Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Nhận thức về nền kịnh tế thị trường và phải xây dựng kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.87 KB, 15 trang )

Họ và tên: Hoàng Yến
Lớp: kinh tế quản lí môi trường 51
Mã sinh viên CQ513985
Câu 1: sự nhận thức đúng đắn về kinh tế thị trường và sự cần thiết
phải xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta:
1. Cơ chế quản lí của VN trước thời kì đổi mới.
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp:
- Đặc điểm:
+ Nhà nước quản lí nền kinh tế chủ yếu bang mệnh lệnh hành
chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống
dưới.
+ Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm
về vật chất và pháp lí đối với các quyết định của mình.
+ Quan hệ hàng hóa tiền tệ bị coi nhẹ.
+ Bộ máy quản lí cồng kềnh, nhiều cấp trung gian kém năng
động, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi
cao hơn người lao động. Những thiệt hại vật chất do các quyết định
không đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu
- Hình thức:
+ Bao cấp qua giá.
+ Bao cấp qua chế độ tem phiếu.


+ Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách nhưng không
có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp
vốn.
 Nền kinh tế kiệt quệ, phát triển trị trệ so với các nước khác. Bộ
máy nhà nước lỏng lẻo, quan liêu, tham ô, cửa quyền. Đời sống
nhân dân khổ cực, thiếu thốn.Văn hóa, y tế, giáo dục không được
chăm lo đúng mức.


 Đặt ra vấn đề cấp thiết cho Đảng và đất nước: công cuộc đại cải
cách trong toàn bộ nền kinh tế.
2.Sự tất yếu khách quan phải xây dựng nền KTTT định hướng
XHCN ở nước ta

Lịch sử phát triển của loài người đã chứng kiến rất nhiều hình
thức tổ chức kinh tế xã hội khác nhau; đó là là nền kinh tế tự nhiên tự
cấp tự túc, kinh tế hàng hoá, đầu tiên là kinh tế hàng hoá giản đơn, lạc
hậu, sau đó đến kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa và tiếp đến là kinh tế
thị trường khi hệ thống thị trường được mở rộng và phát triển đồng bộ.
Kinh tế thị trường đã phát triển dưới chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa tư bản đã biết dùng kinh tế thị trường để thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng và phát triển. Nhưng nền kinh tế thị trường là thành
tựu chung của nền văn minh nhân loại, đó là sản phẩm của quá trình
phát triển lực lượng sản xuất xã hội loài người, nó xuất hiện và tồn tại
trong nhiều phương thức sản xuất. Ngày nay tất cả nước đều phải xây
dựng kinh tế thị trường, tuy nhiên trong chế độ xã hội khác nhau thì kinh
tế thị trường được sử dụng với mục đích khác nhau. Do đó xây dựng và
phát triển kinh tế thị trường là phù hợp với xu hướng phát triển chung
của nhân loại


KTTT là một kiểu tổ chức XH, càng không phải là một chế độ XH, một
phương thức sx, do đó nó không đối lập với CNXH mà còn đủ điều kiện
tồn tại dưới CNXH ở nước ta:
- Phân công lao động xã hội đang phát triển cả chiều rộng lẫn chiều
sâu
- Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên đa
dạng về sở hữu ,tính độc lập về các chủ thể ngày càng cao
- Quan hệ hàng-tiền còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại

- Sử dụng cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bố nguồn lực kinh
tế, điều hành quan hệ cung cầu,thúc đẩy các tiến bộ,đào thải những gì
đang còn lạc hậu yếu kém.
- Hệ thống pháp quy được kiện toàn và có sự quản lý vĩ mô của
nhà nước
- Sự tách biệt về KT biểu hiện ở nước ta đó là sự tồn tại và phát
triển của nhiều hình thức sở hữu tạo nên sự tách biệt KT giữa các chủ
thể, đơn vị kinh tế.
- KTTT không chỉ tồn tại khách quan mà còn cần thiết cho công
cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Câu 2: Xây dựng thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa
Bước ngoặt trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng là chúng ta chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thành tựu nổi bật nhất trong
bước khởi đầu đổi mới tư duy kinh tế là phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước. Quan điểm về mô hình nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đã
thay đổi căn bản và đến nay đã được xác lập, đó là nền kinh tế thị trường


định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ có hai thành phần kinh tế quốc
doanh và tập thể mà tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Qua quá
trình phát triển nhận thức, cũng như tư duy lý luận về các thành phần
kinh tế ngày một hoàn chỉnh, đến Đại hội X của Đảng, nền kinh tế nước
ta được xác lập gồm 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư hữu tư nhân), kinh tế tư bản nhà
nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài(*). Sự đổi mới tư duy kinh tế
của Đảng không chỉ dừng lại ở việc xác định số lượng các thành phần
kinh tế tồn tại trong nền kinh tế, mà còn xác lập đúng vị trí, vai trò của

từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Có thể nói, sự đổi
mới tư duy kinh tế của Đảng về các thành phần kinh tế có tầm quan
trọng đặc biệt, nó tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức trong
toàn xã hội phát huy mọi tiềm năng, sáng tạo, tạo ra sức mạnh to lớn cho
sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đồng thời nó là động
lực to lớn cho chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đổi mới tư duy kinh tế về phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần còn góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa thông qua tính dân chủ trong hoạt động
kinh tế, mọi cá nhân đều có quyền tổ chức hoạt động sản xuất, kinh
doanh một cách bình đẳng theo pháp luật.
1. Quá trình hình thành tư duy của đảng về nền KTTT trong thời kỳ
đổi mới
1.1. Tư duy của Đảng về cơ chế thị trường từ Đại hội VI đến Đại
hội VIII:
Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về
kinh tế thị trường. So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về kinh tế
thị trường có sự thay đổi căn bản
Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ
nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.
Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó kinh
tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao không phải
là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển


chung của nhân loại.
Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ
quá độ lên CNXH
Kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại
khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và cả trong chủ

nghĩa xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường không phải là
phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc đi theo con đường tư bản chủ nghĩa
và tất nhiên, xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng không dẫn đến
phủ định kinh tế thị trường.
Đại hội VII của Đảng (6/1991) đã đưa ra kết luận quan trọng “cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước” bằng pháp luật, kế
hoạch, chính sách và các công cụ khác.
Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII (6/1996) đề ra nhiệm vụ
đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần
Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
Kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó còn
tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,
có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội còn tồn tại sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường nên
thị trường chỉ được coi là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch
do đó không cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
1.2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại
hội X:
Đại hội IX của Đảng (3/2001) xác định nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình tổng quát của nước ta trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường,có sự quản lý của nhà
nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển quan



trọng từ nhận thức kinh tế thị trường
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm
nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở 4 tiêu chí:
- Về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; đẩy mạnh xóa đói
giảm nghèo.
- Về phương hướng phát triển: phát triển các thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân.
- Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát
triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển
xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo.
Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được
thể hiện qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu
quả kinh tế, phúc lợi xã hội.
- Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân
dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Vai trò quản lý điều tiết nền kinh tế của nhà nước dưới sự lãnh
đạo của Đảng là sự thể hiện rõ rệt định hướng xã hội chủ nghĩa và
cũng là sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những tiêu chí trên vửa thể hiện tính định hướng xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta, vừa thể hiện sự khác biệt cơ
bản giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa



Câu 3 : Xác định vai trò của các chủ thể tham gia thực hiện kinh tế
thị trường định hướng XHCN
• Nhà nước:
- Đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển và tăng trưởng kinh tế
“Ổn định” ở đây thể hiện sự cân đối, hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi ích
giữa người và người, tạo ra sự đồng thuận xã hội trong hành động vì
mục tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng đắn, hợp lý và kịp thời của
việc hoạch định và năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát triển
vĩ mô do Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết nhất hình thành sự
đồng thuận đó.
- Bảo đảm gia tăng phúc lợi xã hội:
Mục tiêu căn bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là góp phần thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”. Có chính sách xã hội hợp lý; bảo đảm
phúc lợi ngày một gia tăng nhờ hiệu quả tác động của chính sách kinh tế
tiến bộ do Nhà nước hoạch định và tổ chức thực hiện bằng những nỗ lực
của nhiều chủ thể kinh tế khác nhau… là nhân tố có vai trò quyết định
trong vấn đề này.
- Đảm bảo công bằng xã hội
Bảo đảm yêu cầu thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được thể hiện đầy
đủ ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển kinh tế là một
nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước ta trong việc thực hiện chức năng phát
triển, tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.


- Nhà nước góp phần đắc lực vào việc tạo môi trường cho thị trường
phát triển,

như tạo lập kết cấu hạ tầng kinh tế cho sản xuất, lưu thông hàng hóa; tạo
lập sự phân công lao động theo ngành, nghề, vùng kinh tế qua việc nhà
nước tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế theo lợi thế từng vùng,
ngành và nhu cầu chung của xã hội…
- Nhà nước ta là chủ thể chính của nền giáo dục – đào tạo.
Bằng hệ thống chính sách giáo dục, đào tạo của mình, được thực hiện
qua hệ thống giáo dục – đào tạo do Nhà nước thống nhất quản lý, dù tồn
tại dưới nhiều loại hình khác nhau (công lập, ngoài công lập, liên doanh,
liên kết trong nước và với nước ngoài…), Nhà nước cung cấp nguồn lao
động chính, có chất lượng cho sản xuất kinh doanh, cung cấp cán bộ
quản trị doanh nghiệp cho mọi thành phần, mọi loại hình kinh tế. hiệu
quả quản lý nền kinh tế, nâng cao hiệu quả của kinh tế thị trường nói
chung.
• Doanh nghiệp:
- Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ
phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP).
Nếu như năm 1995 khu vực doanh nghiệp mới chỉ tạo ra được
103,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 45,3% tổng GDP (khu vực còn lại gồm khối
hành chính, sự nghiệp, hộ SXKD cá thể chiếm 54,7%), thì đến năm 2001
khu vực này đã tạo ra 255,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 53,2% tổng GDP, gấp
2,5 lần năm 1995. Trong đó doanh nghiệp nhà nước chiếm 30,6% tổng
GDP, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 8,8%, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài chiếm 13,8%.


- Doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch các
cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như: Cơ cấu nhiều thành phần kinh
tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương.
- Doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là DN ngành công nghiệp tăng
nhanh là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững
ổn định và tạo thế mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
trong quá trình hội nhập.
- Có thể nói vai trò của DN không chỉ quyết định sự phát triển bền
vững về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá
các vấn đề xã hội, thực tế đó đã được phản ảnh qua kết quả hoạt động
của DN sẽ được phân tích ở phần sau.
• Kinh tế tư nhân:
Kinh tế tư nhân là một loại hình kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất với lao động của bản thân người chủ sản xuất và lao
động làm thuê hoặc hoàn toàn thuê lao động, có các quy mô khác
nhau về vốn, lao đông, công nghệ . kinh tế tư nhân hoạt động dưới
các hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp
nhệm hữu hạn, công ty cổ Kinh tế tư nhân góp phần vào quá trình
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao cạnh tranh của nền
kinh tế, tăng quy mô của kim ngạch xuất khẩu.
Câu 4 : Xác định các loại thị trường
Các thị trường sơ khai: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị
trường vốn, thị trường khoa học công nghệ


- Thị trường là phạm trù kinh tế gắn liền với phân công lao động xã
hội và sản xuất hàng hoá. Lê nin nói: “ ở đâu, khi nào có phân
công lao động xã hội và sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy có thị
trường”.
- 1986: đại hội Đảng VI đã đánh dấu mốc lịch sử khởi xướng công
cuộc đổi mới của nước ta.
- 1976-1980: kế hoạch 5 năm lần đầu khi đất nước được giải phóng
chúng ta không đạt được mục tiêu cơ bản.
- 1981-1985: nền kinh tế đứng trước bờ vực thẳm của một cuộc

khủng hoangrkinh tế trầm trọng: thâm hụt ngân sách, thiếu vốn,
sản xuất trì trệ, lạm phát, thiếu việc làm, thâm hụt cán cân thanh
toán….
- Hàng hoá là sản phẩm sản xuất ra để bán theo quan hệ cụng cầu,
quá trình sản xuất và tiêu dùng phát triển sản phẩm hàng hoá ngày
càng đa dạng phong phú, người tiêu dùng có nhu cầu về sản phẩm
vật chất và phi vật chất. Đó là cá dịch vụ tài chính- ngân hàng, bảo
hiểm, thông tin lien lạc, văn hoá du lịch
• Tính tất yếu phải phát triển đồng bộ các loại thị trường

- Thực tiễn ở các nước chuyển đổi hay ở VN thời gian qua cho thấy
khi chấp nhận nền KTTT hay nền KTTT định hướng XHCN thì điều
cốt lõi là phải có thị trường.
- Cuộc chuyển đổi sang KTTT của các nền kinh tế XHCN ở Đông Âu
hay Liên Xô trước đây dù áp dụng hình thức nào thì cũng là xây
dựng nền KTTT có đầy đủ các loại thị trường với đầy đủ các bộ phận
cấu thành của nó.
- Việc xây dựng đồng bộ các loại thị trường được tiến hành từng bước,
qua thử nghiệm và rút kinh nghiệm.


 Phát triển đông bộ các loại thị trường là một tất yếu kinh tế đối với
nước ta để đưa một nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại.
• Những nhân tố ảnh hưởng đến đồng bộ các loại thị trường:
- Nền KT nhà nước bước vào thời kì quá độ còn mang tính tự túc tự
cấp -> thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sx -> tạo điều kiện ra
đời của sx lớn có XH hóa cao.
- Nền KTTT của nước ta hiện nay đang ở trình độ kém phát triển ( cở
sở vật chất còn lạc hậu, thấp kém, kết cấu hậ tầng kém phát triển….).
- Khả năng cạnh tranh của các DN trên thị trường còn yếu vì khối

lượng hàng hóa nhỏ bé, chủng loại nghèo nàn…
• Thực trạng phát triển đồng bộ các loại thị trường:
- Thị trường hàng hóa và dịch vụ
Việc phát triển thị trường này gặp không ít khó khăn. Nếu xét từ góc độ
gia nhập thị trường thì thị trường này bao gồm 3 loại, đó là: thị trường
tương đối tự do, thị trường mà việc gia nhập phải có điều kiện, và thị
trường hầu như chỉ có doanh nghiệp nhà nước mới được tham gia. Thị
trường thứ nhất có xu hướng ngày càng phát triển và hoạt động sôi động
nhất. Nó đã thu hút được nhiều nhà đầu tư, hàng hóa đa dạng và phong
phú, sức cạnh tranh lớn. Thị trường thứ 2 chậm phát triển hơn do trước
khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực vẫn còn khoảng 300 giấy phép, do
vậy mà sức ép cạnh tranh trên thị trường không lớn như loại thứ nhất.
Loại thị trường thứ 3 gần như không có sức ép cạnh tranh.
- Thị trường tài chính


Trước năm 1990, hoạt động tài chính, tiền tệ và ngân hàng còn mang
nặng tính bao cấp, gắn với biện pháp quản lí hành chính, pháp lệnh. Các
thành viên tham gia thị trường tiền tệ ngày càng tăng.
Theo báo cáo của Ngân hàng thương mại quốc doanh, tính đến ngày
31/12/2001, dư nợ trung hạn và dài hạn của NHTM là 55,9 ngàn tỷ
đồng, bằng 33,7% tổng dư nợ cho vay. Nhìn chung thị trường chứng
khoán VN còn quá nhỏ bé, hoạt động còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng
được nhu cầu của nền KT.
Năm 2008 tốc độ tín dụng tăng 25% đạt mức kỳ vọng,VNINDEX ở
mức 500 điểm.Vốn đầu tư nước ngoài không ngừng tăng đạt 17,2 tỉ
USD năm 2010,vốn giải ngân cũng tang không ngừng qua các năm,xác
lập kỷ lục 11,5 tỉ USD năm 2008,xuất khẩu đạt mức kỷ lục năm 2010 là
71,6 tỉ USD….
Nhìn chunh thị truong tài chính Việt Nam đã có những bước phát

triwwn đáng kể trong những năm gần đây,tuy nhiên vẫn còn nhiêu hạn
chế như chênh lệch thu nhập,nhập siêu vẫn còn rất lớn,sự can thiệp hành
chính bị lạm dụng khá nhiều…
- Thị trường bất động sản
Thị trường này mới được chính thức thừa nhận về mặt pháp lí trong một
số năm gần đây, khi nhà nước xác định quyền sử dụng đất có giá và cho
phép chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê và cho thuê lại giá trị quyền
sử dụng đất và từ khi nhà nước có chính sách bán nhà thuộc sở hữu nhà
nước.
- Thị trường lao động
Thị trường lao động đã bước đầu hình thành và phát triển. Giao dịch
trên thị trường lao động đã sôi động hơn. Đã xây dựng được nhiều trung
tâm xúc tiến việc làm, với nhiệm vụ vừa tìm kiếm việc làm cho người
lao động vừa giúp các DN có nhu cầu về lao động tuyển dụng được


những người cần tìm. Mất cân đối lớn giữa cung và cầu về lao động có
thể coi là khó khăn lớn nhất hiện nay. Tiền lương, tiền công không đủ
trang trải những nhu cầu thiết yếu của người lao động. Các hoạt động
giao dịch trên thị trường lao động còn quá thấp so với nhu cầu trao đổi
lao động trong xã hội.
- Thị trường khoa học và công nghệ
Do mới chính thức đặt vấn đề hình thành và phát triển thị trường này
nên nó còn ở mức độ manh nha, các yếu tố cấu thành của thị trường
chưa được hình thành đầy đủ. Khung pháp luật chưa được hình thành
đầy đủ. Mặt khác nền KTTT ở nuocs ta chưa phát triển đủ mức để có
được một thị trường khoa học và công nghệ sôi động. Hàng hóa cung
cấp cho thị trường này chưa nhiều. Hệ thống thông tin, mua bán hàng
hóa khoa học, công nghệ còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được nhu
cầu của cả phía cung và phía cầu.

Câu 5 : xác định vai trò và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội không chỉ là một trọng
những đại vấn đề, là điểm then chốt trong lý luận về chủ nghĩa xã
hội mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng đối với sự nghiệp
xây dựng xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản
Việt Nam khẳng định chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Vai trò: Vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lí cảu nhà nước xã hội
chủ nghĩa là nhân tố vô cùng quan trọng đối với phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện rõ ở chỗ chỉ đạo và nghiên cứu
lý luận và tổng kết thực tiễn để xác định rõ, cụ thể và đầy đủ hơn
mô hình KTTT định hướng XHCN, đặc biệt những nội dung định
hướng XHCN để tạo ra sự đồng thuận trong xã hội.


Thứ nhất: Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương đúng đắn,
phù hợp và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng chính
sách, pháp luật, bằng cấc công cụ quản lý vĩ mô( tài chính, tín
dụng, kế hoạch, quy hoạch…) mới hạn chế tính tự phát tư bản chủ
nghĩa, đảm bảo được tính định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát
triển của nền kinh tế đât nước, thực hiện được sự kết hợp giữa kế
hoạch và thị trường, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong bước phát triển.
Thứ hai, hạn chế mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường như thúc
đẩy phân hoá giàu nghèo, khuyến khích lối sống thực dụng vị kỉ,
chạy theo đồng tiền,hạ thấp giá trị đạo đức… đồng thời phát huy
mặt tích cực của kinh tế thị trường như thúc đẩy nền kinh tế
nhanh, chú trọng lợi ích và hiệu quả kinh tế…

Thứ 3, vận dụng các quy luật kinh tế khách quan, chuyển hoá
chúng thành đường lối, chính sách, pháp luật, kế hoạch… để tổ
chức thực hiện, đưa vào cuộc sống, nâng cao đời sống của quần
chúng nhân dân đông đảo nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Thứ tư, không ngừng hoàn thiện các đường lối và chính sách cho
phù hợp với hoàn cảnh và quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
• Phương thức lãnh đạo:
-Định hướng phát triển nền kinh tế thông qua chiến lược, chính
sách, kế hoạch, quy hoạch và các công cụ quản lí vĩ mô. Thực hiện
và làm rõ theo các tiêu chí: mục đích phát triển, định hướng xã hội
và phân phối, quản lí và điều tiết nền kinh tế.
- Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa:
+ Phát triển tất cả các thành phần kinh tế trên cơ sở đa adanguj hoá
các quan hệ sở hữu, lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo; thực hiện
chế độ phân phối lợi ích một cách hợp lí thông qua việc sử dụng các


công cụ quản lí kinh tế( thuế, tín dụng, ngân sách… ) tạp động lực
phát triển mạnh mẽ chô nền kinh tế.
+ Tạo lập môi trường pháp lí lành mạnh về kinh tế để phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tạo mọi điểu kiện để phát triển mạnh
mẽ lực lượng sản xuất, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các chủ thể
kinh tế hoạt động bình đẳng và tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh.
+ Thực hiện tốt chức năng kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế
theo đúng pháp luật và chính sách. Nghiêm trị các tệ nạn buôn lậu,
gian lận trốn thuế, tham nhũng quan liêu, sách nhiễu, phiền hà…




×