Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Nhận thức của bạn về nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.72 KB, 14 trang )

BÀI TẬP MÔN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
Đề bài
Nhận thức của bạn về nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
Việt Nam. Theo bạn, sinh viên cần làm gì để củng cố và phát triển
tính chất tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của xã hội Việt Nam.

I.

Khái quát chung về Văn Hóa:
1. Khái niệm:
Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và
phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song,
chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì
sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được
tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội
của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và
của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời
sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất
và tinh thần mà do con người tạo ra.
2. Nền văn hóa tiên tiến:
Là nền văn hóa có tiếp thu cái mới, cái hay của môi trường
đương đại, các nước trên Thế Giới (nếu như có ít nhiều giống nền
văn hóa bản địa).
1


Tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa
lành mạnh; coi trọng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý, văn hóa


trong kinh doanh và văn hóa trong ứng xử. Chú trọng xây dựng
nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối
sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức
chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ.
Tính tiên tiến là nền văn hóa:
+ Là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ dựa trên chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
+ Là nền văn hóa mang tinh thần nhân văn.
+ Là nền văn hóa mang tinh thần dân chủ.
+ Là nền văn hóa mang tính hiện đại.
+ Là nền văn hóa sử dụng những hình thức truyền tải nội dung
mới, nhằm giúp văn hóa được thấm sâu vào trong mọi lĩnh vực,
bảo tồn văn hóa tốt hơn.
3. Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc:
Đậm đà bản sắc dân tộc: Là vẫn giữ cái gốc, cái bản sắc (đặc
trưng riêng) của dân tộc mình... (nhìn vào là biết bản sắc của
vùng miền nào đó của dân tộc VN chúng ta).
Tính đậm đà bản sắc dân tộc:
+ Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống
bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua
lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.

2


+ Bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình
dân tộc thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính
bản thân mình, biết cạnh tranh và hợp tác để tồn tại và phát triển.
+ Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh

tế, thể chế xã hội và thể chế chính trị của các quốc gia.
Xây dựng một nền văn hóa bằng cách chắt lọc nền văn hóa
truyền thống hễ cái nào cổ hủ lạc hậu, hủ tục thì bỏ đi, chỉ để lại
những văn hóa truyền thống tốt đẹp đầy tính nhân văn để biểu
trưng cho dân tộc và tiếp thu nền văn hóa phương tây hay các
nước phương đông, tân tiến nhưng chọn lựa chỉ tiếp nhận những
văn hóa tốt đẹp thích hợp với truyền thống dân tộc mình, không
chạy theo hoàn toàn văn hóa ấy, mà chỉ tiếp thu các gì tốt đẹp để
có nền văn hóa tiên tiến. Như vậy sẽ có nền văn hóa tiên tiến
nhưng đậm đà bản sắc dân tộc, không chấp nhận triệt để nền văn
hóa truyền thống dân tộc mà phủ nhận hoàn toàn nên văn hóa tiên
tiến phương tây, mà cũng không chấp nhận hoàn toàn nền văn
hóa tiên tiến phương tây mà phủ nhận nền văn hóa truyền thống,
mà chọn lựa 2 nền văn hóa ấy cái gì đẹp thì chấp nhận một cách
hài hòa giữa văn hóa cũ và văn hóa mới.
II.

Nhận thức của em về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc:
1. Quan điểm về nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc:
Trong tiến trình phát triển lịch sử, Việt Nam là một trong

những khu vực được coi là cái nôi của loài người và cũng được
coi là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm với
3


nền văn minh lúa nước, nơi đã từng trải qua các cuộc cách mạng
đá mới và cách mạng luyện kim. Trên nền tảng phát triển kinh tế

- xã hội thời Đông Sơn, trước những đòi hỏi của công cuộc trị
thủy và chống xâm lăng, Nhà nước Văn Lang - Nhà nước đầu
tiên - đã ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII trước Công nguyên.
Bằng sức lao động cần cù sáng tạo, cư dân Văn Lang, (sau đó là
Âu Lạc) đã tạo dựng nên một nền văn minh tỏa sáng khắp vùng
Đông Nam Á. Đi cùng với Nhà nước đầu tiên của lịch sử Việt
Nam là một nền kinh tế phong phú, một nền văn hóa cao mà mọi
người biết đến với tên gọi là văn minh Sông Hồng (còn gọi là văn
minh Đông Sơn) với biểu tượng là trống đồng Đông Sơn - thể
hiện sự kết tinh lối sống, truyền thống và văn hóa của người Việt
cổ.
Vừa dựng nước người Việt đã phải liên tiếp đương đầu với sự
xâm lăng của các thế lực bên ngoài. Độ dài thời gian và tần suất
các cuộc kháng chiến, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân
tộc ở Việt Nam rất lớn. Kể từ cuộc kháng chiến chống Tần (thế
kỷ III trước Công nguyên) đến cuối thế kỷ XX, đã có tới 12 thế
kỷ Việt Nam phải tiến hành hàng trăm cuộc chiến tranh giữ nước,
khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng. Một điều đã trở thành quy
luật của các cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam là
phải "lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”.
Từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên (kéo dài hơn 1.000 năm),
Việt Nam bị các triều đại phong kiến phương Bắc thay nhau đô
hộ. Sự tồn vong của một dân tộc bị thử thách suốt hơn nghìn năm
4


đã sản sinh ra tinh thần bất khuất, kiên cường, bền bỉ đấu tranh
bảo tồn cuộc sống, giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hóa, quyết
giành lại độc lập cho dân tộc của người dân Việt Nam.
Từ Văn Lang-Âu Lạc đến Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt, mặc

dù phải trải qua nhiều thăng trầm, nhưng Việt Nam vẫn là một
quốc gia phát triển liên tục trên tất cả các lĩnh vực, khẳng định sự
tồn tại và không ngừng lớn mạnh của một dân tộc.
Đặc điểm nổi bật của văn hóa Việt Nam là văn hóa làng, xã.
Chính xóm làng của người Việt đã nuôi dưỡng và phát triển
những tinh hoa của văn hóa truyền thống, làm cơ sở cho tinh thần
đoàn kết trong các cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, chống chính
sách đồng hóa của các triều đại Phương Bắc, giành độc lập cho
dân tộc, gìn giữ truyền thống, văn hóa riêng của mình.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mở ra kỷ nguyên mới trong lịch
sử Việt Nam – kỷ nguyên phát triển quốc gia phong kiến độc lập,
thời kỷ xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Dưới các triều
Ngô (938-965), Đinh (969-979), Tiền Lê (980-1009) nhà nước
trung

ương

tập

quyền

được

thiết

lập.

Sau đó, Việt Nam bước vào thời kỳ phục hưng và phát triển (với
quốc hiệu Đại Việt) dưới triều Lý (1009-1226), Trần (12261400), Hồ (1400-1407), Lê Sơ (1428-1527). Đại Việt dưới thời
Lý-Trần-Lê Sơ được biết đến như một quốc gia thịnh vượng ở

Châu Á. Đây là một trong những thời kỳ phát triển rực rỡ nhất
trong lịch sử của Việt Nam trên mọi phương diện. Về kinh tế:
nông nghiệp phát triển, thủy lợi được chú ý phát triển (đê Sông
Hồng được đắp vào thời kỳ này), các làng nghề ra đời và phát
5


triển. Về tôn giáo: tín ngưỡng dân gian, Phật giáo và Nho giáo
được coi là tam giáo đồng nguyên. Một thành tựu quan trọng
trong thời Lý-Trần là việc phổ biến chữ Nôm, chữ viết riêng của
Việt Nam dựa trên cơ sở cải biến và Việt hóa chữ Hán. Bên cạnh
đó các lĩnh vực khác như giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật, lịch sử, luật pháp… cũng rất phát triển (Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng và ngày một phát triển, sự ra đời
của Bộ luật Hồng Đức, Đại Việt Sử ký, Đại Việt Sử ký toàn
thư…). Lịch sử gọi thời kỳ này là Kỷ nguyên văn minh Đại Việt.
Thăng Long (bây giờ là Hà Nội) cũng được chính thức công nhận
là Kinh đô của Đại Việt với Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn vào
năm 1010.
Từ thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam với tư tưởng nho
giáo đã bọc lộ sự lạc hậu và bắt đầu suy yếu. Trong khi nhiều
quốc gia – dân tộc ở châu Âu đang dần chuyển sang chủ nghĩa tư
bản thì Đại Việt bị chìm trong nội chiến và chia cắt. Tuy trong
các thế kỷ XVI-XVIII, nền kinh tế, văn hóa có những bước phát
triển nhất định, nhiều thành thị, thương cảng ra đời đẩy nhanh
quan hệ buôn bán trong và ngoài nước, nhưng cảnh chia cắt và
nội chiến đã kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Bước sang đầu thế kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây đã
chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, ráo riết tìm kiếm thị
trường, từng bước xâm chiếm thuộc địa. Người Pháp, thông qua
con đường truyền đạo, thương mại đã tiến hành thôn tính Việt
Nam. Đây là lần đầu tiên dân tộc Việt Nam phải đương đầu với

họa xâm lăng từ một nước công nghiệp phương Tây. Trong hoàn
6


cảnh này, một số trí sĩ Việt Nam đã nhận thức được yêu cầu bảo
vệ độc lập phải gắn liền với cải cách, đưa đất nước thoát khỏi tình
trạng trì trệ của phương Đông. Họ đã đệ trình những đề nghị canh
tân đất nước, nhưng đều bị triều Nguyễn khước từ, đẩy đất nước
vào tình trạng lạc hậu, bế tắc và từ đó Việt Nam đã trở thành một
nước thuộc địa nửa phong kiến trong gần 100 năm (1858-1945).
Sau khi thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam,
chính quyền thực dân Pháp đã nhanh chóng khai thác thuộc địa
trên quy mô lớn. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được du
nhập, kích thích sự hình thành và phát triển những yếu tố tư bản
chủ nghĩa trong nước, làm thu hẹp và dần phá vỡ quan hệ sản
xuất phong kiến. Việt Nam chuyển dần từ nền kinh tế nông
nghiệp tự cung tự cấp lạc hậu sang nền kinh tế thuộc địa, hoàn
toàn bị chi phối bởi giới tư sản Pháp. Một cơ cấu xã hội mới hình
thành và phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Theo đó, các
giai cấp như địa chủ - nông dân bị phân hóa sâu sắc, trong khi lực
lượng xã hội mới như giai cấp công nhân, tư sản, tiểu tư sản dần
dần ra đời. Cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp kể từ đây
mang hai khuynh hướng: tư sản (tiêu biểu là Việt Nam Quốc dân
Đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái đầu năm 1930) và vô sản do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh dấu sự thắng thế
của giai cấp công nhân và của phong trào cách mạng theo khuynh
hướng vô sản. Tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam mà người đứng đầu là Nguyễn Ái Quốc, nhân dân
Việt Nam cùng với Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân

7


(Quân đội nhân dân ngày nay) đã khởi nghĩa giành chính quyền
thành công, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu (5/1954) và Hiệp
định Giơ-ne-vơ (7/1954) đánh dấu sự kết thúc thắng lợi toàn diện
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đưa dân tộc Việt Nam
bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ của độc lập dân tộc, tự do;
đưa Miền Bắc Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Miền Nam, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ tạm thời nằm dưới
sự quản lý của Pháp và Mỹ để chờ tổng tuyển cử trong cả nước.
Tuy nhiên, cuộc tổng tuyển cử theo Hiệp định Giơ-ne-vơ đã
không thể tổ chức được do Mỹ đã can thiệp, dựng lên chế độ Việt
Nam Cộng hòa do Ngô Đình Diệm đứng đầu. Đất nước tiếp tục
bị

chia

cắt

hơn

20

năm.

Trong hơn 20 năm (1954-1975) Việt Nam lại phải tiến hành cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Vượt qua
muôn vàn khó khăn gian khổ, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử

năm 1975 đã kết thúc thắng lợi. Từ đó, nước Việt Nam thống
nhất đi vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của hòa bình, thống nhất


xây

dựng

đất

nước

trên

phạm

vi

cả

nước.

Tuy nhiên, trong 10 năm đầu của thời kỳ này, nhiều mục tiêu
kinh tế - xã hội không thực hiện được do những nguyên nhân
khách quan và chủ quan. Nền kinh tế Việt Nam rơi vào khủng
hoảng, trì trệ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đề ra đường lối
đổi mới với trọng tâm là đổi mới kinh tế. Đây là một mốc quan
trọng trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam thời kỳ
8



mới. Đường lối đổi mới đã tiếp tục được Đảng khẳng định lại qua
các kỳ Đại hội sau đó. Qua 4 kế hoạch 5 năm, Việt Nam từ một
nước nhập khẩu lương thực đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn
thứ hai thế giới, nhiều chủng loại hàng hóa được xuất khẩu và
nhiều thương hiệu hàng hóa được thế giới biết đến; kinh tế đạt
tăng trưởng cao vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX và
những năm đầu tiên của thế kỷ XXI, đời sống nhân dân ngày
càng được nâng cao; chính sách xã hội được chú trọng hơn, hệ
thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện; quản lý xã hội trên


sở

luật

pháp

dần

đi

vào

nề

nếp.

Nhìn lại tiến trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam,

điểm nổi bật chiếm vị trí hàng đầu và trở thành chuẩn mực đạo lý
Việt Nam là tinh thần yêu nước, ý chí tự lập, tự cường, truyền
thống đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc. Cuộc sống lao động gian khổ
đã tạo ra truyền thống lao động cần cù, sáng tạo và kiên nhẫn;
yêu cầu phải liên kết lại để đấu tranh với những khó khăn, thách
thức đã tạo ra sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, giữa con
người với nhau trong mối quan hệ gia đình, láng giềng, dòng họ
của người Việt cũng như trong cộng đồng nhà - làng - nước - dân
tộc. Lịch sử cũng cho con người Việt Nam truyền thống tương
thân tương ái, sống có đạo lý, nhân nghĩa; khi gặp hoạn nạn thì
đồng cam cộng khổ, cả nước một lòng; tính thích nghi và hội
nhập; lối ứng xử mềm mỏng và truyền thống hiếu học, trọng
nghĩa, khoan dung. Đây chính là sức mạnh tiềm tàng, là nội lực

9


vô tận cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Khái niệm nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc xuất
hiện lần đầu tiên trong cương lĩnh năm 1991 được Đại hội VII
thông qua. Khái niệm này được đưa ra để thay thế cho quan niệm
nền văn hóa Việt Nam có nội dung xã hội chủ nghĩa, có tính chất
dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân được nêu ra trước đây. Về
khái niệm, nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là nền
văn hóa mới, tạo ra đời sống tinh thần phong phú và cao đẹp, kế
thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả
các dân tộc trong nước.
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhằm xây dựng hệ thống vật chất, cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho Chủ

nghĩa xã hội, đòi hỏi phải huy động được mọi tiềm năng vật chất
và tinh thần của cả dân tộc. Nền văn hóa tiên tiến trước hết phải
là nền văn hóa yêu nước. Vì vậy, chủ nghĩa yêu nước chính là
động lực có vai trò rất quan trọng. Không chỉ vậy, một nền văn
hóa tiên tiến còn phải là kết tinh của chân, thiện, mỹ, là kết tinh
của những tinh thần tiến bộ của thời đại và của loài người.
Cốt lõi của nền văn hóa tiên tiến là ý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trước ánh sáng của chủ nghĩa Marx – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Văn hóa chính là hệ tư tưởng chi phối
quan niệm về giá trị, chi phối đạo đức, lối sống và hành vi của
con người. Đây là học thuyết cách mạng và khoa học kết tinh tinh
hoa văn hóa của nhân loại, hướng vào giải phóng toàn xã hội, giải
10


phóng dân tộc và con người, tạo điều kiện phát triển và không
ngừng hoàn thiện con người. Sự gặp gỡ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và chủ nghĩa Marx – Lênin đã tạo ra một mẫu hình văn hóa,
một nhân cách mới. Trong Nghị quyết TW 5 đã nêu lên mục tiêu
nền văn hóa tiên tiến là tất cả vì hạnh phúc, tự do, sự phát triển
toàn diện của con người đặt trong mối quan hệ hài hòa giữa cá
nhân với cộng đồng; giữa xã hội và tự nhiên. Đây chính là tính
nhân văn cao cả xuyên suốt nền văn hóa mà dân tộc Việt Nam
đang hướng tới.
Một nền văn hóa tiên tiến thể hiện không chỉ ở nội dung tư
tưởng mà còn thể hiện trong hình thức biểu hiện, trong các
phương tiện truyền tải nội dung. Đó chính là cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại trong đời sống văn hóa, sinh hoạt văn hóa… Tiên
tiến có nghĩa là hiện đại, song không thể vì thế mà loại trừ bản
sắc dân tộc. Bởi nền văn hóa đã bao quát được quá khứ, hiện tại

mà còn vẽ nên cả tương lai của một dân tộc.
Trong thời kì hội nhập, với nền kinh tế mở của nước ta luôn
có sự trao đổi, giao lưu với các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới. Vì thế, việc du nhập những phong tục tập quán của các dân
tộc trên thế giới là điều tất yếu. Việc giữ gìn và phát huy bản sắc
dân tộc là điều hết sức cần thiết. Nhưng chúng ta không được
quên đi truyền thống, cái gốc rễ của dân tộc mình, chỉ hòa nhập
chứ không hòa tan. Đồng thời với việc tiếp thu văn hóa nhân loại
là phải giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, khiến cho đời sống tinh
11


thần ngày càng đa dạng và phong phú hơn nữa. Cơ hội và thách
thức khi gia nhập WTO đan xen lẫn nhau, tác động sâu rộng
không chỉ đến lĩnh vực kinh tế, mà đến mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, đến từng tổ chức và con người. Tận dụng được cơ hội,
vượt qua và đẩy lùi thách thức, biến thách thức thành cơ hội để
phát triển, phụ thuộc vào việc chúng ta phát huy nhân tố chủ
quan, nội lực của đất nước, bản sắc văn hóa, tinh thần yêu nước,
ý chí tự lực tự cường của cả dân tộc như thế nào. Việc thực hiện
những cam kết với WTO tạo điều kiện thuận lợi để tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại, có cơ hội phát triển và làm
thăng hoa văn hóa dân tộc, tôn vinh hình ảnh Việt Nam trong
cộng đồng thế giới. Tuy nhiên, dưới sự tác động của quá trình
toàn cầu hóa kinh tế, mặt trái của kinh tế thị trường, sự chống phá
của các thế lực thù địch, thì những thách thức đối với giá trị văn
hóa truyền thống cũng gia tăng. Trong bối cảnh đó, nếu không có
chiến lược văn hóa phù hợp, thì sự ảnh hưởng này sẽ dẫn đến
những hậu quả khó lường.
Đối với dân tộc Việt Nam, sự biến đổi của nền văn hóa chính

là sự chuyển sang xây dựng một nền văn hóa phù hợp với bối
cảnh mới, nền kinh tế theo cơ chế thị trường, mở cửa và hội nhập
với thế giới bên ngoài. Một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc phải được thấm đượm trong tất cả các hoạt động xây
dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công
nghệ… nhưng cần có cách tư duy độc lập, có cách giải quyết hiện
đại nhưng mang đậm sắc thái Việt Nam. Sự phát triển của nền
12


văn hóa Việt Nam chính là nền văn hóa giữ vững truyền thống và
cốt cách dân tộc, đi đôi với tiếp thu nhanh chóng và sáng tạo
những tinh hoa văn hóa nhân loại. Việc tiếp thu này cần phải phù
hợp với điều kiện và bản chất của văn hóa dân tộc, đưa đất nước
thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, hướng tới sự tiên tiến của nhân
loại.
2. Giải pháp để củng cố và phát triển nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc:
Cần mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn
hoá, đổi mới tăng cường việc giới thiệu và truyền bá văn hoá, văn
học nghệ thuật, đất nước con người Việt Nam với thế giới,
khuyến khích cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn, quảng
bá văn hóa Việt Nam, tham gia tích cực vào xây dựng, phát triển
văn hóa, giữ gìn bản sắc dân tộc, góp phần xây dựng đất nước.
Xây dựng con người Việt Nam phải có đầy đủ tài đức và
lòng yêu nước.
Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ngay từ cấp cơ sở.
Phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, văn học, nghệ thuật,
đặc biệt chú trọng đào tạo cho thế hệ trẻ.
Đẩy mạnh bảo tồn các di sản văn hóa.

Đẩy mạnh chính sách đối với tôn giáo.
Phải luôn tin tưởng vào đường lối của Đảng. Phải biết lắng
nghe và tiếp thu những lời giáo dục đúng đắn của ông, bà, cha,
mẹ...
Sinh viên phải biết “tôn sư trọng đạo”.
Coi trọng kế thừa phát huy truyền thống văn hóa dân tộc là
việc làm cần nhân rộng không chỉ cho bản thân mà còn cần cho
mọi người.
13


14



×