Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Quy luat Biến âm tieng nhat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.71 KB, 6 trang )

Bi ến âm, đổ
i cách đọ
c trong ngôn ng ữ và ti ếng Nh ật
Takahashi có bài nói khái quát cách đâ y khá lâu v ề Bi ến âm trong ti ếng Nh ật. Ngoài
ra, b ạn ch ắc c ũng bi ết là độ
n g t ừ ti ếng Nh ật ph ải chia tùy theo th ể c ủa nó, và đã
được tôi li ệt kê ở bài Chia độn g t ừ ti ếng Nh ật.
Bài này, Takahashi s ẽ đư
a ra cách nhìn sâu h ơ
n v ề bi ến âm và thay đổ
i cách đọ
c
m ột s ố t ừ trong ti ếng Nh ật. Tr ướ
c đâ y, b ạn s ẽ ngh ĩ là ch ỉ có m ột cách là ph ải ghi
nh ớ nh ư s ự b ất quy t ắc, nh ư
ng th ự
c ra nó có lý do c ủa nó.
M ọi vi ệc x ảy ra đề
u có lý do!
Everything happens for a reason!
物事は全て理由があって起きる!
Monogoto wa subete riyuu ga atte okiru!
Ví dụ động từ 飲む nomu = "uống" thử xem. Dạng "te/de" (te/de form) c ủa nó là
"nonde". Trong khi đó, nếu là động từ 食べる taberu = "ăn" thì dạng "te/de" là
"tabete" たべて. Hay ví dụ "về nhà" 帰る kaeru thì dạng "te/de" là "kaette" かえって.
Khi nào thì có âm lặp ("tsu" nhỏ = っ), khi nào không, khi nào thì là "te" và khi nào thì
là "de"?
Thật ra, Takahashi có cách chia dễ hơn nhiều:
Nomu => nomite
Taberu => tabete (vì là động từ nhất đoạn)
Kaeru => kaerite


Tức là động từ nhất đoạn thì chỉ cần bỏ "ru" và thêm "te", còn động từ ng ũ đo ạn thì
chia dạng V(ます)て, tức là chuyển sang dạng "masu", bỏ "masu" đi và thêm "te"
vào.
Nếu là bơi 泳ぐ oyogu thì thành oyogite (thực tế và đúng là oyoide 泳いで).
"Tiếp nối" 次ぐ tsugu => tsugite つぎて (thực tế: 次いで tsuide).
Tôi nghĩ xuất phát điểm lúc đầu đúng là như thế. Nhưng dần dần, ngôn ngữ tr ở nên
phát âm ngày càng đơn giản, dễ dàng hơn để phục vụ việc giao tiếp với s ố l ượng
nhiều hơn. Do đó, "nomite" trở thành "nonde", b ạn có nh ận th ấy là phát âm nomite
rất dễ bị biến âm thành nonde không? "Nonde" phát âm d ễ h ơn so v ới "nomite".
Theo cách này, để phát âm dễ dàng thì phát sinh ra quy t ắc chia động t ừ ti ếng Nh ật.
Ví dụ, kaerite thì phát âm khá khó, và khi nói nhanh nó thành kaette かえって tức là
âm lặp với "tsu" nhỏ.
Nếu nghiên cứu biến âm tiếng Nhật thì bạn sẽ nhận thấy điều này. B ắt chuy ện với
người lạ khác giới để làm quen, tán tỉnh thì gọi là 難破 Nanpa, nhưng do âm cuối "n"
đi với "p" thì khó đọc nên trên thực tế là "n" trở thành "m" nên 難破 đọc là Nampa. 日
本橋 lẽ ra đọc là Nihon hashi, nhưng để cho dễ đọc thì hashi thành bashi (bi ến âm
"h" => "b" khi đứng sau từ khác thành từ ghép), và do "n" cu ối của "nihon" đứng
trước "b" nên để dễ đọc thì đọc nó thành "m". Sơ đồ biến âm:
日本橋 => nihon + hashi => nihonhashi => nihonbashi => nihombashi
Biến âm khi chia động từ
Bạn hãy tham khảo cách chia động từ tiếng Nhật trong bài Chia động t ừ ti ếng Nh ật.
Công thức TE/DE FORM:
V て = V(ます)て ⊕ BIẾN ÂM


Tức là động từ chia dạng masu, bỏ masu, thêm "te" thành V(masu)te r ồi bi ến âm.
Động từ 1 đoạn thì chỉ cần bỏ "ru" る và thêm "te" て. Bởi vì dạng "masu" của động
từ 1 đoạn cũng là bỏ る và thêm ます "masu".
Còn động từ 5 đoạn thì trong bài viết cũ mình có nói cách chia sau:
u, ru, tsu -> "tte":

言う(いう):言って(いって)
帰る(かえる):帰って(かえって)
立つ(たつ):立って(たって)
Riêng:
su -> "shite": 刺す(さす) → 刺して(さして) (đâm)
mu, nu -> "nde": 飲む → 飲んで(のんで) (uống), 死ぬ(しぬ)→死んで(しん
で) (chết)
gu -> "ide": 泳ぐ(およぐ) → 泳いで(およいで) (bơi)
ku -> "ite": 除く(のぞく) → 除いて (のぞいて) (trừ ra)
Tức là, dạng te/de form thường sẽ là って tte (âm lặp), hay して shite, んで "nde", い
で ide, いて ite. Chúng ta hãy xem lý do một chút:
言う(いう) => iimasu => iite, nhưng iite có âm dài "ii" rất khó phát âm, nên phát
âm thành って tte với âm lặp sẽ dễ hơn => itte
帰る(かえる)kaeru => kaerimasu => kaerite, nhưng phát âm "ri" khó và dễ b ị
nuốt, nên nó cũng thành âm lặp "tte" => kaette
立つ(たつ)tatsu => tachimasu => tachitte, nhưng "chi" là âm gió r ất khó phát âm
rõ nên cũng thành âm lặp って tte => tatte
刺す(さす) sasu => sashimasu => sashite: Cái này thì khỏi nói vì nó chỉ là V (ま
す)て
飲む(のむ)nomu => nomimasu => nomite, chữ "mite" khó phát âm và khi nói
nhanh sẽ nghe thành "nde" => nonde
死ぬ(しぬ)shinu => shinimasu => shinite, chữ "nite" cũng khó phát âm (nh ư
"mite") và dễ nghe thành "nde" => shinde
泳ぐ(およぐ)oyogu => oyogimasu => oyogite (đọc ô-yô-ghi-tê), chữ "ghi-tê" khó
phát âm và dễ nghe thành "ide" => oyoide
除く(のぞく)nozoku => nozokimasu => nozokite, chữ "ki" có âm dó và r ất khó
đọc rõ mà nghe như "k'i" và cuối cùng nghe như "ite" => nozoite
Bảng chia động từ mới (có quy tắc) của Takahashi - 2014
Riêng する、行く、来る thì là động từ đặc biệt và cách chia hơi khác (nhưng cũng
hợp lý!). Bạn hãy tham khảo trong bài chia động từ.

Biến âm này có trong rất nhiều ngôn ngữ. Ví dụ trong tiếng Hàn, thì ti ếng Hàn 韓国
語 Kankokugo (Hàn Quốc Ngữ) là 한국어, từng chữ một là Han + Guk + Eo (eo đọc
như "o" trong tiếng Việt, còn "o" trong tiếng Hàn đọc như "ô" ti ếng Vi ệt). Nh ưng do
âm cuối "k" của Guk đi trước nguyên âm của Eo nên sẽ biến âm thành Hangugo,
tức là Han + Gu + Go (lưu ý là viết "g" trong tiếng Hàn nh ưng đọc g ần gi ống "k"
tiếng Việt). Nhưng cách này đọc vẫn khó và cách đọc thực tế lại là Hangunggo, tức
là Han + Gung + Go.
Tiếng Việt cổ ngày xưa (tiếng Mường) không nói là "trời" mà là "b ờ l ời" hay "b'l ời"
nhưng do âm "b" đọc tốn hơi quá mà nói thành "t'l ời" ch ăng, và để đỡ t ốn hơi h ơn


nữa thì thành "t'rời" = trời cho tiện. Đây cũng là hiện tượng đơn gi ản hóa âm ti ết cho
dễ đọc, tức là biến âm.
Chọn cách nói dễ nhất
Một trong cách đặc điểm của ngôn ngữ mà Takahashi nhận th ấy là người ta s ẽ ch ọn
cách nói đơn giản nhất cho đối phương có thể hiểu. Ví dụ, tiếng Việt nói là "thông
minh" (聡明 Soumei) nhưng tiếng Nhật sẽ nói là:
頭がいい Atama ga ii (nghĩa đen: Đầu tốt)
Tiếng Nhật cũng có từ 聡明 đấy chứ, đó là tính từ 聡明な Soumei-na, nhưng từ này
thường chỉ ý là thông minh lanh lợi hay hoạt bát. T ại sao l ại không dùng 聡明な
Soumei-na thay cho 頭がいい Atama ga ii?
Tôi nghĩ là do vai trò khác nhau một chút, vì 聡明な Soumei-na đã dùng cho nghĩa
lanh lợi, hoạt bát rồi. Ngoài ra, nói Atama ga ii thì sẽ DỄ HI ỂU H ƠN khá nhi ều vì
không cần dùng tới chữ kanji ít dùng.
Một ví dụ kinh điển khác là chữ 場合 Ba'ai (Trường hợp). Chữ này cũng có nghĩa là
"trường hợp" giống hệt tiếng Việt. Nhưng tại sao lại đọc là "ba'ai", tức là theo cách
đọc thuần Nhật (kun-yomi) mà không đọc theo Hán Nhật on-yomi như cho từ ghép
kanji thông thường?
Nếu đọc theo on-yomi thì sẽ là じょうごう jougou, sẽ rất khó biết là đang nói tới chữ
kanji nào vì âm đọc kanji trùng nhau rất nhiều chứ không như tiếng Nh ật. Riêng ch ữ

jou có thể có tới vài trăm chữ kanji cùng cách đọc này. (Chữ Thông Minh Soumei ở
trên cũng sẽ bị trùng nhiều cách đọc Sou và Mei.)
Thật ra, ban đầu tôi nghĩ nó là じょうごう jougou nhưng hiệu quả truyền đạt không
cao, và cứ phải giải thích lại và rốt cuộc là nếu nói là ばあい Ba'ai thì dễ hiểu hơn
nhiều, lại dễ đọc nên mọi người đều đọc 場合 (trường hợp) là ba'ai.
Đây là cách đọc thuần Nhật vì 場 đọc là "ba", tức là nơi, chỗ, place. Còn chữ Hợp 合
thì các bạn đều biết cách đọc của nó là "ai". Động từ là 合う au, tức là "hợp, thích
hợp, phù hợp, ...".
Chữ "Hiện trường" 現場 Gemba cũng đọc là "ba" thay vì げんじょう Genjou vì đọc
Gemba sẽ dễ đọc, dễ hiểu hơn. Chú ý là nó là げんば Genba nhưng biến âm "n" =>
"m" thành Gemba vì dễ đọc hơn.
Như vậy, quá trình phát triển tiếng Nhật cũng là chọn cách nói sao cho d ễ nói nh ất,
dễ hiểu nhất, giúp cho hiệu quả truyền đạt là cao nhất.
Một từ nữa điển hình cho điều này là từ "Thủ tục" 手続き, đọc là Tetsuzuki. Có thể
viết gọn là 手続. Chữ kanji này là "Thủ Tục" và nghĩa là thủ tục (procedure) nh ư
tiếng Việt. Nếu đọc âm "on-yomi" thì là しゅぞく Shuzoku, nhưng cách này khó đọc
và rất dễ nhầm sang các chữ kanji khác trùng âm đọc vốn có rất nhiều. Ngay c ả
Shuzoku đã có thể bị trùng là 種族 Shuzoku (Chủng tộc), 習俗 Shuzoku (Tập tục), 集
簇 Shuzoku.
Nhưng nếu đọc theo âm kun-yomi (thuần Nhật) thành てつづき Tetsuzuki thì lại có
thể biết rất nhanh đó là chữ kanji 手続. Và cuối cùng, nó trở thành "tetsuzuki" và
nghĩa vẫn là "thủ tục" như nghĩa kanji ban đầu.
Hi vọng các bạn sẽ hiểu hơn về từ vựng tiếng Nhật!
Takahashi


Biến âm trong tiếng Nhật
Các bạn có thể gặp nhiều biến âm trong tiếng Nhật, ví dụ: "koi" là "tình
yêu", "hito" là người còn người yêu là "koibito". Chữ "hito" được biến
thành "bito" cho dễ đọc. Các bạn có thể xem danh sách ví dụ dưới đây:


恋 koi + 人 hito = こいびと koibito (hi thành bi) (người yêu)

手 te + 紙 kami = てがみ tegami (ka thành ga) (lá thư)

国 koku + 家 ka = こっか kokka (ku thành âm lặp tsu nhỏ) (quốc
gia)

発 hatsu + 展 ten = はってん hatten (tsu thành âm lặp tsu nhỏ)
(phát triển)

脱 datsu + 出 shutsu = だっふつ dasshutsu (tsu thành âm lặp tsu
nhỏ) (thoát ra)

つけっ放し tsukeppanashi (bật máy móc, điện,... rồi để đó không
dùng): hanashi thành panashi

日々: hibi (ngày ngày), chữ 々 là để chỉ lặp lại chữ trước đó, "hi"
biến thành "bi"

人々: hitobito (người người), chữ "hito" thứ hai biến thành "bito"

国々: kuniguni (các nước), "kuni" thành "guni"

近頃: chika (gần) và koro (dạo) thành chikagoro = "dạo này"
(koro thành goro)

賃金: chin (tiền công) và kin (tiền) thành chingin (tiền công), "kin"
thành "gin"


順風満帆: "thuận phong mãn phàn" (thuận lợi như được gió căng
buồm), các chữ riêng là "jun + fuu + man + han" thành
jumpuumampan

それぞれ: sorezore (lần lượt là, từng cái là)


青空=あおぞら: ao + sora = aozora (bầu trời xanh)
Các bạn có thể thấy là cách đọc một số âm trong từ ghép hay từ lặp có
thay đổi trong các ví dụ trên. Tại sao lại biến âm như vậy? Mục đích là
để cho dễ đọc và tránh nói nhầm. Ví dụ chữ 賃金 nếu nói nguyên là
"chinkin" thì rất khó phát âm còn nói là "chingin" thì dễ phát âm hơn. Các
âm đục bao giờ cũng dễ phát âm hơn các âm trong, ví dụ "sore zore"
dễ phát âm hơn "sore sore". Dưới đây là các quy tắc biến âm trong tiếng
Nhật.


Quy tắc biến âm trong tiếng Nhật
(1) Từ ghép hay từ lặp: Hàng "ha" (ha hi fu he ho) thành hàng
"ba" (ba bi bu be bo) vốn là âm đục của hàng "ha".
は ひ ふ へ ほ → ば び ぶ べ ぼ
Các bạn có thể thấy là âm đục có cách viết y nguyên chỉ thêm vào dấu
nháy ký hiệu.
Ví dụ: koi + hito = koibito, 日 hi + 日 hi = 日々 hibi (ngày ngày)
(2) Hàng "ka" thì thành hàng "ga"
か き く け こ → が ぎ ぐ げ ご
Ví dụ: 近頃 chika + koro = chikagoro
(3) Hàng "sa" thành hàng "za"
さ し す せ そ → ざ じ ず ぜ ぞ
Ví dụ 矢印 ya (mũi tên) + shirushi (dấu) = yajirushi, 中島 naka + shima =

nakajima (tên người)
(4) Hàng "ka" mà được tiếp nối bởi một âm hàng "ka" tiếp thì biến
thành âm lặp (tsu nhỏ)
Ví dụ: 国旗 (quốc kỳ) koku + ki = kokki こっき chứ không thành kokuki
(5) Hàng "ha" mà đi theo sau chữ "tsu" つ thì chữ "tsu" biến thành
âm lặp (tsu nhỏ) còn hàng "ha" sẽ thành hàng "pa"
は ひ ふ へ ほ → ぱ ぴ ぷ ぺ ぽ
Ví dụ: 活発(かつ+はつ)=かっぱつ, katsu + hatsu = kappatsu
Hàng "ha" mà đi sau âm lặp (chữ "tsu" nhỏ = "っ") thì thành hàng "pa"
Ví dụ: つけっぱなし
(6) Hàng "ka" mà đi sau "n" (ん) thì thành hàng "ga"
Ví dụ: 賃金=ちんぎん
(7) Hàng "ha" đi sau "n" (ん) thì thường thành hàng "pa" (phần lớn)
hoặc hàng "ba" (ít hơn)
Ví dụ: 根本=こんぽん, kon + hon = kompon (căn bản)
(8) Âm "n" (ん) ở ngay trước hàng "pa" hay hàng "ba" hay hàng
"ma" thì phải đọc là "m" thay vì "n"
Ví dụ: 根本=こんぽん kompon, 日本橋=にほんばし nihombashi, あんまり
ammari
Tất nhiên là cũng có một số ngoại lệ. Các bạn tự tìm thêm các quy tắc cho
mình nhé.
( />



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×