng vào
nền kinh tế thị truờng, tất nhiên là có định hướng XHCN. Tuy nhiên là việc xây
dựng các Tập đoàn báo chí ở Việt Nam cũng cần xem xét ở tất cả mọi khía
cạnh để vừa đảm bảo chúng ta có tập đoàn báo chí truyền thông lớn mạnh,
đảm bảo những tập đoàn ấy có sức mạnh nhất định trong việc tác động vào đời
sống nhất định trong lĩnh vực truyền thông và cái quyền lực ấy góp phần vào
việc thực hiện đường lối, chính sách kinh tế - xã hội, quân sự, quốc phòng, an
ninh của Đảng, nhà nước một cách thắng lợi. Nhưng mặt khác các tập đoàn
này cũng phải đảm bảo được nó phát triển để trở thành những quyền lực về

mặt kinh tế hay nó tạo nên quyền lực lớn về mặt kinh tế, tức là nó vẫn là một
tập đoàn kinh tế.”.
Với sự phát triển của khoa học công nghệ, các tờ báo đã biến cơ quan báo
chí của mình thành một tờ báo đa phương tiện. Một tờ báo in giờ không đơn
thuẩn chỉ khai thác mỗi mảng báo in nữa mà đã phát triển các website đi kèm.

8


Trên đó không chỉ đăng các bài báo đã in trên báo in mà còn cập nhật những tin
mới, đăng tải clip hay các chương trình phát thanh online. Thông tin dưới nhiều
hình thức sẽ giúp cho khán giả có nhiều lựa chọn cho mình.
Báo chí công dân phát triển vừa góp phần đa dạng thông tin vừa cạnh
tranh với báo chí chính thống. Cái nhìn khách quan của khán giả sẽ tạo ra được
nhiều chi tiết hay, không bị ép buộc và lệ thuộc vào sức ép nào. Tuy nhiên nó
cũng đòi hỏi mỗi người cần phải có con mắt tinh tường để không bị ảnh hưởng
bởi những thông tin thiếu chính xác, hoặc vì mưu đồ riêng.
3. Thực trạng quản lý Nhà nước về báo chí
Theo quy định của Luật Báo chí năm 1999 (đã sửa đổi, bổ sung), cơ quan
quản lý nhà nước về báo chí gồm: cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung
ương (Bộ Thông tin và truyền thông); các bộ, cơ quan ngang bộ; cơ quan quản
lý nhà nước về báo chí ở địa phương (UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương)
3.1. Quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Luật Báo chí quy định, Bộ
Thông tin và truyền thông thực hiện chức năng quản lý nhà nước về báo chí
trên nhiều lĩnh vực, điển hình là các lĩnh vực sau:
3.1.1 Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và phát
triển sự nghiệp báo chí
Thời gian qua, hoạt động này được Bộ Thông tin và truyền thông thực hiện

nghiêm túc, đúng định hướng và sự chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị và Thủ tướng Chính phủ, “Bộ đã và
đang tiếp tục tiến hành rà soát chức năng, nhiệm vụ các cơ quan báo chí, xác
định những ấn phẩm chồng chéo về tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ,
không phù hợp quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 1999;
trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành “Chiến lược phát triển thông tin đến
năm 2010”... xây dựng quy hoạch hệ thống báo chí in toàn quốc”. Tuy nhiên,
việc quy hoạch làm không đều, liên tục. Thêm nữa, công tác quản lý nhà nước
về báo chí còn “thiếu chủ động trong định hướng chiến lược; chạy theo vụ việc,
lúng túng trong quy hoạch, sắp xếp”. Thực tế hoạt động báo chí hiện nay vẫn
9


tồn tại hiện tượng vừa thừa, vừa thiếu, nhất là tình trạng có nhiều tờ báo trùng
lắp về nội dung và thiếu ở chỗ nội dung một số mảng đề tài không được đề cập
đến, nhất là mảng đề tài về các ngành khoa học. Thừa, thiếu còn thể hiện ở việc
báo được xuất bản, phát hành phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở thành thị,
còn nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, nhân dân có rất ít báo
hoặc không có báo để đọc. “Nhiều cơ quan báo chí chỉ coi trọng địa bàn thành
phố, thị xã vì ở đó có thể phát hành được nhiều, còn các địa bàn khác không
được quan tâm đúng mức. Tình trạng đó dẫn đến mức hưởng thụ sách báo quá
chênh lệch giữa thành phố, thị xã và vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng
xa. Hiện nay, 75% báo chí chủ yếu phát hành ở thành phố, thị xã, vùng trung
tâm, còn 25% báo chí phát hành ở vùng nông thôn”.
3.1.2 Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
về báo chí
Từ năm 1999 đến nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đã chủ trì, phối hợp xây
dựng và trình Chính phủ ký ban hành, tự ban hành hơn 30 văn bản quy phạm
pháp luật trong lĩnh vực báo chí. Cùng với Luật Báo chí, các văn bản pháp luật
này bước đầu phục vụ có hiệu quả công tác quản lý báo chí. Tuy nhiên, với sự

phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và sự thay đổi nhanh chóng của
đời sống thì nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật này còn thiếu đồng
bộ, việc sửa đổi, bổ sung chậm được tiến hành. Với chức năng là cơ quan quản
lý cấp trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông chưa kịp thời, chủ động trong
việc tổ chức tập huấn triển khai nội dung các văn bản pháp luật cho cán bộ quản
lý của các sở; đề xuất, kiến nghị, xây dựng văn bản liên quan đến báo chí còn
hạn chế.
3.1.3 Thanh tra, kiểm tra hoạt động báo chí
Hoạt động thanh tra, kiểm tra báo chí đang ngày càng đi vào nề nếp. “Từ năm
1999 đến nay, Bộ đã tiếp nhận và giải quyết hơn 1.750 đơn thư khiếu nại, tố
cáo, phản ánh về những thông tin không chính xác trên báo chí do các cá nhân,
tổ chức trong cả nước gửi tới liên quan đến gần 1.000 vụ việc”. Một số nhà báo
lợi dụng uy tín nghề nghiệp làm trái với đạo đức, trách nhiệm của người làm
báo, vi phạm Luật Báo chí đã bị xử lý nghiêm bằng các hình thức: cảnh cáo,
tịch thu thẻ nhà báo, phê bình, khiển trách. Những người đứng đầu cơ quan báo
10


chí có người vi phạm, do buông lỏng quản lý cũng phải chịu những hình thức
kỷ luật đúng mức.
Lưu chiểu là một khâu quan trọng của quản lý nhà nước về báo chí nhằm thực
hiện chức năng kiểm tra trước khi cho lưu hành nhưng hiện nay, vẫn có một số
tạp chí không thực hiện nộp lưu chiểu hoặc lưu chiểu không đúng thời hạn theo
quy định của pháp luật. Điều đó dẫn đến việc phát hiện chậm các vi phạm, gây
không ít khó khăn cho quá trình xử lý và để lại hậu quả phức tạp. Hơn nữa,
“khối lượng công việc phải xử lý trong công tác quản lý nhà nước về báo chí
ngày càng nhiều và phức tạp, trong khi đó, đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu và
yếu, một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý trong tình
hình mới”.
3.2. Quản lý nhà nước về báo chí ở các bộ, cơ quan ngang bộ

Các bộ, cơ quan ngang bộ - với vai trò là cơ quan chủ quản báo chí - đã có
nhiều cố gắng trong công tác chỉ đạo, quản lý cơ quan báo chí thuộc quyền
trong việc thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch hoạt động; đồng thời tổ
chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí đảm bảo các tiêu chuẩn về chính
trị, nghiệp vụ. Nhiều cơ quan chủ quản báo chí đã chủ động xây dựng quy chế
quản lý cơ quan báo chí thuộc quyền, tạo điều kiện cho cơ quan báo chí hoạt
động đúng quy định, có sự rành mạch, thống nhất trong chỉ đạo, quản lý và
trong công tác phối hợp của cơ quan báo chí với các đơn vị liên quan thuộc Bộ
Thông tin và truyền thông.
Tuy nhiên trên thực tế, mối quan hệ giữa cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí
theo luật định chưa được thực hiện một cách rõ ràng, rành mạch. Nhiều trường
hợp cơ quan chủ quản buông lỏng vai trò, trách nhiệm của mình. Một số cơ
quan chủ quản không kiên quyết sáp nhập những tờ báo có tôn chỉ, mục đích
trùng lặp, hoặc không đình chỉ những cơ quan báo chí thiếu các điều kiện đảm
bảo cho tờ báo hoạt động bình thường, gây khó khăn cho việc quy hoạch hệ
thống báo chí cả nước… Tình trạng buông lỏng chỉ đạo, quản lý của một số cơ
quan chủ quản vẫn diễn ra. Không ít tờ báo xa rời tôn chỉ mục đích, chạy theo
mục đích thương mại, không chấp hành nghiêm túc sự chỉ đạo, quản lý của cấp
trên. Báo thuộc lĩnh vực này lại đưa tin về lĩnh vực khác, nhiều khi những sự
kiện lớn của ngành mình, lĩnh vực mình lại phản ánh rất mờ nhạt, nhưng cơ
11


quan chủ quản vẫn bỏ qua hoặc có nhắc nhở nhưng cơ quan báo chí không thực
hiện thì cũng không xử lý. Tiêu chuẩn, quy trình bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo báo
chí của nhiều cơ quan chủ quản thực hiện không chặt chẽ. Không ít cơ quan chủ
quản phó mặc cho cơ quan báo chí tuyển chọn phóng viên, cộng tác viên, thu
nhận cả những người không đủ tư cách đạo đức, chuyên môn vào làm báo. Có
cơ quan chủ quản sau khi xin ra số phụ đã khoán trắng cả về nội dung lẫn kinh
phí.

Vẫn còn hiện tượng cơ quan chủ quản bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo báo chí không
được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ. Một số cơ quan chủ quản báo chí không
thực hiện đúng quy trình bổ nhiệm, miễn nhiện cán bộ, không gửi văn bản thỏa
thuận tới cơ quan quản lý nhà nước. Một số cơ quan xin thành lập cơ quan báo
chí khi chưa đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật như: điều kiện về trụ
sở, trang thiết bị, nguồn tài chính, tổ chức bộ máy, cán bộ...
Một số cơ quan báo chí chấp hành sự chỉ đạo không nghiêm túc, thường xuyên
vi phạm hoặc có những vi phạm nghiêm trọng, Bộ Thông tin và truyền thông đã
nhắc nhở, phê bình nhiều lần nhưng cơ quan chủ quản không tích cực chấn
chỉnh, xử lý kỷ luật; hoặc xử lý không nghiêm.
3.3. Quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương
Trong thời gian qua, các Sở Thông tin và truyền thông đã chú trọng thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương. Các Sở cũng chú trọng
công tác tham mưu cho Tỉnh ủy, Thành ủy, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương về quy hoạch báo chí; soạn thảo mới, cụ thể hóa, hướng dẫn việc
thực hiện các văn bản pháp quy về báo chí trên cơ sở nội dung của Luật Báo chí
và Nghị định 51/2002/NĐ-CP; thực hiện tốt chức năng quản lý hoạt động của
các Văn phòng đại diện và phóng viên thường trú của báo chí trung ương và địa
phương khác trên địa bàn…
Tuy nhiên, công tác quản lý báo chí ở địa phương còn những mặt hạn chế.
Nhiều địa phương chưa có bộ phận, thậm chí chưa có cán bộ chuyên trách quản
lý báo chí, xuất bản. Trong công tác quản lý hoạt động phát thanh, truyền hình,
Internet - lĩnh vực có tính đặc thù, đòi hỏi phải có kiến thức về công nghệ, kỹ
thuật - trình độ, năng lực của cán bộ quản lý ở một số địa phương còn chưa đáp
ứng được yêu cầu; đa số địa phương chưa có kinh phí đầu tư trang thiết bị đáp
12


ứng yêu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của công tác quản lý. UBND và Sở
Thông tin và truyền thông một số tỉnh, thành phố chưa nhận thức hết vai trò,

trách nhiệm lãnh đạo, quản lý các đài phát thanh, truyền hình thuộc quyền quản
lý của mình. Một số địa phương, mặc dù có nhiều cơ quan báo chí, nhưng cho
đến nay vẫn không có tổ chức bộ máy hoặc cán bộ chuyên trách giúp UBND
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về báo chí. Một số địa phương thực hiện
việc xử lý vi phạm của cơ quan báo chí không nghiêm, có nơi không thực hiện
đúng thẩm quyền.
4. Nâng cao hiệu quả Quản lý Nhà nước về báo chí
4.1. Yêu cầu quản lý nhà nước về báo chí
Hoạt động báo chí của nước ta trong điều kiện hiện nay chịu các tác động: nhu
cầu thông tin và được thông tin; sự phát triển nhanh về kỹ thuật và công nghệ
truyền thông; nền kinh tế theo cơ chế thị trường... Những tác động trên đặt ra
một số yêu cầu đối với quản lý nhà nước về báo chí như sau:
- Quản lý nhà nước về báo chí phải bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, có quyền được thông tin của công dân theo quy định tại Điều 69 của Hiến
pháp năm 1992 và các văn bản luật có liên quan, nâng cao trách nhiệm xã hội
của báo chí, đáp ứng nhu cầu thông tin của xã hội tốt hơn.
- Quản lý về báo chí phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, quản lý của nhà nước và trong khuôn khổ của pháp luật.
- Phát triển báo chí phải đi đôi với quản lý chặt chẽ, có hiệu quả toàn bộ hệ
thống báo chí cũng như từng cơ quan báo chí. Thời kỳ mới đặt ra những yêu
cầu mới của hoạt động báo chí. Tuy nhiên, trước tác động của cơ chế thị trường,
mọi hoạt động của báo chí luôn đối mặt với nguy cơ tự phát. Do vậy, lãnh đạo,
quản lý báo chí phải đặc biệt quan tâm đến những đặc điểm của tình hình mới,
phòng ngừa và hạn chế tiêu cực. Bên cạnh đó, cũng cần đề phòng khuynh
hướng nhân danh sự lãnh đạo, quản lý để bóp nghẹt sức năng động, sáng tạo
của các cơ quan cũng như cá nhân nhà báo. Quản lý chặt chẽ chính là điều kiện
bảo đảm cho báo chí phát triển đúng quy hoạch, phù hợp quy mô, số lượng,
tránh lãng phí. Nhưng báo chí là một bộ phận thuộc lĩnh vực sáng tạo văn hoá,
13



tinh thần, rất cần những khoảng trống riêng như V.I.Lênin đã từng nhấn mạnh.
Do vậy, quản lý báo chí đòi hỏi phải vừa mềm dẻo, vừa nguyên tắc mới có thể
đạt hiệu quả mong muốn.
- Quản lý nhà nước về báo chí phải bắt kịp trình độ phát triển cao của phương
tiện kỹ thuật, công nghệ truyền thông hiện đại. Bản thân sự quản lý phải chứa
đựng hàm lượng công nghệ cao và đội ngũ cán bộ quản lý phải hiểu và sử dụng
được. Điều này kéo theo việc các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành
có khuôn khổ pháp lý phù hợp với nhiều yêu cầu, trong đó có yêu cầu về kỹ
thuật, công nghệ truyền thông.
- Quản lý nhà nước và pháp luật về báo chí phải phù hợp với cơ chế vận hành
trong điều kiện kinh tế thị trường. Pháp luật phải điều chỉnh kịp thời những tác
động của thị trường, quy luật cung cầu. Báo chí đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu
của quần chúng nhưng điều đó không được dẫn đến khuynh hướng thương mại
hóa một cách tràn lan và sự lũng đoạn của đồng tiền đối với báo chí. Nhu cầu
thông tin và được thông tin cần có sự giao lưu quốc tế. Sự giao lưu này ngày
càng mở rộng, nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên WTO.
Pháp luật về báo chí phải phù hợp với các chuẩn mực và cam kết mà Việt Nam
ký kết hoặc tham gia.
4.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí
Để góp phần khắc phục sự yếu kém về mặt quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo
chí, chúng tôi xin nêu lên một số giải pháp sau:
4.2.1 Xây dựng quy hoạch phát triển báo chí phù hợp
Phương châm chỉ đạo quan trọng của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt động
báo chí là “phát triển đi đôi với quản lý tốt”. Sự phát triển này không chỉ đơn
thuần là tăng về mặt số lượng mà còn bao gồm cả mở rộng quy mô, phạm vi tác
động và nâng cao chất lượng thông tin. Việc tiếp tục mở rộng quy mô của báo
chí trong phạm vi toàn xã hội là một yêu cầu tất yếu. Xã hội luôn phát triển, dân
trí ngày càng cao, nhu cầu thông tin, giao tiếp tăng lên. Chính thực tiễn xã hội
đòi hỏi mở rộng quy mô thông tin của từng cơ quan báo chí cũng như sự ra đời

của những tờ báo, bản tin, tạp chí, chương trình phát thanh, truyền hình mới.
Tuy nhiên, việc mở rộng quy mô này phải phù hợp với quy hoạch, chiến lược
phát triển báo chí, tránh tình trạng chồng chéo, vay mượn nội dung bài vở...
14


Hiện nay, chúng ta đã có Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010. Tuy
nhiên, hoạt động báo chí trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong
quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và nhất là sự bùng nổ của thông
tin toàn cầu... đang đặt ra những yêu cầu mới về quy hoạch báo chí; đòi hỏi
chúng ta phải xây dựng chiến lược phát triển thông tin lâu dài cho đất nước.
Chiến lược này phải là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của quốc gia. Chiến lược thông tin phải đánh giá được thực trạng
thông tin ở nước ta, đưa ra được các quan điểm chỉ đạo phát triển thông tin và
mục tiêu phát triển thông tin đến năm 2020 và những năm tiếp theo, các giải
pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu đó.
4.2.2 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về báo chí
Chất lượng, hiệu quả quản lý xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
phụ thuộc rất nhiều vào mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Vì vậy, yêu
cầu về một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ trong lĩnh vực báo
chí là hết sức cần thiết.
Chúng ta cần thấu suốt quan điểm: điều chỉnh hoạt động báo chí thông qua định
hướng của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước, vừa bảo đảm sự chặt chẽ
trong quy định, chế tài, vừa bảo đảm sự thông thoáng cho nhà báo và các cơ
quan báo chí phát huy tính năng động, sáng tạo.
Qua 19 năm thi hành Luật Báo chí, một số điều quy định của Luật như quy định
về các loại hình báo chí, quảng cáo trên báo chí, lưu chiểu, cải chính trên báo
chí, tài chính báo chí... đến nay đã không còn phù hợp. Vì vậy, pháp luật báo
chí cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật báo chí cần hướng vào các nội dung sau: Thứ

nhất, cụ thể hoá, chi tiết hoá các điều khoản quy định. Thứ hai, xác định rõ
trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động báo chí. Thứ ba, rà soát, bổ
sung những vấn đề mới do thực tiễn và sự phát triển của báo chí đặt ra. Thứ tư,
bảo đảm quyền tự do báo chí của công dân.
4.2.3 Hoàn thiện chế độ chính sách và đầu tư thích hợp đối với lĩnh vực báo chí
Chế độ, chính sách đối với lĩnh vực báo chí trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường là một vấn đề lớn cần được xem xét, giải quyết cả về lý luận và thực
tiễn. Thời gian qua, chúng ta đã có những bước chuyển biến nhất định trong
15


việc thực hiện chế độ chính sách mềm dẻo đối với báo chí. Tổng biên tập được
tự chịu trách nhiệm xây dựng giá báo phù hợp với giá thị trường, sức tiêu thụ và
yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị; các cơ quan báo chí chủ động trả nhuận bút
phù hợp với yêu cầu nâng cao chất lượng, động viên tác giả trong khuôn khổ
quỹ nhuận bút quy định; khuyến khích mọi năng lực phát hành báo chí, kể cả
phát hành ra nước ngoài; cơ quan báo chí chủ động kêu gọi các hình thức quảng
cáo và tài trợ báo theo luật định... Tuy nhiên, các chế độ, chính sách đối với báo
chí vẫn còn lạc hậu, chưa theo kịp sự phát triển hoạt động báo chí. Do vậy, cần
khẩn trương rà soát để bổ sung, sửa đổi một số chính sách, chế độ báo chí như:
lương báo chí, thuế, nhuận bút, chính sách tài trợ, giá, quảng cáo. Nhà nước
cũng cần có kế hoạch khảo sát, nghiên cứu các hình thức hoạt động kinh doanh
của các cơ quan báo chí lớn để có chính sách khuyến khích các hình thức kinh
doanh phù hợp, tạo nguồn thu, tăng cường cơ sở vật chất đồng thời thực hiện
đúng nghĩa vụ với Nhà nước.
Hiện nay, Nhà nước vẫn đầu tư khá lớn cho báo chí với cơ cấu ngân sách gồm:
ngân sách nhà nước cho phát thanh, truyền hình, báo in, báo điện tử. Trong đó,
phần đầu tư cho phát thanh, truyền hình là lớn nhất do các phương tiện trang
thiết bị ban đầu rất đắt tiền. Trong tương lai, phần đầu tư cho báo điện tử cũng
đòi hỏi lượng ngân sách khá lớn. Thực tế, đa số các báo, đài đều hoạt động dựa

vào ngân sách. Nhà nước vẫn nên cấp ngân sách nhưng cần tính toán rõ các tiêu
chí: mức trợ cấp, đối tượng, thời gian, trợ cấp không hoàn lại hoặc cho vay ban
đầu với lãi suất thấp... để báo chí hoạt động đúng pháp luật, đúng định hướng,
có hiệu quả. Tăng cường đầu tư cho các báo địa phương vùng sâu, khó khăn; có
chính sách để tăng cường xuất bản và phát sóng thêm các đài bằng thứ tiếng của
các dân tộc thiểu số để chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến được
với đồng bào các dân tộc. Tựu chung lại, Nhà nước cần có chính sách tài chính
quốc gia, huy động được các nguồn lực tài chính phục vụ cho hoạt động phát
triển thông tin; có chính sách và đầu tư thích hợp đối với hoạt động báo chí, đầu
tư đủ, đúng trọng điểm đối với những cơ quan báo chí xứng tầm, cần thiết.
Hoạt động báo chí là một nghề vất vả và nguy hiểm. Quyết định chất lượng nội
dung của một tờ báo là tổng biên tập và các nhà báo, vì vậy, Nhà nước cũng
phải tính đến chính sách, chế độ hợp lý đối với nhà báo. Chính sách ưu đãi phải
16


bảo đảm các điều kiện và phương tiện để các nhà báo hiểu biết về chủ trương,
chính sách, tiếp cận với thực tiễn; tạo điều kiện cho các nhà báo hoạt động hiệu
quả, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo trong quá trình viết báo; đề cao trách
nhiệm chính trị - xã hội; có chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với những nhà báo tài
năng, có cống hiến xuất sắc cho đất nước.
4.2.4 Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quản lý nhà nước về báo chí
Mỗi quốc gia có điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội khác nhau nên có
sự khác nhau trong hoạt động và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về báo chí.
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập toàn cầu, hoạt động báo chí cần phải đáp ứng
yêu cầu thu hẹp sự khác biệt về công nghệ, trình độ nghiệp vụ.... với các nước
trong khu vực và thế giới. Sự hợp tác quốc tế về quản lý báo chí phải bảo đảm
vừa phát triển quan hệ, nhanh chóng hội nhập vừa bảo đảm chủ quyền, độc lập
dân tộc, bình đẳng, các bên cùng có lợi. Trước hết, cần tổ chức thực hiện tốt các
văn bản quốc tế quan trọng có liên quan như: Công ước toàn cầu về Luật bản

quyền, Công ước Brussels về phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền
qua vệ tinh, Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật...
Chủ động xây dựng các kế hoạch khảo sát kinh nghiệm quản lý báo chí ở một
số nước trên thế giới; tham dự các hội nghị quốc tế liên quan đến báo chí như:
Diễn đàn xã hội thông tin, Diễn đàn Liên hiệp quốc về quản lý Internet, các hội
nghị Bộ trưởng Thông tin các nước ASEAN; tham gia các hoạt động chống
khủng bố, chống tệ nạn xã hội, xoá đói giảm nghèo, vì môi trường sống, vì hoà
bình và trực tiếp tham gia vào các tổ chức báo chí khu vực và quốc tế vì các
mục đích trên.
4.2.5 Nâng cao chất lượng và hiệu quả bộ máy quản lý
Thứ nhất, cần xây dựng các quy định cụ thể, rõ ràng nhằm điều chỉnh tốt hơn
chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp giữa Bộ Thông tin và truyền thông với
các bộ, ngành có liên quan.
Thứ hai, ở địa phương, cần xây dựng các quy định mới và cụ thể hơn để tổ chức
lại bộ máy quản lý nhà nước cũng như để nâng cao vai trò của các Sở Thông tin
và truyền thông.
Thứ ba, triển khai áp dụng phương tiện kỹ thuật và công nghệ quản lý hiện đại
vào hệ thống quản lý nhà nước về báo chí. Với một đội ngũ cán bộ, nhân viên
17


thiếu, trình độ có hạn, đầu việc nhiều thì đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ
thông tin, phương pháp quản lý hiện đại vào hệ thống quản lý báo chí là việc
làm cấp thiết. Điều đó vừa tinh giản được biên chế theo chủ trương chung của
Đảng, Nhà nước, vừa quán xuyến công việc một cách có hiệu quả.
Ngoài ra, về cán bộ quản lý báo chí, pháp luật cần quy định hệ thống tiêu chuẩn
chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ phù hợp với thực tiễn, bảo đảm công tác
chuyên môn của từng đối tượng. Cán bộ quản lý báo chí phải có tri thức báo
chí, tri thức về khoa học công nghệ thông tin và quản lý, tri thức pháp luật. Cần
có những quy định cụ thể về tuyển dụng cán bộ, sắp xếp và bố trí cán bộ. Có

một tình trạng tuy không phổ biến nhưng cũng cần lưu ý là các cơ quan cấp ủy
và tổ chức cấp tỉnh coi ngành nào cũng giống ngành nào, “đã là tỉnh ủy viên thì
làm gì cũng được”. Do vậy, nhiều người làm trái nghề vẫn phải nhận vì “tổ
chức phân công”. Cuối cùng, Nhà nước cần có chính sách đào tạo và đào tạo lại
những người quản lý báo chí để theo kịp tốc độ phát triển chung của xã hội và
không tụt hậu quá xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
4.2.6 Hoàn thiện cơ chế quản lý
Hiện nay, việc tổ chức thực thi pháp luật báo chí của các cơ quan nhà nước vẫn
còn chồng chéo, chưa có sự thống GNA vậy, cần bổ sung các quy định nhằm
cải tiến phương thức, lề lối làm việc, cơ chế phối hợp thống nhất giữa các cơ
quan quản lý nhà nước về báo chí. Cụ thể: xác định rõ các nguyên tắc làm việc
và quy chế phối hợp trong sự vận hành của bộ máy quản lý nhà nước về báo
chí; định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan
chỉ đạo, cơ quan chủ quản, người đứng đầu cơ quan báo chí. Trước mắt là quy
chế làm việc rõ ràng, cụ thể giữa Bộ Thông tin và truyền thông với các ban
ngành hữu quan liên quan đến quản lý nhà nước về báo chí, giữa cơ quan quản
lý nhà nước ở trung ương và địa phương, cơ quan quản lý và cơ quan chủ quản.
Cơ chế này phải bảo đảm sự điều hành thống nhất, có khả năng giải quyết
nhanh và dứt điểm các vụ việc, đồng thời kiểm soát được liên tục hoạt động báo
chí, tránh hiện tượng đánh trống bỏ dùi, dễ làm khó bỏ, đùn đẩy công việc cho
nhau, trách nhiệm không rõ ràng.
4.2.7 Đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật báo chí

18


Việc tuyên truyền phổ biến pháp luật báo chí để các chủ thể tuân thủ, thực hiện
là một vấn đề quan trọng. “Trong giới phóng viên, biên tập viên, thậm chí cả
lãnh đạo một số cơ quan báo chí vẫn còn hiện tượng chưa nắm vững nội dung
hoặc nhận thức chưa đầy đủ về Luật Báo chí” (9). Vì vậy, Bộ Thông tin và

truyền thông, Hội Nhà báo và đặc biệt là các cơ quan báo chí cần có kế hoạch
tập huấn thường xuyên Luật Báo chí và các văn bản quy phạm pháp luật mới về
báo chí; cần tuyên truyền, phổ biến pháp luật từ khi soạn thảo văn bản để lấy ý
kiến rộng rãi các đối tượng liên quan.
4.2.8 Tăng cường thanh tra, kiểm tra
Đây là nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước về báo chí vì báo chí có quan
hệ trực tiếp tới chính trị. Báo chí không những phản ánh dư luận mà còn tạo ra
và hướng dẫn dư luận. Vì vậy, hoạt động này cần diễn ra thường xuyên, nhanh
nhạy để kịp thời ngăn chặn, xử lý những vi phạm pháp luật về báo chí.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu nghiên cứu các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, Khóa X của
Ban Tuyên giáo Trung Ương
2. Các văn kiện của ĐH XI của Đảng
3. Cơ sở lý luận báo chí, PGS.TS Tạ Ngọc Tấn, NXB Chính trị Quốc gia,
2005.
4. Quản lý nhà nước về báo chí trong thời kỳ hội nhập, Ths Phí Thị Thanh
Tâm, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp điện tử
5. Báo chí Việt Nam năm 2010: Chủ động, tích cực, nhạy bén, trách nhiệm,
Báo Hà Nội Mới

20



×